CHƯƠNG 5
LONG BÀN NGAO ĐÍNH
ĐƯỢC CỤC TƯỚNG NÀY SẼ ĐƯỢC THIÊN HẠ

     , hình như đây chính là “Thần ngao phụ đỉnh”! – Nhậm Hoả Cuồng kêu lên.
Không phải! Có lẽ là “Long bàn ngao đỉnh”. Lão Nhậm mới chỉ thấy bên dưới thung lũng địa thế bằng phẳng, ở giữa nhô lên, xung quanh lõm xuống, hình giống mai rùa; bốn xung quanh là vách núi, bốn góc là đỉnh núi, toàn bộ hình thành cách cục Ngao đỉnh. Nhưng mọi người hãy chú ý quan sát mà xem, thế núi xung quanh thung lũng lên xuống nhấp nhô, trập trùng không dứt, nổi lên từ cửa thung lũng, rồi lại quay về cửa thung lũng, giống hệt con rồng lớn cuộn tròn, rõ ràng là cách cục Bàn long. Hai cách cục này kết hợp với nhau, hẳn là cục tướng Long bàn ngao đỉnh! – Phó Lợi Khai phóng tay chỉ trỏ, nói thao thao đến mức nuớc bọt toé tung, bộ dạng vô cùng đắc ý.

*

Chương 5.1 LÂM THẾ TÚNG

Thuỷ Băng Hoa nét mặt lộ vẻ bối rối, nói:
- Đường mòn Sam Đỏ dài hàng trăm dặm, song lối vào nơi cần đến chỉ ở trên mười dặm đường đầu tiên. Nhưng lối vào ẩn trong rừng sam đỏ, không có dấu hiệu gì nhận biết, rất khó tìm ra.
- Chúng ta cứ đi từ từ về phía trước, mọi người hãy lưu ý đến tình hình hai bên đường, xem có chỗ nào đặc biệt hay không! Thằng khốn bị thương kia cũng đã chạy về phía trước rồi! – Nhậm Hoả Cuồng nói, lời lẽ tỏ rõ phong độ tiền bối.
Lúc này, Quỷ Nhãn Tam cảm thấy cần phải nói cho Lỗ Nhất Khí biết về mảnh da mà hắn đã phát hiện ra, không chừng Lỗ Nhất Khí sẽ cảm giác được điều gì. Mà cho dù không phát hiện được gì thêm, chí ít cũng giúp Lỗ Nhất Khí nhận ra người phụ nữ này không hề đơn giản.
- Bọn người kia ai dùng được hãy cho đi cùng, không thì bỏ đi! – Lão mù đã dấn lên trước mặt Quỷ Nhãn Tam, tới sau lưng Lỗ Nhất Khí, ghé miệng sát bên cổ cậu thì thầm.
Lỗ Nhất Khí còn chưa kịp hiểu hết ý của lão mù, đã bị Quỷ Nhãn Tam kéo xuống cuối đoàn người. Hai người bước chậm lại, cố gắng tách xa những người phía trước, rồi Quỷ Nhãn Tam thuật lại tỉ mỉ cho Lỗ Nhất Khí những gì hắn đã phát hiện được từ Thuỷ Băng Hoa.
Nghe xong, ve mat cua Lỗ Nhất Khí vẫn không hề biến sắc. Ngay từ đầu cậu đã cảm thấy Nhậm Hỏa Cuồng và Thủy Băng Hoa là khả nghi nhất. Giờ đây, sau một chặng đường dài, rất nhiều hiện tượng dường như đã chứng minh suy luận này là chính xác. Song Nhậm Hỏa Cuồng đã hy sinh mất nhân tình, lại còn tặng cậu bảo bối thiên thạch, nên trước mắt chỉ còn hai điểm đáng ngờ, đó là lén lút rắc tàn trò đánh dấu và không chịu nói cho mọi người biết ông ta đã bám theo tay nỏ bị thương bằng cách nào. Còn về Thủy Băng Hoa, cô ta có quá nhiều điểm đáng ngờ. Trước tiên, khi bắt đầu vụ giao dịch, cô ta khẳng định mình biết đường, song giờ đây lại nói là không biết. Lại them biểu tượng của phái Một tay trên người cô ta là thế nào đây? Một bà chủ ổ chứa, làm sao lại biết được nguyên lý “bố trí theo hình” của Khảm tử gia? Lại còn vật cứng đang giấu giếm dưới đế giày…
Có lẽ do không tìm thấy đường vào nên Thủy Băng Hoa cảm thấy ngại ngùng, chỉ im lặng mà không nói câu nào, đầu cúi thấp lầm lũi mà bước. Nhưng khi Lỗ Nhất Khí đi ngang qua chỗ cô ta, cô ta lai chủ động tiến sát phía cậu, rồi đột nhiên nắm chặt lấy bàn tay cậu.
- Lỗ Nhất Khí tuy ngoài mặt bình thản như không, song tim đập dồn đến loạn nhịp. Bàn tay Thủy Băng Hoa mềm ấm như bông, thoáng chút ẩm ướt êm mịn. Một cảm giác tê rần lan khắp lòng bàn tay, chạy thẳng đến ngực, chờn vờn quanh tim khiến buồng tim phát ngứa râm ran, gãi không tới, tránh không đi.
Quỷ Nhãn Tam đi sau cùng đang định rảo bước đến bên Lỗ Nhất Khí, hắn đã rất quen với vị trí đó, vì như vậy mới có thể bảo vệ Lỗ Nhất Khí bất cứ lúc nào.
Phó Lợi Khai bước phăng phăng, thần trí ngơ ngáo, chiếc cưa ngoại cỡ lắc lư trên vai, vừa hay chặn ngang đường tiến của Quỷ Nhãn Tam.
Thuỷ Băng Hoa đi sát vào Lỗ Nhất Khí, kéo lấy tay cậu áp lên cơ thể mình. Ngay dưới mu bàn tay cậu là làn da thịt phập phồng, căng tròn mà mềm mại, đang rung động khe khẽ theo nhịp chân bước. Trong người cậu từng cơn chấn động chạy khắp toàn thân, lúc lên lúc xuống, hơi thở bất giác trở nên gấp gáp.
Lỗ Nhất Khí định hất tay Thuỷ Băng Hoa ra, song cánh tay bủn rủn không thể giật ra nổi. Cậu bắt đầu lờ mờ nhận ra, không phải cậu không giật ra được, mà tự bàn tay cậu không nỡ rời đi. Cậu xấu hổ sợ người khác phát hiện ra, bèn ngoái đầu lại nhìn. Phía sau cậu còn có Phó Lợi Khai, Quỷ Nhãn Tam và lão mù. Lão mù chắc chắn không nhìn thấy, Quỷ Nhãn Tam đã bị Phó Lợi Khai chắn mất tầm nhìn hẳn cũng không nhìn thấy. Còn Phó Lợi Khai không nhìn xuống, hai con mắt bên to bên bé của gã chỉ nhìn chằm chằm vào mặt Lỗ Nhất Khí, khuôn mặt chìm trong một nỗi căng thẳng chưa từng thấy. Vẻ mặt của gã đã khiến Lỗ Nhất Khí sửng sốt, vội vã cúi đầu nhìn xuống bàn tay đang bị Thuỷ Băng Hoa giữ chặt.
Thuỷ Băng Hoa đang áp bàn tay Lỗ Nhất Khí lên một bên mông của cô ta, thảo nào dưới tay cậu có cảm giác căng tròn và chắc nảy. Mu bàn tay cậu được đặt đúng vào miếng da mà Quỷ Nhãn Tam vừa nói. Cậu lập tức hiểu ra, bèn nhanh chóng tụ khí ngưng thần, vứt bỏ tất cả mọi nỗi hoang mang và kích động, trong trí não chỉ còn lại những cảm giác mẫn tiệp tinh tường trên mu bàn tay, lần theo từng nét vân vi, từng chỗ lên xuống tinh tế nhất. Và cậu đã thấy chữ viết, đã hiểu được đường vân, và nhận ra được đường đi, tìm ra được ngọn núi.
- Ở đây!
- Đi phía này!
Lỗ Nhất Khí và Nhậm Hoả Cuồng gần như lên tiếng cùng một lúc.
Mọi người đều kinh ngạc đứng khựng lại, nhìn về phía rừng cây mênh mông bên cạnh đường mòn.
Thuỷ Băng Hoa đã buông tay Lỗ Nhất Khí ra, và bàn tay cậu đã dứt khoát chỉ về một phía của con đường. Lúc này, Nhậm Hoả Cuồng đã sải bước tiến thẳng vào rừng, nhanh chóng bị che rợp dưới bóng cây âm u.
- Chậm thôi, anh Nhậm! Để tôi đi trước cùng ông anh! – Lão mù gọi với theo sau. Thân người đã chìm khuất dưới bóng cầy liền dừng bước, đợi lão mù di đến bên cạnh mới tiếp tục tiến lên, cùng thận trọng di chuyển chậm rãi vào sâu trong rừng thẳm.
Sau khi đi qua mấy khóm rừng, trước mặt họ lại hiện ra một con đường mòn, còn hẹp hơn cả đường mòn Sam Đỏ. Con đường chật hẹp chạy dài trong rừng rậm, hai bên cây lớn ken dày đặc, khiến người đi đường cảm thấy ngột ngạt như bị đè nặng dưới một áp lực vô hình. Khu rừng già yên tĩnh dị thường, khiến tiếng chân đạp tuyết lạo xạo và tiếng thở hổn hển nghe rõ mồn một. Trong rừng thi thoảng lại vẳng đến tiếng kêu không rõ của giống chim gì, nghe vô cùng rùng rợn.
Lỗ Nhất Khí không rõ khu rừng giữa ban ngày mà tịch mịch đến vậy liệu có bình thường hay không, song trong cậu đã trỗi lên một cảm giác rất lạ kỳ, một sự pha trộn giằng co giữa hy vọng và nguy hiểm, càng lúc càng rõ rệt, càng lúc càng áp sát. Đột nhiên, nguy hiểm bỗng bật ra khỏi khối giằng co, lao vụt đi như một lưỡi dao sắc nhọn. Cậu giật mình kinh sợ, lập tức dừng chân.
Thuỷ Băng Hoa quay người lại, hỏi nhỏ một câu:
- Sao thế?
Lỗ Nhất Khí mỉm cười, khẽ lắc đầu, rồi ngửa mặt, thở ra một hơi nặng nề lên mảnh trời xanh biếc chật hẹp chạy dài trên phía đỉnh đầu.
- Sát khí! Nguy hiểm! – Lỗ Nhất Khí đột ngột hét lên. Ngay lúc đó, từ trong rừng vọng lại một tiếng huýt gió chói tai. Sau đó, giống hệt như những gì Lỗ Nhất Khí vừa cảm giác, vô số mũi đao sáng loà như tuyết vùn vụt lao đến.
Đám sát thủ lao từ trên cao xuống, bọn chúng đã náu mình trong những tán cây rậm rạp. Khi Lỗ Nhất Khí ngửa mặt lên trời để thở ra khí uất, cậu đã cảm thấy luồng sát khí từ trên đó.
Lỗ Nhất Khí đột nhiên khựng lại khiến Quỷ Nhãn Tam và Phó Lợi Khai lập tức ở trong tư thế cảnh giác cao độ, nên sát thủ vừa lao tới, hai người lập tức lao lên tiếp chiêu. Bởi vậy, Lỗ Nhất Khí đã có đủ thời gian rút súng.
Tiếng súng đã vang lên, song không phải là từ khẩu súng trường của Lỗ Nhất Khí, mà là từ khẩu pạc hoọc trong tay Thuỷ Băng Hoa. Lúc này Lỗ Nhất Khí mới chợt nhớ ra mình quên chưa lấy lại khẩu súng sau cuộc chiến trên sườn núi.
Thuỷ Băng Hoa bóp cò rất nhanh, song kỹ thuật lại quá vụng về, đạn lao bừa vào tán lá khiến lá cây rào rào trút xuống. Tuy nhiên phát súng của cô ta cũng đã khiến cho đám sát thủ đang định tấn công chớp nhoáng đã phải thu mình lại nấp sau thân cây.
Sát thủ lại tiếp tục lao xuống ngay sau khi Thuỷ Băng Hoa vừa bắn hết đạn. Cô ta chẳng kịp nghĩ ngợi, lập tức ném ngay khẩu súng về phía một tên sát thủ. Sát thủ vung đao, khẩu súng lập tức vỡ tan tành, đủ thứ linh kiện văng vãi tứ tung.
Cây súng trên tay Lỗ Nhất Khí cũng bắt đầu khai hoả. Lập tức có một kẻ lộn nhào xuống đất, cùng chung số phận với khẩu pạc hoọc vỡ tan khi nãy.
Súng trường Mauser mỗi lần chỉ nạp được năm viên đạn, bởi vậy khi số thân người rụng xuống đã đủ năm, cây súng trên tay Lỗ Nhất Khí đã chẳng khác gì một que sắt cời lò vô dụng.
Lỗ Nhất Khí không kịp lắp đạn, bởi vậy khi một sát thủ vung đao chém tới, cậu chỉ còn cách vung súng lên chắn đỡ.
Lưỡi đao chém đứt phăng khẩu súng trường, song lại không chạm đến người Lỗ Nhất Khí. Lưỡi dao trong tay sát thú đột nhiên biến mất, cả cánh tay cũng bay mất tăm. Đúng vào khoảnh khắc thân súng đứt rời, một luồng sáng màu vàng sẫm đà vụt tới, cả cánh tay lẫn đao chớp mắt đã rơi phịch nền tuyết. Luổng sáng trầm vàng lượn thành một vòng cung, trở về tay Phó Lợi Khai.
Tùng Đắc Kim đã hiểu rõ uy lực của cây rìu mới, nên chỉ nhăm vào đao của địch thù mà chém tới. Khi dao đã đứt, gã liền nhường lại cho ông thợ rèn xử lý, còn mình lại tiếp tục chém hạ những thanh đao khác.
Đám sát thủ chắc chắn không thế ngờ tới tình huống này, độ sắc bén kinh người cùa các loại vũ khí đã nhanh chóng phá tan niềm tin sát phạt trong chúng. Tiếng huýt gió lại vang lên lộng óc, đám sát thù lập tức rút lui, chớp mắt đã mất hút trong rừng sam đỏ rậm rạp.
Đường mòn Sam Đỏ lại tịch mịch như chưa hề có chuyện gì. Mọi người vừa nghiêng ngó dè chừng, vừa tiến sát vào nhau. Trong lúc di chuyển, Nhậm Hoả Cuồng tiện chân đá vàng một xác chết ra, đưa mũi chân lật lên lật xuống thanh đao cùa hắn, rồi khẳng định:
- Đây là chính là nhừng kẻ trong hội Minh tử tiêm đao dà vây giết chúng ta trong thị trấn
Lô Nhất Khí không đi về phía mọi người, mà ngồi thụp xuống, hết nhìn cây súng đứt cụt trên tay, lại quan sát đám linh kiện của khấu pạc hoọc đang vương vãi trên mặt tuyết, không biết đang nghĩ ngợi điều gì. Song chắc chắn không phải là đang tiếc rẻ.
- Đi thôi, lần đột kích nàv chứng tỏ chúng ta đã ở rất gần mục tiêu, cùng cho thấy đối phương rất tự tin có thể tự khai quật dược bảo bối. Mọi người phải nhanh lên! Một khi bảo bối rơi vào tay chúng, muốn cướp lại còn khó hơn lên trời! – Lỗ Nhất Khí giục giã với giọng điệu và thần thái điềm tình lạ kỳ, song trong thâm tâm giằng xé muôn mối, gân mạch trên trán co giật liên hồi. Vừa nhìn vào khẩu súng vỡ tan tành, cậu lập tức nhận ra, ngay từ đầu mình đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng. Suy nghĩ của cậu chỉ dừng lại ở Kim gia trại, song thực chất đối phương đã giáng bẫy cậu ngay từ trong thị trấn.
Trong cuộc vây giết trong thị trấn, đối thú kỳ thực không hề có ý đồ lấy mạng cậu, mà có một dụng ý sâu xa khác. Trong cuộc tấn công đó, đao thủ đã chém vào khấu súng trường, và cũng đâm trúng khẩu pạc hoọc ở trong lần áo bông, nhưng lúc đó cậu chỉ cảm thấy có gì đó bất thường, đặc biệt là khi chạm tay vào bề mặt trơn bóng của khẩu pạc hoọc. Song trong vụ giao đấu vừa rồi, có thể thấy súng trường hay súng lục đều bị phá huỷ dễ dàng trước dường đao sắc bén của đối thủ. Vậy lần trước tại sao cậu vẫn được bình an vô sự? Trên khâu pạc hoọc bóng loáng như gương thậm chí không có lấy một vết trây xước? Chỉ có một cách giải thích duy nhất, đó là màn tập kích hôm đó chỉ là diễn kịch, nhằm mục đích để một người hoặc vài người nào đó có đầy đủ lý do nhập bọn đi cùng.
Đoàn người đã di chuyển nhanh hơn. Khu rừng càng vào sâu càng rậm rạp âm u. Chẳng bao lâu, con đường mòn cũng biến mất, họ chỉ còn cách luồn lách giữa các gốc cây mà đi. Song cũng không thể len lỏi quá xa, giữa những gốc cây to bắt đầu xuất hiện rất nhiều cây bụi mỗi lúc một rậm, đan xen chằng chịt, bịt kín mọi khoảng trống. Cuối cùng, đến cả chỗ đặt chân cũng không thể tìm ra.
May mà còn có Tùng Đắc Kim và cây rìu trong tay gã. Gã vốn có sức khoẻ phi thường, lại thêm lưỡi rìu sắc bén vô song, nên dễ dàng phạt quang đám cây rối cản đường.
Nhậm Hoả Cuồng chau tít đôi mày, dường như bắt đầu hoài nghi con đường mà ông ta đã chỉ. Nếu không phải Lỗ Nhất Khí cũng quyết định chọn hướng này, có lẽ ông ta đã bỏ cuộc. Nhưng ông ta đang thắc mắc không hiểu tại sao Lỗ Nhất Khí lại biết được lối này? Ông ta quay đầu nhìn Thuỷ Băng Hoa đang đi sát sau lưng Lỗ Nhất Khí, nghĩ thầm trong bụng: “Cô ả này trước mặt mọi người bảo là không biết đường, nhưng sau lưng chắc chắn đã âm thầm mách nước cho Lỗ Nhất Khí!”.
Họ vừa phát quang cây bụi vừa tiến lên khoảng hơn một dặm nữa thì cánh rừng kết thúc, trước mặt họ thoắt nhiên bừng sáng, một con dốc rộng rãi trải dài ngay phía trước, dọc hai bên dốc núi rặt một loại cây bụi um tùm rậm rạp cao hơn đầu người, mọc đan xen kín mít tới mức một con thỏ cũng không chui lọt. Ngược lại với cảnh tượng này, trên dốc núi hoàn toàn trơ trụi, chỉ lác đác vài cây sam to lớn mọc thừng thững ở đó. Chúng cao lớn một cách dị thường, tuổi cây hẳn củng vài trăm năm.
Từ đây phóng mắt nhìn ra xa, trong những dãy núi nhấp nhô trùng điệp trước mặt có một vài ngọn núi nổi bật khác thường, bởi lẽ chúng không có cây cối rậm dày như những ngọn núi bên cạnh, mà trọc lốc, phủ đầy tuyết trắng xoá, thoạt nhìn chẳng khác gì một người đàn bà loã thể nằm gập gối tênh hênh ở đó.
- Chính là chỗ đó! Mẹ nó chứ, sao mà giống thế! – Phó Lợi Khai kêu toáng lên, vẻ phấn khích khác thường, không hiểu là do tìm thấy nơi chôn giấu bảo bối, hay vì hình thù ngọn núi quá truyền thần.
Lỗ Nhất Khí cũng rất đỗi vui mừng. Cậu đã cảm nhận được ở giữa những ngọn núi đặc biệt kia có một làn khí đang vấn vít vu hồi, lớp lớp lan toả, tràn trề ánh vàng rực rỡ đủ mọi sắc độ. Có sắc vàng thẫm, có sắc vàng trắng, có sắc vàng chói, có sắc vàng đỏ, có sắc vàng tía, dào dạt phun trào như suối nguồn. Trong làn khí đó, trong ánh vàng kia, Lỗ Nhất Khí đã nhận ra một thứ rất đỗi quen thuộc đang chờ đợi cậu.
Dốc núi rất dài, trải rộng thênh thang, dốc nọ nối hên dốc kia, chạy thẳng tới giữa hai ngọn núi Đầu Gối, chỉ cần di theo đó là có thể tới nơi.
Không biết thứ gì đã kích thích Phó Lợi Khai khiê’n gã chợt trở nên lắm chuyện:
- Chúng ta men theo dốc núi mà đi! Nhìn rõ chưa? Chúng ta sắp đi vào cái lỗ ấy của cô ả đấy! Hề hề! – Gã vừa nói, vừa ti hí đôi mắt liếc về phía Thuỷ Băng Hoa bộ mặt càng méo mó đến quái dị.
- Ngươi muốn chui vào lỗ đít phải không? Nếu còn muốn đi, hãy ngậm ngay cái lỗ miệng y như lỗ đít của ngươi lại! – Nhậm Hoả Cuồng trừng mắt chửi Phó Lợi Khai.
Phó Lợi Khai bị chửi đến mất mặt, cũng giận dữ mà trả đũa:
- Ta không đi là được chứ gì! Nơi đó là nhà của ông, nơi đó có mồi của ông, ông không phải khư khư mà giữ! Ở đây cũng chỉ có mình ông là thích thụt thò rúc lỗ thôi!
Nhậm Hoả Cuồng không thèm đếm xỉa tới Phó Lợi Khai nữa, ông ta biết mình chửi không lại tay lái gỗ. Trong khu rừng này, chỉ có đám lái gỗ suốt ngày hò hét bán mua là chửi ngoa nhất. Bọn họ tiếp xúc với đủ dạng con buôn đến từ khắp chốn, kiểu chửi của vùng nào cũng học dược vài câu.
Phó Lợi Khai cũng chỉ chửi một câu rồi thôi, không phải là vì Nhậm Hoả Cuồng không tiếp tục đôi co, mà vì ông ta đang có một hành động kỳ lạ khiến gã nổi trí tò mò. Nhậm Hoả Cuồng đang quan sát kỹ lưỡng một thứ gì đó trong cánh rừng phía sau, hết đứng lên lại ngồi xuống, còn đưa tay vạch vẽ rối loạn.
Lỗ Nhất Khí cũng bị thu hút, bởi động tác của ông ta rất giống với kỹ pháp Định cơ trong Lục công của Ban môn.
- Đã có người tới đây trước chúng ta. Họ đi theo con đường khác chúng ta, phương pháp cũng khác, song chắc chắn họ đã tới trước! – Nhậm Hoả Cuồng nói.
- Ông không phải là thần tiên, làm sao chỉ vạch vài nhát mà biết được sự việc trước đó? – Tùng Đắc Kim đương nhiên không tin, gã cảm thấy ngoài cách phạt cây mở đường, không còn cách nào khác để tới đây được.
- Ngươi thì hiểu cái gì! Hạt cây sam đỏ rụng xuống, đương nhiên mọc nhiều nhất bên dưới phải là cây sam đỏ con đúng không? Nhưng ngươi nhìn trong đám cỏ dại giữa các gốc sam đỏ xem, có được mấy cây sam đỏ con? Cây bụi chắc chắn do con người cố ý trồng, nhưng chỉ là chướng ngại vật chứ không phải là khảm diện, bởi lẽ người trồng cũng biết rằng, chỉ cần có người đến phá, e rằng vật cản này về sau sẽ không cần dùng đến nữa.
Nghe lời Nhậm Hoả Cuồng phân tích, mọi người đều gật đầu lia lịa. Đúng vậy, dù là bọn họ hay đối phương, một khi đã đến đây, chừng nào chưa lấy được bảo bối thì quyết không bỏ cuộc. Nên về sau, đám cỏ rối này cũng sẽ trở nên vô dụng.
- Nhưng đám cây bụi mọc kín rừng sam đỏ chỉ có thể ngăn cản được thợ rừng, ngựa buôn bình thường, chứ không thể ngăn cản được cao thủ. Tức là chỉ có thể ngăn cản được con đường bên dưới mà không thể ngăn
cản được con đường phía trên. Mọi người nhìn mà xem, trên ngọn cây kia gãy mất hai cành nhỏ, đoạn giữa thân cây bên cạnh tróc mất một mảng vỏ, cho thấy đã có người tới đây bằng con đường đó.
- Lại là treo dây phi thân? – Lão mù lập tức đưa ra suy đoán.
- Còn nữa, hãy nhìn xuống bên dưới, những gốc cây nhỏ được sắp xếp theo cách cục “rào trúc cắm nghiêng” tiêu chuẩn, tuy có thể ngăn cản con người, song không ngăn cản được các loài động vật nhỏ. Bởi vậy không loại trừ động vật nhỏ và những người hình thể gầy gò có thể luồn qua mà vào được.
Lỗ Nhất Khí lập tức phát giác Nhậm Hoả Cuồng vừa nói ra một từ rất chuyên nghiệp – cách cục “rào trúc cắm nghiêng”. Đây là một khái niệm có liên quan đến bài trí không gian trong kỹ nghệ của nhà họ Lỗ, vận dụng một cách tổng hợp mối quan hệ tương hỗ giữa phải trái trước sau, khiến tường rào thoạt nhìn có vẻ dày đặc kín mít, hoặc khe hở rất nhỏ, song trên thực tế, giữa chúng vẫn có khoảng cách nhất định.
Nhưng kỳ lạ là ở chỗ không có ai tỏ ý thắc mắc về khái niệm này, mà đều theo phản xạ đưa mắt nhìn về phía những gốc cây bụi rối loạn phía sau. Như thế có nghĩa là tất cả những người có mặt đều hiểu rõ khái niệm này. Hiểu được khái niệm này chỉ có hai loại người, thứ nhất là đệ tử của Ban môn; thứ hai là những môn nhân của họ Chu đã nghiên cứu kỹ nghệ trong “Ban môn” nhằm đối phó với người của Ban môn.
Mớ bòng bong rối loạn trong đầu Lỗ Nhất Khí nhanh chóng được sắp xếp ngay ngắn, phạm vi hoài nghi cũng mau chóng thu hẹp lại. Giờ đây cho dù chưa thể nhổ được cái gai chính xác, song chí ít cũng biết được bước tiếp theo nên làm gì. Cậu quay đầu nhìn về phía ông thợ rèn, và phát hiện ông ta cũng đang nhìn mình, hai người bèn nhìn nhau mà cười.
Họ vẫn phải tiếp tục tiến về phía trước. Song vừa bước xuống sườn dốc vài bước, Thuỷ Băng Hoa đột nhiên biến sắc mặt, kêu lên một tiếng đầy kinh sợ:
- Dừng lại! Sườn núi có khảm diện!
Tất cả lập tức khựng ngay lại, đứng yên bất động.
Quỷ Nhãn Tam từ từ ngồi thụp xuống, rút cây xẻng sau lưng ra, hớt từng lớp tuyết ở phía trước sang một bên, song chẳng nhìn thấy gì ngoài tuyết. Hắn cứ xúc gạt cho tới khi chạm đến tận mặt cỏ, nền đá, nhưng vẫn không phát hiện ra điều gì khác thường.
- Làm gì có! Bà chị bị bẫy thú kẹp phải chân à? – Quỷ Nhãn Tam quay người nói với Thuỷ Băng Hoa.
Thuỷ Băng Hoa cũng ngồi thụp xuống, đưa tay mò mẫm xung quanh bàn chân, vừa sục sạo trong tuyết, vừa đáp lời Quỷ Nhãn Tam:
- Không phải là đồ vật! Anh nhìn kỹ lại mà xem, hình như có chừng non nửa lớp tuyết bên dưới cứng rắn khác thường?
Quỷ Nhãn Tam lại chăm chú quan sát lần nữa, Lỗ Nhất Khí và những người khác cũng đều thụp cả xuống lần dò kỹ lưỡng. Quả nhiên lớp tuyết phía dưới đặc biệt cứng rắn, cũng không phải do tuyết tan thành nước rồi sau đó tiếp tục đông cứng lại thành băng, mà có vẻ như tuyết xốp đã bị người ta cố ý nện thật chắc.
- Đây là…
Lỗ Nhất Khí đang đứng sát Thuỷ Băng Hoa, câu chậm rãi nói ra hai chữ, ý muốn để Thuỷ Băng Hoa tiếp tục nói ra những gì cô ta đã phát hiện.
- Bố trí theo hình! – Thuỷ Băng Hoa còn chưa kịp lên tiếng, Phó Lợi Khai ở phía sau đã lập tức cướp lời.
- Đúng vậy, sườn dốc không có bậc, bước thứ nhất đập, bước thứ hai xoay, bước thứ ba trượt, bước thứ tư lăn, lực lăn ở bước cuối sẽ khiến người ta ngã lăn trên sườn dốc, lăn một vòng lại đứng dậy, tiếp tục một vòng tuần hoàn đập, xoay, trượt, lăn mới, càng ngã càng nhanh, càng ngã càng nặng. Cứ thế hết ngã lại lăn đến tận chân dốc, cho đến chết cũng chưa kịp hiểu có chuyện gì xảy ra! – Thuỷ Băng Hoa vẫn chưa kịp lên tiếng, lại đến lượt Nhậm Hoả Cuồng thao thao một thôi một hồi. Trong lúc nói, Lỗ Nhất Khí nhìn thấy trong mắt ông lấp loé những tia sáng đầy hưng phấn.
- Điên phốc đạo?
Lão mù và Quỷ Nhãn Tam gần như đồng thanh kêu lên.

*

Chương 5.2 BÔN HỒNG ĐẠO

- Không phải, không tinh xảo bằng điên phốc đạo, đây gọi là bôn hồng đạo*. Điên phốc đạo có thể bố trí ở tất cả mọi nơi, còn bôn hồng dạo nhất thiết phải đặt ở sườn dốc mới phát huy được tác dụng. Song khảm diện ở đây không chỉ dựa vào hình mà còn dựa vào vật, đối thủ đã đầm tuyết thật cứng làm nút lẫy bốn bước, sau đó phủ tuyết xốp lên trên để che giấu nút lẫy phía dưới, dù có là khảm tử gia cũng khó mà phát hiện!
* Có nghĩa là con đường lũ đổ. (Nd)
- Thuỷ Băng Hoa đến giờ mới có cơ hội lên tiếng.
- Ồ! Hành lang yến quy cũng có cùng nguyên lý này! – Lão mù bỗng như bừng tỉnh – Bôn hồng đạo chắc chắn là đối thủ vừa mới bày ra, chứ không phải là khảm diện bảo vệ bảo cấu! – Phát hiện của lão thật thừa thãi. Khảm diện dùng tuyết làm nút lẫy, làm sao có thể là khảm diện nghìn năm bảo vệ bảo bối của Lỗ gia?
- Chị phát hiện ra nhờ cục cứng dưới đế giày? – Lỗ Nhất Khí tiếp lời, ngữ khí hết sức lạ lùng, không biết là đang hỏi hay đang phán đoán.
Thuỷ Băng Hoa sững người một chốc, hai bên má thoáng ửng đỏ, khẽ hỏi:
- Ô, cậu biết cả rồi ư?
- Không, tôi không biết! Tôi không biết rốt cục chị là thần thánh phương nào? – Câu nói điềm tĩnh của Lỗ Nhất Khí khiến khuôn mặt Thuỷ Băng Hoa càng đỏ bừng lên, bối rối đến mức quên bẵng mất cần phải tiếp lời cậu.
Nói xong câu này, Lỗ Nhất Khí cũng cảm thấy mình có vẻ hơi nặng lời, song người phụ nữ này quả thực là một ẩn số. Cô ta thông thạo cách bố trí khảm diện, lại thêm mảnh da khâu trên quần, khối cứng giấu dưới giày đều là những thứ đáng ngờ vẫn chưa được giải thích. Vừa rồi Nhậm Hoả Cuồng cố tình nhắc đến cách cục “rào trúc cắm nghiêng” làm mồi nhử, trong những kẻ khả nghi có cả cô ta. Hơn nữa, nếu suy xét kỹ hơn, thì cho tới giờ phút này, cô ta chỉ giúp được cậu một việc duy nhất, đó là mảnh da kỳ quái kia. Song đối thủ không hề có mảnh da mà vẫn tới đây sớm hơn họ. Phải chăng cô ta đã dùng một tin tức lỗi thời để chiếm lấy niềm tin của cậu?
- Khảm này dễ giải, làm cho tuyết tan ra, hoặc nện chắc luôn cả lớp tuyết xốp trên bề mặt là xong! – Thuỷ Băng Hoa không tiếp lời Lỗ Nhất Khí, mà quay sang nói về cách phá giải khảm diện.
Muốn làm tan chảy toàn bộ lớp tuyết trên sườn dốc là không hề đơn giản, song nện cho chắc lớp tuyết xốp lại chẳng mấy khó khăn, bởi trong số họ có một cao thủ có khả năng dời đá phá núi. Quỷ Nhãn Tam đi lên phía trước, cây xẻng thép múa sang tả hữu loang loáng như bay, vừa đi vừa đập, tốc độ không hề chậm chạp.
Đi xuống sườn dốc trơ trụi một đoạn không xa, đã sắp tới gốc cây lớn đầu tiên. Đột nhiên, lão mù chụp lấy bả vai Quỷ Nhãn Tam giữ hắn dừng lại, rồi nghếch mũi lên hít hít vài cái, trầm giọng mà nói:
- Có mùi máu tanh!
Đúng là có mùi máu tanh! Ngay sau đó Quỷ Nhãn Tam và Nhậm Hoả Cuồng đều ngửi thấy. Đến khi họ hết sức thận trọng bước lại gần gốc cây đầu tiên, một cảnh tượng chết chóc kinh hoàng đập ngay vào mắt.
Một thân người bị đóng chặt trên thân cây, hai bàn chân cách mặt đất hơn hai thước, dưới bàn chân là hai vệt máu đỏ buốt đã đông cứng thành băng. Người chết mắt mở trừng trừng, bộ dạng của kẻ chết không nhắm mắt. Chính là tay nỏ bắn yêu cung xạ nguyệt, đang bị ghim chặt trên cây bởi mũi phi mâu sương sớm thấm tóc!
Một cao thủ hiếm có đã bị ngọn phi mâu ghim chết tức khắc trên cây cao mà không cả kịp kháng cự, đủ biết kẻ hạ sát gã bản lĩnh phi thường tới mức nào.
Vì sao phải giết tay nỏ cao thủ này? Có lẽ chỉ có một nguyên nhân, chính là gã đã phạm sai lầm, một sai lầm vô cùng nghiêm trọng: trong lúc bỏ chạy đã làm bại lộ con đường bí mật, khiến những kẻ không nên tới đã tới được nơi này quá sớm.
Ngọn phi mâu tàn sát không những kéo bật cả một thân người sống bay lên khỏi mặt đất, mà mũi nhọn còn tiếp tục xuyên thấu thân cây to ngang chum vại. Lực đạo khủng khiếp nhường đấy đã khiến trí não Lỗ Nhất
Khí một lần nữa lại xáo động lên một lượt. Đúng là cậu đã mắc phải quá nhiều sơ suất, đã bị quá nhiều hiên tượng giả đánh lừa. Chẳng nói đâu xa, ngay như ngọn phi mâu sương sớm thấm tóc trước mắt, với uy lực tàn bạo nhường này, cây Vũ Kim Cương của Quỷ Nhãn Tam tuyệt đối không thể ngăn cản nổi.
Nghĩ tới đây, cậu bỗng đột nhiên choàng tỉnh. Thì ra hôm đó Dưỡng Quỷ Tỳ ra tay không phải để trợ lực cho sương sớm thấm tóc, mà là muốn ngăn cản nó. Tuy không thể ngăn chặn, song chí ít đã khiến lực đạo của phi mâu giảm đi đáng kể, nếu không, kết cục của cậu và Quỷ Nhãn Tam hẳn cũng chẳng dễ coi hơn tay nỏ chết thảm trước mắt. Thì ra khi ở Kim gia trại, Dưỡng Quỷ Tỳ- vẫn âm thầm trợ giúp cậu; ánh mắt của cô lúc đó tràn đầy hoang mang lo lắng, trước khi phi mâu bay đến còn giục cậu đi mau. Thì ra, cô vẫn luôn quan tâm đến cậu, sẵn sàng bảo vệ cho cậu.
Đến tận lúc này, Lỗ Nhất Khí mới hiểu được tâm ý của Dưỡng Quỷ Tỳ mấy hôm về trước. Tuy có chút muộn màng, song vẫn khiến cậu lâng lâng vui sướng, một cảm giác ngọt ngào khó tả len lỏi trong tim, cơ thể như chìm trong một niềm ấm áp.
Đối diện với dốc núi dài dằng dặc phía trước, Lỗ Nhất Khí khép hờ đôi mắt, hít vào một hơi thật sâu, rồi nín lại rất lâu. Cậu hy vọng luồng khí sẽ giúp cậu cuốn đi những thứ hỗn loạn, vẩn đục đang lởn vởn trong trí não.
- Đi tiếp thôi, trước mắt chưa có gì nguy hiểm!
Cậu lên tiếng, chứng tỏ luồng khí vừa rồi đã thở hết ra, chỉ là hơi thở ra rất mực chậm rãi và bình ổn, khiến người khác không thể nhận ra. Phương pháp hít thở này Đạo giáo gọi là “quỵ tán tức”.
Không ai tỏ ý nghi ngờ trước phán đoán của Lỗ Nhất Khí, nên lập tức cất bước đi xuống sườn dốc. Hướng đi không thay đổi, vẫn tiến về phía bắc. Kỳ thực từ đường mòn Sam Đỏ rẽ vào đường nhỏ, rồi xuyên qua cánh rừng, họ vẫn luôn đi về hướng bắc.
Khi đi tới gốc cây lớn thứ hai, lớp tuyết trên đất đã mỏng đi rõ rệt, chắc chắn không thể tiếp tục thiết kế khảm diện ở đây.
Khi xuống tới chân dốc, mọi người đều cảm thấy bước chân có vẻ nặng nề. Tiếp nữa là dốc lên liên tục, tuyết phủ càng mỏng, bởi vậy họ bước đi cũng dễ dàng nhanh chóng hơn nhiều.
- Phía trước có lẽ rất ấm, không thấy tuyết phủ nữa! – Dù Phó Lợi Khai không nói, mọi người cũng đã phát giác ra. Đặc biệt, khi nhìn về khe núi phía xa, lại thấy phảng phất một làn khói sương uốn lượn. Thoạt tiên Lỗ Nhất Khí cho rằng đó chỉ là làn khí tướng trong cảm giác của cậu, song sau đó cậu phát hiện ra mình đã lầm, nơi đó quả thực có sương mù. Trong cánh rừng già phương bắc buổi giữa đông, lại có sương mù xuất hiện, vấn vít không tan, thì chắc chắn nơi đó là một vùng đất dị thường với nhiệt độ cao hơn hẳn.
Còn chưa đi tới khe núi Hai Gối, họ đã nhìn thấy rất nhiều cảnh tượng kỳ quái. Trước tiên, ở hai dãy cây bụi dày đặc bên dốc, xuất hiện rất nhiều lỗ hổng rộng hẹp sâu nông khác nhau, nhiều lỗ hổng chạy dài môt đoạn khá xa về phía rừng cây rậm rịt, thậm chí còn có chỗ rẽ ngoặt, không biết có thông ra khỏi rừng cây hay không. Có thể nhận ra, những lỗ hổng này có cái là do chặt đẵn, có cái là do bị vật gì rẽ ra, cũng có cái là do bị thiêu đốt mà thành. Hẳn là chúng mới xuất hiện trước đó chưa lâu, nếu không với tốc độ sinh trưởng nhanh chóng của cây bụi, chúng đã bị lấp kín rồi.
Tiếp theo, họ nhìn thấy những bộ hài cốt rải rác trên dốc núi và bên rìa rừng cây bụi. Có hài cốt của người, cũng có hài cốt của động vật. Nhìn màu mà đoán, có lẽ chúng đã phải dầu dãi ở đây khá lâu rồi.
Đi tiếp về phía trước, họ bắt gặp một vài nấm mộ sơ sài lẫn trong rừng cây bụi, có lẽ là ai đó đã phát quang hoặc đốt cháy cây cối rồi mới đào mồ chôn xác. Bởi vậy những nấm mộ đã bị cây cối mới mọc lên bao bọc tầng tầng lớp lớp, nếu không nhìn kỹ thật khó nhận ra, vì trông chúng giống hệt như những mô đất mọc đầy cây bụi.
Họ là ai? Tất cả mọi người đều có chung một thắc mắc trong lòng.
- Có lẽ là những thợ rừng đến tìm báu vật không thể sống sót trở về chăng? – Thuỷ Băng Hoa nói khẽ một câu, song mọi người đều nghe thấy.
- Ở đây có hài cốt, nhưng tại sao trong cánh rừng khi nãy lại không có nhỉ? – Tùng Đắc Kim thắc mắc.
- Nếu là ngươi, thì ngươi thích chặt phá rừng sam đỏ mà chạy, hay thích phạt đám cây bụi kia? Hơn nữa, có ai dám đảm bảo bên rừng sam đỏ không có hài cốt? Đám hài cốt ven đường vừa rồi ngươi đã thấy chưa, hình như mới được gom nhặt lại. Đối phương muốn bố trí khảm diện bôn hồng đạo ngoài kia, chắc chắn sẽ phải dọn dẹp hài cốt ở đó. Hơn nữa, ta đoán rằng những kẻ phải bỏ xác ở đây đã không còn đủ sức để chạy tới rừng sam đỏ nữa. Đứng từ đây nhìn thấy cánh rừng sam đỏ rậm rạp ở tít xa, họ đã cảm thấy không thể vượt qua được, thà chặt phá đám cây bụi ở ngay trước mặt khẩn cấp tìm đường thoát thân còn hơn. Song bọn chúng làm sao hiểu được rằng, bên trong khảm diện nơi không có đường chính là đường chết! – Phó Lợi Khai lại giảng giải một tràng, trong đôi mắt to nhỏ loé lên những tia sáng rất tinh khôn.
Lỗ Nhất Khí đưa mắt liếc nhìn rừng cây tạp nham bên cạnh. Đúng vậy, vào mùa này mà còn rậm rạp như vậy, nếu vào xuân hạ, cây cối trổ mầm đâm nhánh, thì có khác nào một bức tường? Một bức tường không biết dày tới đâu mà kể.
- Đám cây tạp này phần lớn là đều là cây ôn văn** và cây điều khích***, thân cây tích rất nhiều nước, chất gỗ cực dai bền, muốn chặt phá vô cùng tốn sức, lại rất khó đốt cháy, dù có bắt lửa cũng không thể cháy lan ra. Tuy chúng không xếp theo cách cục “rào trúc cắm nghiêng” song chắc chắn cũng do người ta cố ý trồng nên, nếu không chủng loại sẽ không thể đơn thuần như vậy! – Kiến thức về cây rừng của Phó Lợi Khai quả nhiên uyên bác khác thường.
** Một loại cây bụi nhỏ, chất gỗ khá xốp, thớ gỗ cong queo rời rạc, thân cây nước rất nhiều, không dễ cháy.

*

Đoạn dốc lên không quá dốc, nên đoàn người bước đi khá nhẹ nhàng, vừa đi vừa trò chuyện, chân bước mỗi lúc một nhanh, chẳng bao lâu đỉnh dốc đã hiện ra ngay trước mặt. Vượt qua đỉnh dốc này đã có thể nhìn thấy lối vào của khe núi Hai Gối.
Một tia chớp bỗng xẹt qua trí não Lỗ Nhất Khí, cậu đột nhiên sực nhớ tới một điều gì, buột miệng nói liền:
- Trong khảm diện nơi không có đường chính là đường chết. Anh Phó, anh vừa nói đám hài cốt kia bỏ mạng vì sa vào đường chết, song ở đây lại không có khảm diện. Hay là chúng ta đã rơi vào khảm diện rồi mà không biết?
Lời vừa nói ra, cả đám đều giật nảy mình vã mồ hôi lạnh, Quỷ Nhãn Tam đi đầu hai chân bủn rủn suýt ngã nhào, may mà kịp chống cây xẻng lưỡi cày trong tay xuống đất.
Song Quỷ Nhãn Tam vẫn ngã lăn chiêng. Không chỉ mình hắn, mà Thuỷ Băng Hoa và Phó Lợi Khai cũng ngã dúi dụi. Do hai người đi ngay sau Quỷ Nhãn Tam, nên khi bước chân của hắn đột ngột thay đổi, họ đã không kịp dừng lại, xô cả vào hắn mà ngã chồng chéo lên nhau.
Sau lưng họ là lão mù, lão khựng lại ngay tại chỗ, khiến ba người ở phía sau bị bất ngờ mà đâm sầm phải lão, song cánh tay khẳng khiu của lão đã kịp giơ sang ngang chặn ngay họ lại.
- Gì mà phải sợ đến thế? Cậu cả và các người đều không phát hiện ra khảm diện, thì ở đây làm quái gì có khảm diện nào! – Giọng lão mù đầy vẻ trách cứ.
Câu nói của lão khiến mọi người bất giác đỏ mặt. Đúng vậy, dù gì đi nữa cũng không nên khiếp sợ đến nỗi ngã sấp ngã ngửa.
- Cẩn thận một chút vẫn hơn! Mọi người nhìn thật kỹ thêm lần nữa, đừng bỏ sót thứ gì! – Nhậm Hoả Cuồng giọng đầy lo lắng, ông ta không sợ bỏ sót thứ gì, mà là sợ không phát hiện ra điều gì.
Mọi người đều thận trọng quét mắt nhìn khắp xung quanh. Lỗ Nhất Khí đưa tay lên điểm vạch đo đạc một hồi. Quỷ Nhãn Tam vung xẻng gõ đập trên lớp tuyết mỏng xung quanh, song họ không hề phát hiện thấy điểm gì bất thường.
- Chẳng có gì đâu, cứ đi tiếp đi! – Phó Lợi Khai vốn dĩ ít hào hứng nhất với việc tìm bảo cấu quật báu vật, lúc này lại tỏ ra phấn khích và nóng vội khác thường, phải chăng ngọn núi hệt như cơ thể đàn bà kia đã hấp dẫn gã?
- Không được! Đợi đã! – Lỗ Nhất Khí vội nói rồi ngoảnh nhìn Nhậm Hoả Cuồng. Từ đường mòn Sam Đỏ cho tới lối vào dốc núi, Nhậm Hoả Cuồng vẫn luôn đi trước dẫn đường, chắc hẳn ông ta biết rõ con đường này. Không biết giờ đây liệu ông ta có thể hé lộ cho cậu một vài thông tin khác?
Nhậm Hoả Cuồng hiểu ý của Lỗ Nhất Khí, song chỉ cười nhăn nhó rồi lắc đầu, tiếp tục quay đi xem xét đia hình địa thế. Tuy không nhận được câu trả lời, song Lỗ Nhất Khí vẫn cảm thấy thái độ của ông ta trước sau đối lập, chắc chắn là có lý do riêng.
Thuỷ Băng Hoa lặng lẽ đi bên cạnh Lỗ Nhất Khí kín đáo nắm lấy tay cậu. Lỗ Nhất Khí biết rằng cô ta muốn cậu cảm nhận thêm lần nữa về mảnh da bản đồ, xem liệu có tìm ra manh mối gì khác, song khi những ngón tay mềm ấm dịu dàng luồn vào bàn tay cậu, tim cậu vẫn nảy lên một nhịp. Song cậu không chịu để cô ta kéo bàn tay xuống dưới, mà chỉ cười ngượng nghịu rồi lắc đầu. Mảnh da kia cậu chỉ chạm vào một lần đã in sâu vào tâm trí, trên đó không hề ghi chép một bố cục khảm diện nào.
- Hay là cứ nghỉ chân một lát đi, dù sao cũng sắp tới nơi rồi, qua đỉnh dốc sẽ nhìn thấy lối vào khe núi! – Tùng Đắc Kim bình thường có vẻ khù khờ, song vào lúc cấp bách lại trở nên sáng suốt.
Không ai đáp lời, chỉ có Lỗ Nhất Khí mỉm cười đầy ẩn ý, hết nhìn Tùng Đắc Kim lại nhìn Thuỷ Băng Hoa.
- Vẫn đi tiếp là hơn, đối thủ rõ ràng đã tới trước chúng ta, nếu còn chần chừ, đối thủ cướp được rồi thì trắng tay cả nút! – Lời Phó Lợi Khai cũng rất có lý.
Nhưng Phó Lợi Khai còn chưa nói dứt câu, lão mù bỗng đột ngột lướt về phía Tùng Đắc Kim như một bóng ma giơ tay xuất trảo chụp lấy cánh tay gã. Tùng Đắc Kim vội xoạc chân né người sang bên cạnh, tránh ngay được cú chộp thình lình. Lão mù tai nghe âm thanh tay tiếp tục chộp tới, Tùng Đắc Kim lại thụt lùi né được. Bàn tay lão mù hệt như một tia chớp đen vụt ngay đến trước người Tùng Đắc Kim, lao ngược lên trên. Tùng Đắc Kim hết cách tránh né, bàn tay lão mù đã chụp cứng bả vai gã.
- Ông… ông làm cái gì thế? – Tùng Đắc Kim kinh hãi kêu lên.
- Ngươi vừa nói đỉnh dốc là có ý gì? – Lão mù cất giọng lạnh lẽo hỏi.
- Ý gì là ý gì? – Tùng Đắc Kim đương nhiên không hiểu câu hỏi của lão mù. Không chỉ mình gã, mà những người khác cũng ngẩn ra chẳng hiểu chuyện gì.
- Ngươi vừa nói rằng chúng ta đang đi lên đỉnh dốc? – Câu này thì mọi người đều hiểu.
Tùng Đắc Kim thở phào một cái, đáp:
- Đúng vậy, đang đi lên đỉnh dốc, cái này mà cũng phải hỏi?
- A! Không đúng, không đúng rồi! – Giọng lão mù trở nên gấp gáp và hoảng sợ – Sao bước chân của ta lại cảm thấy như đang xuống dốc?
Tất cả mọi người đều sững cả lại.
Người phản ứng đầu tiên là Phó Lợi Khai. Gã rút từ trong tay nải ra một quả cầu gỗ, đưa bàn chân đi qua đi lại mấy lần gạt đám tuyết đi, lộ ra một khoảng đất rồi đặt quả cầu gỗ vào giữa.
- Quả cầu tìm dốc! Hoá ra không phải là quả cầu bằng sứ chứa thuỷ ngân à? – Nhậm Hoả Cuồng vừa liếc qua đã biết ngay gốc gác của quả cầu.
- Quả cầu sứ dễ vỡ, sư phụ của tôi dạy tôi dùng quả cầu bằng gỗ, là cầu trong cầu. Đây là quả cầu rỗng bên trong còn một quả cầu nhỏ đặc ruột nữa, tác dụng như nhau…
Nói tới đây, Phó Lợi Khai chợt khựng lại, bởi lẽ trước mắt gã đã hiện lên một cảnh tượng quái dị. Quả cầu gỗ chậm rãi xoay một vòng nhỏ tại chỗ, rồi từ từ lăn về phía đỉnh dốc.
Mọi người gần như không tin nổi vào mắt mình. Quả cầu đã lăn lên đỉnh dốc! Quỷ Nhãn Tam thấy quả cầu sắp lăn đến chỗ tuyết đọng, bèn vội vàng dùng xẻng hớt tuyết đi. Đúng vậy, trên cả một đoạn dốc dài, chỉ một khúc nghiêng xuống vẫn chưa đủ để kết luận về hướng dốc của toàn bộ sườn núi, nên Quỷ Nhãn Tam muốn kéo dài đường lăn cho quả cầu tìm dốc.
- Thế nào rồi? – Lão mù không hỏi kết quả, lão đã nghe thấy hướng lăn của quả cầu gỗ, lão đang muốn hỏi nơi này rốt cuộc là loại khảm diện gì.
Không ai trả lời. Tất cả mọi người đều hiểu rõ, họ đã rơi vào khảm diện, song không ai biết đây là khảm diện gì. Lý luận điểm huyệt biện hình trong phong thuỷ học, phương pháp “định hình tìm cát vị” trong công pháp của Lỗ gia, phương pháp “xây dựng theo hình, bố trí theo hình” của Thuỷ Băng Hoa, tất cả đều không hề ăn nhập với khảm diện này. Trong khảm diện đã không thể dùng thị giác thông thường để biện nhận sự cao thấp thật giả của địa hình.
Đầu óc Lỗ Nhất Khí có phần rối loạn, thậm chí cậu đã hoài nghi đây là một con đường ma quỷ. Tuy nhiên trạng thái rối loạn chỉ vụt qua trong thoáng chốc, rồi mọi tư duy đều mau chóng tập trung vào “Cơ xảo tập”.
Quỷ Nhãn Tam lập tức nghĩ đến cú ngã hết sức vô lý của mình lúc nãy, chắc chắn vì khảm diện đã phát huy tác dụng. Song một khảm diện bố cục rộng lớn tinh xảo tuyệt luân nhường kia chỉ để đẩy người ta ngã một cú thì quả thực lãng phí quá mức.
Mọi người đều cảm thấy khảm diện này bố trí rất vi diệu, song tác dụng lại vô cùng bí hiểm.
- Hay là cứ trèo lên xem sao rồi tính! – Phó Lợi Khai đưa ra một ý kiến rất thực tế. Gặp phải quá nhiều điều khó hiểu, nhưng không chừng đáp án lại ở ngay phía trước, đi vài bước nữa sự thể sẽ rõ ràng.
- Được, mọi người đứng yên, để tôi thử xem! – Quỷ Nhãn Tam lúc nào cũng kiệm lời, trừ phi lâm vào tình thế nguy cấp.
- Cứ để tôi đi! Mà cậu Tam, tốt nhất hãy cho tôi một sợi dây bảo hiểm! – Phó Lợi Khai nói.
Quỷ Nhãn Tam không phản đối, vốn dĩ hắn cũng không muốn rời khỏi Lỗ Nhât Khí quá xa. Hắn bèn gỡ lấy một nắm thừng gai nhỏ ở bên thắt lưng. Đây là sợi thừng gai mà hắn đã mua sau khi thoát khỏi sống núi Phân Thuỷ ở khe Long Môn, còn sợi Thiên Hồ giao liên đã đưa lại cho Lỗ Nhất Khí.
Sợi dây thừng được buộc lên cây xẻng lưỡi cày. Cây xẻng được rèn bởi tay Nhậm Hoả Cuồng quả thực phi phàm, chỉ vài nhát đâm đã cắm ngập sâu xuống lớp đất đá trên sườn núi. Đầu kia của sợi thừng thắt thành nút bài triền**** buộc vào cổ tay trái Phó Lợi Khai. Cách thắt nút kiểu này sẽ giúp cổ tay ít bị tổn thương hơn, đồng thời cũng rất hữu hiệu khi phải thoái lui cấp tốc. Nếu gặp nguy hiểm, có thể đưa tay phải bám lên trên kéo mạnh, sẽ nhanh chóng lôi được người trở về.

*

Họ chỉ còn cách đỉnh dốc vài bước chân, đỉnh dốc lại chỉ thoai thoải, nên Phó Lợi Khai nhanh chóng đến nơi. Song vừa đặt chân lên đỉnh dốc, gã đột ngột biến mất tăm.
Quỷ Nhãn Tam phản ứng rất nhanh, lập tức vung tay chụp ngay lấy cán xẻng, một chân giẫm chặt lên mặt đất nơi lưỡi xẻng đang cắm xuống, người ngả ra phía sau. Đúng lúc hắn vừa vận lực, thì sợi dây thừng lập tức bị giật căng, bật lên tưng tưng như gảy đàn. Chỉ nghe tiếng rung đã dủ biết, sức kéo ờ đầu thừng bên kia rất lớn. Cơ thể Quỷ Nhãn Tam đã đổ hẳn về phía trước, vẻ như Phó Lợi Khai đang rơi thẳng xuống dưới.
Nhậm Hoả Cuồng vội vã ôm chặt lấy vai Quỷ Nhãn Tam, giữ được hắn lại không đến nỗi ngã sấp. Lão mù vung tay, đẩy mạnh Tùng Đắc Kim đi, nói lớn:
- Mau giúp họ!
Sợi dây thừng thẳng căng vẫn rung lên bần bật, may mà Tùng Đắc Kim đã chụp được sợi dây, cánh tay lực sĩ của gã trở nên đặc biệt hữu dụng. Ba người cùng hợp sức giữ sợi dây thật vững, cây xẻng vẫn được cố định nguyên chỗ cũ, không xê dịch một ly.
Phó Lợi Khai hai tay bắt chéo, dốc hết sức lực tự lôi cơ thể lên đỉnh dốc, khuôn mặt cứng nhắc giờ rúm ró méo xệch. Gã gào lớn:
- Đừng lại gần! Đừng ai lại gần! Nút lẫy của khảm diện ở đây!
Lỗ Nhất Khí nhìn gã bò trườn một cách khiếp đảm trên đỉnh dốc, cảm thấy kinh ngạc vô cùng, nghĩ thầm: “Không biết là thứ gì đã khiến hắn sợ hãi đến nỗi không cả dám đứng dậy mà đi?”
Phó Lợi Khai cứ thế bò thẳng tới bên chân Lỗ Nhất Khí, Lỗ Nhất Khí phải đưa tay đỡ, gã mới đứng dậy nổi, giọng nói còn chưa hết run rẩy:
- Người chết! Toàn là người chết!
- Người chết cái gì? Nói cho rõ ràng xem nào, không đầu không cuối ai mà hiểu nổi! Chẳng lẽ người chết kéo anh xuống à? – Không phải Thuỷ Băng Hoa muốn làm cho không khí thêm căng thẳng, mà là vì vẻ mặt của Phó Lợi Khai khiến cô ta không thể không căng thẳng
Lỗ Nhất Khí vỗ nhẹ vào vai Phó Lợi Khai, nói:
- Cứ bình tĩnh, nói rõ xem nào!
Phó Lợi Khai thở lấy thở để vài nhịp mới lấy lại bình tĩnh mà nói:
- Đi qua đỉnh dốc là một sườn núi dốc đứng, trên dốc không hề có tuyết phủ mà chỉ có mặt băng trơn trượt. Dưới dốc toàn xác chết, đều chết vì bị ngã!
- Tôi hiểu rồi! Đây là khảm diện điên đảo hình dốc, mục đích của nó là khiến cho người rơi vào trong khảm tự nhiên tích tụ thế lao lên một cách vô thức, sau khi lên tới đỉnh dốc, lập tức tự rơi xuống vực! – Thuỷ Băng Hoa vừa nghe Phó Lợi Khai thuật lại, đã quả quyết.
- Đúng đấy! Đúng đấy! Vừa rồi tôi đã cảm thấy khảm diện này không hề dùng đến phép che mắt, mà chỉ là “dựa hình dần biến đổi, tích thế trong vô hình”. Trước đây sư phụ tôi từng nói đến nguyên lý này, song tôi lại không chú ý lắng nghe! – Lời của Thuỷ Băng Hoa như một gợi ý khiến Phó Lợi Khai bừng tỉnh.
Song người bừng tỉnh thực sự lại không phải là Phó Lợi Khai, mà là Lỗ Nhất Khí. Trong đoạn đối thoại giữa Thuỷ Băng Hoa và Phó Lợi Khai, có một chữ cậu nghe rõ nhất, đó là chữ “biến”. Một đoạn văn tự trong “Cơ xảo tập” lập tức hiện lên trong trí não…
“Hình không phải là nhìn thấy, hình không phải là cảm thấy, nhìn và cảm xuất phát từ tâm, tâm thường biến, biến thì hình đó không phải là hình…”
“Không phải là hình cũng là vô hình, không biết lực đi đến đâu, thế từ đâu tới…”
“Biến tròn vuông, biến lên xuống, biến xa gần. Khéo dùng một cây, một đá, dáng núi, sắc rừng, mắt nhìn sai, cảm biết loạn…”

*

Chương 5.3 LOẠN CAO THẤP

Những nguyên lý trong “Cơ xảo tập” đang lần lần tương ứng với cảnh tượng trước mắt.
Đột nhiên, Lỗ Nhất Khí nhãn thần bừng sáng, tựa như vừa bừng tỉnh khỏi cơn mơ. Cậu chậm rãi nói:
- Lần này đúng là đã tới đích rồi! Đây chính là khảm diện bảo vệ báu vật mà tổ tiên để lại.
- Khảm diện này quả là hoành tráng, để tạo ra nó không biết phải tiêu tốn bao nhiêu thời gian sức lực! – Nhậm Hoả Cuồng trông xa nhìn gần một hồi, bất giác thốt lên lời cảm thán.
- “Dựa hình dần biến đổi, tích thế trong vô hình”, anh Phó nói đúng, khảm diện này đã lợi dụng địa hình vốn có, lại dùng cây cối đất đá để che chắn nguỵ trang nhằm đánh lừa thị giác con người. Anh Phó, anh cho tôi mượn bức tranh Lộng phủ của sư phụ anh xem một lát, chưa biết chừng tiền bối đã lưu lại manh mối gì trong đó cũng nên! – Lỗ Nhất Khí chợt nhớ tới bức tranh với thủ pháp lạ lùng trong tay Phó Lợi Khai.
Phó Lợi Khai không chút chần chừ lập tức lấy bức tranh ra đưa cho Lỗ Nhất Khí. Lỗ Nhất Khí dùng năm đầu ngón tay trái đỡ lấy bên dưới bức tranh, sau đó đưa mu bàn tay xoa nhẹ trên mặt tranh một lát. Xúc giác mẫn cảm đã cho cậu thấy bề mặt bức tranh không hề bằng phẳng. Cậu bèn quay người hướng về phía mặt trời, năm đầu ngón tay vẫn đỡ lấy bức tranh, đưa bức tranh nằm trên cùng một mặt phẳng với đôi mắt, sau đó liên tục thay đổi cách nhìn, tìm kiếm xem liệu có huyền cơ nào ẩn chứa bên trong.
Đến khi Lỗ Nhất Khí nheo mắt thành bên to bên nhỏ, thì Phó Lợi Khai kinh ngạc đến há hốc cả miệng mồm, khuôn mặt lệch hẳn sang một phía.
Và Lỗ Nhất Khí đã nhìn thấy! Cậu đã phát hiện ra một thế giới lung linh huyền diệu ẩn giấu trong bức tranh. Trong tranh có núi, có rừng, có nước, còn có những văn tự đủ màu sặc sỡ. Chỉ có thứ màu Cung hội thái đời Nguyên mới tạo nên được hiệu quả thần kỳ đến vậy. Cung hội thái pha với dầu băng tinh, độ đậm đặc kết dính rất cao, nên có thể phủ nhiều lớp màu lên nhau tạo thành một độ dày nhất định. Lợi dụng độ dày của màu dầu để ẩn tàng một địa đồ lập thể là không quá khó khăn, thế nhưng phải lợi dụng ánh sáng chiếu nghiêng và góc nhìn thích hợp mới có thể nhận ra.
Lỗ Nhất Khí không chỉ nhìn thấy địa đồ, mà còn nhìn thấy một đường chỉ dẫn màu đỏ, vị trí mà nó chạy qua chính là lối đi từ đường mòn Sam Đỏ tới trước khe núi Hai Gối. Chỉ khác ở chỗ, trên tấm địa đồ lập thể, từ rừng sam đỏ tới trước khe núi không phải là dốc lên xuống nhấp nhô, mà là một đường dốc xuống liên tục gồm ba khúc với ba độ dốc khác nhau, khúc sau dốc hơn khúc trước.
Tấm địa đồ còn cho cậu biết ở đây có một khảm diện lớn, do vài dốc núi nối tiếp tạo thành, kết hợp với những rừng cây, đỉnh núi xung quanh mà phát huy tác dụng. Đáng tiếc là tấm địa đồ phát hiện hơi muộn, nên cũng chẳng còn ý nghĩa gì.
Song vẫn còn một thứ hữu ích, chính là những văn tự màu sắc rực rỡ trên tấm địa đồ. Trong đó có những điều mà bác cậu chưa kịp nói, mà thậm chí có lẽ bản thân ông cũng không biết.
Đoạn văn tự chép rằng, hơn hai nghìn năm trước, Lỗ Ban cùng đệ tử phải tìm hung huyệt, điểm cát địa, dựng ám cấu, giấu ngũ bảo, nên nhân lực vật lực đều cạn kiệt. Sau khi xây xong ám cấu giấu ba bảo bối đầu tiên, Lỗ gia đã hao hụt nguyên khí nặng nề, bởi vậy việc chôn giấu hai bảo bối cuối cùng có phần lao lực. Để đưa địa bảo đi chôn giấu ở phía đông, Lỗ gia đã dốc hết toàn bộ nguyên vật liệu quý hiếm trong nhà, chế tạo nên một con thuyền đi biển vô cùng kiên cố. Khi đó một đệ tử Lỗ gia tên gọi Lỗ Tử Lang mang theo Địa bảo, dắt môt người con, một người cháu ruột, một người cháu họ khởi hành từ trên sông Dương Tử, theo sông ra biển, từ đó biệt tăm biệt tích không một hồi âm. Bảo bối cuối cùng là Kim bảo ở phía đông bắc, Lỗ gia quyết định cất giấu cuối cùng, là vì đông bắc rừng núi rậm rạp, có thể lấy nguyên liệu tại chỗ, nhanh chóng hoàn thành đại nghiệp. Lúc này Lỗ gia chỉ còn lại chín đệ tử tráng niên, nhất tề mang theo Kim bảo ngược lên đông bắc, cũng không thấy quay về. Đến tận một nghìn năm sau, Lỗ gia hưng thịnh trở lại, nhân tài Ban môn mới ngược lên vùng đông bắc tìm kiếm hậu duệ của người cất giấu và bảo vệ bảo bối năm xưa. Hậu duệ Ban môn nơi đây tuy số người thưa thớt, song đã tự thành phái riêng, không muốn quay trở lại Trung Nguyên, mà nguyện lưu lại nơi đây đời đời kiếp kiếp truyền thừa nhiệm vụ bảo vệ bảo bối cho tới ngày nay.
Mọi người chỉ biết đứng im nhìn Lỗ Nhất Khí không chớp mắt. Không ai nói câu nào, vì sợ ảnh hưởng tới cậu.
Cuối cùng, Lỗ Nhất Khí cũng đã rời mắt khỏi bức tranh, quay sang nhìn Phó Lợi Khai mà nói:
- Nội dung trên bức tranh này là bí mật môn phái của anh, cũng là bí mật của Ban môn.
Phó Lợi Khai lúc này mới khép miệng lại, lắp bắp:
- Cậu nói xem!
- Một địa đồ ẩn tàng, dẫn tới nơi giấu bảo. Giữ bảo đời đời truyền, không chịu về Trung Nguyên! – Lời Lỗ Nhất Khí có phần kín đáo vắn tắt, song Phó Lợi Khai đã hiểu. Trong mắt gã ánh lên những tia sáng tinh nhanh, khuôn mặt cứng nhắc chợt hoạt bát hẳn lên bởi một vẻ hưng phấn và xúc động lạ thường. Gã chăm chú nghe như nuốt từng câu, từng chữ của Lỗ Nhất Khí. Sau cùng, ánh sáng trong mắt chợt mờ đi, cần cổ căng thẳng cũng hơi chùng xuống.
- Không sai! Cậu quả đúng là người tôi chờ đợi. Thực ra ngay từ đầu tôi đã không hề nói dối, tôi thực sự không biết mình có phải là đệ tử Ban môn hay không. Sư phụ chưa từng nói cho tôi biết, chỉ căn dặn tôi ở yên nơi này đợi người mang tín vật Lộng phủ tới, hơn nữa, người này phải nhận ra được bí ẩn giấu trong bức tranh, hoặc có thể nói ra sự tích về tổ sư của tôi. Ban đầu, cậu không phát hiện ra bí mật trong tranh, cũng không kể gì về tổ sư gia, nên tôi đã nghi ngờ cậu. Song từ khi gặp cậu, tôi đã thấy cậu bản lĩnh phi phàm, nên muốn nhập bọn đi theo, tìm kiếm bảo cấu hung huyệt, khai quật bảo bối, hoàn thành di nguyện của tổ tiên.
- Cho nên ngay từ đầu ngươi đã giả ngây giả ngô, tới khi chúng ta thay đổi đường lối, đi về phía đường mòn Sam Đỏ, ngươi mới cảm thấy hào hứng, bắt đầu thể hiện bản thân? – Lời Nhậm Hoả Cuồng hệt như búa thợ rèn, nhát nào cũng trúng.
Khuôn mặt méo xệch của Phó Lợi Khai giật lên một cái, không biết là muốn bày tỏ sự hối lỗi hay hổ thẹn:
- Khu vực này thực sự tôi chưa từng tới, khảm diện lại càng mù tịt, có điều sư phụ trước đây đã từng nhiều lần dẫn tôi tới đường mòn Sam Đỏ, bởi vậy tôi khá thông thạo con đường dẫn đến nơi này. Sư phụ còn dặn rằng, các vị tổ tiên năm xưa khi đến đây xây dựng ám cấu đã không ngờ rằng phương đông bắc giá rét không có nhiều gỗ lạt như lời đồn đại, nên đành phải căn cứ theo địa hình địa thế tự nhiên để tiến hành cải tạo, việc đó đòi hỏi một khoảng thời gian rất dài, trước sau đã tiêu hao tinh lực của vài thế hệ. Hơn nữa, do môi trường biến hoá, cây cối sinh trưởng, nên phải liên tục tu sửa chỉnh đốn. Song trước khi về chầu trời, sư phụ bảo tôi không cần phải làm những việc này nữa, vì người dự đoán rằng chỉ qua vài năm, người tìm bảo bối sẽ tới.
Phó Lợi Khai không còn phải giả bộ ngây ngô thô vụng để che giấu bản thân, nên nói năng cũng thoải mái hơn, thi thoảng lại chêm vào một vài thuật ngữ của kẻ đi rừng.
- Sao cơ? Ban môn làm nhiệm vụ bảo vệ báu vật ở đây, lại chỉ lưu lại có một mình ngươi? – Lão mù ngạc nhiên hỏi.
Phó Lợi Khai cười nhăn nhó mà nói:
- Nơi đây dân cư thưa thớt, xây dựng nhà cửa cũng đại khái qua loa, không cần đến thợ khéo. Bởi vậy, ở đây không thể kiếm sống nhờ kỹ nghệ, nên tôi mới phải chuyển sang buôn bán gỗ rừng. Thu nạp đồ đệ lại càng khó khăn. Hơn nữa từ đời sư phụ tôi trở về trước còn phải liên tục sửa sang giữ gìn khảm diện, làm những công việc tiêu tốn sức lực mà chẳng được lợi lộc gì. Ngoài những người chịu ơn sư phụ giữ hồn (cứu mạng) như tôi đây, không có kẻ nào muốn theo nghề cả.
- Bức tranh Lộng phủ của anh tuy dùng màu vẽ cổ xưa, song độ tuổi giấy vẽ lại chưa đầy trăm năm, tức là thời gian vẽ chưa lâu, phải chăng do sư phụ của anh vẽ ra rồi lưu lại? – Lỗ Nhất Khí vẫn rất tò mò với bức tranh đang cầm trên tay.
- Đúng vậy! Sư phụ tôi nói rằng, những bậc tổ tiên bảo vệ bảo bối vốn không để lại bất kỳ hình vẽ nào, song vì thợ rừng qua lại ngày một đông đúc, bảo cấu đã nhiều lần bị người ta phát giác, song may là các bậc tổ tiên đã thiết kế nên khảm diện thần kỳ, nhờ vậy mà chưa ai phá được ám cấu. Song cũng có hai cao nhân từng lần được vào bên trong, nên các bậc tổ tiên đã phải liều mạng mới tiêu diệt được họ. Không ai dám đảm bảo ngày sau lại có cao nhân bản lĩnh cao siêu đột nhập, phát hiện ra bảo bối. Thế là khoảng trăm năm trước, các vị sư gia, tằng sư gia đã quyết định trồng cây bụi theo cách cục “rào trúc cắm nghiêng” tại lối vào, bít chặt đường đi, lại trồng cây bụi dày đặc bên rìa khảm diện, biến rìa khảm thành tường khảm.
- Nói như vậy thì anh đã biết rõ đường đi từ trước, hoá ra suốt dọc đường anh coi chúng tôi là trò hề à? – Thuỷ Băng Hoa có phần tức tối.
- Không phải không phải! Tôi biết cách xem bức tranh, song lại không thể nhìn ra con đường này. Cô nhìn tôi mà xem, tôi luyện chiêu “ngược sáng tìm gai”, luyện đến mặt mũi méo xệch đến thế này đây!
Nghe Phó Lợi Khai nói vậy, lại nhìn vào bộ mặt của gã, Thuỷ Băng Hoa không nhịn được phải phì cười.
- Nói mãi từ nãy đến giờ, vậy rốt cuộc đây là khảm diện gì? – Tùng Đắc Kim đứng cạnh đã bắt đầu sốt ruột.
Bầu không khí bỗng trở nên lặng phắc, một hồi lâu sau, vẫn là Lỗ Nhất Khí lên tiếng trước:
- Khảm diện này chưa từng có sách nào nhắc tới bởi vậy không biết gọi tên là gì. Nó dựa vào địa hình địa thế tự nhiên vốn có rồi tu sửa, cải tạo thêm mà thành. Mọi người hãy nhìn mấy gốc cây to lớn trên sườn dốc xem, có phát hiện ra điều gì bất thường không? Chúng chính là một trong những vật che mắt, là mồi nhử!
- Có thấy gì đâu! – Tùng Đắc Kim không biết là mắt mờ hay đầu đất mà không nhận ra có điểm gì khác thường.
- Hãy nhìn kỹ mà xem! Có phải tỷ lệ giữa tán cây và thân cây có sự khác biệt hay không? Anh đừng so sánh hai cây ở gần nhau, vì độ chênh lệnh quá nhỏ. Anh hãy so sánh cây đầu tiên với cây cuối cùng sẽ thấy rõ. Chúng tuy cao lớn, song tuổi cây lại chưa lâu, có lẽ do người ta bứng đến trồng ở đây! – Lỗ Nhất Khí giải thích.
- Cái này có thể nhìn ra, song vẫn có thứ không thể nhìn ra được. Ví dụ những ngọn núi mà đứng từ đây có thể nhìn thấy, do bị rừng rậm chạy dài che phủ nên không thể nhìn rõ phần chân núi. Bởi vậy, không còn thứ gì để đối chiếu, nên chúng ta không thể nhận ra rằng những ngọn núi kia vì bị ăn mòn phong hoá nên biến dạng cùng nghiêng về một phía. Tập hợp tất cả những yếu tố này lại sẽ gây ra sai lệch về thị giác, dốc xuống lại ngỡ là dốc lên. Nên đỉnh dốc kỳ thực là một chỗ ngoặt đột ngột chuyển sang con dốc dựng đứng. Trên suốt đường đi, chúng ta vô thức lầm tưởng xuống dốc là lên dốc, sau ba lần gấp khúc liên tiếp, bước chân đã tích tụ dược một sức mạnh tiềm tàng rất lớn. Khi đến chỗ chuyển ngoặt cuối cùng, người trong khảm diện sẽ chẳng khác nào lao chân xuống vực, tự quăng mình xuống dốc núi thẳng đứng.
Lỗ Nhất Khí nhìn lướt qua một lượt những khuôn mặt chăm chú lắng nghe, rồi nói tiếp:
- Lần này may mà có chú Hạ! Chú đã dựa vào cảm giác của bước chân để phân biệt độ dốc, nếu không chúng ta đều đã bỏ mạng trong chính khảm diện bảo vệ bảo bối của nhà mình. Kỳ thực, chúng ta đều ít nhiều cảm thấy bước chân có chỗ bất thường, song lại quá tin tưởng vào cặp mắt.
Nguyên lý của khảm diện đã sáng tỏ, nhưng vẫn phải tìm cách để vượt qua khảm diện. Thuỷ Băng Hoa đã đưa ra một phương pháp chuẩn xác đáng tin: đi theo khảm diên, tức rìa khảm.
Rìa khảm đã biến thành một bức tường cây ken dày rậm rạp, nhưng Tùng Đắc Kim và Quỷ Nhãn Tam kẻ chém người phạt một hồi, bên rìa rừng cây bụi đã mau chóng xuất hiện một lối đi rộng chừng một thước. Đi lại trên con đường hẹp này vài bước, lập tức cảm thấy độ lên xuống của dốc núi đảo ngược trở lại. Họ cứ phạt cây mà đi, cuối cùng đã thuận lợi vượt qua “đỉnh dốc”.
Tình hình dưới dốc giống hệt như Phó Lợi Khai đã miêu tả, đầy rẫy xác chết. Cảnh tượng vô cùng thảm khốc, sặc mùi máu tanh, khiến Thuỷ Băng Hoa phải quay đi nôn thốc nôn tháo.
Băng phủ kín trên dốc xuống, dưới chân dốc là nguyên một khối băng dày. Trên vách đá gần chân dốc là tầng tầng lớp lớp nhũ băng. Bên dưới còn có rất nhiều hài cốt, phần lớn đã bị chôn vùi dưới lớp băng, chỉ có rải rác vài cỗ thi hài dựng đứng trên mặt băng, chĩa thẳng lên bầu trời xám xịt.
Trên bề mặt khối băng dưới chân dốc đã đóng cứng một lớp băng đỏ sẫm, là do máu người đông kết mà thành. Những người này trông như mới chết chưa lâu, bị ướp trong băng giá bên ngoài và nhũ băng trong cơ thể, cảnh tượng sống động đến kinh hoàng.
Đây mới là nút lẫy chết cuối cùng của khảm diện dốc ba đoạn, từ đỉnh dốc trượt chân lao xuống theo vách băng trơn trượt, càng trượt càng nhanh, cho tới khi đâm vào tảng đá phủ kín nhũ băng. Cú va đập rất mạnh sẽ khiến cho nhũ băng gãy rời, ào ào lao xuống, xuyên suốt cơ thể. Có thể thấy khi trời ấm băng tan, nơi đây là một thác nước, nếu trượt chân sẽ ngã xuống đầm sâu bên dưới thác nước, kết cục sẽ là bị vòng xoáy trong đầm nhận xuống đáy sâu hun hút.
Trong những xác chết còn mới, có sát thủ áo đen của hội Minh tử tiêm đao, có đao thủ trong khảm diện Công tập vi. Nhưng chỉ có thể phân biệt dựa vào trang phục và vũ khí bên người, vì cơ thể mặt mày đều đã giập nát đến không thể nhận ra. Tư thế tử vong đã đóng băng nỗi đau đớn tuyệt vọng của họ trong cơn giãy giụa cuối cùng, mặt băng phía trước bị cào bới thành nhiều rãnh sâu hoắm, và những đầu ngón tay đều trơ xương trắng nhởn.
Người của đối thủ đã vượt qua đây khá lâu, cũng có nghĩa là họ phải hành động thật cấp tốc. Mọi người vô cùng thận trọng giẫm lên mặt băng dày vượt qua vách núi, không phải vì sợ mặt băng rạn nứt, mà e ngại bên dưới lớp băng có bố trí khảm diện.
Nhưng những bậc tiền bối của Lỗ gia xem ra đều là những người trung hậu, từ lúc vượt qua đầm băng cho tới khi đến trước khe núi Hai Gối, bọn họ không còn gặp thêm khảm diện nào nữa. Kỳ thực “bố trí theo hình, theo hình mà biến” nói thì dễ, song bắt tay vào thực hiện không những vô cùng gian khổ, phức tạp, mà còn phải chịu sự hạn chế của rất nhiều nhân tố khác như địa hình, địa thế, cục diện rất đồ sộ đến khó tưởng tượng.
Nhìn từ xa lại, lối vào khe núi Hai Gối khói sương vấn vít như chốn thần tiên. Song khi tới gần, mới biết bên trong sương mù cuồn cuộn, chỉ cách vài bước đã không nhìn rõ mặt người, khác gì động yêu hang quỷ. Lại thêm hơi nóng dồn dập phả ra, khiến dám sương mù hệt như hơi nước đang ngùn ngụt bốc lên từ một chảo nước sôi khổng lồ.
Cả đám đều sững sờ khựng lại, không ai dám phán đoán trước mặt họ là một thế giới quái dị ra sao. Chỉ nhìn vào hơi sương mù mịt, chí ít có thể đoán rằng nhiệt độ trước khe núi rất cao, chưa biết chừng bên trong còn cao hơn nữa. Lẽ nào họ sắp phải bước vào quỷ vực băng hoả giao tranh?
Trời đã xế chiều, ánh tịch dương trải dài trên rừng núi, nhuốm sắc vàng kim lên những ngọn cao. Từ lưng núi trở xuống sắc ngả âm trầm, đặc biệt là những sườn dốc sấp bóng mặt trời lại càng thẫm đen u ám, tựa như trời đất sắp đến hồi tàn, khiến lòng người cũng ngột ngạt nặng trĩu.
Bước vào trong khe núi, sương mù càng dày đặc, trong hoàn cảnh này, con mắt nhìn thấu đêm đen của Quỷ Nhãn Tam cũng trở nên vô dụng. Lối vào tuy không rộng, song bước vào trong lại phân thành mấy ngả đường, không biết được đâu mới là lối đi chính xác.
Cảm giác của Lỗ Nhất Khí bắt đầu trở nên rối loạn, không phải do sương mù dày đặc, cũng không phải do đường đi phức tạp, mà do bên trong có một làn khí lớp lớp lan toả, đợt đợt tràn trề, xuyên qua sương mù mà tới. Trong làn khí hỗn độn rất nhiều thứ, may mắn có, nguy hiểm có, trong trẻo có, tanh tưởi có, khiến Lỗ Nhất Khí tâm tư xáo trộn dữ dội, trong lòng dấy lên một nỗi bồn chồn giận dữ khó mà kiểm soát nổi. Cậu hiểu rằng, đây là nơi giao thoa tụ hội của những thứ tốt đẹp nhất và hung dữ nhất, nếu muốn hoàn thành đại sự, trước hết phải trấn tĩnh tư duy, điều hoà tâm thái.
- Hãy dừng lại đây nghỉ ngơi một lát! Mọi người đã đi hơn một ngày trời mà chưa ăn uống gì! – Lỗ Nhất Khí nói xong câu này, cũng cảm thấy lấy làm lạ. Lao lực suốt một ngày đêm, tại sao không ai cảm thấy mệt mỏi hay đói khát? Sức hấp dẫn của bảo bối quả thực đáng sợ.
- Đây là lối ra vào thung lũng, phía trước lại có sương mù dày đặc che mắt. Dừng chân ở đây, nếu đối thủ lén lút tiếp cận, bất ngờ đánh lén, chúng ta sẽ trở tay không kịp. Cho dù đối thủ không có ý định tập kích, song nơi đây cũng là con đường tất yếu phải đi qua, chẳng may đụng đầu, khó tránh một trường kịch chiến. Lại thêm hai bên đều là vách núi dựng đứng, kiểu gì cũng là chỗ nguy hiểm cần phải tránh xa! – Lão mù nói rất có lý, hơn nữa câu cuối cùng không chỉ là kinh nghiệm giang hồ mà còn là thường thức trong quân sự.
Quỷ Nhãn Tam chọn lấy một con đường, và mọi người lại tiếp tục đi về phía trước. Nhìn vào hướng nghiêng của cây cỏ và đá vụn hai bên đường để phán đoán, có vẻ như con dường chạy dốc lên trên. Đi lên trên cao sẽ thoát khỏi đám sương mù, nguy hiểm sẽ giảm bớt, khả năng đụng đầu đối thủ cũng thấp hơn.
Đoàn người cứ đi cho đến tận khi nhìn thấy ánh tà dương mới dừng lại. Núi Hai Gối không cao, lên tới đoạn này, lớp sương mù đã ở dưới chân họ.
Họ chia nhau chỗ lương khô cuối cùng còn sót lại, rồi đổ đầy tuyết vào trong những vật đựng mang theo. Bởi vì sau khi tiếp tục hành trình, không ai biết trước liệu mình có còn sống sót để ăn bữa tiếp hay không.
Nhân lúc trời còn chưa tối hẳn, Lỗ Nhất Khí và mọi người đứng ở trên cao quan sát kỹ lưỡng địa hình trong thung lũng.
Địa thế dưới lòng thung lũng không thực bằng phẳng, có hình chữ nhật hẹp dài, song chính giữa có môt vùng hơi nhô cao so với xung quanh. Trong thung lũng không có cây cối, chỉ có một lớp cỏ khô rất dày che phủ
- Ồ, hình như đây chính là “Thần ngao phụ đỉnh”*! – Nhậm Hoả Cuồng kêu lên.
- Không phải! Có lẽ là “Long bàn ngao đỉnh”**. Lão Nhậm mới chỉ thấy bên dưới thung lũng địa thế bằng phẳng, ở giữa nhô lên, xung quanh lõm xuống, hình giống mai rùa; bốn xung quanh là vách núi, bốn góc là đỉnh núi, toàn bộ hình thành cách cục Ngao đỉnh. Nhưng mọi người hãy chú ý quan sát mà xem, thế núi xung quanh thung lũng lên xuống nhấp nhô, trập trùng không dứt, nổi lên từ cửa thung lũng, rồi lại quay về cửa thung lũng, giống hệt con rồng lớn cuộn tròn, rõ ràng là cách cục Bàn long. Hai cách cục này kết hợp với nhau, hẳn là cục tướng Long bàn ngao đỉnh! – Phó Lợi Khai phóng tay chỉ trỏ, nói thao thao đến mức nước bọt toé tung, bộ dạng vô cùng đắc ý.
* Có nghĩa là rùa thần cõng vạc. (Nd)
** Có nghĩa là rồng cuộn vạc rùa. (Nd)
- Thần ngao phụ đỉnh là bảo địa phong thuỷ thuộc hàng công hầu khanh tướng, tìm được bảo địa như vậy đã là hiếm có. Nếu đặt mộ tổ phía dưới đầu ngao, có thể đời đời quyền cao chức trọng. Còn Long bàn ngao đỉnh lại càng thần kỳ, đó là cục tướng nắm giữ thiên hạ. Không biết con cháu nhà ai có được phúc phận này? – Lão mù nghe Nhậm Hoả Cuồng và Phó Lợi Khai bàn luận, bất giác cũng thốt lên đầy cảm khái.
- Nghe nói gần đây có vùng đất cư trú và cúng tế của tổ tiên người Mãn. Tộc Mãn năm xưa mẹ goá con côi nhập quan mà giành được thiên hạ, không chừng là nhờ phúc của phong thuỷ chôn này! – Lỗ Nhất Khí đã có dự cảm này từ trước. Hốt Tất Liệt nhờ Thổ bảo đoạt thiên hạ, Chu Nguyên Chương nhờ Hoả bảo nắm cực quyền, người Mãn giành được Trung Nguyên, chưa biết chừng cũng có liên quan tới Kim bảo vùng đông bắc.

*

Chương 5.4 NGÓI MAI RÙA

- Vốn dĩ nơi tôi định dẫn mọi người tới là một vùng đất tế lễ cổ xưa. – Tùng Đắc Kim bỗng phấn chấn hẳn lên – Tổ tiên tôi từng nói ở đó mọc đầy nhân sâm, linh chi, trùng thảo, trăn ma*, là vùng bảo địa!
* Một loại nấm nhỏ mọc ô trên cây phỉ (cây trăn), hơi giống nấm hương, do có hương thơm của gỗ cây phỉ nên loại nấm này mùi vị rất thơm ngon, số lượng rất ít nên rất quý hiếm, đặc biệt là loại nấm rừng mọc tự nhiên.
- Vậy không chừng đấy chính là vùng đất tế lễ của tổ tiên người Mãn, cũng là một lối vào khác của bảo cục phong thuỷ! – Lỗ Nhất Khí có vẻ như an ủi gã.
- Cũng đúng! Chúng ta đã phải đi một vòng, con đường mà chúng ta vừa đi có hình vòng cung, đầu bên kia của khe núi chắc chắn chỉ cách hẻm rừng (đường mòn trong rừng) mà chúng ta đã đi khi chưa đổi đường chẳng bao xa! – Phó Lợi Khai vẻ như đột nhiên bừng tỉnh, bộ dạng đầy hối hận và tiếc nuối. Song chẳng ai thèm để ý tới gã. Mọi người đều biết, trong cánh rừng già Đông Bắc này, lời lẽ của phường lái gỗ là khó tin nhất.
Trời đã sập tối, của Lỗ Nhất Khí cuối cùng cũng đã bình ổn trở lại. Không hiểu tại sao, sau khi biết được mình đang ở trong cục tướng kỳ tuyệt Long bàn ngao đỉnh, tâm tư rối bời của cậu lập tức lắng dịu ngay xuống.
Đường đi trong khe núi vẫn khói sương mờ mịt, lại thêm trời chiều nhá nhem, tầm nhìn càng thêm hạn hẹp. Song dù cho con đường trước mặt có hiểm trở đến đâu, họ vẫn phải kiên định dấn bước.
Có cả thảy sáu con đường. Ngoài con đường họ vừa đi theo để leo lên núi, còn lại năm con đường. Không thể lần lượt đi hết cả năm, như vậy có tới mùa quýt sang năm cũng chưa tìm được nơi cần đến.
Họ quyết định chia hai đường đi tiếp. Nhậm Hoả Cuồng, Phó Lợi Khai, Tùng Đắc Kim đi theo một ngả; Lỗ Nhất Khí, lão mù và Quỷ Nhãn Tam đi theo một ngả. Còn Thuỷ Băng Hoa, mọi người để cô ta tự quyết định, thích đi theo nhóm nào thì đi, hoặc cũng có thể ẩn mình trên núi đợi bọn họ trở ra.
Trước khi ai theo đường nấy, Quỷ Nhãn Tam đề xuất nên dùng ám hiệu để có thể nhận ra đối phương trong sương mù. Gã Tùng Đắc Kim khù khờ lại đưa ra được một ý kiến khá hay:
- Chẳng cần ám hiệu gì đâu! Nhìn thấy nhau thì xướng tên mình lên là xong!
Phó Lợi Khai và Nhậm Hoả Cuồng chẳng nói gì thêm, lập tức quay người bước theo Tùng Đắc Kim, tiến vào trong màn sương dày đặc.
Đám Lỗ Nhất Khí sắp xếp trình tự trước sau xong xuôi mới tiến vào một con đường. Lúc này, con mắt cú đêm của Quỷ Nhãn Tam đã trở nên vô dụng, nên thính giác nhạy bén của lão mù trở thành công cụ tìm kiếm và phòng bị đắc lực nhất. Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa lần lượt đi phía sau lão mù. Lỗ Nhất Khí cầm ngang khẩu súng trường Mauser trong tay, lên đạn sẵn sàng, tay phải đặt sẵn vào cò súng, gác thân súng lên trên cánh tay trái; bàn tay trái còn nắm chặt một quả lựu đạn trứng vịt, ngón giữa ngoắc sẵn vào chốt an toàn. Thuỷ Băng Hoa đi sát sau lưng Lỗ Nhất Khí, một tay rất tự nhiên túm lấy vạt áo cậu. Quỷ Nhãn Tam đi cuối cùng.
Không gian mịt mù hỗn độn nơi đây chợt khơi dậy trong Quỷ Nhãn Tam một cảm giác đã lâu lắm rồi không xuất hiện, cảm giác đã từng đeo đuổi hắn khi bị nhốt kín trong mộ thất chìm dưới rừng rậm thâm u trước khi luyện thành tựu dạ nhãn. Dường như trong bóng tối có vô số đôi mắt ma quái đang nhìn hắn chằm chằm.
Con đường tuy quanh co lắt léo, song lại không dài, khoảng ba, bốn trăm bước đã kết thúc. Trước mặt họ chính là vùng đất phẳng dài hẹp trong lòng thung lũng
- Cẩn thận, có rãnh! – Quỷ Nhãn Tam lên tiếng nhắc nhở. Không gian đã mở rộng, sương mù cũng khó tụ, bởi vậy tuy trong khe núi tối tăm xoè bàn tay không thấy ngón, nhưng con mắt của Quỷ Nhãn Tam vẫn nhìn rõ mồn một.
Lỗ Nhất Khí ngồi thụp xuống bên cạnh khe rãnh, đặt súng trường và lựu đạn xuống, lôi viên đá huỳnh quang Ba Tư trong túi ra, dùng ba ngón tay đỡ lấy, bàn tay còn lại khum khum che chắn, như vậy có thể soi sáng trước mặt mình, mà người ở phía xa cũng không phát hiện ra.
Đây là một rãnh băng không rộng, chính là nơi lõm xuống ở bên rìa “mai rùa” mà họ đã quan sát được khi còn trên núi. Song rãnh băng trông rất quái lạ, vẻ như không phải do nước đọng đóng băng mà thành. Lớp băng ở phía gần Lỗ Nhất Khí rất mỏng, song càng sang bờ bên kia càng dày, khiến bề mặt băng lượn thành hình vòng cung. Đến rìa “mai rùa” thậm chí còn đóng kết thành vô số cột băng, nhũ băng với hình thù kỳ quái.
- Mặt băng này là do hơi nước bốc lên đông lại mà thành! – Lỗ Nhất Khí đã được học về sự hình thành của hiện tượng này ở trường Tây học.
- Nhìn độ dày của băng, hơi nước dưới mé cạnh! – Quỷ Nhãn Tam nói cụt lủn đến khó hiểu, nhưng cũng chẳng thèm giải thích thêm, chỉ tung một bước dài nhảy qua rãnh băng, rút phắt cây xẻng lưỡi cày, đập thẳng cánh vào đám cột băng, nhũ băng ken kín bên cạnh “mai rùa”.
Tiếng va đập vang khắp khe núi, trộn lẫn với dư âm vọng lại từ vách đá, văng vẳng mãi không thôi.
- Nghê Tam! Dừng tay! Đừng phí sức phá băng, xem xét dưới chân ngươi đi! – Lão mù dường như đã nghe tháy có âm thanh bất thường vang lên từ chỗ đặt chân của Quỷ Nhãn Tam.
Quỷ Nhãn Tam bèn quay xuống đào bới dưới chân, cứ đào xuống vài tấc, lại đưa ngón tay vê vê đất bùn, đưa lên mũi ngửi, thi thoảng lại thè cả lưỡi ra liếm. Đây là kỹ pháp của gia tộc trộm mộ. Tầng đất nện quanh mộ cổ thường cứng hơn so với chất đất bình thường, không dễ thấm hút nước, bởi vậy có thể căn cứ vào màu sắc, độ cứng và hàm lượng muối của bùn đất đào ra để phán đoán sơ bộ về tình hình bên dưới.
Lỗ Nhất Khí nheo nheo đôi mắt, dùng tâm thái tự nhiên để cảm nhận về mọi thứ xung quanh, hy vọng có thể phát hiện ra điều gì đó.
Quỷ Nhãn Tam đào xuống chưa đầy hai thước thì dừng lại, nằm rạp xuống đất, đưa tay thọc sâu xuống hố.
- A! Gỗ? Là gỗ rất cứng!
Lỗ Nhất Khí đứng dậy, tung người nhảy qua rãnh băng, đưa viên đá huỳnh quang Ba Tư xuống lỗ soi, quả nhiên phía dưới là gỗ.
- Không phải đâu anh Tam. Anh lấy một miếng lên xem sao!
May thay cây xẻng do Nhậm Hoả Cuồng rèn ra cực kỳ cứng rắn, nên sau mấy nhát bổ mạnh đến toé lửa, một miếng gỗ nhỏ đã bật ra. Quỷ Nhãn Tam nhặt lấy đưa cho Lỗ Nhất Khí.
Lỗ Nhất Khí hết săm soi lại sờ nắn, rồi lẩm bẩm:
- Đúng là gỗ thật, lại còn là gỗ hoá thạch! Anh Tam, có đào rộng thêm được không?
Quỷ Nhãn Tam thẳng tay múa xẻng, một loáng sau đã lộ ra một bề mặt gỗ hoá thạch rộng chừng mặt bàn.
Bề mặt được ghép bằng những miếng gỗ hoá thạch hình lục lăng diện tích chừng năm thước vuông, tuy không tiếp tục đào bới đám bùn đất xung quanh, song chỉ nhìn vào quy luật sắp xếp của các miếng gỗ, có thể thấy rằng toàn bộ bề mặt ghép nối được kéo dài về phía trung tâm “mai rùa”.
- Mai rùa? – Cục tướng ngao đỉnh và mảnh gỗ hình lục lăng dễ dàng gợi lên một liên tưởng trong đầu Lỗ Nhất Khí.
- Mái ngói! – Quỷ Nhãn Tam thẳng thừng phủ nhận suy đoán của Lỗ Nhất Khí. Hắn đã được học công phu Phô thạch của Lỗ gia, nên gần như thuộc làu tất cả mọi phương pháp lợp ngói. Huống gì cách ghép các miếng gỗ lục lăng ở đây chính là kỹ pháp chính tông của Lỗ gia.
- Mái ngói? – Thuỷ Băng Hoa đang đứng bên cạnh rõ ràng có vẻ kích động.
- Đúng vậy! Là mái ngói ghép từ các mảnh gỗ hoá thạch hình lục lăng, chị… – Lỗ Nhất Khí nhìn Thuỷ Băng Hoa, chờ đợi cô ta nói tiếp.
- Mái ngói đều lợp phía trên nóc nhà, tại sao mái ngói ở đây lại nằm dưới đất? Lẽ nào là mộ cổ? – Lão mù nói xen vào.
- Có lẽ là mái nhà! – Giọng nói của Thuỷ Băng Hoa bỗng phiêu diêu như gió thoảng – Mọi người nhìn địa hình nơi đây mà xem, nếu muốn xây nhà trong thung lũng, nhất thiết phải tương ứng với địa hình, đặc biệt nếu muốn xây dựng công trình kiến trúc có diện tích rộng lớn thì không đủ không gian, chỉ có thể thuận theo thế núi ở hai bên. Mặt khác, muốn ngăn chặn cây đổ đá lăn từ trên núi xuống, cần phải đào rãnh quanh nhà, như vậy vừa bảo vệ được công trình, cũng thuận lợi cho việc thoát nước bẩn.
- Toàn bộ mai rùa đều là mái nhà? – Quỷ Nhãn Tam không nén nổi tò mò hỏi.
Thuỷ Băng Hoa không để tâm tới Quỷ Nhãn Tam, nói tiếp:
- Dựa vào hình thế mà xây dựng, nên công trình trong thung lũng chỉ có thể xây lớn mà không thể xây, bởi lẽ cửa khe chính là cửa thông gió, bên trong lại bị phân cắt bởi những con đường nhỏ trong vách đá chật hẹp khiến gió thổi càng mạnh, nếu xây cao sẽ mau chóng bị sức gió phá huỷ. Không tin mọi người thử nhìn xem, cây cối trong thung lũng chẳng có cây nào cao quá đầu người!
- Bởi vậy ngôi nhà này hoặc là cực thấp, hoặc là có một bộ phận được xây chìm dưới đất? – Lỗ Nhất Khí tiếp lời Thuỷ Băng Hoa.
Giọng nói của Thuỷ Băng Hoa vẫn khẽ khàng như gió, song ngữ điệu có chút hân hoan:
- Cậu thật thông minh, tuy nhiên điều này còn liên quan tới thời gian. Khi công trình này mới được xây dựng, phần nhô lên khỏi mặt đất hẳn không hề thấp. Song lâu dần, bùn đất ở hai bên vách núi liên tục chảy xuống, dần dần phủ kín những bộ phận lộ ra ngoài.
- Năm tháng dài lâu, bùn đất chảy xuống về cơ bản sẽ được phân bố đồng đều. Bởi vậy, rãnh sâu bảo vệ quanh ngôi nhà tuy cũng bị bùn đất chảy vào, song dù sao vẫn có khác biệt so với địa hình xung quanh, nên giờ đây vẫn còn lại một vòng rãnh nông. – Lỗ Nhất Khí tiếp lời.
Thuỷ Băng Hoa bèn nói:
- Phải! Khe rãnh này năm xưa có lẽ sâu hơn rất nhiều. Khi đó, nơi đây tuy cũng là cách cục Bàn long, song là rồng bay trên vực, chứ không phải là cách cục Ngao đỉnh, nhiều nhất cũng chỉ là cách cục Lưu tào**. Sở dĩ ngày nay biến thành cục tướng Long bàn ngao đỉnh, là do kiến trúc nhân tạo đã làm thay đổi địa mạo. Đương nhiên, bên trong toà kiến trúc cũng cần phải có bảo bối thần kỳ trấn giữ thì cục tướng mới có thể biến hoá thành.
** Có nghĩa là máng nước chảy. (Nd)
Lỗ Nhất Khí liền bổ sung thêm:
- Từ thời Đường Tống trở về sau, Phong thuỷ học đã hình thành một phái độc lập ở phương bắc, kiến giải khác hẳn với phái Loan đầu của Dương Công***phái Giang Tây cực thịnh đương thời. Phái Loan đầu lấy lý luận hình thế làm căn cứ, còn phái này lại chủ trương “hình thế có thể dựa vào, cũng có thể biến đổi”. Tương truyền kiến giải của phái này xuất phát từ những kỹ nghệ cao siêu của một số thợ mộc, bởi vậy có tên là phái Công thế.

*

- Tôi hiểu cậu nói vậy là có ý gì, song tôi hoàn toàn không phải là truyền nhân của môn phái nào. Tôi chỉ là một người đàn bà bất hạnh, song tại một nơi tôi không nên đến, tôi đã gặp được một ông lão giúp tôi phán đoán số mệnh nửa đời sau. Ông lão đã dạy tôi một số thứ, nói rằng tôi có thể vận dụng những thứ này để giúp đỡ cho vận mệnh nửa đời sau của mình! – Thuỷ Băng Hoa nói đến đây, ngữ khí đã có phần cứng cỏi.
Lỗ Nhất Khí hiểu rằng, giờ đây không phải lúc để tìm hiểu về lai lịch của người phụ nữ này, mà nên tiếp tục chủ đề lúc nãy, như vậy mới có thể mang những thứ mà cậu đã biết và những thứ cô ta biết kết hợp với nhau như vậy sẽ thuận lợi hơn trong việc phân tích ám cấu cất giữ bảo bối. Cậu nói tiếp:
- Nếu quả thực phía dưới kia là ám cấu cất giấu bảo bối, để phòng ngừa gió thổi khiến bảo khí thất tán, thì lối vào cần phải quanh co uốn lượn, như vậy mới có thể tàng phong tụ khí. Lối vào của công trình cũng phải được đóng kín che kỹ, đề phòng gió thổi xuyên qua, tạo thành thế gió lùa khí tán! – Nói tới đây, trong tâm Lỗ Nhất Khí đột ngột bùng lên một nỗi hoang mang bất thường, mí mắt bên phải giật liền mấy cái.
- Không chỉ có vậy, nếu đây thực sự là nơi ẩn tàng bảo bối, còn cần phải đón được mặt trời mặt trăng lên xuống, hấp thu tinh hoa nhật nguyệt, bởi vậy phần cửa của công trình hẳn có hướng nam lệch đông. Khi mặt trời mặt trăng mới mọc, sẽ chiếu sáng từ phía tây đến giữa thung lũng; khi mặt trời mặt trăng lặn xuống, sẽ chiếu sáng cho phía đông; vào lúc giữa trưa, mặt trời sẽ soi sáng quá nửa thung lũng. Bởi vậy, vị trí luôn có tinh hoa nhật nguyệt soi rọi chính là phía đông bắc, gần như tương ứng với phần tim của quần thể núi hình người đàn bà, cũng nhiều khả năng là nơi cất giấu bảo bối nhất! – Thuỷ Băng Hoa nói xong, tự nhiên đưa mắt liếc nhìn mảnh trăng lưỡi liềm lờ mờ phản chiếu trên mặt băng trong rãnh.
- Cũng giống với Kim gia trại, mặt trời chuyển động theo hình núi, từ lúc mọc tới lúc lặn, tất cả mọi ngôi nhà đều được chiếu sáng. Góc nhà đối với vách tường, cách âm cực tốt, không thể nghe thấy động tĩnh từ nhà bên anh. Song ở phía vách tường có góc nhà chĩa vào, không biết sẽ có hiệu quả gì! – Nghe Thuỷ Băng Hoa phân tích, Lỗ Nhất Khí đột nhiên nhớ tới kết cấu nhà gỗ trong Kim gia trại. Không hiểu tại sao, trong lòng cậu mỗi lúc một hoang mang, từ mí mắt đến huyệt Thái dương co giật rùng rùng. Cảm giác mách bảo cậu rằng có một thứ gì đó đang tiến lại gần, song nó trong suốt hệt như không khí, không thể cảm nhận ra hình dạng.
Thuỷ Băng Hoa cười khẽ hai tiếng rồi nói:
- Cậu cũng có chỗ không hiểu ư? Những căn nhà đó là kiểu “một nhà kín, một nhà rõ”. Căn nhà cậu ở là cách âm, còn căn nhà bên cạnh có thể nghe tường tận mọi âm thanh phát ra từ căn nhà của cậu. Cậu cho rằng những tin tức mà Kim gia trại thu thập đều được moi ra nhờ thức ăn và cơ thể đàn bà ư? Bọn thợ rừng đều là một phường gian trả, muốn có được thông tin quan trọng đều phải nhờ vào nghe lén. Khi cậu vừa tới Kim gia trại, đã lọt ngay vào tầm ngắm của tôi rồi.
Ngay giữa ban ngày ban mặt mà nhất cử nhất động của bản thân đều bị người khác theo dõi sát sao, thì giờ đây, bên dưới chân núi tối tăm, bên trong thung lũng hoang vu vắng lặng, chẳng phải lại càng dễ dàng bị người ta ngấm ngầm theo dõi? Nghĩ tới đây, Lỗ Nhất Khí đột nhiên tim đập thình thình, cơn co giật tại mí mắt và huyệt Thái dương như đông cứng lại. Thình lình, cảm giác bị vật lạ áp sát vụt lên thật rõ ràng.
- Á! Cái gì kia? – Thuỷ Băng Hoa bỗng kêu lên thất thanh.
Vừa nghe tiếng kêu, Quỷ Nhãn Tam lập tức giơ ngang cây xẻng chắn trước cơ thể, tay còn lại chụp mạnh vào bả vai Lỗ Nhất Khí, ấn cậu thụp xuống.
Lão mù không nhìn thấy gì, song cùng với tiếng kêu của Thuỷ Băng Hoa, dường như lão đã nghe thấy một âm thanh khác lạ. Cây gậy trên tay lão rùng khẽ một cái đâm chếch xuống rãnh băng dưới chân.
Lỗ Nhất Khí bất ngờ bị Quỷ Nhãn Tam ấn mạnh viên đá huỳnh quang Ba Tư bật khỏi tay rơi xuống, lăn tới bên mép rãnh băng.
Thuỷ Băng Hoa đã nhìn thấy rõ hơn, mảnh trăng lưỡi liềm đang ẩn trong một vật gì như khối bông màu lục âm trầm, khối bông giống như sương khói, giống như sa mỏng, lại giống như cỏ mềm dật dờ trong nước, rất đỗi mềm mại, phiêu diêu.
Đầu gậy đã đâm trúng khối tơ bông mềm mại, không một âm thanh. Khối tơ bông vẫn ở nguyên tại chỗ, không hề nhúc nhích, tiếp tục phất phơ như cũ. Vừa đâm trúng, lão mù lập tức rút ngay gậy về, song cây gậy của lão cũng không thể nhúc nhích lấy một ly. Đây là điều lão không hề ngờ tới, nên không phản ứng kịp, bàn tay đang nắm chặt cây gậy trượt thẳng đi một khúc.
Lão mù lập tức vận lực rút cây gậy ra lần nữa, song lực đạo đang giữ chặt đầu gậy đột nhiên tiêu biến sạch trơn. Lão mù đã vận hết lực đạo toàn thân, bất ngờ bị hẫng lập tức ngã bật ngửa. Song phản ứng của lão tặc vương nhanh nhẹn phi thường, hai chân gắng sức thu về, cơ thể như gập làm đôi. Nửa thân trên ấn xuống hai chân, hai chân vận lực một cái, cả người đã bật thẳng trở lại. Song lực ngã về sau vẫn chưa tiêu hết, hai mũi chân trượt trên mặt đất ba, bốn bước mới trụ vững thân hình.
Lỗ Nhất Khí nhặt lại viên đá huỳnh quang Ba Tư, quan sát mảnh trăng lưỡi liềm đang nhấp nháy bên trong đám tơ bông dập dờn.
Mảnh trăng cũng đã nhìn thấy Lỗ Nhất Khí, ngay lập tức đám tơ bông bềnh bồng trồi lên, từ từ nở bung thành một hình người.

*

Chương 5.5 MA HAY NGƯỜI

Đám tơ bông không phải là cỏ nước, không phải là khói mây, song quả nhiên là một làn sa mỏng. Từ trong dải sa hình người, bỗng thò ra một bàn tay mềm mại vén làn sa hờ hững sang một bên, cũng vén lên mái tóc phất phơ như tơ lụa.
Lỗ Nhất Khí đã nhìn thấy hai vầng trăng khuyết kèn trong dải sa mềm, và cảm thấy một luồng khí băng hàn lạnh thấu xương tủy chiếu ra từ trong vầng trăng khuyết. Trong luồng hàn khí, cậu đã nhận ra hơi hướng âm tà ám muội.
Là ma khí! Một thứ ma khí nặng nề gấp bội so với Dưỡng Quỷ Tỳ.
Luồng ma khí nặng nề đến vậy có thể âm thầm tiếp cận Lỗ Nhất Khí, là vì được bao bọc bên trong làn sa mỏng. Làn sa màu xanh đen, lấp lánh một thứ ánh sáng của băng tuyết. Đây chính là khăn bao hồn được dệt thành từ tơ do loài tằm tuyết ngọc Thánh Sơn nhả ra.
Trong “Dị khai vật” có viết: “Tơ của loài tằm tuyết ngọc Thánh Sơn giống như tuyết Đằng Lục*, chặn tà che ám, dùng nó dệt thành khăn bao hồn, có thể thu hồn, chứa phách, che khuất hồn khí”.
Hai vầng trăng lưỡi liềm uốn cong, sáng ngời đẹp đẽ. Song nếu hai vầng trăng khuyết diễm lệ trong sáng nhường kia được gắn trên một khuôn mặt trắng xanh, thì chỉ có thể hình dung bằng một từ: khủng khiếp. Khuôn mặt trắng xanh mang theo một cái mỉm cười, trông giống hệt như bức chân dung người chết vừa được vẽ.
- Dưỡng quỷ…
Lỗ Nhất Khí buột miệng bật ra hai tiếng.
- Dưỡng Quỷ Nương! – Từ hình người bồng bềnh phát ra một giọng nói mơ hồ phảng phất, song lạnh lẽo còn hơn cả tiếng cú rúc thình lĩnh trong bãi tha ma, khiến người ta nghe mà sởn tóc gáy, buốt sống lưng.
* Tên của vị thần tuyết trong truyền thuyết Trung Quốc. (Nd)
Không ai nhúc nhích. Tuy Quỷ Nhãn Tam rất muốn bước lên che chắn cho Lỗ Nhất Khí như thường lệ, song không thể nhấc nổi bàn chân.
Lão mù không có ý định hành động, vì qua cú giao thủ vừa nãy, lão đã hiểu ra, bản lĩnh hai bên chênh lệch quá lớn. Trước một đối thủ như vậy, lão vẫn còn đứng vững được đã là quá tốt rồi.
Thuỷ Băng Hoa đã hành động theo phản xạ. Một hình người giống hệt như ma quỷ chờn vờn ngay trước mặt, nếu là phụ nữ bình thường, phản ứng đầu tiên hẳn sẽ là hét toáng lên. Song Thuỷ Băng Hoa không phải là phụ nữ bình thường, bởi vậy cô ta không la hét, mà giơ ngay súng lên.
Nhưng nòng súng mới nâng, lên chừng hai tấc, cô ta chợt cảm thấy có một sức mạnh dữ dội ập tới. Cánh tay của cô ta vẫn tiếp tục thuận thế nâng cao tới bốn tấc, song lúc này cô ta đã chủ động dừng lại, bởi lẽ khẩu pạc hoọc trong tay đã rơi xuống bên chân.
- Các ngươi vẫn chưa tìm thấy… – Khi nói câu này, tuy Lỗ Nhất Khí không hề cử động, song trí não đã kịp xoay chuyển đến mấy vòng. Dưỡng Quỷ Nương có thể lấy mạng bọn họ dễ dàng như trở bàn tay, song lại âm thầm tiếp cận bọn họ, hẳn là muốn nghe lén thông tin. Phải nghe lén thông tin, chứng tỏ cho đến lúc này đối thủ vẫn chưa tìm ra nơi cất giấu bảo bối. Cậu nói tiếp – nên tới dây nghe lén phải không?
Bốn mắt nhìn nhau. Lỗ Nhất Khí biết, đối phương đến nghe lén bị bắt quả tang, nên xét về khí thế, mình đã chiếm thượng phong. Do đó, cậu vẫn đứng hiên ngang, không hề có ý thoái lui, duy chỉ có ánh mắt trở nên mờ mịt.
Thời gian đối đầu kỳ thực không dài, song Lỗ Nhất Khí và Dưỡng Quỷ Nương đều cảm thấy như thời gian như ngưng đọng. Mồ hôi đã túa ra ướt lạnh sau lưng Lỗ Nhất Khí, còn thân hình mềm mại phiêu diêu của Dưỡng Quỷ Nương mỗi lúc một thêm cứng nhắc.
Bỗng nhiên một tiếng chim ưng rít vang xé toạc ngang trời, khiến Quỷ Nhãn Tam và Thuỷ Băng Hoa bất giác rùng mình ớn lạnh, còn khuôn mặt của lão mù cũng giật lên mấy cái.
Từ mé bên trong của rãnh băng, từ từ phun ra một vành sương trắng dày đặc. Làn sương âm thầm lan toả; cuộn trào, trông chẳng khác gì một trời mây đang quay cuồng trong gió lốc.
Sương mù trắng sà xuống rãnh băng bao quanh bốn phía, mau chóng lấp đầy lòng rãnh, rồi trào lên trên, tràn vào từng ngóc ngách trong khe núi.
Những người đứng đó nửa thân dưới đã chìm trong sương mù dày đặc. Dưỡng Quỷ Nương đang trôi nổi trong rãnh băng cũng bị sương che mất quá nửa thân người, chỉ còn phần đầu bồng bềnh trong biển sương cuồn cuộn.
Vầng trăng khuyết lại càng cong vút, khuôn mặt trắng xanh có phần biến dạng. Đúng vậy, khoé miệng mỉm cười trên khuôn mặt Dưỡng Quỷ Nương đã mở ra thành một nụ cười thật rộng. Nếu không có làn ma khí âm u và đôi mắt sáng trắng, nụ cười đó hẳn là vô cùng rạng rỡ.
- Cậu thực phi thường! – Giọng nói của Dưỡng Quỷ Nương đã ôn hoà êm dịu hơn rất nhiều, ngoài sự khen ngợi còn có chút gì như hài lòng yên ủi. Sương mù bỗng tràn lên một đợt trong rãnh băng, tựa như sóng bạc đầu cuộn trào trên mặt biển, còn chưa kịp lắng xuống thì Dưỡng Quỷ Nương đã biến mất tăm, không thấy đâu nữa.
Dưỡng Quỷ Nương đi rồi, Lỗ Nhất Khí vẫn đứng như trời trồng ở đó. Cậu chỉ nhấc bàn tay khỏi lớp sương mù, ra hiệu cho ba người kia tạm thời chưa nên hành động. Cậu hoài nghi Dưỡng Quỷ Nương chỉ giả vờ rút lui, sau đó lại nấp ở đâu đó lén lút theo dõi họ, quan sát mọi động tĩnh của họ, chớp lấy khoảnh khắc họ sơ suất để ra tay.
Động tác giơ tay rất đơn giản và tự nhiên của Lỗ Nhất Khí đã khiến cho vô số cao thủ đang ẩn nấp quanh đó hiểu thêm một điều, cậu thanh niên này không chỉ có khí thế uy lẫm phi phàm, mà còn vô cùng thận trọng và trầm tĩnh.
Lỗ Nhất Khí đợi đến khi sương mù phủ kín toàn bộ cơ thể họ, mới kéo Quỷ Nhãn Tam nhảy về bờ kia của rãnh băng, nhặt khẩu súng trường và lựu đạn lên, men theo dường mòn chạy ngược trở lại.
Lui về đến cửa vào thung lũng, thì sương mù nơi đây đã không còn mù mịt như khi mới tới. Dưới ánh trăng soi, cảnh tượng trở nên hết sức rõ ràng. Lối vào khe núi cũng khác hẳn so với khi nãy, con đường bằng phẳng giờ đây đã trở nên chật hẹp, vì có thêm những bóng đen thù lù rải rác đang đứng bất động, che kín toàn bộ cửa vào.
Cảnh tượng này khiến Lỗ Nhất Khí cảm thấy tò mò định bước lại gần để nhìn cho rõ. Lão mù và Quỷ Nhãn Tam ở hai bên lập tức cùng đưa tay giữ chặt cậu lại.
- Có mùi thú! Không chỉ một loại! – Lão mù khẳng định.
- Là sói, cả gấu nữa! – Quỷ Nhãn Tam nói cụ thể hơn, Lỗ Nhất Khí nhìn vào hình dạng của những bóng đen, cũng lập tức nhận ra.
Thời điểm này loài gấu vốn không thể xuất hiện, nhưng ở đây lại lù lù những hai con gấu to tướng, kích thước lớn hơn rất nhiều so với gấu bình thường. Mấy đêm trước khi thú rừng mò tới chỗ họ ngủ, Phó Lợi Khai nói là gấu, mọi người nhất định không tin, giờ đây mới biết có lẽ gã không nói dối.
Hai con gấu lớn bị một bầy sói dữ bao vây, song cả sói lẫn gấu đều im lìm bất động như tượng đất, chỉ còn những đôi mắt phát sáng xanh lè chứng tỏ chúng là vật sống.
Đó là một cuộc đối đầu, hoặc giả càng giống một cuộc đọ sức hơn, cũng như cuộc đối đầu giữa Lỗ Nhất Khí và Dưỡng Quỷ Nương vừa nãy.
- Hình như đây là lũ sói đã giúp chúng ta đối phó với ba tay nỏ hôm trước! – Quỷ Nhãn Tam không thật chắc chắn.
Kỳ thực Lỗ Nhất Khí cũng đã suy đoán như vậy, nên lúc này, cậu đang cố gắng dùng cảm giác để tìm ra một cuộc đối đầu khác. Bầy sói và hai con gấu lớn đang trong thế đương đầu, vậy chủ nhân của chúng ở đâu? Và bọn họ đang ở trong trạng thái đối địch ra sao?
- Bên Nhậm Hoả Cuồng chưa thấy quay về, không biết có phải đã tìm ra điểm đích hay không? – Thuỷ Băng Hoa đột nhiên lên tiếng.
Quả đúng như vậy, trên mặt băng mỏng nơi lối vào chỉ thấy những vết chân hướng vào bên trong của ba người bọn họ.
- Hay là đã rơi vào tay đối thủ rồi? – Hai khả năng mà Thuỷ Băng Hoa vừa đưa ra đều có thể xảy ra, song dù là khả năng nào, cũng phải đi vào trong mới biết.
Lần này, họ quyết định châm lên hai bó đuốc to. Đã giáp mặt với đối thủ, chứng tỏ nhất cử nhất động của họ đã nằm trong tầm mắt của đối phương, vậy thì còn sợ gì mà không đường đường chính chính xông vào bên trong tìm kiếm?
Con đường mòn này quả nhiên khác hẳn con đường mà họ vừa đi, hai bên đường là vách đá thẳng đứng như dao gọt, bề mặt được bao phủ một lớp băng trong suốt tựa lưu ly, cũng là do hơi nước bốc lên đông kết lại.
Mới đi được hơn ba mươi bước đã đến một chỗ ngoặt, rồi một ngã ba hiện ra trước mắt họ. Xuất hiện ngã ba vẫn chưa phải là điều bất ngờ, mà bất ngờ là ở ngay giữa ngã ba có một người đang đứng. Là một thiếu nữ áo trắng được bao bọc trong làn ma khí trắng xanh phảng phất.
Là Dưỡng Quỷ Tỳ! Vừa nhìn thấy cô, trong lòng Lỗ Nhất Khí bỗng rộn lên một nỗi vui mừng không thể kìm nén, thậm chí chỉ muốn chạy tới ôm chầm lấy cô. Câu nghĩ thầm, đáng lẽ cậu phải biết trước Dưỡng Quỷ Tỳ sẽ ở đây mới đúng. Vừa nãy Dưỡng Quỷ Nương có phần e sự cậu, sau đó lại bỏ đi, rất có thể do Dưỡng Quỷ Tỳ đã kể cho cô ta nghe về cuộc quyết đấu ở Bắc Bình.
Lỗ Nhất Khí bước về phía Dưỡng Quỷ Tỳ. Thuỷ Băng Hoa vội kéo cậu lại, nhưng cậu đã hất tay cô ta ra. Dưới ánh đuốc bập bùng, Lỗ Nhất Khí nhận thấy Dưỡng Quỷ Tỳ đã tiều tụy hơn rất nhiều so với lúc ở Bắc Bình.
- Đừng đi nữa! – Đây là lần thứ hai cậu nghe Dưỡng Quỷ Tỳ lên tiếng.
Lỗ Nhất Khí không đáp, chỉ nhìn Dưỡng Quỷ Tỳ rồi mỉm cười. Trong nụ cười, ánh mắt cậu lấp lánh một niềm kiên định.
Không biết Dưỡng Quỷ Tỳ đã nhìn thấy gì từ ánh mắt đó, song cô không nói thêm gì nữa, mà lùi vào trong bóng tối ven đường nhường lối cho Lỗ Nhất Khí, nhưng đôi mắt trong suốt vẫn nhìn hút vào cậu, không muốn rời đi, lại càng không muốn để cậu đi.
Phía trước có hai ngả rẽ, không biết ba người kia đã đi theo đường nào?
Quỷ Nhãn Tam đã phát hiện ra dấu chân của Nhậm Hoả Cuồng ở đầu một ngả rẽ, bởi trong lúc quyết đấu với khảm diện Công tập vi, đôi giày của ông ta đã bị lửa than đốt cháy nhiều chỗ, nên dấu chân rất dễ nhận. Hơn nữa các vết chân nối nhau tiến về phía trước, không hề có dấu vết quay lại, nên họ quyết định đi theo đường này. Đi được khoảng ba, bốn chục bước, lại gặp một ngã rẽ, họ tiếp tục đi theo vết chân. Khi ngã rẽ thứ ba xuất hiện, tuy Quỷ Nhãn Tam vẫn tìm thấy dấu chân, song Lỗ Nhất Khí và lão mù đều đã phát giác có điều gì bất ổn.
Quả nhiên là bất ổn. Nghe theo lời lão mù, Quỷ Nhãn Tam đi sang ngã rẽ còn lại xem xét. Thật không ngờ, bên con đường đó cũng xuất hiện những dấu chân y hệt, cũng hướng vào phía trong, không hề có dấu quay ra.
- Thế này là thế nào? – Thuỷ Băng Hoa hơi xây xẩm mặt mày, tim như nảy vọt lên tận họng.
- Là vòng ma vẽ! – Quỷ Nhãn Tam đáp.
Quỷ Nhãn Tam đã dùng thuật ngữ của nghề trộm mộ, còn Khảm tử gia gọi đó là đường tuần hoàn hoặc đường mê dấu. Có hai cách bố trí thường gặp nhất, thứ nhất là bố trí theo tám cửa tám vòng của Độn giáp, cứ trong tám cửa lại có hai cửa sinh và sáu cửa tử, sau đó lặp đi lặp lại tám tám sáu mươi tư lần, lại thêm các vòng đan xen chồng chéo lên nhau, các cửa có thể hoán đổi vị trí cho nhau. Trong một phạm vi không quá rộng, nếu không hiểu được quy luật bố trí, có đi cả năm cũng không thể thoát ra. Thứ hai là bố trí kiểu xếp chồng Bát quái hư mãn, phương pháp này “nhân đạo” hơn rất nhiều, chỉ cần diện tích của hình Bát quái không lớn, biết đánh ký hiệu dọc đường đi, chừng hai ba ngày là có thể thoát ra. Song nếu diện tích hình Bát quái được khuếch đại, bên trong bố trí đồng thời chính phản Bát quái, lại thêm đảo lộn một số vị trí hư mãn, có muốn thoát ra e rằng cũng phải lần mò cả năm trời. Còn những cách bố trí đặc biệt hiếm thấy khác đều là bí mật bất truyền của các môn phái, bố cục chỉnh thể không phức tạp như hai kiểu trên, chỉ cần tìm ra một hai điểm then chốt là có thể thoát ra. Song trên       thực tế, cách bố trí như vậy lại càng khó phá, bởi lẽ không có quy luật, cũng không có vết tích để lần theo. Trừ phi số may được ông trời phù hộ, nếu không chỉ có nước chết rục xương.
- Có nhìn ra quy luật nào không? – Lão mù hỏi Quỷ Nhãn Tam.
- Không thấy! Hiếm gặp! – Quỷ Nhãn Tam trả lời rất dứt khoát.
- Lui ra ngoài! – Lão mù dạn dày kinh nghiệm, nên hiểu rõ chuyện trong giang hồ không được liều lĩnh, vào thời khắc then chốt, phải biết đương đầu, cũng phải biết thoái lui.
Song lùi ra chưa được bao xa, đã không tìm thấy đường đâu nữa! Khi đi vào họ chỉ lần theo vết chân, còn bản thân chẳng để lại ký hiệu gì. Lùi lại đến ngã ba đường, trước măt họ vẫn là hai ngả rẽ, đều có dấu chần bước vào, song không hề thấy dấu chân của họ.
- Chúng ta không có dấu chân! – Lời Quỷ Nhãn Tam vừa thốt ra, tất cả mọi người đều kinh hãi đến rụng rời.
- Gì cơ? Chúng ta không có dấu chân ư? – Lão mù bàng hoàng.
- Đúng là không có! Nhiều khả năng đã bị san bằng. Song dấu chân trên mặt băng không giống như trên tuyết làm sao có thể xoá đi nhanh chóng không một tiếng động như vậy được?
- Vừa rồi chúng ta đi bên trái, bây giờ cứ đi ra theo đường này là được thôi! – Thuỷ Băng Hoa nói một cách tự tin.
- Chưa chắc! – Lỗ Nhất Khí đột nhiên có một cảm giác rất đỗi quen thuộc với cảnh tượng nơi đây. Cảnh tượng này cậu đã gặp ở đâu nhỉ? Đúng rồi! Mắt cá dương.
Lớp băng trên vách đá khiến Lỗ Nhất Khí liên tưởng tới mặt gương, và rất tự nhiên, cậu chợt nhớ tới Mắt cá dương. Trong Mắt cá dương, đường không thành đường, đi lối nào cũng đụng phải tường. Vậy trong vòng ma vẽ, phải chăng cũng có chuyện lấy đường này làm đường kia, hoặc lấy đường giả làm đường thật. Mới đi khoảng hai ba chục bước đã gặp ngã rẽ, khoảng cách ngắn như vậy, lại thêm mặt băng phủ kín vách đá, hoàn toàn có thể phản chiếu đường đi của ngã rẽ tiếp theo, nên người ta tự khắc sẽ lần theo đó mà đi đến ngã rẽ tiếp đó, mà bỏ qua những lối đi khác ẩn sau chỗ khuất bóng trong đoạn đường.
Lỗ Nhất Khí còn đang suy nghĩ thì lão mù đã ngồi thụp xuống ngã ba, thận trọng lần sờ các dấu chân.
- Anh nhìn thấy gì?
- Không thấy dấu chân nữa! – Nhãn lực của Quỷ Nhãn Tam quả thực phi thường.
- Dấu chân nào không thấy nữa? – Lão mù cảm thấy sự việc có phần quái lạ.
 Dấu chân bước lùi tới đây đã biến mất! – Hiếm thấy Quỷ Nhãn Tam kiên nhẫn với lão mù như lúc này.
Lão mù ngồi thụp xuống, mò mẫm kỹ lưỡng một hồi, đúng là đã không thấy dấu chân đâu nữa. Lão vội nói:
- Nhìn kỹ hai bên xem có lối đi ngầm ẩn nào không!
Lời nói này rất hữu lý, dấu chân đột ngột biến mất, không chừng gần đấy có lối ngầm thoát thân.
Lỗ Nhất Khí, Quỷ Nhãn Tam và cả Thuỷ Băng Hoa đều dán người vào hai bên vách đá quan sát kỹ lưỡng, song kết quả đã khiến họ phải thất vọng, quanh đó không hề có chút vết tích nào của đường ngầm hay cơ quan.
Kỳ quái! Thật là kỳ quái! Không có lối ngầm, kẻ đi giật lùi kia chẳng lẽ biết bay? Hay hắn đã giẫm lên vách băng mà đi?