CHƯƠNG 6
BỊ GIAM TRONG CĂN PHÒNG BĂNG HOẢ SÂU DƯỚI LÒNG ĐẤT

     ên dưới lòng đất chắc chắn có một hệ thống vô cùng đồ sộ và phức tạp, còn gian ám thất đang cầm chân họ chỉ là một mắt xích nhỏ trong cả hệ thống, một mắt xích có thể dùng làm nút lẫy. Dòng sông ngầm trong tầng nham thạch dưới lòng đất bị địa nhiệt nung nóng đến sôi sục, cứ cách một khoảng thời gian lại trào lên tuôn chảy, tương tự với nguyên lý phun trào gián đoạn của suối nước nóng. Nhưng khác ở chỗ, dòng sông ngầm tuần hoàn khép kín, nước ở bên trong không chảy ra ngoài, chỉ có hơi nước bốc lên, rồi trào ra ngoài qua các khe nứt, lỗ hổng trên vách núi, gặp lạnh liền ngưng tụ thành sương mù. Hơi nuớc nóng bên trong hệ thống sẽ khiến áp suất tăng cao. Khi áp suất bên trong đạt tới một mức độ nhất định sẽ đẩy bật một cửa van nào đó, mau chóng xả ra. Bản thân địa nhiệt vào lúc lạm dừng cũng sẽ khiến nhiệt độ sụt giảm, lại thêm áp suất tụt xuống nhanh chóng sẽ lập tức lấy đi rất nhiều nhiệt năng. Thực chất, đây chính là quy trình làm lạnh, khiến cho toàn bộ hệ thống chỉ trong một thời gian rất ngắn đã chuyển từ nóng nực ngột ngạt sang lạnh giá cực độ.

*

Chương 6.1 TAM PHONG HỒI

Sương mù mỗi lúc một dày đặc. Rõ ràng không có gió, nhưng trong làn sương vẫn kèm theo tiếng gió rất quái dị, nghe âm u hun hút như tiếng ma quỷ thầm thì.
Cơ bắp trên khuôn mặt lão mù lai bắt đầu co giật liên hồi. Tiếng gió quái dị đã quấy nhiễu tư duy, cũng ảnh hưởng tới thính giác của lão.
- Ai?
Đôi tai nhạy bén của lão mù không nghe được động tĩnh gì, song thị lực siêu phàm của Quỷ Nhãn Tam đã phát hiện ra một cái bóng bờm xờm như một quả cầu đầy lông lá, song hắn không lao về phía dó. Trong tình cánh này, tách khỏi mọi người để tấn công đối phương là hành động rất thiếu sáng suốt.
- Lỗ Nhất Khí! – Lỗ Nhất Khí không quên ám hiệu đã giao hẹn trước khi chia tay, lập tức lớn giọng xướng tên mình.
- Tùng Đắc Kim! – Đối phương lập tức đáp lời.
Đúng là Tùng Đắc Kim. Tên vừa xướng ra, mọi người đã nhận ra gã qua trang phục trên người. Song kỳ lạ là Tùng Đắc Kim không tiến về phía họ, cũng không dừng bước hay ngoảnh dầu lại, mà chỉ giơ tay vẫy vẫy, rồi thoắt một cái đã biến mất vào một ngã rẽ khác.
- Là hắn! – Lỗ Nhất Khí bất giác chau mày, một chi tiết trong ký ức bất chợt hiện về khiến trí não cậu bỗng nhói buốt như thể bị kim châm.
- Đúng là hắn! Đang làm chuyên ngu ngốc gì không biết? Tôi phải đi gọi hắn lại! – Thuỷ Băng Hoa nói đoạn lập tức nhấc chân định tiến lên.
Lão mù vung tay chụp lấy cô ta, cú chụp rất mạnh, khiến cô ta đau đến tê dại. Song cô ta chịu đựng rất giỏi, chỉ bặm môi cắn răng mà không kêu lên tiếng nào.
- Ở đó còn có động vật sống, đừng cử động! – Lão mù nói rất nhỏ, song mọi người đều nghe rõ.
Lại thêm một cái bóng lông lá hiện ra, song lần này là rạp trên mặt đất mà bò đi. Thứ đó ngoảnh đầu nhìn về phía họ, trong ánh mắt sáng xanh có lẫn vài lằn máu đỏ, tràn ngập vẻ khát máu và chết chóc.
Không ai dám lên tiếng, đến thở cũng không dám thở mạnh, cho tới khi con quái vật cũng biến mất vào trong ngả rẽ mà Tùng Đắc Kim vừa lẩn vào.
Sương mù càng dày đặc hơn, hơi nước ẩm ướt lởn vởn trên da thịt, song lại mang đến một cảm giác ấm nóng.
- Chốn ma quỷ! Mẹ kiếp, giống y lỗ đít! – Quỷ Nhãn Tam bật ra một câu chửi thô thiển, phá tan bầu không khí tĩnh lặng.
- Ngươi nói gì? – Thuỷ Băng Hoa chắc hẳn đã nghe thấy, nếu không cô ta đã không hỏi lại. Tuy ngữ khí của cô ta không hề có vẻ trách móc hay giận dữ, song Quỷ Nhãn Tam lại ngại ngần không dám nhắc lại.
- Đều đi về phía kia, vậy hướng đi của chúng ta đã sai? – Lỗ Nhất Khí tự lẩm bẩm một mình, song đã có người trả lời giúp cậu:
- Có lẽ không sai đâu, mà là chứa đi đến nơi! – Thủy Băng Hoa khẽ liếm vào vết răng hằn trên môi dưới, xoa nhẹ cánh tay vừa bị lão mù túm chặt, rồi nói tiếp:
- Lời của Nghê Tam đã khiến tôi nhớ ra môt điều, vị trí mà chúng ta đang đứng chính là chỗ giao nhau của hai ngọn núi Đầu Gối, cũng chính là vị trí hạ bộ của hình người đàn bà, điều này làm tôi nhớ tới một kỹ xảo trong “Ngự nữ bí quyết” có tên là “tam phong tam hồi”. Tức là tiến năm phần, rút về ba phần; tiến tiếp tám phần rút về năm phần; cuối cùng tiến mười phần, rút về tám phần. Lặp đi lặp lại ba bước như vậy cho đến cao trào.
Mấy câu đầu, Lỗ Nhất Khí nghe lơ mơ chẳng hiểu gì, cho tới tận câu cuối cùng, cậu mới hiểu ra. Quả không hổ danh là bà chủ cầm đầu đám đàn bà hành nghề buôn hương bán phấn, am tường chuyện trai gái cũng là điều đương nhiên.
Quỷ Nhãn Tam khẽ cười một tiếng.
Nghe thấy tiếng cười, Thuỷ Băng Hoa phản ứng vô cùng dữ dội:
- Cười cái gì mà cười! Ngươi hiểu thì nói đi. Các người nghĩ rằng Kim gia trại dễ làm ăn lắm à? Đám đàn bà ở đấy nhan sắc tầm thường, không thông thạo mấy chuyện này, làm sao giữ chân được đám đàn ông thối tha các người?
Lỗ Nhất Khí gượng cười nhăn nhó. Chỉ một câu nói, mấy người bọn họ đã bị quy tập vào trong hàng ngũ “thối tha”.
Thuỷ Băng Hoa ngừng lại, nhổ một bãi nước bọt tỏ rõ sự bất mãn, rồi mới nói tiếp:
- Đường đi ở đây tôi cảm thấy cũng giống như vậy, không phải cứ vào thẳng ra thẳng, mà là có tiến có lùi, lặp đi lặp lại cho đến khi chấm dứt. Hiện giờ, có lẽ chúng ta đang đứng trên khúc đường lui lại, hơn nữa đã lùi đến hết. Nên lúc này cần tìm bước chân đi lên.
Quy luật bước đi mà Thuỷ Băng Hoa vừa nói, Lỗ Nhất Khí vẫn chưa thể hiểu ngay. Song một gã giang hồ không từ tửu sắc như Quỷ Nhãn Tam đã có phản ứng ngay lập tức. Hắn nhanh chóng tìm ra dấu chân ở rìa bên kia của con đường, đó là những dấu chân nối liền bước về phía trước. Có thể nhận ra, điểm xuất phát của hàng dấu chân này chính là ở đây, chứ không phải từ bên ngoài tới.
Lần theo hàng dấu chân, bọn họ đã đi vào một lối rẽ, chính là lối rẽ mà Tùng Đắc Kim vừa lẩn vào.
Tiếp tục đi về phía trước lại gặp một ngã ba nữa. Sau khi vượt qua thêm hai ngã ba, lại không thấy dấu chân đâu. Y theo lời của Thuỷ Băng Hoa, họ đã tìm ra một hàng dấu chân giật lùi tại mé bên kia của con đường. Phương pháp của cô ta quả thực không sai, đây lại là một chỗ lùi lại nữa. Lỗ Nhất Khí đi giật lùi dẫn ba người tiếp tục đi ngược theo dấu chân. Khi đến ngã ba mà họ vừa đi qua, họ lại lùi vào một ngả rẽ mới.
Sau khj lùi vào bên trong lối rẽ, Lỗ Nhất Khí cảm thấy hơi lo lắng, bèn nói:
- Liệu có phải đối thủ cố tình tạo ra vết chân để dụ chúng ta không?
Nếu thực sự là mồi nhử của đối thủ, Thuỷ Băng Hoa chắc chắn sẽ có liên quan, vì lối đi hoàn toàn toàn khớp với nguyên tắc “tam phong tam hồi” mà cô ta vừa nói. Một khảm diện lại được thiết kế theo kỹ xảo giường chiếu của nam nữ, chuyện này quả là kỳ quặc.
Một cái bóng màu xám đột ngột vụt qua phía trước khiến mọi người giật thót mình, cây Vũ Kim Cương trong tay Quỷ Nhãn Tam bật ra đánh “keng” một tiếng.
- Là thú! Nghê Tam, có nhận ra giống thú gì không? – Lão mù đã nghe thấy tiếng bước chân rất khẽ vừa lướt qua, bốn chân thoăn thoắt chạm nhẹ trên mặt đất, chỉ có thể là thú.
Quỷ Nhãn Tam cũng chưa kịp nhìn rõ nó là giống gì, Cái bóng xám xuất hiện và biến mất quá nhanh và bất ngờ, lại thêm sương mù đã dày đặc hơn rất nhiều so với lức trước. Hắn chỉ lờ mờ cảm thấy có vẻ giống như con sói mắt xanh lè vừa nãy bám theo sau lưng Tùng Đắc Kim.
Họ tiến về phía trước một cách vô cùng thận trọng. Sương dày đặc đến nỗi không thể nhìn xa quá mười bước. Theo hướng lan toả của khói sương, Lỗ Nhất Khí bắt đầu cảm thấy bên trong vòng ma vẽ quái đản có rất nhiều thứ đang âm thầm tiến sát lại gần.
- Ai?
Lần này Quỷ Nhãn Tam đã phát hiện ra sự bất thường trước cả lão mù. Tiếng quát vừa bật ra, hắn đã giương ngay Vũ Kim Cương chắn trước mặt Lỗ Nhất Khí.
Mười bước, đối với cao thủ võ thuật chỉ là một cự ly cực ngắn, còn đối với kẻ ngoại đạo như Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa, lại là một khoảng cách vô cùng nguy hiểm. Cách đó hơn mười bước, thấp thoáng có một bóng đen lờ mờ đứng sừng sững.
Cái bóng không nói gì, cũng không cử động, đầu nghiêng sang một bên, dường như đang kinh sợ, cũng giống như đang quan sát.
Trong mắt Lỗ Nhất Khí, bóng người trông nhoè nhoẹt hơn rất nhiều so với trong mắt Quỷ Nhãn Tam, cậu chỉ nhìn thấy sương mù ở phía đó có vẻ dày hơn những chỗ khác một chút. Cậu giương cao súng trường, nhắm vào đúng khoảng sương dày đặc, sau đó mới bình tĩnh xướng tên:
- Lỗ Nhất Khí! – Cậu nói không lớn, song vừa dứt lời, cơ thể của đối phương bỗng giật nảy lên một cái
- Nhậm Hoả Cuồng! – Từ trong đám sương mù vang lên giọng nói của ông thợ rèn.
Bóng người nhanh chóng tiến lại gần, quả nhiên là Nhậm Hoả Cuồng.
- Mình ông à? Bọn họ đâu? – Quỷ Nhãn Tam ngạc nhiên khi thấy ông ta chỉ có một mình.
Nhậm Hoả Cuồng đi thẳng đến trước mặt Lỗ Nhất Khí, không nói câu nào, giật phăng bó đuốc, vung tay quăng thật xa về phía sau lưng. Sau đó chụp lấy cổ tay cậu, kéo cậu bước phăm phăm về phía ngã ba mà họ vừa đi qua. Bước được bốn năm bước mới kịp mở miệng mà nói:
- Mau lên, đi theo tôi!
Hành vi đột ngột của Nhậm Hoả Cuồng khiến cả đám đều ngạc nhiên ngơ ngác, song cũng quay người sải bước theo ông ta. Chỉ có một người vẫn đứng ngẩn ra tại chỗ bất động. Vào lúc bó đuốc bay vụt qua không trung, ánh mắt của người này đã phát giác ra một phương vị.
- Đợi đã! – Thuỷ Băng Hoa kêu lên, giọng đầy hưng phấn. Cả đám đã đi được một đoạn khá xa, lúc này mới phát hiện ra Thuỷ Băng Hoa chưa hề nhúc nhích. Cô ta giơ tay lên chỉ về một chỗ phía trước. Bó đuốc vừa rơi xuống đất vẫn chưa tắt, ánh lửa bập bùng hắt cái bóng của cô ta in trên vách đá, thành một hình thù to lớn quái dị, lay động liên hồi.
- Đằng kia! Mọi người nhìn kìa!
Bọn họ không nhìn thấy vị trí cô ta đang chỉ, càng không biết ở đó có thứ kỳ quái gì khiến cô ta hưng phấn tới vậy, vì lúc đó ánh lửa đã sắp tàn, bó đuốc chỉ còn hai đốm lửa nhỏ còn ngoan cố cháy leo lét.
Lỗ Nhất Khí không nói gì, song đã quả quyết quay người bước lại. Bởi lẽ cậu cảm thấy nơi mà Thuỷ Băng Hoa đang chỉ chính là nơi mà cậu buộc phải đến trong sự an bài của vận mệnh.
Quỷ Nhãn Tam cũng không nói gì. Khi lửa đuốc lụi dần, con mắt cú đêm của hắn lại tinh tường hơn rất nhiều. Và ở một chỗ không xa phía trước, hắn đã nhìn thấy điểm giao hội của hai vách đá. Nơi đó có lẽ là điểm tận cùng của con đường, bên trên không có lớp băng bao phủ, mà mọc chi chít cây cỏ tạp nham, sương mù trắng xoá đang phả ra nghi ngút từ phía đó.
- Chỗ đó không có đường đâu! Ba người bọn tôi lòng vòng mãi ở đó mà vẫn không ra được, đành phải chia nhau đi tìm, kết quả là tôi đã sa vào ngõ cụt này. Hai người kia không biết bây giờ ra sao, hy vọng là đã thoát được! – Câu nói cuối cùng của Nhậm Hoả Cuồng tràn đầy lo lắng.
Thuỷ Băng Hoa vẫn nhìn chằm chằm vào vách đá, nói:
- Ở đây có lẽ dễ đi hơn chăng? Nhìn xem chỗ đó giống cái gì?
Trong giọng nói của cô ta, Lỗ Nhất Khí nghe thấy có chút gì như ngượng ngập.
- Không biết! – Quỷ Nhãn Tam trả lời rất dứt khoát.
- Có giống cái quái gì thi cũng không phải là đường đi! – Nhậm Hoả Cuồng có phần bực bội, vì Thuỷ Băng Hoa có vẻ đang muốn chứng minh ông ta đã sai, cũng là cho thấy ông ta không đáng tin cậy.
Thuỷ Băng Hoa không để ý tới thái độ của Nhậm Hoả Cuồng, thản nhiên nói tiếp:
- Các người mang tiếng là đã biết mùi đời, rõ ràng đến thế mà còn nhìn không ra! Nếu lúc nãy tôi không nhìn nhầm thì cái góc cuối ngõ cụt phía trước giống như cái âm hộ của đàn bà.
Cả mấy người đều đứng đực cả ra. Quỷ Nhãn Tam đưa tay dụi dụi mắt, rồi bước lên hai bước cẩn thận quan sát vị trí đó.
- Theo truyền thuyết, mấy ngọn núi này là do người phụ nữ sinh ra rồng hoá thành. Nếu quả thực có bảo bối cất giấu ở vùng đất mẹ này, cũng chính là giấu ở trong cơ thể của người mẹ. Vậy thì đi qua khe giữa hai đầu gối dựng lên để vào bên trong cơ thể người mẹ, lối vào sẽ là chỗ nào?
Mở lối vào một ám cấu vốn chẳng có gì khó khăn đối với con cháu Nghê gia vốn có bản lĩnh dời non phá núi, huống hồ lối vào ở đây chỉ bị che chắn qua loa sau đám cây cối tạp nham. Lối vào không lớn, chỉ đủ cho một người chui qua. Từ trong lối đi, sương mù liên tục phả ra dày đặc. Lúc nãy còn có cây cối che phủ, sương mù luồn lách qua khe hở của đám cỏ cây mà lọt ra ngoài thành từng dải phất phơ. Sau khi Quỷ Nhãn Tam vung xẻng phạt bay hết cây bụi, sương mù tuôn ra cuồn cuộn như tháo cống.
Lão mù mò mẫm tới mé bên của lối vào, thọc cây gậy vào sâu bên trong một lát, sau đó rút ra, đưa ngón tay vuốt dọc trên gậy. Trên đầu ngón tay lão đọng lại hai giọt nước. Lão nhỏ giọt nước lên đầu lưỡi, chép chép mấy cái rồi nhổ liền ra, nói:
- Hơi nước, có mùi lưu huỳnh, là nước trong tầng khoáng thạch, không độc, không hại.
Quý Nhfln Tam tuy không ưa gì lão mù, song rất khâm phục bản lĩnh của lão. Lão mù đã nói vậy, hắn liền chui ngay vào bên trong không chút đo dự. Lối vào rất hẹp, Vũ Kim Cương không thể sử dụng, nên hắn đưa cây xẻng lưỡi cày về phía trước, khua đập lên xuống một hồi, không thấy có dấu hiệu gì bất thường, mới tiến thêm hai bước vào trong. Hắn tiếp tục lặp di lặp lại trình tự này để tiến lên, di chuyển tuy chậm, song rất an toàn.
Địa thế của con đường dốc dần xuống dưới. Đừng nói là cao thủ trộm mộ như Quỷ Nhãn Tam, mà đến cả Lỗ Nhất Khí củng đã nhận ra họ đang đi xuống.
Khi lối đi đã thu hẹp đến độ một người cũng sắp không lách được qua, lưỡi xẻng đang khua khoắng phía trước của Quỷ Nhãn Tam bỗng đập vào khoảng không. Lối đi phía trước đã đột ngột mở rộng. Ở đó có thứ gì? Không ai biết được. Quỷ Nhãn Tam cúi người hết cỡ khua xẻng xuống dưới, hắn muốn thăm dò nền đất. Nếu thấy được nền đất, thì phía trước họ chỉ là một đoạn đường nở rộng. Nhưng nếu không thấy nền đất thì rất khó nói, chưa biết chừng đây chính là một giếng đá ngầm trong núi, hoặc là một vực sâu khổng lồ.
Lão mù vốn lão luyện giang hồ, Quỷ Nhãn Tam vừa dừng bước, lão đã cảm thấy phía trước có biến. Cũng như nghề trộm cướp của lão trước đây, hành động của khảm tử gia tuyệt đối không cho phép liều lĩnh, mà cần phải kiên nhẫn. Để đạt được mục đích, phải biết rút lui kịp thời, dù có phải lặp đi lặp lại cùng một hành động nhiều lần cũng không được nản chí.
- Lui ra ngoài! Lui ra rồi tính tiếp!
Lão mù cất giọng khàn đục hét thật lớn với Quỷ Nhãn Tam. Quỷ Nhãn Tam còn chưa kịp nghe xem lão mù nói gì, thì từ phía trước vọng lại hàng tràng những tiếng oang oang vang dội, át mất hoàn toàn mấy tiếng sau cùng.
Những tiếng âm vang vẫn tiếp tục ầm ù không dứt, càng lúc càng vang, đến cả vách núi cũng chấn động theo, bùn đất rơi xuống lả tả.
Mọi người đều cảm thấy bất ổn, tiếng hét của lão mù không thể vang vọng liên tục như vậy được. Lão mù cũng thấy bất thường, không hiểu tại sao tiếng kêu của lão lại trở nên ầm ào vô nghĩa tựa như tiếng thú gầm hỗn loạn.
Chính xác là có tiếng thú gầm! Có tiếng rống hung dữ, lại có cả tiếng hú não nuột. Chúng đều vọng lại từ phía cửa vào, ồn ào hỗn loạn và quái đản tựa như đang ở trong một cuộc săn rừng quy mô lớn.
- Không ra được nữa! Không ra được nữa! – Nhậm Hoả Cuồng kêu lớn. Quả thực bọn họ đã không còn đường thoái lui, lối vào con đường nhỏ mà họ vừa đi qua giờ đấy đã lúc nhúc những thú lớn thú bé.
Lũ thú hoang đang đua nhau gầm rống, tiếng gầm vang động rung chuyển cả vách núi, khiến những người đang chen chúc trong đường hầm nhỏ hẹp màng nhĩ đau buốt muốn thủng, tim đập thình thình như trống.
- Gì thế này? Không phải là bầy sói đã giúp chúng ta ư? – Lỗ Nhất Khí hỏi lớn.
- Không phải! – Nhậm Hoả Cuồng chỉ đáp một tiếng mà không hề giải thích gì thêm.
- Vậy thì dấu chân của chúng ta khi tiến vào rất có thể đã bị đám muông thú kia liếm mất! – Lão mù đã từng trải qua sự việc tương tự.
Tình hình trước mắt cho thấy bọn họ chỉ còn một cách duy nhất, đó là mạo hiểm xông lên phía trước. Người hiểu rõ nhất điều này đương nhiên là Quỷ Nhãn Tam, hắn biết mình phải hành động lập tức, nếu còn chần chừ, ác thú theo dấu đuổi tới, chỉ còn nước bó tay chờ chúng xơi thịt.
Tình thế đã cấp bách tới nước này, Quỷ Nhãn Tam thậm chí không còn cả thời gian để hạ quyết tâm, lập tức hóp bụng thu mình, lách người qua khe đá hẹp, bật tung người lao vào bóng tối thăm thẳm trong màn sương dày đặc, tựa như muốn hoà mình vào trong những tràng tiếng vang liên tu bất tận.
Quỷ Nhãn Tam đã ngã một cú trời giáng, bộ dạng thảm hại vô cùng. Đó là một cú ngã hết sức bất ngờ, vì phía sau khe hẹp, nền đất chỉ hạ thấp xuống chừng nửa thân người, trong khi Quỷ Nhãn Tam đã chuẩn bị tinh thần để rơi xuống một khoảng cách rât sâu. Mũi chân của hắn nện xuống đất, toàn bộ cơ thể giáng thẳng cánh xuống một tảng đá phẳng lì.
- Vào! Mau vào đi! – Quỷ Nhãn Tam ngã bất ngờ mà vùng dậy cũng chớp nhoáng, tách một cái đã bật người đứng thẳng lên, thò đầu qua khe đá gọi lớn.
Lão mù không hiểu vì sao, khi bước vào cũng suýt nữa thì ngã bổ chửng như Quỷ Nhãn Tam, may mà đươc Quỷ Nhãn Tam đỡ lấy.
Nhậm Hoả Cuồng đi vào sau cùng, do cơ thể to cao vạm vỡ, phải len lách vùng vẫy một hồi mới chen qua được, quần áo và cả mảng da trước ngực đều bị cọ xát đến trầy sứt.
Thấy mọi người đã vào cả, Quỷ Nhãn Tam liền móc từ trong người ra một lá bùa vẽ trên giấy vàng, bắt đầu lầm rầm tụng niệm:
- Dữ tới dữ đi, ác có ác chế, mượn lực bốn phương, nặn hình tám hướng, nạp khí tại đây, pháp lực vô hạn, ma núi tại vị, rụt cổ cúp đuôi. Thái Thượng Lão Quân, gấp rút như luật lệnh!
Niệm xong, rũ lá bùa một cái, lửa lập tức bùng lên. Hắn liền cầm lá bùa cháy bừng bừng trên tay, vẽ một tự quyết “kinh” vào khoảng không phía trước khe đá.
Tự quyết viết xong, hắn thu thế bằng cách dùng hai ngón tay búng non nửa lá bùa còn lại chếch lên không, ngụ ý chỉ xin một nửa sức mạnh của trời, không làm phiền tới thần tiên ở xa xôi. Khi đốm lửa vọt lên không trung, mọi người theo phản xạ đưa mắt nhìn quanh, muốn quan sát kỹ hơn tình hình quanh họ.
Song ngoài bóng tối, họ chỉ nhìn thấy có sương mù dày đặc, không thể phát hiện ra bất cứ thứ gì. Nhưng Thuỷ Băng Hoa vẫn có thói quen nhìn theo đốm lửa cho đến khi nó rơi xuống đất.
Đột nhiên, cô ta túm chặt lấy tay Lỗ Nhất Khí, bấu mạnh tới mức cậu cảm thấy móng tay cô ta sắp xuyên thủng cả da thịt. Lỗ Nhất Khí không biết đã xảy ra chuyện gì, vội quay đầu lại, và nhìn thấy bàn tay còn lại của Thuỷ Băng Hoa đang chỉ chếch xuống dưới.
Lỗ Nhất Khí vội nhìn theo hướng chỉ. Chỗ đó, lá bùa đã cháy hết, chỉ còn chút tàn lửa đang loé lên đốm sáng yếu ớt cuối cùng. Thuỷ Băng Hoa đang chỉ tay vào một đôi chân xỏ trong ủng da thú. Đôi ủng quả là tuyệt tác, da phẳng phiu, lông dày dặn, dế mềm mại, lại được khâu bằng sợi da, vô cùng bền chắc. Đôi ủng này từ khâu săn thú, lột da, thuộc da, chế tác hẳn đều cần đến kỹ nghệ cực cao siêu, người bình thường tuyệt đối không thể sở hữu được.
Tất cả bọn họ không ai có đôi ủng này, vậy thì nó là của ai? Lẽ nào đã có người đứng sẵn ở đây? Hay là trong một lúc không ngờ nào đó đã có kẻ lén lút trà trộn vào bọn họ, mà cảm giác của Lỗ Nhất Khí, đôi tai của lão mù và con mắt của Quỷ Nhãn Tam đều không nhận thấy.
Ngọn lửa đã tắt lịm hoàn toàn. Lỗ Nhất Khí không nói gì, Thuỷ Băng Hoa càng không dám lên tiếng. Còn Quỷ Nhãn Tam vẫn đứng đó lảm nhảm không ngừng, nghi lễ của hắn vẫn chưa đến hồi kết thúc. Tên này bình thường kiệm lời như vàng, song hễ niệm chú thì một chữ cũng không chịu bỏ, chẳng quản rườm rà.
Không biết có phải bùa chú của Quỷ Nhãn phát huy tác dụng hay không mà tiếng thú gầm gừ ở bên ngoài đã thưa dần, tiếng vọng cũng dần dần im ắng
- Hắn đang làm gì thế? – Lão mù hình như đắn đo đến hai lần mới hạ giọng thì thào hỏi Nhậm Hoả Cuồng. Lão biết ở đây không được nói lớn, vì tiếng vọng rất vang, nói to một chút là không thể nghe thấy gì.
- Hình như đang yểm tự quyết “kinh” của phái Mao Sơn! – Nhậm Hoả Cuồng đáp.
- Ở đây có ma à? Nên hắn mới giở chiêu doạ ma đuổi quỷ! – Giọng lão mù có vẻ nhẹ nhõm hơn nhiều.
- Không phải! Hình như hắn đang niệm huyền ngữ “doạ linh sống” để hù doạ vật sống! – Nhậm Hoả Cuồng nói.
- Ồ, ta hiểu rồi! Thằng nhãi Nghê Tam muốn hù doạ bầy thú hoang bên ngoài, khiến chúng tạm thời không thể tiến vào… tiến vào… tiến vào… – Giọng lão mù càng lúc càng lớn hơn, nên những tiếng sau cùng lại kéo theo một chuỗi tiếng vọng.

*

Chương 6.2 VÁCH NÉN KHÍ

Cuối cùng thì Quỷ Nhãn Tam cũng đã xong việc, lúc này hắn mới lia ánh mắt cú vọ quan sát kỹ lưỡng xung quanh. Song hắn chẳng nhìn thấy gì, bởi lẽ sương mù đã dày đặc trong bóng tối. Song từ tiếng ầm vang của lời nói có thể biết rằng nơi đây rất rộng, rất cao.
- Tôi đi trước thăm dò!
Quỷ Nhãn Tam nói xong, liền cất bước đi lên phía trước một đoạn chừng chiều sâu của hai căn nhà, song mới cách một đoạn ngắn ngủi như vậy, sương mù đã dày đặc hơn rất nhiều, thậm chí giơ tay không nhìn thấy ngón.
Quỷ Nhãn Tam đành phải quay trở lại. Lão mù nghe thấy tiếng bước chân của Quỷ Nhãn Tam liền hỏi:
- Sao rồi, không thể đi tiếp được phải không? Hãy đợi chút xem sao, chưa biết chừng chốc nữa tình hình sẽ thay đổi.
- Ừm! – Lần này Quỷ Nhãn Tam không đôi co với lão mù. Song hắn đột ngột nhận ra nãy giờ không hề thấy Lỗ Nhất Khí lên tiếng, bèn vội vã hỏi gấp:
- Cậu cả, vẫn ổn chứ?
- Ừ! – Lỗ Nhất Khí cũng chỉ ậm ừ một tiếng.
- Làm gì đây? – Quỷ Nhãn Tam hỏi. Với hắn, chỉ có Lỗ Nhất Khí mới có thể đưa ra quyết định
- Đợi! – Lỗ Nhất Khí cũng trả lời gọn lỏn hệt như Quỷ Nhãn Tam.
Kỳ thực lúc này Lỗ Nhất Khí đang ở trong trạng thái căng thẳng cực độ, vì đôi chân rất bất thường vừa nãy. Người có đôi chân này không phải là thần tiên, cũng không phải là âm hồn, mà là một con người bằng xương bằng thịt, một người có quá nhiều điểm không thể đoán lường: Nhậm Hoả Cuồng!
Đúng vậy! Ông thợ rèn đang đi dưới chân một đôi ủng da rất tốt, rất đẹp, chứ không phải đôi giày bông đã cháy nham nhở như họ vẫn nghĩ. Đôi ủng da kia từ đâu mà có? Dấu chân tẩu thoát một mình vứt bỏ đồng bạn trong vòng ma vẽ rốt cuộc là của ai? Tại sao ông ta lại phải vội vã lôi mọi người bỏ chạy như thế?
Sương mù vẫn đặc quánh không tan, còn chưa đợi được thời cơ tốt hơn để thăm dò phía trước, thì âm thanh chết chóc đã ập lại gần. Trong con đường nhỏ ồn ào vọng lại những tiếng phì phò và gầm rống náo loạn của bầy dã thú. Bầy ác thú khát máu đã kéo tới. Nhìn vào tốc độ di chuyển của chúng, có thể thấy rằng bùa chú của Quỷ Nhãn Tam không có tác dụng gì.
- Mẹ kiếp! Đáng lẽ phải chặn được ba canh giờ! Quái lạ! Nơi này tà quái! – Quỷ Nhãn Tam vừa giận dữ vừa cuống quýt.
- Mau đi thôi, sớm muộn gì cũng phải xông lên, cứ tuỳ số mệnh an bài! Tất cả đi theo tôi, cây gậy này ít nhiều cũng có thể thăm dò đường lối.
Người nắm lấy lão mù đầu tiên là Nhậm Hoả Cuồng, phía sau lần lượt là Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa.
Quỷ Nhãn Tam vẫn chưa vội đi ngay, mà quay người lại thò đầu qua khe đá hẹp, phồng mang trợn mắt thổi một hơi dài, khiến đám sương mù trước mặt bay bạt đi để nhìn được rõ hơn. Hắn vừa thổi, vừa quan sát kỹ lưỡng hai bên vách đá của lối vào. Trên một bên vách đá, Quỷ Nhãn Tam đã nhìn thấy một vết máu tươi, hắn đoán là máu của Nhậm Hoả Cuồng lưu lại sau khi gắng sức lách mình qua khe đá hẹp. Song hắn vô cùng kinh ngạc khi phát hiện ra vết máu có hình dạng của ấn phá tường. Ân phá tường được vẽ bằng máu tươi có thể hoá giải bùa chú, dẫn đường cho muông thú ma quỷ.
Tuy đã biết rõ nguyên nhân, song muôn đổi hình yểm lại đã không còn kịp nữa. Bầy dã thú đang lao đến chính là chó sói, hơi thở tanh tưởi của chúng đã sắp xộc đến tận mũi Quỷ Nhãn Tam. Nhưng vào lúc hắn quay người định đi, hắn thấp thoáng liếc thấy có một vật gì giống như trụ xoay ở bên một vách đá, song đã không còn thời gian để quan sát kỹ.
Lão mù kéo theo cả đoàn người rồng rắn di chuyển rất nhanh, bởi lẽ cây gậy thép của lão đã dò thấy mặt đất bằng phẳng, hai bên phải trái đều không vấp phải thứ gì, xem ra nơi này rất rộng rãi.
Quỷ Nhãn Tam tuy rớt lại phía sau, con mắt cú đêm cũng đã trở nên vô dụng, song dù sao hắn cũng là người luyện võ, chỉ cần nghe tiếng bước chân phía trước, sau vài bước nhảy dài đã đuổi kịp đoàn người, chụp lấy cánh tay của Thuỷ Băng Hoa đang đi sau cùng.
Thuỷ Băng Hoa giật bắn mình bật kêu lên một tiếng. Vốn dĩ từ lúc nhìn thấy đôi giày bất thường kia, trong lòng cô ta lúc nào cũng thấy rờn rợn.
Cây gậy của lão mù đã chạm phải một thứ, đó là một bức tường cao lớn. Bức tường không phải ở hai bên mà sừng sững ngay trước mặt.
“Hết đường rồi!” – Ý nghĩ này lập tức loé lên trong đầu lão. Bức tường chặn ngang phía trước không biết cao bao nhiêu, rộng bao nhiêu, lại không phải được xây bằng gạch đá, khi điểm đầu gậy vào không có cảm giác cứng rắn như gạch đá bình thường.
- Đi thôi!
- Sao thế?
- Hết đường rồi à?
Mọi người đều gấp rút hỏi lão mù. Giờ đây bọn họ sống chết đều chung một con thuyền, mà lão mù chính là người cầm lái. Người cầm lái mất phương hướng, thì sinh mệnh của họ khác gì con thuyền mắc cạn.
Lão mù không trả lời, lão đang tập trung toàn bộ sức chú ý vào bức tường phía trước. Bức tường không rõ làm bằng chất liệu gì. Hai bàn tay lão run run đưa lên phía trước, lần mò về phía mặt tường. Song đầu ngón tay vừa chạm tới nơi, bức tường đột nhiên co rúm lại như một cơ thể sợ nhột.
Mồ hôi lập tức túa ra khắp người khiến lão mù toàn thân lạnh toát. Lão cố gắng trấn tĩnh, xác nhận chắc chắn tình hình vừa nãy không phải là ảo giác, sau đó tiếp tục hết sức thận trọng đưa tay về phía trước.
Không thấy bức tường đâu nữa!
Cánh tay tiếp tục nhích lên phía trước, vẫn không thấy bức tường đâu!
Thế là lão mù quyết định dấn lên một bước.
Lần này ngón tay lão đã chạm vào bức tường, song bức tường vụt một cái đã tránh đi, tốc độ hình như còn nhanh hơn cả lần trước.
- Tường chuyển động!
- Sương chuyển động!
Lão mù vừa hô khẽ, lập tức bị tiếng kêu kinh hãi của Quỷ Nhãn Tam át hẳn đi. Lời Quỷ Nhãn Tam còn chưa kịp dứt, cũng lập tức chìm nghỉm trong tiếng gió gầm rú dữ dội và tiếng cọ rít kèn kẹt quái dị.
Cùng lúc đó, mồi lửa trong tay Nhậm Hoả Cuồng loé sáng. Quả không hổ danh là thiết thủ kỳ công, khả năng kiểm soát lửa cháy cực kỳ vững vàng. Chỉ một đốm lửa mong manh từ mồi lửa trên tay, song những luồng gió ma quái dữ dội lại không thể dập tắt nổi.
Sương mù dày đặc phía sau đang lớp lớp cuộn trào, ùn ùn kéo về phía họ, rồi băng qua họ, tụ về cùng một hướng. Tiếp đó là một luồng gió cực mạnh ào ào thổi tới, liên tục không ngừng nghỉ, mỗi lúc một dữ dội, cuốn áo xống của mọi người bay lên phần phật, quất vào da thịt đau rát. Trong tiếng gió rít còn lác đác vài tiếng sói tru.
Sương mù bị hút tới trước bức tường. Cùng với sự dịch chuyển của bức tường, thế gió càng thêm hung hãn, tiếng cọ rít càng chói tai và rùng rợn hơn, màn sương càng đặc quánh lại như hồ.
Màn sương mù chạy đi mỗi lúc một xa, đã ra khỏi tầm chiếu sáng của ngọn lửa trong tay họ. Đột ngột, tiếng gió thổi, tiếng cọ rít đều câm bặt, chỉ còn tiếng tru âm trầm của bầy sói phía sau, khiến không gian đột nhiên tĩnh lặng tới rùng rợn. Một làn sương nhạt phất phơ bay ngược trở lại từ chỗ màn sương dày đặc vừa rút đi, lững lờ lướt qua phạm vi chiếu sáng, tựa như một dải sa mong manh đang phiêu diêu trôi theo làn nước. Lớp sương đặc quánh khi nãy đã bắt đầu tản ra.
“Cạch”
Một tiếng động lớn nghe rất quái dị vọng lại từ phía trước, khác nào tiếng gỗ đập bàn của Diêm La Vương, khiến tất cả sinh linh đều im hơi nín thở, cả bầy sói cũng không ngoại lệ.
“Cạch! Cạch! Rầm! Rầm!”
Những tiếng vang động hỗn tạp tiếp tục dồn dập vọng đến, còn kèm theo sự rung lắc dữ dội.
- Chạy mau! Có vật gì đang tiến lại! Chạy mau! Có…
Lão mù đã nghe thấy tiếng chuyển động của một vật nào đó đang ép về phía họ, tuy còn cách họ một quãng xa, song áp lực mà nó đẩy tới đã khiến nửa câu nói sau cùng của lão mù nghẹn cứng trong cổ họng.
- Lui!
Nhậm Hoả Cuồng vận đủ khí vào trong lồng ngực rồi mới bật ra được một từ. Áp lực quá lớn khiến ông không thể nói thêm dù là nửa chữ.
Giờ đây người hiểu rõ nhất tình thế xung quanh chính là Quỷ Nhãn Tam. Vừa nãy, sau khi sương mù tụ lại, con mắt cú đêm của hắn lập tức phát huy tác dụng.
Kỳ thực bọn họ đã sa vào một con đường đá vuông vắn thẳng tắp, rộng lớn một cách dị thường. Năm xưa dòng họ Nghê đã tìm được mộ huyệt của Thiên Tế quốc sư nước Tây Linh* ở đầm Hắc Thuỷ, con đường trong huyệt mộ rộng bằng sáu càng xe đã khiến bọn họ phải trợn mắt há miệng, nhưng so với con đường trước mặt, có lẽ nó chỉ bằng một phần năm.
* Một nước nhỏ thời cổ đại trong truyền thuyết, ở phía nam Trung Quốc.
Vừa nãy sương mù tụ lại thành một lớp dày, nhìn vào sự phân bố của chúng, có thể thấy rằng lớp sương mù bám chặt sát vào một bức tường, một bức tường đang thoái lui chóng vánh. Hiện giờ, bức tường đột nhiên dừng lại, khiến làn sương mù đặc quánh đang dán chặt vào đó nhanh chóng bung ra như tấm mút xốp bị nén chặt giờ đột ngột buông lỏng. Chỉ một thoáng sau, bức tường lại tiếp tục chuyển động, song hướng di chuyển đã ngược lại, ép thẳng về phía họ.
Bức tường vừa dịch chuyển, Quỷ Nhãn Tam lập tức khẳng định, đây là một khảm diện đồ sộ có tên gọi “ép một bên”. Bức tường rất có thể sẽ ép thẳng tới vách đá ở lối vào. Như vậy, trừ phi họ kịp thời chui ra khỏi khe đá, nếu không toàn bộ sẽ bị ép dẹp thành bánh thịt nghiền. Song áp lực dữ dội ập đến ngay sau đó đã cho Quỷ Nhãn Tam biết rằng, khảm diện này tuyệt đối đơn giản như hắn tưởng tượng.
Nhậm Hoả Cuồng vừa kêu lên một tiếng “Lui” thì Quỷ Nhãn Tam đã kịp xoay người, song không chạy ngay, mà vội đưa mắt tìm kiếm khe đá lúc nãy.
Tại nơi họ vừa tới chỉ có một vài đốm sáng lạnh lẽo chập chờn lên xuống. Là mắt sói. Còn khe đá không thấy đâu nữa.
Lúc này Quỷ Nhãn Tam mới chợt nghĩ ra, vật giống trụ xoay mà hắn đã thấy thấp thoáng trên vách đá khi nãy chắc hẳn là trục xoay của cánh cửa ngầm. Giờ đây khảm diện khởi động, cửa ngầm hẳn đã đóng chặt.
Từ âm thanh vọng tới, có thể nhận ra rằng, lực đạo đang đẩy vào bức tường khổng lồ trước mặt dữ dội đến khó tưởng tượng, không biết là từ đâu tới.
Bức tường vừa đẩy tới, áp lực xung quanh đột nhiên tăng vọt, không chỉ là áp lực do bức tường dồn tới, mà từ bốn phương tám hướng ập lại. Áp lực đè chặt lấy cơ thể họ, khiến động tác của họ trở nên hết sức khó khăn. Xem ra nếu bức tường cứ tiếp tục áp sát, thì lực nén khủng khiếp kia hẳn sẽ nghiền nát lục phủ ngũ tạng của họ thành cám vụn.
- Nguyên lý bơm tiêm, nén không khí! – Lỗ Nhất Khí chợt nhớ tới kiến thức vật lý đã học ở trường Tây. Muốn thoát khỏi đây cần phải tìm ra lỗ kim, lỗ kim có lẽ chính là lối vào khi nãy, phải mau chóng thoát ra từ đó, nếu không họ sẽ nhanh chóng bị ép đến chết.
Cùng chung suy nghĩ với Lỗ Nhất Khí không chỉ có một người, song khi bọn họ lật đật bước về phía lối vào. Quỷ Nhãn Tam lập tức đoán ngay ra ý đồ của họ, nên gắng vận hết công lực, đưa khí từ ngực bụng lên, bật ra từng tiếng một:
- Lối… vào… đã… bịt! Hết… đường!
Tiếng kêu của Quỷ Nhãn Tam đã dập tắt hoàn toàn mọi hy vọng của bọn họ.
Bức tường đã tới gần hơn, áp lực càng dữ dội.
Lỗ Nhất Khí bắt đầu cảm thấy khó thở, chóng mặt, mắt loè đom đóm. Cậu cố gắng điều hoà hơi thở, dựa theo nguyên lý của Đạo gia để đưa bản thân vào trong trạng thái tự nhiên, đây là kinh nghiệm mà cậu đúc kết được từ sau cuộc vật lộn trong vòng xoáy áp lực Ngũ quỷ thôi đảo sơn của Dưỡng Quỷ Tỳ. Song áp lực ở đây lại khác với Ngũ quỷ thôi đảo sơn, áp lực của ngũ quỷ là chuyển động, có phương hướng, và điểm quan trọng nhất là sức mạnh của ngũ quỷ đa phần chỉ tác động lên ý thức, có thể dùng trạng thái tâm lý và tư duy tự nhiên để tránh né và phân tán. Còn áp lực ở đây thực sự tồn tại không thể tránh né, không thể phân tán, phải dùng thân xác để gánh đỡ.
Lúc này, người khổ sở nhất trong bọn chính là Lỗ Nhất Khí. Cậu chưa từng luyện võ công, cũng chưa từng trải qua sự giày vò rèn giũa lâu dài về thể xác, Cậu còn không bằng cả Thuỷ Băng Hoa, thân thể mềm mại dẻo dai của cô ta bẩm sinh đã có sức chịu đựng rất tốt.
Những tiếng huỳnh huỵch phát ra từ bức tường đang chuyển động mỗi lúc một gần, tốc độ có phần giảm bớt, song hoàn toàn không có vẻ muốn dừng lại.
Trí não của Lỗ Nhất Khí lại gấp rút chuyển động, tìm kiếm.
Trong “Công binh giới chế”** có chép: “Hai ống trúc lồng vào nhau, vừa khít. Ống bên ngoài rỗng và có lỗ, ống bên trong đặc dùng để đẩy ép. Ống bên trong rút lại hút đầy dầu nóng vào trong, ống bên trong đẩy ra sẽ khiến dầu nóng phụt xa trăm bước”.
Trong “Cửu lưu ngoạn khí chư ban” *** có viết: “Người đất Tương làm pháo trúc không lửa, ống giấy quấn quanh que gỗ cùng đường kính, trong ống chứa rất nhiều vụn giấy sặc sỡ, phía trước có van. Khi kéo que gỗ về phía sau, van mở, hút khí vào bên trong. Khi đẩy que về phía trước, van đóng, khí ép ống vỡ, vụn giấy nhiều màu bắn tứ tung như pháo hoa”.
** Đây là một bộ sách huấn luyện quân sự rất thịnh hành vào đầu đời Nguyên, do chính phủ triều Nguyên mang dã tâm mở rộng lãnh thổ, liên tục phá thành cướp đất, bởi vậy trong quân đội cũng rất coi trọng các vũ khí thiết bị đánh thành và phương pháp sử dụng của chúng, nên đã cho biên soạn bộ sách này. Số lượng in không nhiều, ban đầu chỉ lưu hành trong quân đội, sau đời Nguyên mới có một số ít lưu truyền trong dân gian. Những bản in còn lại hiện có giá trị rất cao trong giới tàng thư và sưu tầm đổ cổ.

*

Hai đoạn văn trên khiến Lỗ Nhất Khí lập tức liên tưởng tới một đoạn trong thiên “Xảo tự’ trong “Cơ xảo tập”: “Khoang đóng, nút động. Cửa tự động, rút mở, đẩy đóng, khí ra, là dụng”.
- Rút… mở, đẩy… đóng! Khí… ra! – Nếu không phải Lỗ Nhất Khí đã từng luyện công phu Quy tán tức của Đạo gia, chắc chắn giờ đây cậu đã không thể nói liền một mạch sáu chữ này. Đáng tiếc là sức của cậu chỉ có thể nói ra nguyên văn trong sách một cách vô thức, mà không thể giải thích thêm.
Cả Nhậm Hoả Cuồng và Quỷ Nhãn Tam lập tức lao vụt đi một cách vội vã và chệnh choạng, phương hướng cũng giống hệt nhau, đều nhắm vào phía bên phải của khoảng không gian. Nơi đó có một bức tường tuy không nhìn rõ, song chắc chắn là có tồn tại.
Những chữ mà Lỗ Nhất Khí vừa bật ra chính là sáu tự quyết được truyền miệng từ đời tổ sư Lỗ Ban. Sáu chữ này không viết trong ”Ban kinh”, bởi lẽ đây không phải là bí mật khảm tử, mà là một nguyên lý kỹ thuật được lưu truyền rộng rãi trong nhân gian. Những người từng làm ra hay sử dụng những thứ này hầu như đều hiểu sáu chữ đó. Ông thợ rèn biết, vì công việc của ông ta không thể thiếu thứ đó; Quỷ Nhãn Tam cũng biết, vì gia tộc của hắn thường xuyên sử dụng thứ này. Đó là thứ gì? Chính là ống bễ, là thứ được gắn ở bên cạnh bếp lò dùng để thổi lửa vào bếp.
Nguyên lý của khảm diện này tương tự như ống bễ khổng lồ. Lối vào chật hẹp khi nãy chính là cửa hút khí, còn bức tường giống như một pit tông khổng lồ. Khi pit tông bị kéo vào trong, khí sẽ bị hút vào; khi pit tông đẩy ra, cửa hút khí bị ép nên đóng lại. Theo lý mà nói, ống bễ sẽ có một lỗ thoát khí khác nối liền, như vậy có thể đưa khí nén thổi đến một nơi cần thiết.
Nhậm Hoả Cuồng và Quỷ Nhãn Tam đều đang tìm kiếm vị trí của lỗ thoát khí. Ông bễ thường được đặt ở bên trái bếp lò, như vậy có thể dùng tay trái đẩy kéo thổi gió, tay phải cho củi vào lò, bởi vậy lỗ thoát khí của ông bễ thường sẽ ở trên cạnh bên phải của ống bễ.
Họ còn chưa kịp di chuyển tới vách tường bên phải thì Lỗ Nhất Khí đã không chịu đựng thêm được nữa, cơ thể mềm nhũn đổ vật trên nền đất.
Vách tường bên phải không có cái lỗ nào cả, chỉ có mặt đá nhẵn bóng như dao gọt, cũng chỉ có độ nhẵn bóng nhường đấy mới có thể đảm bảo được độ kín của ông bễ. Quỷ Nhãn Tam và Nhậm Hoả Cuồng dán người vào vách đá, hối hả sờ soạng liên tay, hy vọng có thể tìm ra chút dấu vết nào. Đây chính là cơ hội cuối cùng của họ.
Bức tường di động vẫn tiếp tục tiến lại gần. Những con người đang bị nhốt trong ống bễ khổng lồ lại một lần nữa căng thẳng cực độ, khắp người như cứng lại. Một vài con sói cùng chung cảnh ngộ cũng rên lên từng hồi thảm thiết.
Mau lên! Phải mau lên! Thời gian không còn nhiều nữa.
Quỷ Nhãn Tam vô cùng lo sợ. Nếu nơi này quả thực không có lỗ thông khí, phải làm sao đây?
Nhậm Hoả Cuồng cũng vô cùng lo sợ. Nếu như bức tường đã đi qua vị trí lỗ thông khí, phải làm sao đây?

*

Chương 6.3 BA BÔNG LÚA

Muốn giấu lẫy kéo, lưu chỗ khuyết trên bức tường nhẵn nhụi, phải có quy tắc nhất định. Khảm tử gia đã tổng kết quy tắc này trong sáu chữ: “bình án, ao hoàn, lưu tào”. Bởi vì trên các bề mặt bằng phẳng thường sẽ có các bộ phận khác trượt qua hoặc dùng để đóng kín.
“Binh án” tức là trên bề mặt sẽ thiết kế một khối có khả năng di động làm chỗ khuyết, khối này có thể ép xuống hoặc rút lên. Do nó có thể di động, nên xung quanh khối này sẽ có khe rãnh hoặc đường vân, tạo thành một hình vẽ không thật rõ ràng.
“Ao hoàn” tức là một tay nắm ngầm ẩn. Nếu tay nghề kém, liếc mắt nhìn qua cũng phát hiện ra; nếu tay nghề giỏi, sẽ liền thành một khối với bề mặt, so với “bình án” còn khó phát hiện hơn nữa.
“Lưu tào” tức là rãnh chảy, dễ nhận ra nhất, song lại khó giải nhất, vì chủng loại đa dạng, ví dụ như nước chảy, cát chảy, đá chảy, thuỷ ngân chảy, chỉ cần sai sót một ly, thì khảm nửa sống nửa chết sẽ lập tức biến thành khảm tuyệt sát. 
Quỷ Nhãn Tam và Nhậm Hoả Cuồng đều hiểu rõ điều này, họ phối hợp rất ăn ý, vừa chạm tay vào tường, lập tức chia nhau lần tìm ở hai bên trái phải.
Bức tường vẫn tiếp tục ép tới, áp lực đã lớn tới mức dường như không khí cũng bắt đầu rung chuyển.
Lỗ Nhất Khí lúc này đã thần trí mê man, nước tiểu bật ra ướt sũng cả đũng quần. Cậu đã buông xuôi số phận, chỉ mong được chết ngay để thoát khỏi nỗi giày vò khủng khiếp.
Thuỷ Băng Hoa cũng đã ngã sấp trên đất, các ngón tay rũ rượi gác hờ lên cánh tay Lỗ Nhất Khí, toàn thân co giật từng hồi. Lão mù cũng thôi không còn kéo Lỗ Nhất Khí nữa, chỉ gắng gượng tì cây gậy lên mặt đất chống đỡ không để mình đổ xuống.
Động tác của Quỷ Nhãn Tam và Nhậm Hoả Cuồng trở nên vô cùng trì độn, mỗi một cử động đều phải dùng sức gấp mấy lần bình thường, lại thêm tai ù như sấm, mắt toé sao vàng, hít thở khó khăn, ý thức mờ mịt.
Vách đá trơn bóng nhẵn nhụi, bởi vậy chỉ cần có chút vết gợn loáng thoáng đã sờ thấy ngay, huống hồ lại là một hố lõm rất rõ ràng. Trong hố lõm có một cái khoen kéo bằng đá. Quỷ Nhãn Tam móc tay vào khoen song không kéo nó ra, chỉ bám vào nó để giữ cho bản thân đứng vững, sau đó chật vật lắm mới có thể dùng bàn tay còn lại móc ra hộp diêm. Que diêm run rẩy trên tay cuối cùng đã được đánh lên, rồi bật ra, vừa lộn nhào vừa bay đi koảng năm, sáu bước về phía Nhậm Hoả Cuồng.
Dẫu rằng quanh họ sương mù mờ mịt, dẫu rằng lửa diêm chỉ leo lét, dẫu rằng ánh sáng chỉ tồn tại trong khoảnh khắc, song Nhậm Hoả Cuồng đã nhìn thấy. Bởi vậy, không đợi Quỷ Nhãn Tam bật ra que diêm thứ hai, ông ta đã loạng choạng lao đến trước mặt Quỷ Nhãn Tam.
Trạng thái của ông thợ rèn tốt hơn Quỷ Nhãn Tam một chút, cũng vì ông ta đã quen với chuyện quanh năm làm việc bên bếp lò rừng rực lửa. Nhậm Hoả Cuồng cũng nắm chặt lấy khoen đá, song không dốc sức kéo ra phía ngoài như Quỷ Nhãn Tam, mà lần lượt kéo ngang sang phải trái trên dưới.
Khi bị kéo sang phải, khoen đá kêu “cạch” một tiếng, dường như đã khớp vào rãnh, song Quỷ Nhãn Tam và Nhậm Hoả Cuồng đều không nghe thấy, vì bên tai họ chỉ lùng bùng tiếng máu chảy ràn rạt trong huyết quản. Song họ đều cảm thấy những chấn động mạnh mẽ khi khoen đá khớp rãnh, bèn hè nhau kéo chiếc khoen ra phía ngoài ba tấc.
Một khối đá hình tròn diện tích chừng sáu thước vuông đột ngột bung ra dưới áp lực dữ dội từ bên trong, đẩy Quỷ Nhãn Tam và Nhậm Hoả Cuồng lúc này đã gần như mất hết tri giác ngã nhào vào một thế giới tối tăm khác.
Cửa đá bật mở giống như một cái miệng há hoác, gầm thét hung tợn, nhanh chóng nuốt chửng đám Lỗ Nhất Khí cùng sói hoang, sương mù, đá vỡ, bụi bặm vào bên trong.
Khi tỉnh lại, Lỗ Nhất Khí thấy toàn thân ướt sũng, tựa như bị ngâm trong nước. Đúng vậy, trong khảm diện vừa rồi, mồ hôi đã vã ra ướt đẫm lớp quần áo bên trong, đặc biệt là ở đũng quần, không chỉ có mồ hôi, mà còn lẫn cả nước tiểu.
Xung quanh lặng ngắt như tờ, không một tiếng động. Hình như có chút ánh sáng lờ mờ phát ra tại một vị trí nào đó trên cơ thể cậu.
Lỗ Nhất Khí không dám cử động, vì có một bàn tay lạnh ngắt như băng đang vắt ngang trên cổ.
Đây là nơi nào? Cậu còn sống hay dã chết? Những người khác đâu cả rồi? Giờ đây, Lỗ Nhất Khí đã thấm thìa thế nào là rùng rợn. Cậu cảm thấy giờ đây tốt nhất nên nằm im lặng, để tránh làm kinh động tới thứ vẫn chưa biết là cái gì kia.
Một lúc lâu sau, bàn tay lạnh buốt kia đã ấm lên một chút, các ngón tay giật khẽ một cái, đồng thời bên cạnh cậu vang lên một tiếng rên mơ hồ. Một hơi thở âm ấm phả vào vành tai nhạy cảm của cậu, khiến cậu khắp người sởn da gà, bụng dưới căng cứng.
Bên cạnh cậu có một thứ gì đang động đậy, bàn tay cũng di chuyển từ cổ tới trước ngực cậu. Một bóng đen từ từ nhổm dậy, chầm chậm vươn đến trước mặt cậu…
Lỗ Nhất Khí chưa bao giờ kích động như lúc này. Đó chính là khuôn mặt xinh đẹp của Thủy Băng Hoa, dẫu rằng lúc này lem nhem bùn đất, đầy vết xây xước, tóc tai rối bù như tổ quạ. Nhờ ánh sáng từ viên đá huỳnh quang Ba Tư, lỗ Nhất Khi phát hiện ra không chỉ mặt mũi tả tơi, mà quần áo trên người cũng xộc xệch lỏng lẻo, rất nhiều chỗ đáng lẽ phải được che đậy đã phơi ra cả.
Cảnh tượng này khiến Lỗ Nhất Khí cảm thấy luống cuống, bèn vội vàng đẩy Thuỷ Băng Hoa ra. Thuỷ Băng Hoa cúi đầu không nói gì, ngồi lặng lẽ trên đất với một tư thế mềm mại tuyệt đẹp.
Lỗ Nhất Khí không nhìn cô ta nữa, mà giơ cao viên đá huỳnh quang Ba Tư trong tay lên. Cậu muốn biết đây là nơi nào, quanh họ có còn ai nữa hay không. Song cậu không nhìn thấy gì, cũng không tìm thấy một ai khác. Tuy có Thuỷ Băng Hoa bên cạnh, song nỗi cô đơn vẫn bất chợt bao trùm lấy cậu. Không có Quỷ Nhãn Tam, cũng giống như mất đi tất cả sự chở che; không có lão mù, cũng giống như mất đi tất cả mọi chỗ dựa. Họ đang ờ đâu? Còn sống hay đã chết? Vì sao ở đây chỉ có cậu và Thuỷ Băng Hoa?
Vây kín xung quanh họ là tường, những vách tường rất cao. Cũng có đường đi, song rất hẹp. Căn cứ vào hai điểm này, Lỗ Nhất Khí phán đoán rằng cậu và Thuỷ Băng Hoa đang ở trong một góc nào đó của một kiến trúc đồ sộ.
- Kỳ lạ thật, tại sao lại tới nơi này? Những người khác đâu cả rồi? – Lỗ Nhất Khí băn khoăn tự hỏi. Nhưng cậu không nghĩ rằng ở đây lại có người trả lời được câu hỏi này.
- Cái hộp đá kín mít vừa rồi đột ngột mở ra một lỗ khiến chúng ta đều bị hút ra ngoài, có lẽ là luồng khí đã đẩy chúng ta tới đây. Cũng không biết đã hôn mê bao lâu. Có lẽ mọi người đã bị thổi tan tác khắp nơi rồi! – Thuỷ Băng Hoa vừa nói vừa chậm chạp chỉnh đốn lại áo xống. Nghe cô ta nói, chứng tỏ chí ít khi cửa thổi gió bật ra, cô ta vẫn chưa hoàn toàn mê man.
Lỗ Nhất Khí đứng dậy để mở rộng phạm vi chiếu sáng của viên đá. Dưới ánh sáng lờ mờ, cậu đã thấy nơi mình đang đứng chỉ rộng cỡ một gian bếp, có hình vòng tròn bất quy tắc.
Vách tường không xây bằng gạch đá, vừa chạm tay vào cậu đã nhận ra, vì cảm giác không cứng và lạnh như gạch đá. Lỗ Nhất Khí nắm bàn tay lại, đấm vào tường hai cái, âm thanh phát ra có vẻ vang hơn gạch đá. Độ cứng của bức tường có lẽ thấp hơn gạch đá song cao hơn gỗ.
Lỗ Nhất Khí giơ cao viên đá, dò dẫm sờ soạng một vòng. Cậu đã bất ngờ tìm thấy khẩu súng trường trên nền đất. Cầm súng trong tay, cậu cảm thấy vững dạ hơn đến bảy phần.
Lỗ Nhất Khí đưa viên đá soi vào trong lối đi, rồi bước một chân vào bên trong. Phán đoán của cậu về cơ bản là chính xác, góc này chính là một con đường, cậu và Thuỷ Băng Hoa đều đã theo con đường này mà lọt vào trong. Khi vào đã không sao, đi ra có lẽ cũng không có vấn đề gì.
- Đợi tôi với! – Thuỷ Băng Hoa gọi với theo. Trong bóng đêm, ánh mắt của cô ta chiếu ra những tia ai oán.
Không phải Lỗ Nhất Khí đã bỏ quên cô ta, mà chỉ muốn thử vào thăm dò trước, nếu an toàn sẽ đưa cô ta đi cùng.
Thuỷ Băng Hoa đứng dậy, tiến đến sau lưng Lỗ Nhất Khí, nói khẽ:
- Cẩn thận! Quan sát kỹ rồi hãy vượt chạc (bước đi)!
Thuỷ Băng Hoa dùng tiếng lóng của những người sống trong rừng sâu, song Lỗ Nhất Khí vẫn hiểu. Từ khi đến vùng Quan Ngoại, ngày nào cậu chẳng nghe thứ tiếng này. Thuỷ Băng Hoa là bà chủ của trại đàn bà, tiếp đủ các hạng khách từ nam chí bắc, các kiểu ám ngữ trên trời dưới biển hẳn cũng nghe không ít, biết mấy tiếng lóng này cũng là chuyên đương nhiên.
Lỗ Nhất Khí tiếp tục tiến lên phía trước. Trong con đường uốn lượn quanh co không hề có một thứ gì, đến một mảy sương mù cũng không thấy. Kỳ lạ hơn nữa là chưa đi được mấy bước, cậu lại gặp một khoang tròn, rất giống với cái khoang mà cậu vừa rơi vào.
Đứng ở lối vào của khoang này, có thể nhìn thấy thấp thoáng ở phía đối diện chéo góc cách đó vài bước cũng có một lối vào nữa.
Lỗ Nhất Khí quay đầu lại nhìn, Thuỷ Băng Hoa vẫn bám sát phía sau cậu, điều này khiến cậu cảm thấy hơi ngượng nghịu, chỉ mong cô ta đừng ngửi thấy mùi khai trên người mình.
Cậu lại bước lên vài bước, thì thấy lối đi bên đó cũng nối liền với một không gian hình tròn bất quy tắc nữa, bèn quyết định bước tiếp. Đi qua đoạn đó, lại có lối đi, lối đi cũng nối với một không gian hình tròn, nhưng khác ở chỗ mé bên kia của không gian này còn có một lối đi nữa, cũng lại nối liền với một không gian hình tròn khác.
Lỗ Nhất Khí lùi trở về ngã rẽ phía trước, men theo con đường khi nãy tiếp tục tiến lên, và cậu còn gặp càng nhiều hơn những khoang hình tròn nối liền với nhau.
Một toà kiến trúc sẽ không thể chỉ có lối đi. Những khoảng không gian nhỏ hẹp với hình tròn bất quy tắc kia có lẽ là phòng ở, tuy cách tạo hình chẳng ra sao, song xét về cách thức tổ hợp lại rất được chú trọng, có phòng đơn, có phòng đôi, cũng có chỗ nhiều phòng nối liền. Trong đó có quy tắc nhất định, những lối đi nối liền với những căn phòng có số lượng như nhau, giống như những phiến lá đối nhau ở hai bên trên chạc cây.
Lỗ Nhất Khí dừng lại, cậu cảm thấy cần phải làm rõ chuyện này trước đã rồi mới đi tiếp. Cách thức xây dựng và hình thái kiến trúc nơi đây quá đỗi kỳ lạ, hoàn toàn không giống chỗ ở của con người. Vừa rồi Thuỷ Băng Hoa có nói “vượt chạc”, không biết có huyền cơ gì ẩn giấu trong đó không? Con đường này chẳng phải rất giống với nguyên tắc bố trí của chạc cây hay sao? Trong suốt chặng đường, cô ta chưa từng thốt ra một tiếng lóng hay ám ngữ nào, sao vừa rồi đột nhiên lại nói như vậy? Không biết đó chỉ là tiếng lóng, hay là cô ta đã nhận ra khảm diện trước mắt?
- Không biết khảm diện này phải đi như thế nào! Hay là chúng ta nghỉ chân một lát đợi những người kia đến tìm? – Nói xong, Lỗ Nhất Khí không tìm chỗ nghỉ chân mà lại liếc sang Thuỷ Băng Hoa.
Trong ánh mắt của Thuỷ Băng Hoa thoáng qua một nét cười, song cô ta lập tức bặm môi lại, nói một cách miễn cưỡng:
- Biết được quy luật bên trong thì không phải là khảm diện. Nếu không nhận ra được quy luật, đó chính là khảm diện.
- Ồ? – Lỗ Nhất Khí kêu lên một tiếng khiến Thuỷ Băng Hoa bất giác thảng thốt trong lòng.
- Tôi sẽ nhắc cậu một đoạn: “Chân lả lướt, mặc áo thêu, mừng may mắn, thu hoạch nhiều…”
- “Cầu gió hoà, cúng ba lúa, cầu mọi năm, như năm qua!” – Lỗ Nhất Khí lập tức tiếp lời đọc theo, đấy là một đoạn trong phần “Bố cát” của “Ban kinh”. Cậu đã thuộc lòng, và cũng hiểu rõ ý nghĩa của chúng.
Ngay từ trước khi được đưa tới núi Thiên Giám, Lỗ Nhất Khí đã hiểu bài vè này nói về cái gì. Hồi đó cha cậu, ông Lỗ Thịnh Nghĩa, sau khi khắc xong một bức tranh gỗ cát tường, đã chỉ vào các đồ hình bên trên rồi thích cho cậu nghe. Khi ấy cậu mới năm tuổi.
Tranh gỗ cát tường còn được gọi là tấm gỗ may mắn, là một tấm gỗ trang trí có khắc những đồ hình ngụ ý cầu mong may mắn, đuổi uế trấn tà, thường được lắp dưới mái hiên, mi cửa, giường ngủ, cửa bếp. Trong thời cổ đại, dân chúng không được phép sử dụng các hình ảnh rồng, phượng, hổ, voi, vì phạm vào cấm kỵ của hoàng gia; cũng không được chạm khắc thần tiên, Bồ tát, bởi vì giường, bếp đa phần ở trong nhà, mái hiên cũng có khi ở trong nhà, dưới mái, nên khi nam nữ quan hệ trong nhà sẽ là bất kính đốì với Bồ tát, thần tiên. Do vậy dân chúng thường chỉ sử dụng hình vẽ người, đa phần là trẻ nhỏ, nam giới, ngụ ý “dùng dương đuổi tà”. Song để đảm bảo mỹ quan, tạo hình của trẻ nhỏ hay nam giới thường có nét mặt nhu hoà, tư thái uyển chuyển, thủ pháp khắc hoạ thường cố ý thiên về xu thế mềm mại nữ tính, nên mới có câu “chân lả lướt, mặc áo thêu”.
Tranh gỗ cát tường dân gian đa phần là miêu tả cảnh lao động, thu hoạch, đọc sách, vui chơi, đôi khi cũng mô tả các điển cố, ngụ ngôn, như Phong hầu ký*, Thám tiên sơn**, cao sĩ trong rừng,…
* Tên một tích truyện dân gian, vốn kể về người tú tài nghèo khổ bất đắc chí tên là Vương Cát An, là người chân thật, nhân hậu, luôn giúp đỡ người nghèo. Một ngày nọ, anh ta được một ông lăo tặng cho một cây bút quản ngọc, trở nên vô cùng tự tin, văn chương tài giỏi, đỗ liền tam nguyên, cuối cùng được ban tước phong hầu, chọn làm phò mã. Câu chuyện có rất nhiều phiên bản, có bản cho rằng ông lão là sao Văn Khúc giáng trần, có bản nói rằng ông lão là hoàng đế vi hành.
** Tên một tích truyện dân gian, kể chuyện một thanh niên tên là Hứa Thiên Bảo vì muốn chữa bệnh cho mẹ già đã một mình lên núi tiên, trên đường đi phải vượt qua vô số gian nan thử thách, cuối cùng đã khiến cho thần nữ trên núi tiên xúc động, tặng cho anh ta cỏ tiên và chậu tụ bảo, lại theo anh ta xuống trần gian kết tóc xe duyên vợ chồng.
Tuy thủ pháp điêu khắc tranh gỗ cát tường của Lỗ gia rất mực cao siêu, song trong “Ban kinh” lại chỉ dùng một bức “Mừng bội thu” để giải thích về toàn bộ đao pháp khắc gỗ. Trong bức “Mừng bội thu”, nổi bật nhất là hình tượng hai nhân vật, một người ôm bông lúa tượng trưng cho ngũ cốc bội thu, còn một người ôm một thứ trông giống như chiếc rương, trong dân gian gọi là rương trăm báu.
Trong “Bách cát đồ giải thuyết” *** đời Thanh có giải thích rằng, khi con người bắt đầu biết làm nông nghiệp, họ cúng tế thần gió đầu tiên. Bởi lẽ thuở xa xưa, loài người chỉ biết thu lượm mà không gieo trồng. Năm nay thu hoạch xong, tới năm sau trên mặt đất lại mọc lên rất nhiều cây mới, họ cho rằng nhờ có gió mới được như vậy, do đó đã gọi thu hoạch dồi dào là “phong thu” (thu hoạch nhờ gió), về sau người ta mới dần dần đổi chữ “phong” là gió thành chữ “phong” có nghĩa là dồi dào. Sự sùng bái sai lầm này vẫn còn tồn tại tới hiện nay, người nông dân muốn có vụ mùa bội thu, trước tiên vẫn cầu gió thuận, sau mới đến mưa hoà. Mà trong truyền thuyết dân gian, bảo bối dùng để tạo gió của thần gió chính là một chiếc rương, bởi vậy chiếc rương trăm báu trong tranh gỗ cát tường thực chất chính là ông bễ, vật tượng trưng sớm nhất cho thần gió.

*

Đây là kiểu nhà liền**** hình bông lúa. – Lỗ Nhất Khí tựa như choàng tỉnh khỏi giấc mơ, cậu hết sức kinh ngạc trước kiểu kiến trúc này, lại càng ngạc nhiên vì Thuỷ Băng Hoa lại thông thạo kỹ pháp của Lỗ gia đến vậy – Có lẽ đây chính là khảm diện do tổ tiên Lỗ gia thiết kế để bảo vệ bảo cấu. Khảm diện rất giống với bức hoạ “Mừng bội thu” trong “Ban kinh”. Nơi “kéo mở, đẩy đóng, khí ra” vừa rồi chính là ống bễ, còn ở đây là ba bông lúa. Nhìn vào hình dạng của những căn phòng này quả thực rất giống hình bông lúa. Có lẽ cũng chỉ có kiểu kết cấu tổ ong với phòng tròn nối phòng tròn, phòng tròn lồng phòng tròn như thế này mới có thể dần dần tiêu tán được sức gió khủng khiếp thổi ra từ cái ống bễ khổng lồ như vừa nãy! – Trong khi nói, Lỗ Nhất Khí phát hiện ra ánh mắt của Thuỷ Băng Hoa cứ mơ màng nhìn dán vào cậu từ đầu tới cuối.

*

- Ba bông lúa. Bông lúa trên kính trời, dân coi ăn là trời, cầu được đủ ăn. Bông lúa giữa kính thần, thần phù hộ thân tâm, cầu được an khang; bông lúa dưới kính đất, cúi đầu đào bảo kim, cầu được giàu sang. Cúi đầu đào bảo kim… ở đây giấu Kim bảo, có lẽ đi về phía bông lúa thứ ba sẽ là lối đi chính xác! – Đưa ra được kết luận này, Lỗ Nhất Khí vô cùng mừng rỡ.
- Vậy thì đi thôi! – Thuỷ Băng Hoa tỏ vẻ rất thuận tùng, giống như một đứa trẻ không hề có chủ kiến.
- Vừa rồi là hạt lúa đơn độc đầu tiên, sau đó là các hạt lúa xếp thành hai hàng, từng cặp so le nhau. Chúng ta cứ theo đó mà đi, tìm ra cọng lá phía cuối bông lúa rồi tính tiếp. Chưa biết chừng mọi người đang đợi chúng ta ở đó cũng nên! – Lúc này, mạch tư duy của Lỗ Nhất Khí vô cùng tỉnh táo, hình ảnh bông lúa khắc trên tranh gỗ cát tường hiển hiện rõ nét trong trí não cậu. Thủ pháp điêu khắc ở đây có phần khoa trương tả ý. Một bông lúa thường chỉ có một phiến lá đỡ, hạt cũng không nhiều, song rất dày và chắc mẩy, được sắp xếp theo trật tự nhất định, thứ nhất là đảm bảo mỹ quan, thứ hai là không thể xuất hiện chỗ khuyết và hạt rụng. Vì như vậy sẽ thành bông lúa phá, đọc là “phá huệ”, đồng âm với “phá toái”, nên tranh gỗ cát tường sẽ trở thành ám chú.
- Dạ vâng!
Kể từ khi gặp Thuỷ Băng Hoa, đây là lần đầu tiên Lỗ Nhất Khí nghe thấy cô ta trả lời mình với thái độ phục tùng tuyệt đối đến vậy. Giọng miền Đông Bắc ngọt ngào mềm nuột, vừa nghe đã biết là cô ta học theo một ả đàn bà rất giỏi nghề trói chặt đàn ông trên giường lò ấm sực, vì trong giọng nói toả ra vẻ ấm nồng của bếp lửa, khiến Lỗ Nhất Khí trong lòng nôn nao, tim đập rộn lên như trống.
- Ồ, phải rồi, nếu khảm diện ở đây đúng là như vậy, thì con đường hẹp dẫn từ bên ngoài tới đây không phải là theo nguyên lý phòng the “tam phong tam hồi” như chị dã nói, mà là hoa văn “sóng ba hồi” bên dưới bức tranh gỗ cát tường, ám chỉ nước đến kênh thành, việc tự thành công. – Lúc này, những văn tự, hình vẽ tản mạn từng được ghi lại trong trí não Lỗ Nhất Khí cũng chẳng khác nào nước đến kênh thành, tự nhiên thông suốt
- À, té ra từ nãy tới giờ cậu vẫn nghiền ngẫm về “tam phong tam hồi” ư? – Thuỷ Băng Hoa nửa đùa nửa thật. Song cô ta lại không biết được phản ứng của Lỗ Nhất Khí ra sao, vì cô ta vừa lên tiếng, cậu đã quay người đi về phía trước.
Đi ra khỏi dãy nhà liền hình bông lúa, Lỗ Nhất Khí bỗng thốt lên đầy cảm khái:
- Đây quả thực là do các vị tổ tiên để lại! Nếu không dựa theo nguyên lý của bức “Mừng bội thu”, thực khó mà thoát ra được!
Nghe Lỗ Nhất Khí nói vậy, Thuỷ Băng Hoa cũng thốt lên:
- Cũng thật đáng sợ! Suýt chút nữa đã bỏ mạng ở trong cái ống bễ do tổ tiên nhà cậu để lại rồi!
Đi theo lối đi ra khỏi bông lúa, họ lại gặp một căn phòng dài và hẹp, có lẽ chính là vị trí của lá đỡ. Theo phương pháp khắc hoạ thông thường trong tranh gỗ của Lỗ gia, trong ba bông lúa, chỉ có bông thứ hai có lá đỡ ở bên trái, lại ôm quanh bông lúa. Còn hai bông lúa còn lại, phiến lá đều ở bên phải và chúc xuống phía dưới.
Nhìn vào vị trí tương đối giữa gian phòng này và bông lúa, cùng hình dạng của gian phòng lá lúa trước mặt, Lỗ Nhất Khí đã phán đoán được rằng, bông lúa cậu vừa ra khỏi chính là bông lúa thứ hai, bông lúa kính thần. Bởi vậy, giờ đây có lẽ nên đi dọc theo cuống bông lúa sang bên trái, ở đó chắc hẳn sẽ có bông lúa thứ ba, bông lúa kính đất.
- Đi về phía này! – Lỗ Nhất Khí quay đầu lại gọi Thủy Băng Hoa.
- Dạ vâng!

*

Chương 6.4 ĐIỆN KHÔNG XÀ

Lỗ Nhất Khí chọn đường rất dứt khoát, bởi lẽ chỉ cần khảm diện bảo vệ bảo bối nơi này thực sự do tiền bối Lỗ gia để lại, chắc chắn sẽ có phương pháp hoá giải. “Ban kinh” đã ở trong tay, vạn biến không lìa tông, tìm ra ngọn rồi thể nào cũng lần được tới gốc, chỉ cần không để mình lao thẳng vào nút lẫy là được.
Thực tế cũng đã chứng thực cho tư duy duy của cậu. Lỗ Nhất Khí cứ theo suy đoán của mình mà đi, không hề gặp phải trở ngại, cũng không đi nhầm đường, cuối cùng đã thuận lợi bước vào một gian đại điện. Đó là một gian đại điện với phần nóc lợp bằng ngói lục lăng, một gian đại diện hầu như bị chôn vùi hoàn toàn dưới lòng đất.
Đại điện không hoàn toàn tăm tối, vì xung quanh nóc điện có một dãy cửa sổ trời trong mờ. Ánh sáng rọi qua dãy cửa sổ trời tạo thành một bức tường ánh sáng vây quanh đại điện. Lỗ Nhất Khí suy đoán có lẽ dãy cửa sổ trời trên kia chính là rãnh băng vòng quanh mai rùa trên mặt đất. Có ánh sáng chiếu vào, cho thấy bên ngoài trời đã sáng.
Không chỉ có ánh sáng trời, mà ở hai bên lối đi trong đại điện còn có hai dãy dài những đĩa đèn đang cháy sáng. Còn nữa, ở chính giữa lối đi, cứ cách hai mươi bước lại đặt một vạc lửa, ngọn lửa trong vạc nhảy nhót không ngừng.
Vạc lửa và đĩa đèn đều có hình dạng giống chiếc liễn bụng phình. Bên dưới vạc lửa là đế chân quỳ, bên dưới đĩa đèn là giá ba chân tạo hình dây leo, chân đỡ được cố định trên mặt đất, có vẻ chắc chắn vô cùng. Tất cả đều được chế tác bằng đồng, bề mặt sáng bóng toả ánh vàng lấp lánh. Song kỳ lạ là ở chỗ không biết chúng được bày ở đây từ lúc nào? Bởi lẽ dù là do tiền bối đời nào sắp đặt, chúng cũng không thể sáng bóng như mới thế này, trừ phi có người thường xuyên lau chùi đánh cọ.
Hơn nữa, các đĩa đèn và vạc lửa tại sao lại cháy được? Dù là con người thắp lên hay tự nhiên bốc cháy, đều phải có một lượng dưỡng khí lớn tràn vào đây, phá vỡ môi trường vốn rất nghèo dưỡng khí nơỉ này. Nhưng dù là nguyên nhân gì đi nữa, chắc chắn đã có người tiến vào gian điện.
Nếu đây vẫn là khảm diện do tổ tiên Lỗ gia thiết kế thì còn có thể đánh liều mà tiến lên. Nhưng đã có người khác xông vào, khảm diện ban đầu rất có thể đã thay đổi, khảm diện mới có lẽ đã bày xong, con đường phía trước càng trở nên nguy hiểm khó lường. Bởi vậy Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa đã đứng lại trước cửa gian điện không dám bước tiếp, thận trọng quan sát kỹ lưỡng không gian bên trong.
Đại điện quả thực rất rộng lớn, có hình chữ nhật kéo dài giống hệt như những gì Thuỷ Băng Hoa đã phán đoán khi còn ở trên mặt đất. Tuy rằng có đèn chiếu sáng, song nhìn sâu vào trong vẫn rất tối tăm, không thể nhìn đến tận cùng.
Đường đi trong đại điện rất bằng phẳng. Lỗ Nhất Khí quan sát kỹ lưỡng một hồi, liền phát hiện ra đó chính là mặt đá núi tự nhiên nguyên khối. Người ta đã tạc thành các đường ngang dọc trên bề mặt, nên thoạt nhìn chẳng khác gì lát đá. Từ đó có thể phán đoán rằng, nền móng của đại diện chính là cả khối núi đá, gian điện được xây theo thủ pháp “đào lỗ dựng cột”.
Trên điện không có rường xà, nóc điện khum khum nhô lên phía trên, rất giống mai rùa. Trong “Ban kinh” cũng có viết về kỹ pháp này, bởi vậy Lỗ Nhất Khí không cảm thấy quá kinh ngạc. Vì không có xà nên đại điện mới phải lợp bằng ngói gỗ lục lăng, chỉ có hình dạng này các viên ngói mới có thể chống đỡ lẫn nhau, hơn nữa lực tác động cũng sẽ được phân chia đều đặn. Sau khi nóc nhà đã lợp xong, sẽ để lại những mép hình tam giác bên rìa có tác dụng chống đỡ rất tốt đối với lực đạo toả ra bốn phía của mái ngói. Nếu cậu đoán không lầm, thì chính giữa nóc đại điện còn có một khoảng trống hình lục lăng, đây chính là mặt chống đỡ của lực đạo hướng vào giữa sau khi mặt ngói được lợp xong.
- Điện không xà không hiên! – Thuỷ Băng Hoa nói nhỏ một câu.
- Chính xác hơn phải gọi là điện không xà không sống không hiên, kiến trúc này thường gặp trước thời Tam Quốc, đa phần là kết cấu gỗ, bởi lẽ kết cấu ngói đất nung có trọng lượng quá lớn. Ở đây dùng ngói gỗ hoá thạch, còn cứng hơn cả ngói đất nung, song trọng lượng lại nhẹ hơn rất nhiều. – Lỗ Nhất Khí nói.
Thứ cần tìm chắc chắn ở trong đại điện này! Chúng ta có vào không?
- Vào chứ! Nhưng vào thế nào đây? – Lỗ Nhất Khí nói rất đúng, ám cấu đã vào đến đây, cho dù do tổ tiên Lỗ gia để lại, hay là cao thủ của đối thủ bày ra, e rằng đều là khảm nút tất chết.
Trong lúc hai người còn đang chần chừ do dự, thì từ phía sau vạc lửa đầu tiên trên lối đi bỗng vang lên những tiếng “gừ gừ” kỳ quái, khiến Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa đều giật bắn mình. Tiếng kêu đứt quãng kéo dài một lúc thì chấm dứt. Tim Lỗ Nhất Khí nhảy loạn trong lồng ngực, song mặt vẫn không biến sắc. Cậu ra hiệu cho Thuỷ Băng Hoa đứng yên ở đó, còn mình bước chậm rãi vào trong.
Thuỷ Băng Hoa không chịu đứng lại, tuy vẻ mặt của cô ta hoang mang cực độ, song vẫn bám sát sau lưng Lỗ Nhất Khí.
Lỗ Nhất Khí quay người lại nhìn Thuỷ Băng Hoa, nhưng không ngăn cô ta lại, chỉ thầm nghĩ bụng: “Cồ ả này thật lạ, chẳng lẽ không sợ mùi khai rình trên người mình hay sao?”.
Phía sau vạc lửa là một con sói đang giãy chết, tuy đôi mắt vẫn quắc lên những ánh lạnh lẽo hung hãn, song đã nhanh chóng tối dần. Không biết đây có phải là con sói bị giam cùng họ trong ống bễ hay không, song nó chắc chắn không phải bị thương vì sức ép trong ống bễ. Trên người nó có tới mấy chục vết thương đẫm máu, cả cơ thể gần như bị ngâm trong vũng máu đỏ bầm.
Phía trước vẫn còn vết máu, chứng tỏ có người hoặc con vật bị thương đã đi qua. Nơi mà người hoặc động vật có thể đi qua hẳn không có khảm diện. Thế là Lỗ Nhất Khí dẫn Thuỷ Băng Hoa thận trọng bám theo vết máu tiến vào bên trong.
Nơi kết thúc của vệt máu lại là xác một con sói khác, thân thể của nó như một đoá hoa đỏ nở xoè, với tầng tầng lớp lớp các vết thương khủng khiếp, có lẽ là bị ai đó đâm chém tơi bời chỉ trong nháy mắt. Nếu không, với sự lanh lẹ và xảo quyệt của loài sói, chỉ cần bị ăn một nhát dao, vẫn có thể mau chóng chạy thoát.
Tiếp theo không còn vết máu nào nữa, chỉ có nền đá sạch bong, đến một mảy bụi cũng không có. Thật khó mà tưởng tượng, một đại điện đã tồn tại hơn hai nghìn năm mà trên nền diện lại không vương chút đất bụi, chẳng lẽ quả thực có người tới đây quét dọn hàng ngày?
Cách con sói chết hơn chục bước về bên trái còn có một thứ nữa. Đó là một thây người, một cái xác mang trang phục đen kín mít. Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa đều không tỏ vẻ kinh sợ. Ở những nơi như thế này, xuất hiện xác người còn bình thường hơn là xuất hiện xác sói.
Lỗ Nhất Khí từ từ tiến về phía đó. Kẻ này chết rất quái dị, thất khiếu trào máu, con ngươi lồi hẳn ra ngoài, cơ thể hơi biến dạng song không thấy có vết thương, thân dưới máu chảy thành vũng lớn.
- Kẻ này có lẽ trúng độc mà chết! – Thuỷ Băng Hoa đã từng chứng kiến người chết vì trúng độc. Một số thợ rừng bị lạc trong núi ăn phải nấm độc, bộ dạng khi chết cũng y hệt thế này.
- Cũng có thể là bị ép chết! – Lỗ Nhất Khi chọc chọc nòng súng vào cái xác, thấy mềm nhũn như bông, dường như toàn bộ xương cốt đều đã nát bấy.
Hiển nhiên giả thuyết của Lỗ Nhất Khí thiếu hợp lý hơn. Gian đại điên rộng thênh thang lại trống trải nhường này, chẳng có thứ gì có thể tạo thành khảm kẹp (khảm diện hai bên kẹp lại) hay khảm dập (khảm diện có vật nặng đập xuống) để ép chết người, trừ phi người này đã bị ép chết ở nơi khác rồi lôi thi thể tới đây. Song có cần thiết phải cầu kỳ như thế hay không?
Đứng vào lúc này, một cơn gió quái dị ập tới từ phía sau Lỗ Nhất Khí, thổi sát nền điện, xoáy tít như lốc, khiến lửa trong các đĩa đèn chao đảo ngả nghiêng. Lực đạo của trận gió xoáy cực mạnh, cả xác người lẫn xác sói đều bị thổi bạt về phía trước. Gió thổi tới cuốn theo cát bụi, đập rào rào vào vạc lửa và đĩa đèn phát ra những tiếng ken két nghe sởn tóc gáy.
Xác người và xác sói mau chóng mất hút trong bóng tối cuối đại điện. Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa bám chặt vào nhau, gồng mình chống đỡ trước cơn gió dữ dội, song chân họ vẫn bị đẩy trượt đi. Lỗ Nhất Khí không biết trận cuồng phong sẽ thổi họ tới nơi nào, liệu có khảm diện khủng khiếp gì đang chờ họ phía trước? Song cơn lốc cùng với đám bụi cát mà nó cuốn theo cũng đã giải thích cho cậu biết tại sao nền điện lại sạch sẽ đến vậy, vạc lửa và đĩa đèn tại sao lại sáng bóng đến thế.
Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa đều không biết võ công, bởi vậy đã trở nên vô cùng yếu ớt thảm thương trong cơn gió lốc. Sau khi bị thổi trượt đi đến vài bước, họ đã không thể trụ vững, chao đảo ngả nghiêng một chốc, rồi ngã dúi dụi trên lối đi của đại điện.
Vào đúng khoảnh khắc họ ngã xuống, có hai bóng đen to lớn cùng lúc xồ ra từ hai bên lối đi, đập thẳng cánh vào nhau sát sạt bên cạnh Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa lúc này đang nằm bò trên nền điện. Một tiếng “rầm” dữ dội vang lên, kèm theo một chấn động cực mạnh khiến Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa gần như nảy bật lên khỏi nền đá. Gió thốc ra từ cú va đập quét qua mặt họ đau rát.
Sau cú va đập dữ dội, từ hai bóng đen bắn ra vô số mảnh vụn rơi đầy trên đầu và mặt Lỗ Nhất Khí. Là vụn gỗ! Thì ra hai bóng đen chính là hai khúc gỗ rất lớn trông giống hệt như vách tường, còn cái xác vừa nãy đúng là bị đập bẹp mà chết. Hai khối gỗ khổng lồ hai phía đập thẳng lại, khác nào hai bàn tay to khoe vố chết con muỗi nhép. Lỗ Nhất Khí thầm cảm tạ vận may nếu cậu và Thuỷ Băng Hoa không ngã nhào vào đúng lúc đó, thì giờ đây họ cũng đã biến thành hai cái thây ma xương cốt nát nhừ, nội tạng vỡ bung rồi.
Sau khi đập mạnh vào nhau, hai khối gỗ liền nảy trở lại, nhanh chóng biến mất tăm vào khoảng tối hai bên đại điện. Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa vẫn nằm sóng soài, cố gắng ép thật sát cơ thể xuống nền đá. Họ đã không còn đủ sức để kháng cự lại cơn gió lốc, tiếp tục bị thổi bạt về phía trước.
Họ trượt tiếp khoảng năm, sáu bước nữa thì dừng lại. Hai bàn tay họ nắm vào nhau thật chặt, giờ đã ướt nhèm trơn trượt vì mồ hôi.
Họ vẫn nằm bẹp trên nền điện, không dám đứng dậy. Trong gian đại điện thênh thang nhường này, khảm diện gỗ đập chắc hẳn không chỉ có một đôi.
Xung quanh lại trở nên tĩnh lặng, chỉ còn tiếng lửa bập bùng.
Lỗ Nhất Khí giằng giật mãi mới rút được tay ra khỏi bàn tay bóp chặt như thể không muốn rời của Thuỷ Băng Hoa. Rút được tay ra rồi, việc đầu tiên là cậu mò mẫm xung quanh để tìm khẩu súng trường. Nhưng khi đã nắm được khẩu súng trong tay, cậu chợt cảm thấy mình thật nực cười. Với một khảm diện như thế này thì súng có tác dụng gì kia chứ?
Dù súng có tác dụng hay không, người cũng không thể cứ nằm bẹp mãi như vậy.
Lỗ Nhất Khí từ từ lật người, nằm sấp trên mặt đất, mắt nhìn chằm chằm vào một vạc lửa phía trước. Độ cao của khối gỗ vừa nãy thấp hơn vạc lửa, vậy thì vị trí của nó chắc hẳn sẽ phải tránh khỏi vạc lửa.
- Bò tới bên cạnh vạc lửa sẽ an toàn! – Thuỷ Băng Hoa không biết từ lúc nào cũng đã bò tới bên cạnh Lỗ Nhất Khí. Lời nói của cô ta không đầu không cuối, song Lỗ Nhất Khí vẫn hiểu cô ta muốn nói gì.
Thuỷ Băng Hoa đột nhiên dùng cả tay lẫn chân bò rất nhanh về phía vạc lửa.
Khảm diện này vẫn có liên quan với ống bễ và ba bông lúa ở phía trước, ý nghĩa lấy từ hình tượng nhân vật trong tranh gỗ “Mừng bội thu”. Nhân vật trong tranh đa phần ở trong tư thế vỗ tay nhảy múa, thuật ngữ trong ngành gọi là “vui vỗ tay”, bởi vậy khảm diện vừa rồi cũng là do tổ tiên Lỗ gia để lại. Nếu Thuỷ Băng Hoa hiểu rõ khảm diện này, chứng tỏ cô ta có mối quan hệ rất mật thiết với hậu duệ Lỗ gia bảo vê báu vật ở nơi đây. Nếu cô ta không hiểu gì về khảm diện này, song vẫn liều mạng lên trước dò đường, cho thấy cô ta rất quan tâm đến Lỗ Nhất Khí. Bởi vậy, dù lập trường của cô ta thế nào, cô ta hẳn cũng không phải là người của đối thủ.
Không đợi Thuỷ Băng Hoa bò tới bên vạc lửa, Lỗ Nhất Khí cũng vội bò theo. Khi cô ta dừng lại bên vạc lửa, quay đầu lại vẫy tay với cậu, thì cậu đã bò đươc một nửa đường.
Họ đã bò được một đoạn khá dài, song lại không thấy có thêm khảm nút nào hoạt động, vậy thì khảm diện vừa rồi được điều khiển bằng thứ cơ quát gì? Lối đi trong đại điện rất bằng phẳng, Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa không hề vấp phải dây, động phải lẫy, liệu có phải họ đã giẫm lên thứ gì không? Cũng không thể, nền điện là cả khối núi đá, không thể đặt nút lẫy kiểu giẫm được. Có lẽ là ở phía trên chăng? Nhiều khả năng nhất chính là thân người đã ngăn cản đường gió thổi, khiến cho một bộ phận nào đó chịu lực không đều dẫn đến cơ quan khởi động.
Phán đoán này đã khiến Lỗ Nhất Khí quyết định đưa ra một hành động liều lĩnh. Hiện giờ gió đã ngừng thổi, cơ quát hẳn cũng không thể hoạt động. Thế là cậu tự tin đứng bật dậy, tiếp tục tiến về phía trước.
Để đề phòng bất trắc, Lỗ Nhất Khí đã gắng sức nâng cao khả năng cảm nhận, song đối với dạng khảm diện cơ quát như thế này, cảm giác siêu phàm của cậu cũng không thể phát huy tác dụng, chỉ có thể dựa vào thị giác để tìm kiếm cơ quát.
Quá trình tìm kiếm cơ quát cũng là quá trình tìm kiếm những chỗ hổng trong mạch suy nghĩ của bản thân.
Một sai lầm trí mạng! Một sơ suất trí mạng!
Nền móng của đại điện không hẳn là một khối đá nguyên vẹn! Vẫn có thể có khe nứt, hoặc lỗ, hốc. Hơn nữa, cho dù vốn là một khối chỉnh thể, khi xây đại điện vẫn có thể đào lỗ dựng cột, thì tại sao lại không thể đào lỗ bố trí nút lẫy cơ quát? Còn những vạch khắc trên mặt đá khiến cả khối đá liền tấm trông giống hệt như nhiều viên gạch nhỏ ghép thành, liệu có cần thiết phải như vậy không? Chắc chắn đây là một hiện tượng giả, một mồi nhử, một màn che mắt. Thậm chí hai khối gỗ to lớn vừa rồi cũng rất có thể chỉ là màn che mắt, là khúc dạo đầu, còn nút chết thực sự vẫn đang ở phía sau.
Lỗ Nhất Khí đã nhận ra, song muộn mất rồi! Cậu còn chưa kịp rụt ngón chân lại, mặt lối đi bỗng nhiên sạt xuống một mảng lớn, hai chân cậu đột nhiên bị hẫng lơ lửng trên không.
Lỗ Nhất Khí đã không thoát khỏi phạm vi của cái phễu khổng lồ, cả thân người rơi tuột ngay xuống. Còn Thuỷ Băng Hoa vừa hay đứng ngay miệng phễu nên vô thức dang tay ra theo phản xạ để giữ cho cơ thể thăng bằng. Song chỉ một khoảnh khắc sau, đúng lúc cô ta đã gần như đứng vững được, thì cô ta lại đột nhiên bỏ cuộc, buông xuôi thân người trượt xuống miệng phễu theo Lỗ Nhất Khí.
Nền đá chỉ phát ra một tiếng vang khe khẽ, sau đó lập tức khôi phục lại trạng thái ban đầu, như thể chưa hề có chuyện gì xảy ra. Ánh lửa trong các đĩa đèn và vạc lửa dần dần trở nên yếu ớt.
Lỗ Nhất Khí không biết đã ở dưới mặt đất bao lâu. Cậu vẫn chìm trong giấc mơ. Trong cơn mơ, quá trình rơi xuống vừa rồi cứ liên tục lặp đi lặp lại: trượt xuống rơi xuống, đâm bật toang cánh cửa; lại trượt xuống, rơi xuống, đâm xoay ván lật…
Khi tỉnh dậy, cậu thấy khuôn mặt mình ướt đẫm, mát lạnh. Mới đầu cậu ngỡ là máu, sau đó, từ bên trên nhỏ xuống một giọt nước, cậu mới mới biết rằng nhờ những giọt nước này nên cậu mới tỉnh dậy được. Cảm giác và trí nhớ dần dần hồi phục, và cậu bắt đầu cảm thấy toàn thân đau nhức như dần.
Lỗ Nhất Khí mò được khẩu súng trường ở ngay bên cạnh, song chốt an toàn đã rơi mất, khiến nó giờ đây chẳng khác gì que sắt cời lửa.
Đụng phải một thứ gì mềm như bông, Lỗ Nhất Khí giật mình toát mồ hôi lạnh, song cậu lập tức nhận ra đó là Thuỷ Băng Hoa, vì tay cậu đã chạm vào miếng da kỳ quái ở trên quần của cô ta. Hơi thở của cô ta vẫn đều đều, chắc là không sao. Thế là cậu bắt đầu mò mẫm rộng ra xung quanh.
Ngoài Thuỷ Băng Hoa, cậu không mò thấy bất cứ vật sống nào khác. Cậu bèn lôi viên đá huỳnh quang Ba Tư ra để soi cho rõ.
Đây là một gian ám thất phong kín hoàn toàn, diện tích không rộng, nền đất phân thành hai tầng cao thấp rõ ràng, Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa đang ở tầng trên, còn tầng dưới thấp hơn tầng trên khoảng hơn ba thước, có chứa nước. Tường xung quanh rất kiên cố, song không ngay ngắn phẳng phiu, bên trên phủ kia một lớp rêu dày. Trên vách tường còn có rất nhiều lỗ và khe hở với đủ loại hình thù, tựa như mặt cắt của khối bột mì lên men.
Thuỷ Băng Hoa cũng dần dần tỉnh lại. Cô ta nhìn thấy Lỗ Nhất Khí đang chăm chú quan sát xung quanh thì chưa vội bò dậy, vẫn nằm bẹp tại chỗ, chỉ hỏi khẽ một câu:
- Đây là đâu?
- Không biết! Có vẻ giống như nút cuối*.
- Tìm ra chốt lẫy chưa? – Thuỷ Băng Hoa lại hỏi.
- Có lẽ là trên nóc, mà hình như là nút phong một mặt! – Khi nói ra lời này, Lỗ Nhất Khí cảm thấy rất lo lắng, không biết Thuỷ Băng Hoa liệu có chịu đựng nổi sự thực này không. Phong một mặt thực chất là loại cửa xoay một hướng, chỉ có thể mở ra từ một mặt, vì tất cả cơ quát điều khiển đều được đặt ở phía mặt có thể mở ra. Bởi vậy những người sa vào trong nút này sẽ không bao giờ có được cơ hội phá giải nút lẫy.
* Là nút lẫy cuối cùng hoặc nút lẫy không thể tiếp tục hoạt động biến hoá thêm được nữa trong khảm diện.
Song phản ứng của Thuỷ Băng Hoa lại điềm tĩnh đến không ngờ:
- Thôi kệ đi! Chuyến đi này là số mệnh an bài, sống hay chết không thể tự quyết được!

*

Chương 6.5 NÓNG LẠNH ĐỔI

Đương nhiên Lỗ Nhất Khí sẽ không chịu buông xuôi dễ dàng như vậy. Nghỉ ngơi một lát, cậu lại tiếp tục quan sát, tìm kiếm xung quanh ám thất. Cậu dùng báng súng nạy thử các khe hở, bám vào các lỗ thủng thử trèo lên trên, rồi dùng báng súng gõ, đẩy phần nóc. Nhưng kết quả vẫn là uổng công vô ích.
Không tìm ra chỗ khuyết. Vậy liệu có thể tìm ra chỗ khuyết từ những phương diện khác hay không? Nghĩ vậy, cậu lại tiếp tục quan sát tỉ mỉ chất liệu của bức tường. Bởi vì đây là nút cuối của khảm phong một mặt, nên sẽ không thể tiếp tục biến đổi khảm hình nữa. Khi bố trí khảm diện này, các vị tổ tiên vẫn chỉ là thợ mộc, chưa phải là khảm tử gia, nên khảm diện chắc hẳn sẽ không theo thuyết “nơi không có đường chính là đường chết”. Như vậy không biết có thể phá tường tìm đường thoát thân hay không?
Nhìn từ bề ngoài, chất liệu của bức tường trong ám thất cũng giống như tường vách của dãy nhà liền hình ba bông lúa. Lỗ Nhất Khí lấy một con dao găm từ chỗ Thuỷ Băng Hoa, đây là món vũ khí phòng thân mà cô ta luôn mang theo bên bắp chân, rồi cạo mạnh vào bên mép một lỗ hổng. Song cậu không thể cạo ra dù chi một chút mạt vụn. Cậu tiếp tục cạo bỏ một mảng rêu bám vốc nước rửa sạch mặt tường, thì phát hiện ra những đường vân trên mặt tường chính là vân gỗ.
Trước tiên, Lỗ Nhất Khí xác định được rằng chất gỗ của bức tường không giống như chất liệu gỗ hoá thạch của mái ngói lục lăng trên chính điện. Tuy gỗ hoá thạch rất cứng, song vẫn giòn hơn so với chất liệu ở đây. Cậu lập tức nhớ tới loại gỗ thần cương.
Gỗ thần cương có nhiều ở vùng đông bắc, trong “Yên bắc phong vật tạp ký”* đời Nguyên có chép: “Cây cao hơn một trăm trượng, chặt làm gỗ. Chặt rồi mới cứng, để càng lâu chất gỗ càng cứng”, có nghĩa là loài gỗ này tuy rất cao lớn, song không cứng lắm, chỉ sau khi chặt xuống mới bắt đầu cứng lên, thời gian càng lâu thì độ cứng càng cao. Xem ra chất gỗ ở đây chính là loại gỗ thần cương.
* Là tác phẩm của Lý Thuận Lễ (Lee Soon-Lye) người Triều Tiên đời Nguyên, chủ yếu ghi chép những truyền thuyết thần kỳ và nhân vật sự kiện ở vùng phía bắc nước Yên cổ đại. Do có sự cách bỉệt về địa lý nên sách này còn lại rất ít, từ trước giảỉ phóng đã rất hiếm thấy bản gốc.
Nếu bức tường bằng gỗ thần cương ở đây được các bậc tiền bối tạo ra từ hơn hai nghìn năm về trước thì giờ đây hẳn đã cứng rắn đến nỗi có dùng lựu đạn nhét vào khe hở hay lỗ thủng cũng chưa chắc đã làm sứt mẻ được bao nhiêu.
- Nghỉ một lát đi!
Ánh mắt của Thuỷ Băng Hoa nãy tới giờ vẫn theo sát mọi hành động của Lỗ Nhất Khí. Lúc này, thấy Lỗ Nhất Khí đứng thần ra ở đó, cô ta mới nói khẽ một câu. Câu nói này dường như đã thức tỉnh nỗi mệt mỏi trong cơ thể cậu. Suốt mấy ngày lao tâm lao lực không ngừng đến giờ cậu đã thực sự khó mà trụ nổi.
Lỗ Nhất Khí buông mình ngồi phịch xuống bên cạnh Thuỷ Băng Hoa, đưa ánh mắt mệt mỏi nhìn về phía cô. Thuỷ Băng Hoa không để ý tới ánh mắt của cậu, chỉ lấy một tấm khăn tay nhúng nước chậm rãi lau mặt và cổ.
Nhìn dáng vẻ mềm mại uyển chuyển của Thuỷ Băng Hoa, trong lòng Lỗ Nhất Khí bỗng dấy lên một niềm thương cảm, và còn một cảm xúc kỳ lạ khác nữa cũng bắt đầu manh nha trong tâm trí cậu.
Sau khi lau xong, Thuỷ Băng Hoa bèn ngồi xuống trước mặt Lỗ Nhất Khí, định giúp cậu lau sạch bụi bẩn và các vết trầy xước trên mặt. Khi bàn tay cô ta vừa chạm vào khuôn mặt Lỗ Nhất Khí, cậu giật nảy người lên một cái, song không hề tránh né, dường như cậu rất vui lòng đón nhận sự chăm sóc của cô ta.
Song những gì diễn ra sau đó quả là cực hình đối với Lỗ Nhất Khí. Trong lúc cánh tay Thuỷ Băng Hoa chuyển động, khuôn ngực đầy đặn của cô ta cũng nhấp nhô lên xuống ngay trước mắt cậu, khiến cậu bất giác khép chặt hai chân lại, hai bàn tay bấu chặt lấy hai đầu gối quần bông, đến nỗi vải quần tại đó rúm lại thành một nắm.
Lau xong, Thuỷ Băng Hoa khẽ thở dài một tiếng rồi quay vào một góc, ngồi dựa lưng vào tường, ngửa đầu thẫn thờ nhìn lên nóc trần ám thất.
Phải một lúc lâu sau, Lỗ Nhất Khí mới thả lỏng được cơ thể. Cậu chẳng thiết nói gì, buông người nằm vật trên nền đất, nhanh chóng ngủ thiếp đi.
Trong mơ, cậu lại quay trở về bến dòng sông lớn, bên tảng đá đen tuyền và rặng liễu phất phơ. Trên tảng đá vẫn là ba vị cổ nhân áo chùng tóc búi. Cậu muốn đi tới chỗ họ, song lại không thể nhúc nhích, vì đã bị một người phía sau giữ chặt. Cậu ngoảnh lại nhìn, hoá ra là Thuỷ Băng Hoa. Sương mù khởi lên, mỗi lúc một dày, cảnh tượng trước mắt mờ mịt dần trong sương khói. Cậu muốn kêu lên, song không thể cất nên lời. Cậu đã cuống quýt đến nỗi khắp người nóng ran. Mắt nhìn mọi thứ đang tan biến trong sương mù dày đặc, cậu dồn hết sức lực hét lên một tiếng xé họng.
Lỗ Nhất Khí choàng tỉnh từ trong tiếng hét, giật bắn mình bởi tiếng hét của chính mình. Ánh sáng toả ra từ viên đá huỳnh quang Ba Tư dã không còn rõ ràng như khi nãy, bởi lẽ giống hệt như trong giấc mơ của cậu, trong gian ám thất đã giăng kín một lớp sương mù ấm nóng. Cũng chính làn sương vây quanh đã khiến cậu có cảm giác nóng ran trong người. Trong ám thất còn có tiếng động lạ, vẳng đến từ tầng thấp hơn dưới nền ám thất, là tiếng róc rách của nước chảy.
Lỗ Nhất Khí bật ngay dậy, cầm lấy viên đá huỳnh quang thận trọng đi về phía bên kia ám thất. Mới đi được hai bước, thì Thuỷ Băng Hoa đã kéo giật cậu lại, y hệt như cảnh tượng trong mơ, khác chăng ở chỗ cô ta không bám chặt không buông.
Ở đó chẳng có gì, chỉ có vũng nước sâu hơn một thước đang bắt đầu lưu chuyển. Liệu trong nước có thứ gì kỳ quái? Không thể biết được!
Thuỷ Băng Hoa thấy Lỗ Nhất Khí im lặng hồi lâu không có động tĩnh gì thì bước lại bên cậu. Nhìn thấy vũng nước chảy, cô ta thở phào mà nói:
- Dưới mặt nước không có nút lẫy sống, mà có mạch nước ngầm! – Thuỷ Băng Hoa rất có kinh nghiệm về dòng nước chảy kiểu này, bởi lẽ vào mùa đông, tới bờ sông đập băng lấy nước, sau khi băng bị đập vỡ, dòng nước phía dưới mặt băng cũng thường có tình trạng tương tự.
- Nói như vậy thì hai bên vũng nước hẳn là có đường thông? – Lỗ Nhất Khí nói đoạn, không đợi Thuỷ Băng Hoa trả lời, đã nhảy ngay xuống nước.
Dưới mặt nước quả thật có mạch nước ngầm, hai bên vách tường cũng thực sự có đường nước ra vào. Có điều lỗ thông tuy rộng hơn hai thước, song lại chỉ cao bằng bàn tay, không đủ cho người bình thường chui qua.
Mặc dù không thể chui qua đường nước chảy, song Lỗ Nhất Khí vẫn chưa vội lên ngay, mà tiếp tục mò mẫm quan sát kỹ lưỡng hai bên vũng nước, hy vọng có thể phát hiện ra điều gì đó hữu dụng.
- Mau lên đi! Nước dâng cao hơn nhiều rồi! Mặt nước cũng bốc sương mù rồi kìa! – Thuỷ Băng Hoa nói đúng, không những nước đã dâng cao mà sương mù cùng dày đặc thêm nhiều. Ban đầu, sương mù chỉ toả ra từ các khe nứt, lỗ hổng trên tường, nhưng giờ đây, ngay cả mặt nước cũng bốc sương mù nghi ngút. Mặt nước bốc sương mù mới chính là trọng điểm, câu nói của Thuỷ Băng Hoa đã khiến cậu đột nhiên phát giác nhiệt độ của nước đã biến đổi rõ rệt.
- Cậu có ngửi thấy không, trong sương mù có thứ mùi gì rất lạ? – Thuỷ Băng Hoa hỏi.
Quả đúng vậy. Thứ mùi này dường như cậu đã từng ngửi thấy trước đó. Chinh là lúc Thuỷ Băng Hoa lau mặt cho cậu, trên mảnh khăn ướt cũng có mùi này. Mảnh khăn là của cô ta, vậy thì thứ mùi đó chỉ có thể xuất hiện trong nước.
- Mùi vị này hình như hơi cay mũi! – Thuỷ Băng Hoa nói.
Những hiện tượng này Lỗ Nhất Khí đều đã cảm nhận được, song đó vẫn chưa phải là điều cậu lo lắng nhất. Điều đáng sợ hơn cả chính là nước vẫn đang tiếp tục dâng cao, và nhiệt độ của nước cũng tăng lên một cách mau chóng.
- Cậu có nóng không? Tôi thấy nóng chết đi được! – Thuỷ Băng Hoa vừa nói, vừa cởi áo bông ra. Lỗ Nhất Khí không trả lời, song cậu cũng bắt đầu cởi bỏ áo ngoài.
Sương mù phun ra phì phì từ các kẽ nứt trên tường không những dày đặc mà còn nóng bỏng, mặt nước cũng bắt đầu sủi lên lục bục.
- A! Hình như nước sôi rồi! Nếu nó dâng đến tận đây thì chúng ta biết làm thế nào? – Phát hiện của Thuỷ Băng Hoa cũng chính là điều Lỗ Nhất Khí đang lo lắng. Mặt nước đã dâng lên chỉ còn cách phần nền cao chưa đầy một thước, song vẫn không hề có dấu hiệu hạ xuống.
Mồ hôi đã ròng ròng trên mặt Lỗ Nhất Khí, không chỉ vì quá nóng, mà còn vì trong lòng cậu đang lo lắng vô cùng. Nếu nước cứ tiếp tục dâng lên, cả cậu và Thuỷ Băng Hoa đều sẽ bị luộc chín.
Nước không dâng lên nữa, mà bắt đầu sôi sùng sục, cuồn cuộn chảy qua trước mặt họ, hơi nước bốc lên nóng muốn lột da.
Sương mù phun ra qua khe nứt và lỗ hổng trên tường cũng vô cùng nóng bỏng, nhiệt độ không hề thua kém so với hơi nước bốc lên từ dòng nước sôi sùng sục bên nửa còn lại của ám thất.
Hơi nước bỏng rát và mồ hôi mặn chát khiến cho mắt họ cay xè. Thuỷ Băng Hoa đã trút hết quần áo ngoài, trên mình chỉ còn độc chiếc yếm màu hồng và manh quần cộc. Hơi nước và mồ hồi đã khiến mảnh yếm lụa ướt đẫm, dán chặt vào da thịt, nhìn thấy rõ hai núm tròn hằn lên trước ngực. Cô ta nằm cuộn tròn trên nền đất, hy vọng mặt đất sẽ mang lại chút hơi mát cho cơ thể. Trên người Lỗ Nhất Khí cũng chỉ còn lại một chiếc quần lót rộng màu trắng, hơi nước và mồ hôi cũng đã khiến manh quần giờ đây có cũng như không.
Đã không còn chỗ nào để náu mình, đến mặt đất cũng bắt đầu nóng giãy, toàn bộ gian ám thất đã trở thành một chiếc nồi hấp khổng lồ.
Vào đúng lúc đó, dưới con dốc ba khúc mà họ đã đi qua, trên đầm băng cứng, có một bóng người quái dị đang đâm từng cây kim dài đuôi đỏ vào một số thi thể còn mới, sau đó đốt một đạo bùa, miệng lầm rầm niệm chú. Cùng với tiếng tụng niệm mỗi lúc một vang, những cỗ xác bắt đầu động cựa, quẫy đạp, đẩy bật những khối băng dang đè trên cơ thể, lật tung lớp băng đang phong kín thân mình, đập vỡ những nhũ băng nhọn hoắt đang xuyên qua xác thịt, lần lượt đứng bật dậy với đủ mọi tư thế kỳ quặc quái đản, rồi bắt đầu bước đi. Một đám thi thể tả tơi lại có thể cất bước mà đi, không hề chậm chạp, tiến thẳng về phía lối vào thung lũng. Bọn chúng không phải là hồn ma, bọn chúng chỉ là công cụ, là vũ khí. Đây là thi khảm** trong truyền thuyết – thuật ngự thi (điều khiển xác chết).
** Tức sử dụng xác chết làm thành cạm bẫy. (Nd)
Cũng cùng lúc đó, một tiếng súng đanh sắc xé tai và một tiếng súng hoả mai nặng trịch đồng thời vang lên tại lối vào thung lũng.
Tiếng súng vừa vang lên, bầy sói liền thình lình hành động, không hề chuẩn bị, cũng không tru lên lấy một tiếng. Đây là một bầy sói đã được huấn luyện kỹ lưỡng, cũng là bầy sói hung hãn và xảo quyệt hạng nhất. Mục tiêu tấn công của chúng chính là hai con gấu khổng lồ. Hai con gấu bắt đầu rống lên vì giận dữ, cũng vì đau đớn.
Bên dưới lòng đất có một đám người đang cuống cuồng bỏ chạy, phía sau là một đoàn người vung đao truy sát. Trong số những người bỏ chạy có lão mù, Quỷ Nhãn Tam, Nhậm Hoả Cuồng và Phó Lợi Khai. Còn những kẻ đang đuổi sát sau lưng, họ đều không quen biết. Có kẻ là đao thủ trong hội Minh tử tiêm đao, có kẻ là nút lẫy trong khảm diện Công tập vi, cũng có những kẻ họ chưa từng gặp mặt. Những kẻ mới xuất hiện còn lợi hại hơn nữa, tuy không cầm đao, chỉ dùng tay không, song toàn bộ cơ thể chúng hệt như một lưỡi đao sắc lạnh. Lão mù vừa giao thủ với chúng, chưa xuất được nửa chiêu, thì trên cơ thể đã thình lình bị rạch vài đường tứa máu. Dường như khắp người chúng đâu đâu cũng là đao nhọn, hơn nữa lại không thể nhận ra chúng xuất đao như thế nào. Còn may là bọn họ đang ở trong con đường hầm chật chội, còn may là trên tay Quỷ Nhãn Tam còn có cây Vũ Kim Cương giống như một tấm khiên lớn….
Lỗ Nhất Khí không biết mình đã ngất đi vì nóng từ lúc nào, song cậu biết mình đã bừng tỉnh vì giá lạnh. Khi cậu mở mắt ra, trong ám thất đã không còn một mảy sương mù, trên vách tường bao phủ một lớp sương trắng dày đặc. Thuỷ Băng Hoa vẫn cuộn tròn trên nền nhà, không biết là còn sống hay đã chết.
Lỗ Nhất Khí không kịp cả mặc quần áo, vội vàng bò tới bên cạnh Thuỷ Băng Hoa. Cô ta vẫn chưa chết, đang rên rỉ khe khẽ, rồi bất giác ôm chầm lấy Lỗ Nhất Khí. Cô ta vẫn chưa hoàn toàn tình lại, song trong lúc hôn mê cô ta vẫn cảm thấy lạnh thấu xương.
Một đôi nam nữ gần như hoàn toàn loã thể ôm chặt lấy nhau, chỉ là để truyền cho nhau ít nhiều hơi ấm. Lỗ Nhất Khí một tay ôm lấy Thuỷ Băng Hoa, tay kia nhặt đám quần áo vương vãì trên nền đất, quấn nháo nhào lên người cho Thuỷ Băng Hoa và cho chính cậu.
Nhiệt độ trong ám thất tiếp tục sụt xuống nhanh chóng, cũng tựa như tốc độ tăng lên trước khi họ hôn mê. Luồng khí nhanh chóng phụt qua các khe nứt và lỗ hổng trên tường, phát ra những tiếng “ù ù” nặng nề. Lỗ Nhất Khí thậm chí đã nhìn thấy sương trắng từ từ ngưng tụ thành băng bám trên tường, tiếng nước chảy phía nửa bên kia của ám thất cũng chậm lại thấy rõ, trong tiếng nước róc rách dường như đã xen lẫn tiếng các mảnh băng va đập lanh canh.
Thuỷ Băng Hoa cũng mau chóng tỉnh lại, song cơ thể vẫn chưa hết tê cứng. Lỗ Nhất Khí cũng vậy, các đầu ngón tay của cậu đã cứng đờ tới mức không giữ nổi quần áo. Trước tình trạng này, người đàn bà vốn đã nhiều năm sinh sống trong rừng già Đông Bắc đương nhiên sẽ giàu kinh nghiệm hơn. Cô ta ngồi phắt dậy, dùng hai lòng bàn tay chà xát lên khắp người Lỗ Nhất Khí.
Động tác của Thuỷ Băng Hoa mới đầu còn chậm chạp, vì hai tay cô ta cũng đã lạnh tới tê cứng. Đến khi lòng bàn tay đã dược chà xát nóng lên, động tác của cô ta cũng trở nên thoăn thoắt. Cô ta mau chóng chà xát khắp người Lỗ Nhất Khí, từ cánh tay, lồng ngực, sau lưng cho tới hai chân. Lỗ Nhất Khí bắt đầu cảm thấy dễ chịu, không chỉ do cơ thể đã ấm lên, mà hình như còn vì những phản ứng tự nhiên khác trong cơ thể. Khi làn da khắp người cậu đã đỏ ửng và ấm nóng, Thuỷ Băng Hoa bèn giục cậu mặc quần áo vào.
Quả là một phương pháp hiệu nghiệm! Lỗ Nhất Khí chẳng nghĩ ngợi gì, cũng lập tức đưa tay ra chà xát lên người Thuỷ Băng Hoa. Thuỷ Băng Hoa chỉ ngồi im bất động, hai mắt khép hờ, kệ cho hai bàn tay Lỗ Nhất Khí chà xát khắp cơ thể. Nhiệt độ vẫn tiếp tục giảm xuống, song Lỗ Nhất Khí lại bắt đầu cảm thấy bên trong cơ thể như bùng lên một ngọn lửa rạo rực, đã châm lên thì khó bề dập tắt. Cậu vẫn tiếp tục kiên nhẫn làm ấm cho Thuỷ Băng Hoa, từ tay vai cho tới tận bàn chân, dù cậu đã thấy thấm mệt, mệt đến nỗi hơi thở bắt đầu hổn hển.
“Cách! Cách! Cách”
Một tràng những tiếng động khe khẽ vẳng lại. Lỗ Nhất Khí vội dừng tay, cảnh giác quan sát xung quanh.
Tiếng động cũng khiến Thuỷ Băng Hoa giật mình choàng tỉnh, và biết ngay mình phải làm gì. Nhân lúc cơ thể vẫn còn ấm nóng, cô ta vội vàng mặc hết quần áo lên người.
- Mặt nước đóng băng rồi! Mau! Mau đứng dậy vận động chân tay, đừng ngồi nữa, nếu không chúng ta sẽ chết cóng! – Thuỷ Băng Hoa vội giục giã Lỗ Nhất Khí. Tiếng mặt nước đóng băng như thế này, cô ta đã nghe không biết bao lần.
Trong ám thất, dưới ánh sáng lờ mờ toả ra từ viên đá huỳnh quang Ba Tư, hai người mũi miệng phả đầy khói trắng, lập cà lập cập chạy qua chạy lại. Cái bóng của họ run rẩy phản chiếu trên vách tường, lúc to lúc nhỏ, lúc lại vặn vẹo méo mó, trông vô cùng quái dị.
Tiếng chuyển động của luồng khí đã trở nên mơ hồ, lúc này Lỗ Nhất Khí chỉ nghe thấy tiếng thở phì phò của mình và tiếng mặt băng căng phồng nứt vỡ. Thuỷ Băng Hoa thò đầu ra nhìn, rồi vừa thở vừa run rẩy nói với Lỗ Nhất Khí:
-  Băng kết thành… nguyên một khối băng rồi! Không biết lúc nào… mới hết… lạnh đây!
Họ đều đã mệt rã rời, không thể chạy thêm được nữa. Song họ không thể dừng lại, dừng lại sẽ lập tức chết cóng. Bởi nhiệt độ vẫn tiếp tục sụt xuống, sương giá đã ngưng đọng đầy trên mặt họ.

*

 Chương 6.6 TRƯƠNG PHÁ HUYỆT

- Gắng lên! Đừng để… không bị nấu chín… lại bị chết cóng! – Lỗ Nhất Khí vừa thở hổn hển vừa thều thào, song cậu không biết mình và Thuỷ Băng Hoa có thể gắng gượng được bao lâu nữa.
Cuối cùng, Thuỷ Băng Hoa đã không còn đủ sức để vận động nữa. Cô ta loạng choạng hai bước tới trước mặt Lỗ Nhất Khí, vừa thở hổn hển, vừa nhìn Lỗ Nhất Khí với ánh mắt tràn đầy bất lực, tiếc nuối, tuyệt vọng và xen lẫn cả sự vỗ về an ủi. Lỗ Nhất Khí cũng dừng lại, cậu đã nhìn thấy ánh mắt lạ kỳ của Thuỷ Băng Hoa, và nhìn thấy hai giọt nước mắt trong suốt lăn ra từ khoé mắt. Song nước mắt còn chưa kịp lăn tới gò má, đã đông cứng lại trên khuôn mặt trắng nhợt.
Thuỷ Băng Hoa đổ người về phía trước, ôm chầm lấy Lỗ Nhất Khí. Cậu cũng vòng tay ôm lấy cô ta. Hai người ôm chặt lấy nhau, đứng im lìm bất động như pho tượng đá.
Không biết thời gian đã trôi qua bao lâu, xung quanh họ đột nhiên im ắng trở lại. Song chỉ một lát sau, từ khe tường bỗng có gió ấm thổi vào.
Hai giọt nước mắt đóng băng dưới mắt Thuỷ Băng Hoa lập tức tan ra, lăn xuống hai gò má, giọt xuống cổ Lỗ Nhất Khí. Nhiệt độ trong ám thất lại trở về trạng thái bình thường. Song chỉ là tạm thời. Họ hoàn toàn không biết rằng nơi đây nóng lạnh luân phiên, tuần hoàn không ngừng nghỉ.
- Giờ đây vẫn chưa đến lượt chúng ta chết! – Thuỷ Băng Hoa nói xong, liền buông tay khỏi Lỗ Nhất Khí, rút dao găm ra, đi tới bên vách tường, cạo xuống một mảng rêu ở đó.
Đúng vậy, vẫn còn những người khác, như Quỷ Nhản Tam, lão mù, Phó Lợi Khai… Họ đều là người thân, là anh em tốt của cậu, họ coi trọng mạng sống của cậu hơn cả chính mình. Nếu bây giờ cậu buông xuôi, không những có lỗi với bản thân mà còn có lỗi lớn với họ. Nhưng giờ đây họ đang ở đâu? Liệu họ có giống như cậu lúc này, sống không bằng chết, đang khắc khoải chờ cậu đến cứu? Bởi vậy cậu không thể chết! Cậu phải nghĩ cách thoát khỏi nơi đây, đi tìm những người anh em của mình, hoàn thành đại sự mà tổ tiên để lại. Nghĩ tới đây, ánh mắt Lỗ Nhất Khí sáng bừng, vẻ mặt lại toát lên vẻ kiên định và điềm tĩnh vốn có.
Thuỷ Băng Hoa đưa cho Lỗ Nhất Khí một mảng rêu, rồi nói:
- Ăn đi! Đây là nấm sợi rêu. Tuy trông giống rêu xanh, song kỳ thực chính là nấm. Ăn nhiều vào, rồi uống thêm một chút nước! Không biết sẽ bị kẹt trong đây bao lâu nữa, không ăn gì sẽ không thể trụ nổi!
Lúc này Lỗ Nhất Khí mới cảm thấy bụng đói cồn cào như dao cứa, lập tức cầm lấy mảng rêu, cho cả vào miệng nhai ngấu nghiến.
Mùi vị của nấm sợi rêu không quá khó ăn, chỉ hơi chát như cỏ. Lỗ Nhất Khí ăn liền vài mảng lớn, sau đó tới bên vũng nước vốc nước lên uống. Song mùi vị của nước khó uống hơn nấm sợi rêu rất nhiều, khiến cậu suýt sặc.
Ăn uống xong xuôi, hai người không ai nói câu nào. Lỗ Nhất Khí ngồi xếp bằng, song không thể định thần nổi. Thuỷ Băng Hoa nằm co quắp ở một góc nhà, mắt nhắm nghiền không biết đang suy nghĩ điều gì.
Càng lúc Lỗ Nhít Khí càng bứt rứt không thể ngồi yên. Rồi đột ngột, cậu tựa như phát điên, chạy bổ tới bên tường, cạy liền mấy mảng rêu, bỏ vào miệng nhai nuốt nhồm nhoàm.
Thuỷ Băng Hoa chau mày thót tim, song cô ta cũng không biết phải làm thế nào, chỉ biết cầu trời phù hộ.
Sương mù loáng thoáng bay vào trong ám thất, dòng nước cũng bắt dầu chảy đi chầm chậm. Nhiệt độ trong mật thất đang tăng dần. Lỗ Nhất Khí vừa đấm thùm thụp vào vách tường, vừa lảm nhảm như mê sảng:
- Nóng quá! Khó chịu quá! Ta phải thoát ra! Ta sẽ cho nổ tung chỗ này ra! Nổ tung chỗ này ra!
Thuỷ Băng Hoa giật mình kinh hãi, vội vàng chụp lấy chiếc túi vải có đựng lựu đạn của Lỗ Nhất Khí giấu ra sau lưng.
Ám thất càng lúc càng nóng nực, Lỗ Nhất Khí điên cuồng cởi bỏ quần áo vứt xuống nền nhà, miệng lầm bầm không ngớt:
- Ta sẽ cho nó nổ tung! Ta sẽ cho nó nổ tung! – Rồi quay người đi tìm chiếc túi.
Không thấy túi vải dâu nữa. Lỗ Nhất Khí quét mắt một vòng trong ám thất, rồi ánh mắt dừng lại trên người Thuỷ Băng Hoa.
Lỗ Nhất Khí lừ lừ bước lại gần, vung tay chụp lấy cánh tay Thuỷ Băng Hoa, lôi cô ta ra khỏi góc tường.
Thuỷ Báng Hoa tay đấm chân đá, chống cự quyết liệt. Cô ta biết cho nổ lựu đạn ở nơi này là hạ sách, chắc chắn sẽ hại đến bản thân.
Song cô ta làm sao có thể kháng cự nổi Lỗ Nhất Khí đang trong cơn điên loạn. Cậu đã giằng dược chiếc túi đựng lựu đạn, hằm hằm bước tới bèn tường. Thuý Băng Hoa lồm cồm bò dậy, nhặt ngay lấy khẩu súng trường vô dụng đang chỏng chơ dưới đất, giơ cao báng súng, giáng thẳng cánh xuống đầu Lỗ Nhất Khí. Lỗ Nhất Khí lập tức đổ gục xuống đất giống như thân cây bị đốn ngang.
Khi Lỗ Nhất Khí tỉnh lại, cậu thấy mình đang nằm trên nền nhà, gối đầu lên đùi Thuỷ Băng Hoa. Cô ta đang đưa đôi tay lạnh cóng và run rẩy chà xát trên cơ thể cậu. Đầu cậu đau như búa bổ, nỗi đau đớn khiến cậu nhớ lại hành động ngu xuẩn mà mình suýt nữa đã gây ra.
- Xem ra chúng ta phải chết trong hai tầng băng lửa này rồi… – Thuỷ Băng Hoa ngoảnh đầu sang một bên, đờ đẫn mà nói.
Tuy Lỗ Nhất Khí đã bình tĩnh hơn, đầu óc củng đã tỉnh táo trở lại, song cùng với động tác chà xát của đôi bàn tay trên da thịt, trong lòng cậu như có một ngọn lửa cháy bừng bừng không tài nào kiếm soát nổi. Nhìn bộ ngực căng tròn phập phồng dưới lớp yếm lụa trơn bóng, liên tục nhấp nhô theo cử động của đôi tay, ngọn lửa trong tâm càng trở nên dữ dội. Cậu đột ngột đưa tay lên giật phăng mảnh yếm mong manh trước ngực Thuỷ Băng Hoa.
Thuỷ Băng Hoa không hề tỏ vẻ ngạc nhiên hay giận dữ. Lúc này, Lỗ Nhất Khí đã trở nên cuồng loạn chẳng khác gì lúc muốn nổ tung bức tường khi nãy, lập tức bật người dậy, đè chặt lấy Thuỷ Băng Hoa. Rồi giống hệt như con bò tót trong trường đấu bò, cúi gằm đầu hùng hục lao thẳng vào.
Thuỷ Băng Hoa rú lên thảm thiết như xé gan xé ruột.
Bình yên rồi cũng đến sau mấy trận mây mưa, lúc này trong gian ám thất cũng đã hết lạnh giá. Lỗ Nhất Khí chui ra từ trong đống quần áo rối loạn, tiện tay nhặt lấy một tấm áo bông quấn vội lên người, rồi ngồi xuống bên tường, mắt dán vào vách, không dám nói gì, càng không dám nhìn Thuỷ Băng Hoa. Cậu cảm thấy vô cùng hổ thẹn và quái lạ, không hiểu tại sao mình đột nhiên lại trở nên thú tính như vậy. Lại còn người đàn bà cầm đầu ổ chứa kia, tại sao vẫn là trinh nữ?
Thuỷ Băng Hoa đang thu vén cho bản thân. Trên hai bắp đùi trắng nõn như tuyết của cô ta đỏ loang những máu, nhiều đến khó tưởng tượng. Cô ta nhúng tấm khăn bông xuống nước, cẩn thận lau chùi thật kỹ.
- Tôi vốn là thạch nữ, nên kết hôn mới được ba ngày, chồng tôi đã vứt bỏ tôi đi ra Quan Ngoại. Tôi đi tìm anh ta là muốn xoá bỏ hôn ước cho anh ta lấy vợ mới. Song tìm được đến đây, tôi mới biết anh ta vừa lên núi không lâu đã bị gỗ đổ đè chết. Tôi cảm thấy rất có lỗi với anh ta, cũng chẳng còn mặt mũi nào trở về gặp mặt người thân bên nhà chồng. Đang lúc băn khoăn không biết đi đâu về đâu, trời xui đất khiến thế nào lại gặp được một ông lão kỳ dị. Ông lão đã giúp tôi xem mệnh cho nửa đời còn lại, rồi bảo tôi hãy đợi ở dây để gặp một người của Lỗ gia đi tìm bảo vật. Người này chính là một con người đá, chỉ có người đá mới có thể phá giải mệnh thạch nữ.
Chính ông lão đã giúp tôi xây dựng Kim gia trại. Ông ta bảo tôi hãy lợi dụng bọn đàn bà trong trại để nghe ngóng, thu thập tất cả những thông tin có liên quan tới việc tìm kiếm báo bối và ám cấu nơi cất giấu bảo bối. Ông ta còn dạy tôi một số nguyên lý về phong thuỷ, khảm diện. Theo như lời ông ta thì truyền nhân Ban môn tại vùng đất này đã dung hoà một số học thuyết phong thuỷ đặc biệt vào trong kỹ thuật, vừa có thể theo hình mà xây dựng, theo hình mà bố trí, còn có thể mượn thuật đổi hình, mượn vật đổi hình. Song ông ta chưa từng nói cho tôì biết thân phận của mình.
Ngưng một lát, cô ta nói tiếp:
- Những thứ tôi học được chỉ là hời hợt bề ngoài, cũng chẳng mấy để tâm tới nhiệm vụ mà ông lão đã giao cho. Trong lòng tôi chỉ mong ngóng sớm gặp được người quyết đinh nửa đời sau của tôi.
- Người đá? – Lời nói của Thuỷ Băng Hoa đã gợi nên sự hiếu kỳ trong lòng Lỗ Nhất Khí, nên cậu bất giác nhắc lại.
- Ông lão có nói rằng, người đá mặt như đá núi, tim như lửa cháy. Người này tích tụ trong mình một năng lượng rất lớn, vào một thời khắc nào đó sẽ bùng nổ, phá giải được mệnh thạch nữ. Trong số những người tìm đến, tuy không chỉ có một mình cậu là truyền nhân của Lỗ gia, song tôi quan sát thấy cậu lúc nào cũng điềm nhiên như đá, không chút kinh động, song mỗi lời nói việc làm đều khác hẳn bình thường, nên đoán chắc rằng cậu chính là người tôi cần tìm. Lời đoán mệnh năm xưa quả nhiên đã chứng nghiệm. Cậu quả là lợi hại! – Mấy chữ cuối cùng của Thuỷ Băng Hoa tình tứ vô hạn, xuân ý tràn trề.
- Bởi lẽ thứ tôi vừa ăn không phải là nấm sợi rêu! – Lỗ Nhất Khí đang ngồi quay mặt vào bức vách đột nhiên kêu lên kinh ngạc – Chị lại đây xem này!
Thuỷ Băng Hoa cũng ngạc nhiên không kém, vội vã nhặt viên đá huỳnh quang Ba Tư lên chạy lại xem. Hai người châu đầu lại với nhau, cùng quan sát kỹ lưỡng một mảng nấm giống hệt rêu đóng rất dày trên tường.
Quả nhiên sau khi nhìn kỹ, mới thấy chúng có chỗ không giống. Loài thực vật này đứng là loài nấm, song chắc chắn không phải là nấm sợi rêu. Trên nấm sợi rêu đáng lẽ phải mọc chi chít những sợi lông nhọn màu nâu, còn trên loài nấm này lại mọc đầy những sợi lông nhỏ dầu tròn, trông giống như vô số bộ phận sinh dục đàn ông bé xíu.
- Bì thung dung! – Dường như Thuỷ Băng Hoa có biết thứ này.
- Chị nói là bì thung dung trong mười tám vị tiên dược ư?
- Tôi không biết có phải hay không, song nghe nói hơn mười năm trước, có người từng hái được nửa sớ*, bán được giá tiền ngang với ba cân sâm già. Nó là bảo bối cực phẩm trong tam bảo Quan Đông, có công hiệu gấp mấy chục lần so với thung dung bình thường.
* Sớ là đơn vị tính trọng lượng thường được sử dụng trong kỹ viện thời xưa. một sớ có kích thước bằng khoảng một quân bài tú lơ khơ.
Tương truyền xưa kia khi rồng trời và ngựa hoang giao hợp, tinh của rồng nhỏ xuống đất mà mọc thành thung dung, có tác dụng tráng dương bổ thận vô cùng kỳ điệu. Giống bì thung dung công hiệu còn mạnh gấp mấy chục lần thung dung bình thường, có thể tưởng tượng nó kỳ điệu đến thế nào.
Trong “Phương ngoại kỳ dược tam giai luận”** thời Nam Bắc triều có chép rằng, kỳ dược trên thế gian phân thành ba cấp độ, là thiên đan, tiên dược và thảo tinh. Bì thung dung được liệt vào trong mười tám vị tiên dược, đầu tiên được các đạo sĩ luyện đan trong cung đình dùng để luyện đan. Tương truyền sau khi luyện thành đan hoàn, nam giới ăn vào dương vật cứng như thép, có thể quan hệ liên tục với mười nữ mà không mềm không phóng tinh. Người đời sau không luyện đan nữa, có dược sư đã dùng lưu huỳnh để xông, sau đó sử đụng trực tiếp, song hiệu quả còn hơn cả đan hoàn.
** Đây kỳ thực không phải là một cuốn sách, mà chỉ là một bài viết khá dài. Về tác giả, có ý kiến cho rằng là quan Thái y Tư Mã Chỉ Căn, cùng có ý kiến cho là thầy thuốc dân gian Phùng Sĩ Thịnh. Tác phẩm này đã kết hợp nhiều loại truyền thuyết và điển tích về y dược để tiến hành phân tích và giải thích về các loại thảo dược kỳ lạ hiếm có. Đương nhiên trong đó cũng có một số nội dung sai lệch thiếu chính xác, song vẫn có không ít nội dung rất được Đông y coi trọng.
- Tôi biết rồi, bản thân bì thung dung đã là vị thuốc tráng dương, mà hơi nước và nước ở nơi đây đều có thứ mùi quái lạ, lúc trước chú Hạ có nói là mùi lưu huỳnh.
Lúc nãy khi ở dưới nước, tôi không hề cảm thấy nước nóng lên, có lẽ đã bị lựu huỳnh trong nước hun cho tê dại. Bì thung dung sinh trưởng ở đây không cần phải xông qua lưu huỳnh cũng đã là vị thuốc tráng dương rất mạnh, mà tôi còn uống thêm mấy ngụm nước chứa lưu huỳnh. Thảo nào…, tôi cứ nghĩ mình không thể làm chuyện sai lầm như thế… – Lỗ Nhất Khí nói rất thực thà, song cũng là để tìm ra lý do để biện hộ cho hành động của mình.
Thuỷ Băng Hoa liếc xéo Lỗ Nhất Khí với ánh mắt trách móc:
- Cậu nói vừa rồi cậu đã làm chuyện sai lầm?
- Phải… à, không phải… À phải! Không phải…
Thì ra Lỗ Nhất Khí cũng có lúc lóng ngóng cuống quýt. Thuỷ Băng Hoa không nhịn được bèn phì cười.
- Có điều cậu nói rất đúng. Tôi cũng từng nghe nói trước đây có người dùng bì thung dung chế biến xuân dược. Người địa phương gọi nó là “trương phá huyệt”.
Thế nhưng, cho dù bì thung dung là thứ thuốc gì, muốn sống sót vẫn cứ phải ăn. Tuy Lỗ Nhất Khí có định lực siêu phàm, nhưng ăn thêm hai ba lần nữa, vẫn kiềm chế không được mà lại lao vào cơ thể Thuỷ Băng Hoa.
Nhưng lần giao hợp thứ ba đã diễn ra trong lúc Lỗ Nhất Khí vẫn còn tỉnh táo. Có lẽ vì mới được nếm mùi hoan lạc của chuyện gái trai, cũng có lẽ vì muốn tận hưởng những thời khắc cuối cùng của cuộc đời, nên khi Thuỷ Băng Hoa vừa kín đáo gợi ý, hai người đã nhanh
chóng đi vào một cuộc giao hoan mỹ mãn đầu tiên, và rất có thể cũng là cuối cùng trong cả cuộc đời.
Một vòng nóng lạnh mới lại tiếp diễn, cả hai người đều cảm giác cái chết đã cận kề. Họ ôm chặt lấy nhau, co quắp trong một góc tường, gắng gượng duy trì chút hơi ấm đang mỗi lúc một nguội lạnh.
Thuỷ Băng Hoa không biết Lỗ Nhất Khí đang nghĩ gì, khó mà dò đoán được tâm tư của cậu qua vẻ mặt lúc nào cũng điềm nhiên tĩnh lặng. Song cô ta cảm thấy giờ đây Lỗ Nhất Khí đã là người đàn ông của mình, nên cần phải tìm cách khiến cậu cảm thấy vui vẻ, cho dù đã đi đến thời khắc cuối cùng của cuộc đời.
Thuỷ Băng Hoa cắn nhẹ vào vành tai của Lỗ Nhất Khí, khẽ nói:
- Cậu thật tuyệt vời! Với tôi, cậu chính là “trương phá huyệt” thực thụ!
Lỗ Nhất Khí đột nhiên hưng phấn lạ thường, vội đẩy Thuỷ Băng Hoa ra, đứng phắt dậy mà nói:
- Chị vừa nói gì? Chị nhắc lại xem nào!
Thuỷ Băng Hoa đã hiểu lầm nguyên do khiến Lỗ Nhất Khí trở nên hào hứng, bèn tình tứ nhìn Lỗ Nhất Khí, đôi mắt long lanh mà nói:
- Cậu chính là “trương phá huyệt” thực thụ!
- Phải rồi! Chúng ta cần phải “trương phá huyệt” cho nơi đây! – Lỗ Nhất Khí nắm chặt tay lại, đấm mạnh lên bức tường ám thất.
Kỳ thực, từ trước đó Lỗ Nhất Khí đã nghĩ rằng, bên dưới lòng đất chắc chắn có một hệ thống vô cùng đồ sộ và phức tạp, còn gian ám thất đang cầm chân họ chỉ là một mắt xích nhỏ trong cả hệ thống, một mắt xích có thể dùng làm nút lẫy. Dòng sông ngầm trong tầng nham thạch dưới lòng đất bị địa nhiệt nung nóng đến sôi sục, cứ cách một khoảng thời gian lại trào lên tuôn chảy, tương tự với nguyên lý phun trào gián đoạn của suối nước nóng. Nhưng khác ở chỗ, dòng sông ngầm tuần hoàn khép kín, nước ở bên trong không chảy ra ngoài, chỉ có hơi nước bốc lên, rồi trào ra ngoài qua các khe nứt, lỗ hổng trên vách núi, gặp lạnh liền ngưng tụ thành sương mù. Hơi nước nóng bên trong hệ thống sẽ khiến áp suất tăng cao. Khi áp suất bên trong đạt tới một mức độ nhất đinh sẽ đẩy bật một cửa van nào đó, mau chóng xả ra. Bản thân địa nhiệt vào lúc tạm dừng cũng sẽ khiến nhiệt độ sụt giảm, lại thêm áp suất tụt xuống nhanh chóng sẽ lập tức lấy đi rất nhiều nhiệt năng. Thực chất, đây chính là quy trình làm lạnh, khiến cho toàn bộ hệ thống chỉ trong một thời gian rất ngắn đã chuyển từ nóng nực ngột ngạt sang lạnh giá cực độ.
Trong trường Tây học, Lỗ Nhất Khí đã học được rằng, nước gần tới lúc đóng băng sẽ có thể tích nhỏ nhất, sau đó dù nhiệt độ tăng lên hay hạ xuống, thể tích của nước cũng tăng lên theo tỉ lệ nhất đinh. Trong quá trình tăng thể tích sẽ tiềm tàng một nguồn năng lượng lớn đến khó tưởng tượng, giống như là hạt giống nảy mầm.
Lỗ Nhất Khí dùng con dao găm của Thuỷ Băng Hoa cạo lấy một mảng bì thung dung thật lớn, rồi ép chặt, vê thành từng nắm. Cậu chọn lấy vài lỗ hổng và khe nứt trên vách tường bên phía dòng nước chảy đi, nhét bì thung dung vào trong, còn lấy nòng súng ấn vào thật chặt. Sau đó cậu đổ một ít nước vào, để bì thung dung ngấm nước trương lên, bịt kín những khe hở và lỗ hổng.
Khi các khe nứt và lỗ hổng bị bịt kín đều đã được đổ đầy nước, nhiệt độ nước đã hạ xuống rất thấp, trên mặt nước cũng bắt đầu đóng băng, Lỗ Nhất Khí trèo lên bờ, thấp thỏm chờ đợi điều kỳ diệu xảy ra.
Nhiệt độ sụt giảm nhanh chóng. Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa ôm chặt lấy nhau, nhưng hai mắt vẫn dán chặt vào vách tường, quan sát xem liệu có gì thay đổi.
Cuối cùng, vang lên một tiếng vỡ đanh giòn, trên bức tường xuất hiện một số kẽ nứt răng cưa không ngừng vươn dài, tựa như một hoạ sĩ tranh thuỷ mặc đang tô vẽ một cành mai khô gầy cứng cáp. Những tiếng rạn vỡ mỗi lúc thêm dồn dập, âm thanh giòn vang khoẻ khoắn, giống như một lực sĩ đang kéo mạnh dây cung.
Nước trong những vết nứt và lỗ hổng đều đóng thành khối băng, nở ra phía ngoài thành những khối hình bán cầu. Những đường rạn nứt kéo dài, ngang dọc đan xen, nối liền những vết nứt và lỗ hổng lại với nhau.
- Nứt rồi! Chị nhìn kìa, nứt cả rồi. Đợi đến lúc băng tan, toàn bộ sẽ vỡ vụn. Chỉ có điều không biết bức tường này dày bao nhiêu, cầu mong phía sau nó không phải là vách núi, nếu không cũng coi như xong! – Lỗ Nhất Khí nói trong run rẩy.
Một lát sau, ám thất lại ấm trở lại, băng tan nhanh chóng. Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa hợp sức đẩy tung những mảng gỗ thần cương đã nứt vỡ. Phía sau bức tường không phải là vách núi, mà là một đường hầm lát gạch.
Phía cuối đường hầm có một khe nối so le xây bằng gạch. Khe nối so le chính là chỗ nối tiếp giữa hai bức tường. Theo kỹ thuật được ghi chép trong “Ban kinh”, khe nối so le trên tường thường được thiết kế ở vị trí cách góc tường một viên gạch, như vậy vừa đảm bảo mỹ quan, lại có thể tăng cường độ kiên cố cho bức tường. Song khe nối ở đây lại được đặt ở chính giữa bức tường bít phía cuối đường hầm, đây là một sai lầm ngô nghê mà ngay cả một thợ mộc bình thường cũng không thể phạm phải. Vậy mà nó lại xuất hiện ở trong ám cấu do tổ tiên Lỗ gia để lại, nên chỉ có một khả nãng duy nhất: đây là một cánh cửa ngầm.
Kỳ thực lợi dụng khe nối để đặt cửa ngầm, nếu bố trí khéo sẽ rất khó phát hiện ra. Nó sẽ lợi dụng các viên gạch đặt cạnh nhau để quá độ từng bước, sau cùng chỉ chừa lại một viên gạch lệch vị trí. Viên gạch này có thể đặt ở trên cùng hoặc dưới cùng của tường, thậm chí có thể giấu ở trong đất.
Cửa ngầm đã được giấu ở phía dưới chân tường, bởi vậy chỉ cần phát hiện ra cửa ngầm, sẽ có thể dễ dàng mở ra. Vì đây là ám cấu do các bậc tổ tiên Lỗ gia thiết kế, phương pháp có biến hoá đến đâu cũng không lìa tông. Lỗ Nhất Khí đạp chân lên viên thứ ba, đầu gối đẩy viên thứ bảy, tay ấn vào viên thứ mười một, rồi dùng một tay đẩy ngang. Đây chính là chiêu pháp viết trong “Ban kinh”.