Dịch giả: Lê Thành
Chương 10

     hững đốm lửa tung tóe trong tiếng nổ lốp bốp của củi khô. Nhiều ngọn lửa bùng lên dưới những nhánh củi. Trên kia, nơi những tàn cây, bầy chim hót vang rồi im bặt. Chỉ còn tiếng rì rào xa xa của sóng biển, tiếng gió thoảng, tiếng lá xào xạc trên cành, tiếng lách tách của các cành cây.
Chúng tôi ngồi lặng im trong một lúc lâu. Cuối cùng Pat Mitchell nói, giọng quả quyết:
- Này Johnny, anh có thể đưa tôi về đất liền chứ?
- Chuyện đó do Renboss quyết định. Tôi làm việc cho Renboss và hòn đảo này là của ông ấy.
Tôi thấy mình cần phải có quyết định vào cái lúc mà tôi chẳng mong muốn chút nào. Bỗng dưng tôi phát giận, một cơn giận bất chợt và vô lý.
Tôi hỏi, giọng khô khốc:
- Cô muốn đi à?
- Không.
Tôi đứng dậy và cáu kỉnh vứt điếu thuốc. Rồi tôi nói, nói mà không nhận thức về âm giọng của mình:
- Nào, nếu cô có thể đi lại được thì hẳn cô cũng có thể làm việc chứ! Ở đây, cô có thể nấu nướng, làm việc nội trợ. Lấy bảng vẽ mỏm đá ngầm trong những khu vực mà tôi sẽ chỉ cho cô, và chờ trên thuyền khi tôi và Johnny lặn thăm dò. Ngoài ra, tôi chỉ mong cô giữ hai điều: Hãy im lặng và đừng quấy rầy công việc chúng tôi.
Nói xong, tôi đi ra bãi biển, biết rằng mình đã ứng xử như một thằng ngốc.
Trăng đã lên, như một cái đĩa lạnh trên bầu trời tím. Ánh trăng trải dài trên nước như một lưỡi dao bạc nhấp nhô uốn lượn. Giữa cái rực rỡ không thực đó, chiếc Vahiné trông tựa con tàu ma.
Xa xa, gần mỏm đá ngầm, bọt biển tung tóe trắng xóa và gần đó là mặt nước xao động của lối vào con lạch. Đứng nơi này trên bãi biển, tôi có thể xác định những hố nước nơi Pat Mitchell đã nhặt được đồng tiền vàng; nơi Jeannette và tôi cũng đã nhặt được đồng tiền vàng.
Jeannette... Tôi ngỡ ngàng khi nhớ ra rằng từ khá lâu, tôi không còn nhớ đến nàng. Tôi cố nhớ khuôn mặt của nàng nhưng không thể. Có một khuôn mặt khác - một khuôn mặt mới mẻ - đang in sâu trong tâm trí tôi; khuôn mặt rám nắng, nhỏ nhắn, với mái tóc đen. Tôi biết mình đã phạm phải một lỗi lầm không thể hàn gắn được và trong khi nhìn vùng nước âm u phía bên kia mỏm đá ngầm, tôi quyết định ra tay kể từ ngày mai.
Đúng, kể từ ngày mai, chúng tôi sẽ xác định một số vùng nước ở ngoài khơi, bên ngoài mỏm đá ngầm và tôi sẽ tuần tự thăm dò chúng nhằm phát hiện con tàu đã bị đắm cách nay hơn hai thế kỷ. Nếu không tìm thấy nó ở đó, thì tôi phải thu hết cam đảm để tiến xa hơn và lặn sâu hơn.
Bỗng nhiên, tôi cảm thấy lạnh và sợ.
Tiếng bước chân trên cát làm tôi giật mình như một con thú bị săn đuổi. Đến bên tôi, Johnny nói:
- Cô Pat nhờ tôi chuyển lời cám ôn ông.
- Này Johnny, tôi chỉ là một con lừa... một tên ngu ngốc.
- Không phải thế đâu, Renboss. Chẳng ai ngu ngốc khi nghe tiếng gọi của con tim.
- Đây không phải là chuyện tình cảm. Chỉ đơn giản là chuyện... thời gian và phương tiện. Ngày mai chúng ta sẽ bắt đầu công việc tìm kiếm con tàu.
- Đồng ý.
Khoát tay vào một vòng cung lớn để chỉ cho Johnny thấy mỏm đá nơi chúng tôi đã tìm thấy những đồng tiền vàng, tôi nói:
- Đó sẽ là vùng hoạt động của chúng ta. Nó bắt đầu cách phía phải của con lạch bốn mươi thước và dừng lại ở bãi san hô chết.
- Khá rộng đấy!
- Chính vì vậy mà ta phải bắt tay vào việc ngay ngày mai.
- Cô Pat muốn để tôi sử dụng chiếc ca-nô của cô ấy. Nó dễ điều khiển và lớn hơn chiếc thuyền con của tôi.
- Cô ấy rất khôn khéo, phải không Johnny?
- Không, Renboss, đây không phải là vấn đề khôn khéo. Cô ấy chỉ đơn giản muốn chứng tỏ rằng cô ấy biết chúng ta muốn giữ cô ấy ở lại với chúng ta.
Tôi nhún vai:
- Có thể lắm, nhưng cô ta biết cô ta muốn gì chứ?
- Đương nhiên.
- Cô ta thực sự muốn gì?
- Thì ông cứ việc hỏi thẳng cô ấy. Thôi, chúc ông ngủ ngon.
Johnny mỉm cười với tôi rồi quay gót, để tôi một mình.
Tôi chậm rãi đi về phía lều lớn. Tôi đánh răng, rửa mặt dội nước vào bếp lửa trại và nhìn than hồng tắt ngúm trong khói và tro tàn. Rồi tôi cởi giày, cởi áo và vào lều. Nằm dài trên giường trại, tôi kéo chăn lên mình, đốt một điếu thuốc để hút và nhìn đốm lửa đỏ trong đêm.
Có tiếng gọi tôi trong căn lều:
- Ông Renn à?
- Gì vậy?
- Tôi muốn nói cám ơn ông.
- Chẳng đáng gì để cô phải cám ơn. Sở dĩ tôi đã giữ cô lại đây là chỉ vì tôi muốn thế.
- Nếu như vậy thì tôi càng phải cám ơn ông hơn.
Tôi hỏi, giọng không thay đổi:
- Cô hút điếu thuốc nhé?
- Vâng, cho tôi xin.
Tôi tung chăn, đi sang góc bên kia của lều, trao cho Pat điếu thuốc và quẹt diêm để nàng mồi. Trong ánh lửa ngắn ngủi của que diêm, tôi thấy khuôn mặt nàng có, vẻ đẹp của một bức đá màu chạm nổi cổ xưa. Tôi chiêm ngưỡng cái vẻ đẹp đó cho đến khi cây diêm tàn lụi, làm cháy các ngón tay tôi.
- Ngày mai, cô nên lấy lại căn lều của cô.
- Vâng.
- Chúc cô ngủ ngon.
- Chúc ông ngon giấc.
Tôi trở lại giường, trùm kín chăn vì lạnh. Giấc ngủ đến thật chậm.
Sáng hôm sau, trong bữa ăn sáng, chúng tôi lên chương trình làm việc. Vì thủy triều đang lên nên chúng tôi phải dời lại buổi lặn dò tìm con tàu Dona Lucia. Nhưng vì biển êm, chúng tôi mem theo mỏm đá ngầm để hướng ra phía sườn ngoài của nó. Qua những buổi tập, tôi đã sử dụng hết một phần ba bình khí nén, phần còn lại được dành cho công việc dò tìm và trục vớt kho tàng, trong trường hợp tìm thấy chiếc Dona Lucia. Điều đó khiến tôi lo ngại vì ở dưới nước, người ta phải làm việc rất chậm, hơn nữa vì phải xuống sâu hơn mười sải nên những cử động của tôi lại càng chậm hơn. Nhưng Pat đã nêu ra một gợi ý rất tốt, đó là chúng tôi phải dùng thỏi chì ở ngăn nước dằn của chiếc Vahiné, để buộc vào sợi cáp neo và thả xuống vùng biển ở phía ngoài mỏm đá ngầm. Tôi sẽ bám vào đầu sợi cáp này, sau đó Johnny sẽ cho tàu chạy chậm để kéo tôi dọc theo vùng thăm dò. Nếu biển êm, chúng tôi có thể thăm dò những hố sâu của đáy biển trong vài giờ. Một sợi dây câu được buộc ở thắt lưng tôi; tôi sẽ giật vào đó để ra hiệu rằng tôi muốn quan sát một vùng nhất định nào đó hoặc báo cho Johnny về một hiểm nguy. Phương pháp này rất đơn giản, ít tốn kém và giúp chúng tôi tiết kiệm được nhiều thời gian. Pat vui như đứa trẻ khi chúng tôi chấp nhận sáng kiến của nàng.
Pat được phân công rữa chén bát và làm việc nội trợ trong khi Johnny và tôi dùng ca-nô của nàng để ra tàu Vahiné. Johnny cho thỏi chì vào một cái lưới dày và chúng tôi mang theo ba bình khí nén, đủ để làm việc hơn bốn tiếng đồng hồ. Ngoài ra Johnny đã vào cabin tàu Vahiné để lấy ra hai khẩu súng và nhét ba băng đạn vào túi quần short.
Johnny mỉm cười:
- Ta nên mang theo để phòng thân.
Sau đó, Johnny lấy theo một cây lao bằng gỗ bóng nhẵn với lưỡi thép hình móc câu.
Tôi hỏi:
- Cậu dành thứ đó cho tôi chứ?
- Không, Renboss. Tôi sẽ sử dụng cái này trong trường hợp ông lâm nguy và tôi buộc phải lặn xuống để giúp ông.
Câu trả lời của Johnny khiến tôi sực nhớ rằng tôi không lặn để tiêu khiển và chúng tôi đang lao vào một công việc nguy hiểm với kết quả là giàu có hoặc chết chóc.
Một khi đã đưa đồ nghề sang ca-nô, với tính cẩn thận vốn có, Johnny cho dầu nhớt, đổ đầy xăng vào máy và lau chùi sạch sẽ. Rồi chúng tôi trở lại bãi biển.
Pat đang chờ chúng tôi. Nàng đã nấu nướng xong bữa ăn trưa, bỏ vào một cái thùng nhỏ cùng với một chai nước trà. Các trang bị lặn và chân nhái của tôi đã được bày sẵn trên cát. Pat mỉm cười rạng rỡ khi tôi cám ơn nàng về sự chu đáo.
Tôi cảm thấy ham muốn dâng lên trong lòng khi chiêm ngưỡng tấm thân rám nắng cân đối của nàng dưới chiếc áo sơ-mi ca-rô hở cổ và chiếc quần short jean. Trông nàng cứ như tuổi mới lớn.
Sau khi đã đưa các thứ cần thiết lên ca-nô, chúng tôi đẩy nó ra biển và nổ máy. Chiếc ca-nô lướt trên vùng biển trong vắt của phá đảo để hướng đến con lạch. Lúc đó, tôi bỗng trông thấy món đồ mà ban nãy, khi đưa đồ lên ca-nô tôi không để ý, đó là hai cái phao bằng thủy tinh được bọc trong lớp lưới dày và dằn bằng một thỏi chì.
Johnny giải thích:
- Đó là những phao tiêu dùng để đánh dấu nơi đặt những vùng nuôi tôm hùm. Chúng sẽ giúp ta đánh dấu điểm xuất phát và điểm đến của chúng ta, để từ đó chúng ta tiến dần ra khơi.
Chúng tôi đưa ca-nô vượt qua con lạch, không gặp một khó khăn nào. Rồi chúng tôi men theo mỏm đá ngầm và vứt phao tiêu xuống ở mỗi đầu của vùng thăm dò. Sau đó, chúng tôi tắt máy tàu và thả sợi cáp có buộc thỏi chì lớn xuống.
Giờ phút định mệnh đã điểm. Dạ dày tôi co thắt dưới tác dụng của một nỗi sợ hãi mơ hồ. Tôi đưa tay quệt những gọt mồ hôi trên môi. Johnny liếc nhìn tôi nhưng không nói năng gì. Cùng với Pat, anh giúp tôi đưa bình hơi lên vai, và tôi rùng mình thích thú khi đôi tay của Pat chạm vào làn da của tôi. Tôi cầm lấy chai nước trà và uống một ngụm. Những cơn co thắt dạ dày của tôi dịu dần.
Tôi nói với Johnny:
- Cậu hãy cho tàu chạy khi tôi giật hai lần vào sợi dây. Nếu giật ba lần thì cậu ngưng lại và bốn lần là tôi cần sự giúp đỡ. Đồng ý chứ?
- Hoàn toàn đồng ý, Renboss. - Johnny nói và đưa ngón cái lên như lời cầu chúc may mắn.
- May mắn nhé, Renn. - Pat nói.
Nàng cúi xuống hôn lên má tôi.
Tôi mang mặt nạ, ngậm ống dưỡng khí và nhảy xuống nước.
Thắt lưng có dằn chì và sức nặng của trang bị lặn đưa tôi xuống nhanh vài thước nước. Tôi thấy những cánh quạt của chiếc ca-nô, cái đáy bằng phẳng của nó và dưới nó là sợi cáp neo tàu.
Tôi quẫy chân nhái và lao thẳng xuống, song song với sợi cáp. Một lần nữa, cái cảm giác đau nhức ở hốc mũi lại xuất hiện và tiếp theo đó là cảm giác thoải mái khi tôi nuốt nước miếng và hai tai không còn ù nữa. Trước mắt tôi là một đàn cá đang tách thành hai hướng, những con cá thân hình ống bóng loáng như những tia chớp, với cái đầu tương tự như những chú hề. Lờ mờ cách tôi khoảng ba mươi bước là mỏm đá ngầm với lớp rong biển, những cành san hô và những gốc đá âm u trông như một cánh rừng bám trên một sườn đồi. Một con cá đuối với cái đuôi cứng nhắc như mũi tên và vây nhấp nhô như đôi cánh, lướt nhẹ ở phía dưới tôi.
Trong những góc tối của mỏm đá ngầm, tôi trông thấy đủ loại cá đang tung tăng bơi lội. Ở phía tay phải của tôi, trong màu nước xanh lờ mờ, một đàn cá thu đang thong thả bơi lội. Tôi đang tiến giữa một cánh rừng rong biển lả lơi, xanh, đỏ, vàng và nâu sẫm. Một số chạm vào tôi như những dãi lụa ẩm ướt. Một số khác chà xát vào tôi như những bàn tay nhám.
Khối chì buộc ở đầu dây cáp đong đưa cách đáy biển khoảng một thước. Ngước mắt lên, tôi trông thấy bóng dáng chiếc ca-nô, một cái bóng nhọn trên mặt nước.
Khi nắm lấy sợi cáp và chực ra hiệu cho Johnny cho ca-nô chạy thì tôi trông thấy một con cá mập cách tôi khoảng sáu thước.
Đó là một con cá mập xanh, khá lớn và phía trước nó là ba con cá ăn-theo với thân có sọc. Tất cả đều bất động.
Con cá mập chăm chú nhìn tôi trong khi vẫy nhẹ cái vây đuôi. Tôi thổi ra một cột bong bóng nước, nhưng chú cá mập xem chừng không tỏ vẻ khiếp sợ trước cái trò trẻ con đó. Tôi bắt đầu cựa quậy mãnh liệt, nhưng nó vẫn bất động một cách đáng sợ. Tiếp đến, tôi nắm lấy sợi cáp và lao vào phía con cá. Lần này nó bơi né ra xa, nhưng chỉ để quay trở lại ngay sau đó, gần tôi hơn, sau khi đánh một vòng cung.
Nắm chặt sợi cáp, tôi cân nhắc tình huống trong khi không ngừng theo dõi con cá mập. Tôi biết, khi tấn công tôi nó sẽ lao tới với một tốc độ cực nhanh tựa như con tàu tốc hành. Tôi biết mình có hai giải pháp để lựa chọn.
Tôi có thể giật bốn lần vào sợi dây câu móc ở thắt lưng và Johnny tức khắc sẽ lặn xuống, mang theo cây lao và con dao để tiếp cứu tôi. Nhưng con cá mập có thể tấn công Johnny và nếu anh ta chỉ có thể làm nó bị thương chứ không giết được nó, thì mùi máu sẽ thu hút những con cá mập khác, về phần chúng tôi, nếu qua khỏi trận đó, thì cũng mất toi một ngày làm việc. Vì vậy, tôi thấy tốt hơn nên chọn giải pháp thứ hai.
Tôi giật vào sợi dây câu hai lần. Vài giây sau, có tiếng lùng bùng trong nước cho tôi biết Johnny đã nổ máy ca-nô.
Ngay tức khắc, con cá mập chuồn nhanh. Sau khi quẩy mạnh đuôi, nó lao thẳng vào vùng tối.
Tôi thấy sợi cáp đột ngột căng thẳng. Một phút sau, sợi cáp kéo tôi đi, êm ả như trên một lớp lông chim. Tôi chăm chú vào vùng nước đang chìm đắm trong thứ ánh nắng hoàng hôn ở trước mắt, những vách san hô ở phía trái, và những vệt nắng xuyên qua vùng nước sâu.
Phía dưới tôi, đáy đại dương phủ rong biển nhấp nhô, cao lên như những ngọn đồi tròn trịa và xuống thấp thoai thoải như những cánh đồng. Những chỏi xanh vàng tạo thành những vách nhỏ, nhưng tôi không trông thấy một mô đất khá cao nào đủ để che giấu một xác tàu. Khi bị đắm trong những vùng nước như thế này thì một con tàu có thể những số phận khác nhau. Nếu chìm xuống trên một mỏm đá ngầm thì nó sẽ bị san hô phủ kín tựa như những ngôi đền của người Incar bị nuốt chửng bởi rừng rậm. Nếu chìm xuống trên một đáy biển phủ cát, thì nó không hoàn toàn bị che lấp, nhưng sẽ có dáng vẻ như một nấm mồ hoang sơ. Hoặc cũng có thể là hải triều và những dòng hải lưu vẫn giữ cho nó không bị cát phủ lấp. Với thời gian những phần sắt thép của con tàu bị han rỉ và toàn thân nó bị rong rêu bao phủ; những đàn cá sẽ bơi lội qua những lỗ hổng to tướng của con tàu. Nhưng con tàu luôn mãi để lại trên đáy biển một dấu vết, tương tự như một vết thương, để ta có thể phát hiện.
Đó chính là cái dấu chỉ mà tôi đang tìm kiếm.
Trong giây lát, sợi cáp không bị kéo căng nữa. Rồi nó lôi tôi theo một đường cong khá rộng. Chiếc ca-nô, sau khi đến cọc phao tiêu đầu tiên, đã hướng ra khơi để một lần nữa rà lại vùng thăm dò. Tôi nhìn cánh đồng rong biển trải dài phía dưới tôi và thích thú nhận thấy nó đang hạ xuống theo một sườn dốc thẳng đứng cách phía trái tôi khoảng ba thước.
Hốc đá hẹp hơn tôi nghĩ: Nếu chiếc Dona Lucia đã chìm ở nơi này, thì tôi sẽ nhanh chóng tìm thấy nó... Hoặc chẳng bao giờ. Bỗng chốc, có một bóng đen dày đặc che khuất vầng sáng của mặt trời. Ngước mắt lên, tôi thấy một con cá đuối lớn đang ung dung bơi ngang đầu tôi. Tôi dõi mắt trông theo cái khối khổng lồ đó đang di chuyển thoải mái, dễ dàng như một cánh chim bằng. Tôi nhìn nó một hồi rồi chăm chú quan sát vùng lờ mờ tối phía trước tôi. Lúc đó, tôi giật mình sửng sốt vì một phát hiện kỳ diệu.
Cách tôi hai muới thước, có một khối lớn, hình dạng lờ mờ, nhô lên từ lòng biển. Đám rong biển lả lơi đang che phủ nó. Bám vào sườn nó là san hô và cát xếp lớp, tựa như bậc thang của một điện thờ. Từng đàn cá đủ loại len lỏi qua những vùng hang hốc trong vùng âm u của loài cây cỏ nơi lòng biển. Ở một bên, tôi thấy có một giải bằng phẳng trông như một vách núi; phía bên kia đáy biển hạ xuống thành một sườn dốc thẳng đứng và phía dưới sườn dốc có một cái trụ nhô lên. Sợi cáp kéo tôi đến gần hơn cái hình thể đó và tôi hiểu ngay rằng tôi không lầm. Cái vách núi bằng phẳng là đuôi của một con tàu Tay Ban Nha; triền dốc là boong tàu và cái trụ là cột buồm bị gãy.
Như vậy là tôi đã tìm thấy chiếc Dona Lucia.