CHƯƠNG 2
HẬU DUỆ CỦA LỖ BAN ẨN CƯ TRONG DÃY ĐẠI HƯNG AN

     hậm Hoả Cuồng ngồi bên cạnh không hề nhìn vào bức tranh trên tay Lỗ Nhất Khí, bởi lẽ đây là bí mật của môn phái khác. Song ông lại rất tò mò với cuốn “Ban kinh” trong tay Phó Lợi Khai. Bản thân Nhậm Hoả Cuồng cũng có một cuốn ”Ban kinh” do Lỗ Thịnh Nghĩa tặng cho, với mong muốn ông ta hãy dành thời gian nghiên cứu những kỹ nghệ bên trong, để sau này có thể trợ giúp Lỗ gia khi cần thiết.
Lúc này, ông phát hiện thấy cuốn “Ban kinh” trong tay Phó Lợi Khai có vẻ dày dặn hơn của mình rất nhiều, bèn vươn cổ liếc xem, thấy nét chữ trong sách cũng nhỏ hơn, thì cảm thấy rất lạ lùng, không hiểu nguyên nhân là do đâu.

*

Chương 2.1 ĐÁNH GIỮA CHỢ

Người Đông Bắc khẩu vị nặng, món ăn của họ nhiều muối, nhiều dầu và nhiều ớt. Khi một đĩa tướng thức ăn được đưa đến trước mặt, mùi dầu mỡ, mùi ớt cay xộc lên điếc mũi. Nhưng ở một nơi đất trời lạnh lẽo, băng phong tuyết phủ như nơi đây, phải ăn những món thế này kèm với rượu Thiêu Đao Tử*, mì chua mặn mới có thể khiến toàn thân nóng sực như ngồi bên bếp lò.
* Có nghĩa là “con dao đốt nóng”,là một loại rượu rất mạnh thịnh hành vùng Đông Bắc Trung Quốc. Do nồng độ rượu cực cao, gặp lửa là cháy, vị rất mạnh, uống vào cảm thấy nóng rát như lưỡi dao nóng đỏ nên mới có tên này. (Nd)
Trong quán cơm chẳng có mấy người, song bên ngoài người qua kẻ lại tấp nập. Trong chốn rừng núi thuộc dãy Đại Hưng An, những thị trấn kiểu này vốn dĩ không nhiều, lại càng hiếm khi náo nhiệt như hôm nay. Nếu hôm nay không phải ngày Đông chí, lại đúng lúc sắp đến phiên chợ mua bán hàng rừng cuối năm thì e rằng nơi đây chỉ rặt tuyết dày rừng thẳm, hoạ chăng chỉ có thú hoang chịu lượn lờ ở chốn này.
Tục ngữ có câu, “Đông chí tết nhỏ”, kỳ thực thị trấn này có vào tết cũng không thể náo nhiệt bằng hôm nay. Năm hết tết đến, hầu hết những người buôn chuyến hay gom hàng đều xuống núi trở về quê nhà, khiến nơi đây còn vắng lặng hơn cả ngày thường. Còn hôm nay không những là một ngày lễ lớn, mà còn là dịp thu hoạch tổng kết. Đám thợ đi rừng đã bận rộn suốt một năm ròng, đến hôm nay mới được cầm đến tiền bạc.
Còn vắng vẻ đìu hiu hơn cả quán cơm là gánh hàng của ông thợ rèn ở sát mé tây của quán. Thợ rèn nơi đây không mở tiệm, vì như vậy sẽ chẳng có việc gì mà làm. Họ thường quảy gánh lò rèn đi theo sau những đám thợ rừng như vậy mới có thể kiếm được việc rèn sửa đồ lề cho bọn họ. Giờ đây đã đến thời điểm thu hoạch cuối năm, nên chẳng ai có nhu cầu rèn đúc sửa sang, thường là phải đợi tới mùa xuân năm sau khi vụ săn mới bắt đầu. Bởi vậy dù lò rèn lửa cháy rừng rực, song lại chẳng có việc gì.
Phía đông của quán cơm là một bãi đất trống, không thấy ai bày bán gì ở đó, bởi lẽ phía bên kia của bãi đất trống chồng chất một đống gỗ thô cao ngất như núi. Tuy đống gỗ được ràng buộc chắc chắn bởi những sợi thừng rất lớn, song người buôn bán trong núi đều biết đó là nơi nguy hiểm, nên không ai dám nấn ná ở lâu.
Phía trước quán cơm khoảng bảy, tám chục bước là một sân khấu thô sơ, một đám kẻ thổi người đàn đã ngồi choán mất nửa sân khấu, ở giữa là một đôi nam nữ phất khăn đỏ vẫy quạt hoa đang hát nhị nhân chuyển*.
* Một hình thức ca kịch của vùng Đông Bắc Trung Quốc, người biểu diễn là một nam một nữ, ăn mặc sặc sỡ, tay cầm quạt và khăn tay, vừa đi vừa múa vừa hát, thường là kể lại một cốt truyện. (Nd)
Người xem kịch không nhiều, bên dưới sân khấu người ta còn đang bận bịu xem hàng, bán hàng, mặc cả, cân đong. Chỉ có một sổ ít người đã bán hết hàng, lại được giá hời là còn hứng thú ngồi khểnh ngắm cô đào mặt mũi dễ coi giọng ca lảnh lót mà tưởng tượng nọ kia.
Chỗ náo nhiệt nhất lại là phía đông của sân khấu, nơi đó có một đám đông nghịt đang quây kín xung quanh kêu la ỏm tỏi, thì ra là hàng bán gỗ. Chủ hàng xắn cao tay áo, tay cầm một cây cưa to dài uốn cong như cánh cung, trông chẳng khác nào gã đồ tể bán thịt. Hàng hoá của gã tính giá theo cân, bởi lẽ chỉ có hai loại là gỗ lê thiết tuyến kim hoa và gỗ thông lùn nhựa hồng ngọc. Cả hai đều là những giống gỗ cực kỳ quý hiếm, thời trước chuyên dùng để khắc tượng Phật, khám thờ Phật hoặc đồ trang trí treo tường để tiến cống cho hoàng cung.
Những người trong quán cơm đều không xem kịch, mà đang cắm cúi ăn uống, dường như tất cả cảnh tượng náo nhiệt ngoài kia đều không hề liên quan tới họ.
Lão mù bưng chiếc bát sành thô lên uống liền ba ngụm Thiêu Đao Tử lớn, đây là thói quen từ thời còn là Tây Bắc tặc vương mà lão vẫn chưa bỏ được, mỗi khi uống rượu trước hết phải nốc liền ba ngụm lớn cho đã cơn thèm, rồi mới từ từ nhâm nhi. Nhìn vào nụ cười thoả mãn trên khuôn mặt, có thể biết được rằng thứ rượu cực mạnh nơi đây rất hợp khẩu vị của lão.
Nụ cười của Quỷ Nhãn Tam có phần gớm ghiếc, vì trên mặt hắn có hai vết sẹo dài ngoằng, trông hắn cười còn khó coi hơn cả khóc. Ngoài vết cứa trên mặt, trên tay hắn còn có một vết thương quái dị, khoanh thành đúng một vòng tròn quanh mu bàn tay trái. Tuy những vết thương không đến nỗi trí mạng, song vẫn đủ để thức dậy trong hắn những hồi tưởng thấm thía về trận giao tranh kinh tâm động phách với mây thiết ưng đêm đó.
Lỗ Nhất Khí cũng bị thương, song không nhìn thấy, bởi lẽ vết thương nằm ở trên lưng. Hai cọng lông vũ sắc lạnh như dao đã xuyên qua lần áo bông cắm ngập vào da thịt cậu. Cọng lông sắt đâm rất sâu, nhưng còn may là đâm xiên chứ không đâm thẳng, nếu không hẳn đã xuyên thấu đến tận tim.
Đêm hôm đó trên sống núi Phân Thuỷ, lớp băng dưới chân cậu và Quỷ Nhãn Tam đã trồi ra khỏi mép đá đến phân nửa. Thế nhưng lúc đó, họ không thể đứng dậy, cũng không dám cử động, bởi họ biết bất cứ động tác nào cũng đều có thể khiến mặt băng trượt nhanh hơn ra khỏi mép đá.
Tình thế đã trở nên cực kỳ nguy cấp, song Lỗ Nhất Khí vẫn không chút hoang mang, cậu đang hết sức trấn tĩnh để tìm kiếm cơ hội. Cậu đang mang trên người trọng trách nặng nề, tuyệt đối không thể chết vào lúc này.
Quỷ Nhãn Tam đã quỳ xuống, một tay đang vội vã lần mò thứ gì đó ở phía trước cơ thể. Đúng vào khoảnh khắc lớp băng trượt hẳn khỏi mép đá, hắn lập tức quăng mạnh cây Vũ Kim Cương đang đặt ngang phía trước đi. Vũ Kim Cương bay vụt tới sườn núi ở phía đầu “cầu đá”, xuyên qua giữa một chạc lớn trên một gốc cây to, trên cán dù hình như có buộc một thứ gì đó. Đúng lúc Quỷ Nhãn Tam rơi xuống vách núi bên phải, tay trái hắn đã kịp lắc một cái. Vũ Kim Cương lập tức bật tung, kẹt lại giữa chạc cây to lớn.
Quỷ Nhãn Tam vẫn không quên Lỗ Nhất Khí, thân người vừa rơi xuống, hắn lập tức quặt tay chụp ngay lấy ngực áo cậu. Lỗ Nhất Khí cũng túm thật chặt vào thắt lưng của Quỷ Nhãn Tam.
Lỗ Nhất Khí và Quỷ Nhãn Tam kẻ lôi người túm cùng trượt đánh vèo xuống vách núi cheo leo. Quỷ Nhãn Tam rú lên một tràng thảm thiết, suýt nữa thì chọc thủng cả màng nhĩ của Lỗ Nhất Khí. Không phải là hắn khiếp hãi trước cái chết cận kề, mà bởi vì hắn đang đau đớn thấu xương tuỷ.
Trên cán dù có buộc một sợi tơ rất mảnh, chính là Thiên Hồ giao liên. Lỗ Thịnh Hiếu đã gỡ lấy hai sợi từ con thú năm chân ở trước cổng thuỳ hoa, đưa cho Lỗ Nhất Khí và Quỷ Nhãn Tam mỗi người một sợi, nói rằng có thể dùng khi cần thiết. Quả nhiên mới qua một ngày, thứ này đã cứu sống hai người bọn họ.
Quỷ Nhãn Tam đã quấn Thiên Hồ giao liên một vòng quanh bàn tay trái, sợi tơ cực mảnh phải kéo theo trọng lượng của hai người, chớp mắt đã cứa sâu vào da thịt, máu lập tức tứa ra đầm đìa. Còn may là Thiên Hồ giao liên có độ đàn hồi nhất định, bằng không chắc đã nghiến đứt đến xương, nửa bàn tay của Quỷ Nhãn Tam hẳn đã đứt lìa.
Thiết ưng vẫn ào ào lao xuống, vô số lông vũ bằng sắt bay tả tơi xung quanh sống núi. Mặt Quỷ Nhãn Tam bị cứa dọc một đường, da thịt toang hoác. Lỗ Nhất Khí cũng bị hai cọng lông, xuyên lút vào lưng, thương thế xem ra nặng hơn Quỷ Nhãn Tam rất nhiều. Cọng lông dường như đã xuyên thấu đến tận phổi, Lỗ Nhất Khí ho bật máu tươi, ánh mắt dần trở nên mụ mị, rồi cậu ngất đi không biết trời trăng gì nữa…
Quỷ Nhãn Tam cõng Lỗ Nhất Khí trên lưng, lão mù đỡ ở phía sau, họ trèo qua đỉnh núi phía trước, cuối cùng đã tới ngã ba đường cái quan. Họ vừa dừng bước trước ngã ba, Lỗ Nhất Khí đột nhiên tỉnh lại, nói liền:
- Đừng di đường lớn, sang phía đông bắc tìm đường nhỏ mà đi…
Quỷ Nhãn Tam và lão mù đều nghe rõ lời Lỗ Nhất Khí, song họ không hiểu vì sao, nên vẫn đứng yên tại chỗ.
- Mây thiết ưng của đối thủ tuy vô cùng lợi hại, song bọn họ chắc chắn không chỉ dùng một khảm diện đó để đối phó với chúng ta. Có điều đối phương tuyệt đối không thể ngờ được rằng chúng ta lại chia hai đường tẩu thoát, muốn điều động thêm lực lượng cũng đã muộn mất rồi, đành phải phân chia những khảm diện và lực lượng hiện có thành hai đường để tấn công. Bởi vậy phía phó quan Ngô hẳn dã dụ được một khảm diện khác của đối phương rồi, cũng không rõ giờ đây lành dữ ra sao!
Lỗ Nhất Khí ho lên một tiếng, nhưng không còn thấy máu.
- Nhưng đối phương sẽ mau chóng phát hiện ra nhóm phó quan Ngô không phải là đối thủ chính, và ngay sau đó sẽ tập hợp lực lượng dồn sức đối phó với chúng ta. Đối phương có đầy đủ lý do để phán đoán rằng chúng ta sẽ đi về phía tây để hội hợp với phó quan Ngô; hoặc cũng có thể chúng sẽ cho rằng chúng ta cố tình tung đám phó quan Ngô làm mồi nhử để dụ họ đuổi về phía tây, và chúng ta sẽ đi ngược sang phía đông. Và đương nhiên, họ càng có lý do để nghĩ rằng chúng ta sẽ đi lên phía bắc để tìm Thổ bảo gần nhất. Bởi vậy, cả ba con đường này chúng ta đều không đi dược, chỉ có chạy lên hướng đông bắc tìm đường nhỏ mà đi, mới có thể thoát khỏi sự truy đuổi của đối phương.
Quỷ Nhãn Tam im lặng không nói tiếng nào, trầm ngâm suy tính một hồi, cuối cùng nghiến chặt răng, giậm mạnh bàn chân, quay người đi thẳng về phía sườn đồi phủ đầy tuyết trắng.
Lão mù vẫn chưa hết ngỡ ngàng, dường như lão rất không đồng tình trước quyết định thay đổi đường đi đột ngột của Lỗ Nhất Khí. Có vẻ như quyết định này đã phá hỏng kế hoạch nào đó của lão, khiến lão rất đỗi buồn bực, bước chân xem chừng còn nặng nề hơn cả Quỷ Nhãn Tam đang cõng Lỗ Nhất Khí trên lưng.
Tính toán của Lỗ Nhất Khí vô cùng thấu đáo, song có một điểm cậu đã không tính tới. Chính vì cậu quyết định đi về hướng đông bắc, nên đối phương đã phải ngừng truy sát. Nhưng chỉ trong vòng hai ngày, Chu gia đã gửi thư đi khắp Băng Phong đường, Hắc Lưu đường, Bạch Lâm đường và tất cả mọi đàn khẩu dưới quyền tại vùng đông bắc, trong thư mô tả tỉ mỉ đặc điểm nhận dạng của ba người, lệnh cho các nơi theo dõi họ thật sát sao, hành động tiếp theo sẽ đợi môn chủ đưa ra quyết định.
Khi họ tới thị trấn nhỏ trong dãy Đại Hưng An, thời gian đã trải qua hơn một tháng. Họ đã phải liên tục vựợt núi băng rừng, hết đi xe ngựa, ngồi xe trượt tuyết, lai đi xe trượt băng, tốc độ có thể nói là khá nhanh, song Lỗ Nhất Khí vẫn luôn cảm thấy sau lưng có người đang truy đuổi.
Từ thị trấn hẻo lánh này đi tiếp về hướng bắc sẽ gặp một con sông lớn hình dáng giống hệt như con rồng đen. Tương truyền cách nơi đây không bao xa là chốn quần cư của tổ tiên người Mãn thuở xưa. Không hiểu tại sao, đến đây Lỗ Nhất Khí cảm thấy không nên đi tiếp nữa, bởi lẽ trong người cậu vô cùng khó chịu. Cảm giác này thật khó diễn tả, dường như là điềm báo sắp có mối nguy ập đến.
Trong khoảng thời gian này, Lỗ Nhất Khí đã nghiên cứu kỹ tấm thẻ ngọc được tìm thấy cùng “Cơ xảo tập“, nhưng chữ nghĩa trên tấm thẻ ngọc thực sự vô cùng khó hiểu, hơn nữa những văn tự kỳ quái này lại không thể tự động sắp xếp lại trong trí não như những lần trước đó. Cậu chỉ có thể dựa vào vốn hiểu biết của mình về văn tự và ký hiệu cổ xưa để suy đoán lần dò từng chữ một.
Trước mỗi hàng chữ trên tấm thẻ đều có một ký hiệu, rất dễ dàng để nhận ra rằng chúng đều là hào tượng Bát quái. Lỗ Nhất Khí tìm ra phương Tốn, trong Thái cực Bát quái, phương Tốn tượng trưng cho hướng đông nam. Thế nhưng trong Tiên thiên Bát quái, nó lại tượng trưng cho hướng đông bắc, điều này đến nay rất ít người hiểu dược. Lỗ Nhất Khí vốn dĩ cũng không biết, song vừa nhìn vào hình quẻ Tốn, trong đầu cậu lập tức hiện ra phương đông bắc. Thế là cậu nghiền ngẫm lại từng ký hiệu văn tự trong hàng chữ này, cuối cùng cũng nhận ra được vài chữ “kim”, “hắc” (đen) và “mẫu tính” (mẹ). Hơn nữa, nhìn vào vị trí xuất hiện của các văn tự trên, hai chữ “mẫu tính” có lẽ là một địa danh ở cuối cùng. Song ba người họ đã loanh quanh trong vùng núi rừng này suốt mấy ngày trời, mà vẫn chưa phát hiện ra địa danh hay kiến trúc nào có liên quan tới những chữ này.
Quỷ Nhãn Tam nhấp một ngụm rượu, nét mặt đầy hí hửng. Trong những ngày qua hắn vô cùng phấn khởi, bởi lẽ trứng tam canh hàn trong cơ thể hắn vẫn chưa thấy phát tác; cũng bởi lẽ trong lúc loanh quanh trong rừng núi, hắn đã dễ dàng quật được vài ngôi mộ, thu về một mớ gia tài kha khá, đủ cho ba người bọn họ tiêu xài xênh xang không phải lo lắng chuyện ăn mặc.
Kỳ thực đêm đó, khi Lỗ Nhất Khí quyết định đi về phía đông bắc, trong lòng Quỷ Nhãn Tam cũng mâu thuẫn vô cùng. Đi về hướng tây hay hướng đông vẫn còn có thể quành lại vòng xuống Thương Châu, như vậy hắn sẽ có cơ hội gặp Vĩ Kinh Đạo để nhờ khêu bỏ đám trứng tò vò. Nhưng nếu đi về hướng đông bắc, hy vọng sống sót của hắn đã trở nên mờ mịt. Suốt mấy hôm đầu, đêm nào hắn cũng bảo lão mù dùng Thiên Hồ giao liên trói chặt hắn lại. Song thật kỳ lạ, trứng tam canh hàn trong cơ thể hắn lại không hề phát tác, thậm chí ngay cả một chút triệu chứng cũng không có. Hắn bắt đầu cảm thấy vui mừng, và ngày càng phấn khởi ra mặt.
Lỗ Nhất Khí không uống rượu, cậu đang cắm cúi với một tô mì lớn. Tuy tay đũa lùa rất nhanh, song đến miệng lại chẳng còn vài sợi. Bởi lẽ bộ dạng của cậu có vẻ như đang chuyên chú ăn uống, song kỳ thực lại dồn toàn bộ sức chú ý vào người qua kẻ lại bên ngoài. Lưỡi rìu Lộng phủ bằng ngọc màu đang khẽ đung đưa trước ngực áo, vốn dĩ không có điểm gì thực thu hút ánh nhìn, song nó chắc chắn sẽ không thoát khỏi cặp mắt của những người cần biết.
Lỗ Nhất Khí đột nhiên buông bát mì trong tay xuống, đứng bật dậy.
Quỷ Nhãn Tam thấy Lỗ Nhất Khí đứng lên, cũng vội vội vàng vàng nuốt ực cả một miệng đầy mì xuống họng, đứng ngay dậy, bàn tay chụp vội cây Vũ Kim Cương đang dựng bên người.
Lão mù không đứng dậy, song lão cũng đã ngừng nhai, dỏng tai nghe ngóng xem liệu có động tĩnh nào bất thường.
Lỗ Nhất Khí đã cảm thấy trong đám người xuôi ngược ngoài kia có một luồng khí linh động rất hiếm thấy, miên man bất tận, tầng tầng lớp lớp, bừng bừng lan toả, mỗi nhịp lên xuống đều vô cùng mạnh mẽ. Thấp thoáng trong luồng khí vàng rực rỡ còn xen lẫn sắc hào quang xanh thẳm. Rất khó phán đoán đó là thứ bảo bối gì, bởi lẽ nhìn vào khí tướng, dường như là một vật trong vật. Song dù vật bên ngoài hay vật bên trong, niên đại chắc chắn cũng không dưới nghìn năm.
Tại nơi rừng thiêng nước độc hiểm trở nhường này lại xuất hiện thứ cổ vật nghìn năm, rất có thể sẽ liên quan tới ám cấu đang cất giấu bảo bối của Lỗ gia.
Lỗ Nhất Khí vội vã bước ra khỏi quán, rẽ đám đông đi theo hướng luồng khí đang lan toả. Song cậu chỉ chú ý tới làn khí tướng linh động lạ kỳ mà quên bẵng tất cả những thứ khác. Cũng vì làn khí tướng quá thịnh nên đã che khuất cả những thứ mà đáng ra cậu cần lưu tâm đến.
Cậu cứ đi thẳng đến chỗ phát ra làn khí. Khi đã tới rất gần, cậu mới đột nhiên cảm thấy có gì đó bất thường. Xung quanh làn khí tướng linh kỳ còn có những luồng khí kỳ quái khác cũng bừng bừng lan toả. Chúng rất mực lạnh lẽo và dữ dội. Nói chúng kỳ quái, là vì chúng khác hẳn với làn khí phát ra từ cổ vật mà cậu có thể cảm nhận được. Chúng sặc sụa mùi máu tanh, mùi nguy hiểm và tàn sát. Thứ mùi này chỉ xuất hiện trên những vũ khí đã dính máu người, chúng chính là huyết khí, là nhẫn khí, là sát khí.
Lỗ Nhất Khí còn phát hiện ra rằng, những làn khí quái dị được phân bố theo một quy luật nhất định, chính là “ngũ trùng đăng nguyên hội”* được nhắc tới trong “Đạo tạng tinh hoa“** cổ vật nghìn năm giống như một trụ đăng nguyên, xung quanh ngấm ngầm bố trí năm tầng hai mươi lăm thứ vũ khí sát nhân, khác nào rắc thóc gạo bên trong lồng bẫy để dụ chim sẻ chui vào.
* Là một trạng thái tu luyện trong Đạo gia, khiến tâm nguyên hoá thành một ngọn đèn sáng, sau đó từ một ngọn hoá thành năm ngọn đèn, bốn ngọn xoay tròn xung quanh một ngọn. Tiếp đó, năm ngọn đèn này mỗi ngọn lại tự hoá thành năm ngọn nữa, vẫn là bốn ngọn xoay tròn xung quanh một ngọn. Trạng thái tu luyện này rất giống với trạng thái “tâm sinh hoa sen, trong sen sinh sen” trong Phật giáo, cũng có điểm tương đồng với phương thức vận hành của các hành tinh.
** Là trước tác của Đạo gia, ra đời vào cuối Minh đầu Thanh, do đạo trưởng Vô Chuyết của đạo quán Huyền Diệu tại Cô Tô thu thập chỉnh lý. Tuy nhiên người sau chỉ ra rằng, Cô Tô Huyền Diệu quán ngày một lụn bại, trở thành đạo quán hữu danh vô thực. Bởi vây, rất có thể do người khác mượn danh đao quán Huyền Diệu để viết.
Lỗ Nhất Khí lập tức khựng lại, vội vã trở lui, bởi cậu đã nhận ra, khi cậu tới gần hơn, thì luồng huyết khí, nhẫn khí và sát khí kia lại càng thêm hung hãn.
- Đi mau!
Hai tiếng này là nói với Quỷ Nhãn Tam đang bám sát phía sau. Quỷ Nhãn Tam phản ứng rất mau lẹ, song hắn không hành động ngay mà đợi Lỗ Nhất Khí lùi về phía sau hắn, hắn mới vội vã thoái lui, vừa lùi vừa giơ Vũ Kim Cương lên, tư thế cảnh giác cao độ.
Đám đông bỗng trở nên hỗn loạn. Từ trong đám người bỗng xông ra hơn chục kẻ tay lăm lăm đao nhọn, đều là kiểu đao hộ vệ chuẩn mực đời Minh, phần lưỡi phía trước rộng bản lượn tròn, đoạn phía sau hẹp thẳng. Động tác của những kẻ cầm đao rất giống nhau, bàn tay nắm đao trầm ổn vững vàng, dưới ánh nắng chiếu và tuyết rọi, có thể nhìn thấy rõ từng đường vân tinh xảo cầu kỳ trên thân đao.
Đao, dù có đẹp đẽ tới đâu, cũng phải đợi đến khi giao chiến mới bộc lộ được hết giá trị của nó. Động tác của Lỗ Nhất Khí rõ ràng không thể nhanh bằng đám đao thủ, lại thêm cục diện hỗn loạn, đám đông cuống cuồng tháo chạy tứ tán đã ngăn cản tốc độ thoái lui của cậu. Những lưỡi đao hung tàn đã đuổi sát tới nơi.
Lỗ Nhất Khí không thể lui nhanh, Quỷ Nhãn Tam cũng không nhanh được, hắn vẫn che chắn trước mặt Lỗ Nhất Khí, hắn phải làm bức tường ngăn cách giữa Lỗ Nhất Khí và mọi mối hiểm nguy.
Đám đao thủ hành động rất nhanh, bởi vì chúng có kế hoạch, có mục đích, hơn nữa, chúng chẳng thèm đếm xỉa tới đám đông hỗn loạn xung quanh. Để dọn quang đường tấn công, chúng đã thẳng tay chém giết tất cả những ai làm vướng chân chúng.
Quỷ Nhãn Tam đã bắt đầu giao chiến với đám đao thủ đang truy kích, nhưng cây Vũ Kim Cương trong tay hắn chỉ có thể ngăn cản được hai tên, những đao thủ khác lập tức vòng qua Quỷ Nhãn Tam tiếp tục đuổi theo Lỗ Nhất Khí.
Lỗ Nhất Khí đã giấu khẩu pạc hoọc trong lớp áo bông, lúc này muốn lấy ra cũng không phải dễ dàng. Một khẩu pạc hoọc khác để trong túi sau lưng Quỷ Nhãn Tam, song lúc này Quỷ Nhãn Tam cũng chẳng còn rảnh rang để lấy ra cho cậu. Còn hai khẩu súng trường vẫn để trong quán cơm, bọc trong hai tấm vải thô. Lỗ Nhất Khí vội vã chạy về, mục đích cũng là để lấy được hai khẩu súng.
Lão mù vẫn ở trong quán cơm, song lão lại không nghĩ ra phải quăng súng cho Lỗ Nhất Khí. Lão chỉ biết vội vã lao vụt ra khỏi quán, cây gậy trong tay vung ra như một con rắn độc đen trũi, lao thẳng về đám sát thủ. Gã đao thủ phía trước vội vã né mình tránh được, song đao thủ ở phía sau lập tức ra đòn kìm chân lão lại. Thế là kẻ truy đuổi tiếp tục truy đuổi, kẻ kìm chân tiếp tục giao tranh.
Không còn ai có thể bảo vệ Lỗ Nhất Khí nữa, cứ theo tốc độ này Lỗ Nhất Khí chắc chắn sẽ không kịp chạy được đến quán cơm. Mấy gã đao thủ đã hợp thành hình bán nguyệt, áp sát phía sau Lỗ Nhất Khí, giống như một bầy sói dữ đang chuẩn bị lao tới xâu xé con mồi yếu ớt. Đúng trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc, trời bỗng đột ngột đổ mưa, những giọt mưa rắn đanh và nóng bỏng, nhưng chỉ có đám đao thủ mới may mắn được cơn mưa thần kỳ tắm tưới.
Đám đao thủ quả là thân thủ bất phàm, chúng không muốn chạm phải những giọt mưa bỏng giãy bất thường, nên nhất loạt múa đao che chắn. Trong phút chốc, lửa bắn ngút trời, không gian khét lẹt.
Những giọt mưa loảng xoảng rơi xuống, thì ra đều là những món đồ sắt đỏ hồng, dao, giũa, xẻng, bào đủ cả. Tuy không dày đặc, song đều kềnh càng nóng giãy. Đám đao thủ tuy che chắn lanh lẹ, song dù đám sắt nóng đã bị đánh văng, nhưng vẫn toé ra vô số đốm lửa nóng rực, khiến chúng đầu tóc cháy khét áo quần thủng lỗ, mặt mày chốc đã rộp đầy nốt bỏng.
Đám đao thủ đã bị cản lại, song chúng không hề lùi bước. Trận mưa vừa tạnh, chúng lại tiếp tục ào lên với tốc độ còn chóng vánh hơn nữa.
Và cơn mưa thứ hai đã ập đến. Giữa không trung dội xuống vô số hòn than cháy đỏ, mật độ dày hơn khiến việc che chắn càng thêm khó khăn. Lại thêm đám than lửa vừa động là vỡ, tung toé thành vô số vụn lửa rừng rực, dính đâu cháy đấy.
Trận mưa than vừa trút xuống, đám đao thủ đã không còn thảnh thơi như khi nãy nữa, vài kẻ đã bắt đầu bén lửa. Song chúng đều là những cao thủ lão luyện trong giang hồ, lửa vừa kịp bắt, đã lập tức lao người lăn tròn về phía trước, vừa dập lửa vừa khéo léo né tránh những hòn than rơi vãi trên mặt đất, khả năng ứng biến quả thực phi phàm.
Đáng lẽ Lỗ Nhất Khí đã có đủ thời gian để chạy vào trong quán nhờ sự cản trở của cơn mưa lửa, thế nhưng vẫn có hai đao thủ chạy ở trên đầu đã tránh được trận mưa. Chúng chạy quá sát, nên khi đợt than lửa vụt tới, chúng chỉ cần cúi đầu tung bước, vung đao che mặt đã dễ dàng tránh được.
Lỗ Nhât Khí nhìn thấy trên mặt bàn phía trước quán cơm có bày một nồi canh đầy dầu mỡ, là món canh miễn phí tặng kèm cho khách mua bánh mì. Nồi canh không thấy bốc khói, song không có nghĩa là nó không còn nóng, người dân nơi đây thích đổ một lớp dầu dày lên bề mặt để giữ độ nóng cho canh.
Đao thủ đã ở sát sau lưng, bên tai Lỗ Nhất Khí đã vùn vụt tiếng lưỡi đao xé gió. Cậu không còn kịp nghĩ ngợi, lập tức giơ tay túm lấy quai nồi, ráng sức quăng mạnh về phía sau lưng. Chỉ thấy nước canh nóng bỏng và mảnh nồi vỡ văng tung toé, tiếng xé gió phía sau đã chậm lại một thoáng.
Lỗ Nhất Khí không biết chuyện gì đã xảy ra, cậu thậm chí không kịp cả ngoảnh đầu, bởi vì sát khí đã lại ập đến sát sạt. Đám đao thủ phía sau đã vượt qua trận mưa lửa, đang ào ào xông đến.
Mũi đao nhọn của đao thủ gần nhất đã sắp chạm vào lưng Lỗ Nhất Khí đến nơi, trong khi cậu còn cách khẩu súng trường vài bước chân nữa. Mà cho dù lúc này cậu có lấy được túi đựng súng cũng vô ích, bởi đã không kịp nữa rồi.
Mũi dao đi vào cơ thể Lỗ Nhất Khí hẳn rất dễ dàng, bởi lẽ đao thủ tốc độ cực nhanh, lực đạo cực lớn, mũi đao lại sắc bén vô song. Nhưng gã đao thủ đã thình lình khựng lại, rồi cấp tập thoái lui hai bước. Phải có bản lĩnh rất mực phi thường mới có thể làm được như vậy; trong lúc tấn công với tốc độ chóng mặt, bọn chúng vẫn biết chừa lại một phần dư lực, đảm bảo bản thân có thể tiến lui chớp nhoáng.
Đao thủ đã khựng lại thoái lui, vì trước mặt hắn bỗng đột ngột lao ra một cây dùi sắt chắn ngang dài hơn trượng, đã nung đỏ rực. Còn chưa chạm vào dùi sắt, hắn đã ngửi thấy mùi cháy khét bốc ra từ tấm áo bông trên người.
Đao thủ phía sau cũng đã phát hiện ra dùi sắt, lập tức bật tung người định nhảy vụt qua. Dùi sắt đột nhiên lia thành một hình vòng cung, tựa như một cánh quạt xếp đỏ rừng rực chớp nhoáng mở xoè. Đao thủ vừa bật lên đã biết mình không thể lọt qua, lập tức trở đao chém thẳng vào “cây quạt xếp”, mượn sức bật ngược trở xuống. Sau cú va chạm dữ dội, hoa lửa bắn tứ tung, văng đầy người hắn.
Dùi sắt đỏ rực tiếp tục chuyển động, quét thành một hình bán nguyệt thật lớn, vì đám đao thủ kia đã mau chóng thay đổi hướng tấn công, chúng từ bỏ ý định tấn công chính diện, mà rẽ sang hai bên đồng thời tập kích. Dùi sắt đã kịp thời chuyển động, che chắn cho Lỗ Nhất Khí ở bên trong, khiến ý đồ tập kích của đám đao thủ nhanh chóng thất bại.
Vòng cung bán nguyệt rừng rực lửa hồng được vẽ nên bởi một cánh tay đang cầm một đầu dùi sắt, nhờ vậy mà phạm vi che chắn đã được mở rộng hơn. Song một cánh tay có thể xoay tròn dùi sắt nhưng lại không thể giữ nổi nó, bởi dùi sắt quá dài và nặng. Vòng cung vừa kết thúc, đầu nhọn của dùi sắt lập tức rơi xuống nền đất. Để vẽ được vòng cung thứ hai, cần tiếp tục vận lực để quăng dùi sắt vụt lên.
Hai gã đao thủ đã nhận ra sơ hở. Khi nửa vòng tròn thứ hai còn chưa kết thúc, dùi sắt mới bắt đầu trĩu xuống, bọn chúng lập tức nhảy vọt lên, một tên lao thẳng về phía Lỗ Nhất Khí, tên còn lại nhảy xổ vào người đang cầm dùi sắt.
Gã đao thủ lao vào Lỗ Nhất Khí lập tức hối hận, vì hắn đã phải đối mặt với một thứ vũ khí chưa từng thấy bao giờ. Đó là một cái túi vải dài ngoằng, giống như một súc vải sắp xổ đến lõi. Những đao thủ dày dạn giang hồ không sợ giáo mác gươm đao, chỉ sợ gặp phải thứ vũ khí chưa từng biết đến, vì chúng không biết phải ứng phó bằng cách nào.
Đao thủ còn chưa kịp quyết định nên tiến hay lùi, thân hình đã đổ vật xuống như khúc gỗ đốn ngang. Lỗ Nhất Khí đã thẳng cánh siết cò, một phát đạn xuyên trúng ấn đường của đao thủ.
Khẩu súng được cuộn chặt trong tấm vải, không thể lôi ra, cũng không thể kéo chốt lên đạn, nên cậu không tiếp tục bắn phát thứ hai được. Cậu chỉ còn cách cầm lấy khẩu súng còn lại, nhằm thẳng vào một đao thủ đang lao tới từ bên cạnh.
Vẫn là một phát đạn thẳng giữa ấn đường, đao thủ ngã lăn trong một tư thế vô cùng hoa mỹ, cả thân người lộn nhào một vòng sang bên cạnh, hệt như thế ngã của vai lão sinh đánh võ trong tuồng cổ.
Dùi sắt nung đã không còn đỏ rực như lúc nãy, song sức nóng vẫn chưa giảm bớt là bao. Lúc này người cầm dùi sắt đã bị bảy tám đao thủ vây kín xung quanh.
Dùi sắt vùn vụt vẽ thành một vòng tròn đỏ thẫm khiến đám đao thủ không thể lại gần, song chúng vẫn có thể tiếp cận Lỗ Nhất Khí. Lại thêm hai đao thủ lách qua dùi sắt, lao về phía Lỗ Nhất Khí.
Lỗ Nhất Khí tay cầm súng nhanh chóng di chuyển về phía đông, bởi lẽ phía sau lưng là vách gỗ cản đường, còn bên mé tây lò lửa thợ rèn đã đổ chổng kềnh chắn ngang, trên mặt đất than lửa vung vãi.
Lỗ Nhất Khí vốn định chạy về phía đống gỗ thô ở phía đông, lợi dụng đống gỗ chồng chất như núi để tiếp tục giằng co với đám đao thủ. Song cậu đã chậm một bước, đao thủ vòng qua phía đông đánh bọc sườn đã lù lù ngay trước mặt. Trước tình thế bất ngờ, Lỗ Nhất Khí chỉ biết quăng mạnh khẩu súng trường về phía đao thủ. Gã đao thủ vẫn cảnh giác cao độ với cục vải dài ngoẵng đang bay tới nhẹ tênh, nên không dám đón đỡ, cũng không dám vung đao chém gạt, chỉ thụp người xuống tránh. Trong lúc thụp người, hắn không hề dừng lại một giây, mà vẫn tiếp tục lao lên, tốc độ không hề suy giảm, mũi đao vụt tới, đâm chếch vào giữa ngực Lỗ Nhất Khí.
Lỗ Nhất Khí vốn không có khả năng ghìm lại bước chân hay thay đổi tư thế trong giây lát, nên chỉ biết mắt mở trân trân lao thẳng vào mũi đao nhọn hoắt.
Trong tình huống này, với thân thủ của Lỗ Nhât Khí chắc chắn sẽ không kịp né tránh, song cậu lại sở hữu được một cảm giác rất mực siêu phàm, có thể quan sát chi tiết tốc độ di chuyển chớp nhoáng của vật thể, bao gồm cả mũi đao đang đâm tới. Thế là cậu đã kịp thời giơ tay trái ra kẹp chặt lấy mũi nhọn vào đúng khoảnh khắc trước khi cơ thể lao trúng mũi đao.
Mũi đao đã không đâm trúng Lỗ Nhất Khí, bởi lẽ tay trái cậu đã mượn được lực đạo đâm tới của mũi dao để ghìm cơ thể dừng lại, sau đó bật lui về phía sau, giữ được khoảng cách giữa mũi đao và cơ thể. Song đao thủ là kẻ dạn dày chinh chiến, nên hắn vẫn tiếp tục đâm tới, đồng thời nhanh chóng xoay mạnh thân đao, chớp mắt lai xoay về chỗ cũ, cứ liên tục xoay vặn như thế mấy lần. Các ngón tay của Lỗ Nhất Khí chỉ trụ nổi một nhịp xoay, sau đó không thể giữ thêm được nữa, buộc phải buông ra.
Lưỡi đao vẫn xoay tít trong tay đao thủ, hệt như một mũi khoan nhọn hoắt xuyên thẳng đến trước bụng Lỗ Nhất Khí.

*

Chương 2.2 QUÂN CHI VIỆN

Mũi đao đã xuyên qua lớp áo bông của Lỗ Nhất Khí, song không thể đi sâu hơn, bởi lẽ đã bị một vật cứng cản lại. Vật đó giấu ở phía trước bụng Lỗ Nhất Khí, đã được cậu dùng dây lưng bằng vải quấn chặt lại với tấm áo bông, chính là một khẩu pạc hoọc.
Mũi đao không thể xuyên sâu hơn còn vì một nguyên nhân nữa, đó là nửa thân trên của đao thủ đã bị giữ chặt, lập tức khựng lại không thể tiến thêm dù chỉ một tấc. Song hai chân hắn vẫn tiếp tục lao lên, thành ra thân dưới văng về phía trước, cả thân người bật ngửa ngã nhào.
Cổ của đao thủ đã bị giữ chặt bởi tay cầm của một chiếc cưa thợ mộc cỡ lớn. Một bàn tay đang nắm chắc tay cầm còn lại, đó là một bàn tay vô cùng mạnh mẽ, từ khoảnh khắc chiếc cưa được lồng vào cần cổ đao thủ bàn tay không hề nhúc nhích, cả cơ thể đang lao vùn vụt về phía trước của đao thủ không hề khiến bàn tay lay chuyển lấy một ly.
Chiếc cưa lớn vừa giữ được đao thủ, từ phía đông bỗng vọng lại hàng tràng những tiếng rầm rầm vang động. Vừa mới đây thôi khu chợ đã phải hứng chịu một cơn mưa lửa, giờ đây lại đến nước lũ tràn về. Là một cơn lũ gỗ. Đống gỗ thô cao chất ngất đã đổ ập, vô số thân gỗ to ngang chum vại sầm sập lao xuống, lăn lông lốc về phía quán cơm.
Trong cơn lũ gỗ, có hai thân hình phì nộn lông lá xồm xoàm đang nhảy loi choi, bọn họ nhẹ nhàng giẫm lên điểm cao nhất trong dòng gỗ, tựa như hai quả thông nhẹ xốp nhấp nhô trên đỉnh sóng. Hai thân hình kia không những luôn chọn đúng điểm cao nhất để giậm chân tung mình, không bị cuốn vào dòng lũ, mà còn liên tục di chuyển đến sát mép ngoài. Rất nhanh chóng, bọn họ đã tìm được một thời cơ tuyệt hảo để ung dung thoát khỏi dòng gỗ, nhảy lên mặt đất và lao nhanh tới bên Lỗ Nhất Khí.
Đám đao thủ nhanh chóng tung mình nhảy bật lên, vừa nhảy vừa chạy trối chết, song vẫn có vài kẻ bị cuốn vào dòng lũ. Tuy bị những khối gỗ khổng lồ phang đập đè nghiến, song chúng không hề bật lên một tiếng kêu gào. Vì trong quá trình tập kích, những tiếng thét gào đau đớn sẽ ảnh hưởng tới đồng bọn, khiến khí thế chùn nhụt, thậm chí trở nên nao núng.
Gã đao thủ suýt nữa hạ sát Lỗ Nhất Khí thành công sau khi bị cán cưa giật ngã bổ chửng, mũi đao đã xuyên qua lớp áo bông của Lỗ Nhất Khí cũng theo đà rạch thẳng xuống, cứa rách toạc vạt áo bông, cũng cứa đứt dải thắt lưng buộc bên ngoài áo. Khẩu pạc hoọc đang giấu trước bụng lập tức lộ ra.
Lúc này, đám đao thủ bên mé tây đã kịp ào tới. Một tên nhảy vọt lên cao, lao bổ về phía Lỗ Nhất Khí. Hai kẻ khác cũng tung người lên xông thẳng vào người cầm cưa.
Chỉ thấy người cầm cưa vung mạnh tay trái, một vật thể tròn như chiếc đĩa bay vụt về phía đao thủ đang tấn công Lỗ Nhất Khí. Hắn chưa kịp né tránh hay đánh đỡ, chiếc đĩa đã xẹt thẳng đến mạng sườn. Chỉ nghe hắn “hự” lên một tiếng, cả thân người đã rơi đánh huỵch lên một khúc gỗ vừa lăn tới sau lưng. Lúc này, một miếng gỗ thông lùn nhựa hồng ngọc tròn xoe mới lăn ra, xoay tít một hồi mới dừng lại.
Hai đao thủ đang xông về phía người cầm cưa cũng đã ngã nhào cả xuống, vì có hai chiếc rìu cán dài đã lao về phía chúng. Hai chiếc rìu bay ra từ hai cơ thể lông lá xồm xoàm khi nãy, trông khác hẳn với rìu thợ mộc thông thường, phần cán dài hơn rất nhiều, có lẽ chừng ba thước. Lưỡi rìu không lớn, trông vuông vức đày dặn, có lẽ là loại rìu chuyên dùng để đốn cây, chẻ củi.
Nhìn vào đường bay của hai chiếc rìu, có thể đoán rằng đây không phải cách xuất chiêu của cao thủ võ công, song nghe tiếng gió rít khi lưỡi rìu bay đi, đủ biết chúng mang theo một lực đạo kinh người. Hai đao thủ vừa lơ lửng trên không đã rơi phịch xuống, ngã nhào trên đống gỗ lăn hỗn độn. Chúng không bị lưỡi rìu chém phải, song đã bị cán rìu xoay tít quật trúng.
Dòng thác gỗ tuy vô cùng hung hãn, song chỉ duy trì trong một thời gian ngắn ngủi. Bởi vậy cục diện vừa hơi lắng dịu, những đao thủ không bị thương lập tức ồ ạt lao lên, chớp mắt đã dàn thành một trận ngũ trùng nhỏ hơn, nhưng chặt chẽ nghiêm mật y hệt như khi mới bắt đầu triển khai tập kích.
Nhưng đám đao thủ còn chưa kịp hành dộng, hai thân người xồm xoàm đã lập tức ra tay. Họ đã không còn rìu làm vũ khí, nên hợp sức cùng nhấc bổng lên một súc gỗ to như cái chum, động tác của họ vô cùng ăn ý, lấy mũi chân, đầu gối, hông, sườn làm điểm tựa, thoắt cái đã gác được súc gỗ lên vai, rồi quăng vụt ra.
Súc gỗ rơi xuống, vụn gỗ tung toé tứ bề, nhưng đám đao thủ chỉ hơi rẽ ra, rồi ngay lập tức lại trở về vị trí.
Hai người kia vừa định tiếp tục nhấc một cây gỗ khác, song đám đao thủ đã không cho họ cơ hội ra tay, từ trong trận hình ngũ trùng tàn sát đã có một nhóm tách ra, lao sang vây kín lấy họ, mấy luồng đao quang đồng thời giáng xuống.
Lúc này Lỗ Nhất Khí đã lôi được khẩu pạc hoọc ra, chốt an toàn đã mở, từng viên đạn khạc khỏi nòng súng một cách lạnh lùng và chuẩn xác tuyệt đối. Đầu tiên, cậu nhằm đến đám đao thủ đang tấn công hai thân người lông lá, mỗi phát đạn đều xuyên trúng ấn đường.
Khi Lỗ Nhất Khí bắn ra phát đạn thứ năm, đám đao thủ đã ào ào bỏ chạy tháo thân với một tốc độ điên cuồng tựa như bầy khỉ khiếp đảm lao vào rừng rậm.
Mấy tên đao thủ đang vây đánh thợ rèn ở gần đó nhất chứng kiến cảnh tượng này, đã cuống cuồng tháo chạy trước tiên.
Cây gậy của lão mù vừa đâm xuyên cổ họng một gã đao thủ, bị hai bàn tay của kẻ giãy chết túm chặt, nhất thời không thể rút về. Một đao thủ khác thấy thời cơ quá tốt, lập tức tấn công, nhưng thanh đao vừa mới vung lên, một phát đạn đã xuyên ngay giữa trán, cả thân người đổ ập xuống đất như bao gạo. Những đao thủ khác mắt vừa liếc thấy, chân đã nhảy vọt ra xa, sau vài cú nhún mình, đã biến mất tăm phía sau dãy nhà gỗ.
Đám đao thủ vây đánh Quỷ Nhãn Tam cũng đã quay đầu chạy thục mạng, nhanh tới mức cây Vũ Kim Cương vụt ra từ tay Quỷ Nhãn Tam cũng không đuổi kịp, chỉ đâm trúng đầu vai một tên, rồi rơi ngay xuống đất. Tên đao thủ đầu vai toé máu, thân hình vùn vụt lao đi như một con chim sẻ bị thương, thoắt cái đã mất dạng phía sau một đống gỗ thù lù.
Cả một khu chợ vừa mới đây thôi náo nhiệt là thế, bỗng chốc trở nên im ắng rợn người, nồi vỡ chum mẻ lăn lóc ngổn ngang, phát ra những tiếng lọc cọc đơn điệu. Lều che quán cơm rách bươm, những mảnh vải bạt bay phần phật trong gió lạnh.
Người cầm dùi sắt nhặt thanh đao bên xác một đao thủ lên, lật qua lật lại xem xét một hồi rồi lên tiếng:
- Loại đại đao giải uyển của cẩm y vệ đời Minh, rèn từ thép Đông Cát tôi kỹ, cán dao bọc sợi da hươu, thời gian đúc từ tám mươi lăm năm đến chín mươi năm, là binh khí của “Minh tử tiêm đao hội”*.Tể chức này đã bặt tích mấy chục năm nay, không hiểu vì sao lại tái xuất.
* Có nghĩa là “hội đao nhọn của con cháu nhà Minh”, thành lập vào những năm Thuận Trị đời Thanh, giống như Bạch Liên giáo, Thiên Địa hội, đều là những tổ chức phản Thanh phục Minh. Tương truyền phần lớn thành viên là hậu duệ của các quan lại triều Minh. Song tổ chức này chỉ tồn tại trong một thời gian rất ngắn, cũng không gây ảnh hưởng nhiểu đến xã hội. Nghe nói nó đã mau chóng tan rã do mâu thuẫn nội bộ.
Lỗ Nhất Khí không nói gì, cậu đang lùng sục trong cảm giác để tìm kiếm cổ vật ở trung tâm “ngũ trùng đăng nguyên hội” khi nãy. Thứ này đang ở rất gần đây, bởi lẽ cậu vẫn mơ hồ cảm giác thấy có làn linh khí đang lẩn khuất.
Những người khác cũng đang tìm kiếm, song không phải là bằng cảm giác giống như Lỗ Nhất Khí. Chẳng hạn như ông thợ rèn tay cầm dùi sắt đang không ngừng hít ngửi. Ông ta suốt ngày làm bạn với bếp lò, nên khứu giác đặc biệt nhạy cảm với mùi khói lửa. Lúc này ông ta đã ngửi thấy mùi cháy, song không dám chắc hoàn toàn, bèn lên tiếng hỏi:
- Mọi người thử ngửi xem, phải chăng có thứ gì đang cháy?
Câu hỏi này đã thức tỉnh lão mù, lão đã nghe thấy những âm thanh mà trước đó không hề có, là những tiếng lách tách rất khẽ.
Thời còn là tặc vương, lão đã rất nhiều lần nghe thấy âm thanh này. Lão vội kêu lên:
- Chúng ta mau rời khỏi đây, gỗ đã bén lửa rồi!
Lời lão mù vừa thốt ra, người có phản ứng mạnh nhất chính là người đang cầm cưa. Gã là người kiếm sống nhờ rừng núi, nên hiểu rõ một khi cả đống gỗ lớn bén lửa sẽ gây nên tai hoạ khủng khiếp nhường nào. Nhẹ thì thiêu trụi cả thị trấn, còn nặng thì toàn bộ vùng rừng núi quanh đây đều sẽ ra tro.
Thế là cả đám người vội vã thu gom đồ đạc bỏ chạy ra ngoài. Song lúc này cả thị trấn đã chìm trong màn khói, không thể nhận ra hướng nào với hướng nào.
- Mau chạy theo tôi! – Người cầm cưa hét lớn, rồi dùng một món đồ sắt gõ mạnh lên lưỡi cưa, vừa gõ vừa dẫn đầu đoàn người chạy về một hướng. Họ phải tháo chạy thật nhanh, nếu không muốn bị thiêu sống hoặc chết sặc trong màn khói.
Khói bủa mịt mù, không nhìn rõ hình người, song mọi người đều nghe thấy tiếng gõ cưa choang choảng, nên cứ theo đó mà chạy. Tiếng gõ giờ đây khác nào nhạc tiên dẫn lối, dẫn dắt đoàn người chạy ra khỏi địa ngục tối tăm.
Khi đoàn người chạy lên được ngọn núi nhỏ bên cạnh, toàn bộ thị trấn đã chìm trong biển lửa, những cột khói đen bốc lên ngùn ngụt che kín một khoảng trời. May mà xung quanh thị trấn có đào sẵn những hào rãnh phòng hoả hoạn nên lửa mới không cháy lan sang khu rừng rậm.
Nhưng thật quái lạ, từ lúc ngọn lửa bốc lên đến giờ, không hề thấy một người chạy ra khỏi trấn, cũng không hề nghe thấy một tiếng kêu gào. Cả một phiên chợ đông nghịt những người khi nãy cứ như đã đột ngột biến mất.
Sự thể quái lạ chính là điềm báo nguy hiểm, thế nên chốn này không thể ở lâu, nhanh chóng rời đi chính là quyết định sáng suốt nhất.
Trèo đèo vượt núi liền chân không nghỉ quả là vô cùng mệt mỏi, điều này thể hiện rõ nhất ở Lỗ Nhất Khí. Cậu đã thở hổn hển như muốn đứt hơi, và cuối cùng quyết định dừng bước. Không phải là cậu không đi nổi nữa, mà vì cậu muốn làm rõ một số việc quan trọng hơn nhiều.
Trước hết, cậu muốn biết những người vừa liều mạng giúp mình là ai, họ đến đậy có mục đích gì.
Ông thợ rèn tầm năm mươi tuổi, dáng người tầm thước, khuôn mặt đen bóng, qua lần áo khoác mỏng manh, có thể nhận ra một thân thể vô cùng cường tráng. “Nhậm Hoả Cuồng”, cái tên vừa được xướng lên, lão mù bỗng ngây người, còn Quỷ Nhãn Tam “ối” lên một tiếng. Nhìn vào phản ứng của họ, Lỗ Nhất Khí có thể đoán ra ông thợ rèn hẳn rất có danh vọng trong giang hồ. Nhưng ba người còn lại không có phản ứng gì, họ đều quen biết ông ta, cũng như quen biết những thợ rèn khác kiếm sống ở vùng rừng núi quanh đây. Họ không hề biết ông ta có danh tiếng giang hồ ra sao, lại càng chưa thấy ông ta có tài cán gì khác biệt.
Nhậm Hoả Cuồng nói với Lỗ Nhất Khí, ông là bạn thân của Lỗ Thịnh Nghĩa, hai người đã từng vào sinh ra tử khi xây dựng lọng trấn ma thân gỗ đỉnh sắt* ở sông Muội Đài tỉnh Sơn Đông. Hồi đó, may mà Lỗ Thịnh Nghĩa đã giúp ông ta nhể được con sâu mười chân trăm gai** ra khỏi sợi gân sau gáy, nên ông mới tránh khỏi kiếp nạn bị người ta không chế rồi toàn thân bại liệt. Ông cũng đã từng gặp Lỗ Thịnh Hiếu, vì thế mà nhận ra được lưỡi rìu Lộng phủ của Ban môn.
* Đây là vật trấn vô cùng kỳ diệu, khác hẳn với lọng kinh được xây bằng gạch đá thông thường. Nó gổm một đỉnh lọng làm bằng sắt thép có đúc sẵn kinh văn. Thân lọng làm bằng gỗ với kết cấu cực kỳ tinh xảo, vừa chắc chắn lại vừa yếu ớt. Bình thường chục người cùng xô đẩy cũng không thể lay chuyển được nó, song chỉ cần có luồng gió âm tà thổi qua, toàn bộ khung gỗ sẽ lập tức đổ sập, phần đỉnh bằng sắt có đúc kinh văn cũng rơi xuống, trấn áp yêu ma quỷ quái mang theo âm phong phía dưới.
** Là một loài côn trùng thần kỳ, còn gọi là mười vuốt trăm gai. Giống trùng này muốn thâm nhập vào cơ thể người tương đối khó khăn, người bị xâm nhập phải có thương tích trên người và đang trong tình trạng vô thức thì chúng mới xâm nhập được. Nhưng một khi vào được cơ thể, mười móng vuốt của con trùng sẽ xuyên thẳng vào tuỷ sống, toàn bộ một trăm chiếc gai trên người nó sẽ ăn sâu vào thần kinh và huyết quản. Như vậy, nó sẽ thông qua tuỷ sống và dây thần kinh để nối liền với não bộ, cùng với thời gian, sự liên kết ngày càng bền chắc. Người khống chế có thể dùng âm thanh để điều khiển con trùng chuyển động, mỗi một hình thức chuyển động khác nhau, sẽ lôi kéo những dây thần kinh và huyết quản khác nhau. Người khống chế sẽ dùng cách này để điều khiển hành động và suy nghĩ của người bị hại.
Người cầm cưa biệt hiệu là “sài đầu” hay “lái gỗ”, đều có nghĩa là người trung gian trong buôn bán gỗ. Gỗ mang từ rừng về sẽ được bọn họ cưa cắt sơ qua, sau đó phân loại, phân hạng rồi bán cho người khác, hoặc thậm chí cưa gỗ thành súc bán theo cân như trong phiên chợ vừa rồi.
Gã lái gỗ tên gọi Phó Lợi Khai, tầm tuổi trung niên, là người tháo vát, thân hình cao lớn vạm vỡ, song vẻ mặt có phần thô tục. Ngũ quan trên mặt vẹo vọ không cân xứng tẹo nào, một mắt bình thường, con mắt còn lại híp tịt như một khe hở, nhưng ánh nhìn chiếu ra từ hai con mắt bên to bên bé lại tinh khôn xảo quyệt khác thường.
Gã nói gã không quen bất kỳ ai trong nhà họ Lỗ, cũng chưa từng nhìn thấy Lộng phủ thực sự, song gã có biết về Lộng phủ, nhờ sư phụ có để lại một cuốn “Ban kinh” và một tranh vẽ tô màu, chính là vẽ hình Lộng phủ. Trước lúc lâm chung, sư phụ có trăng trối lại, dặn gã phải lưu lại nơi này, đợi đến khi có người mang Lộng phủ tới thì trao lại bức tranh cho người đó, đồng thời phải trợ giúp người đó hoàn thành đại sự. Nếu đời này không thấy người đó xuất hiện, phải tìm một hai đệ tử tiếp tục truyền lại nhiệm vụ.
Nghe những lời trên, Lỗ Nhất Khí vô cùng xúc động, tựa như vừa gặp lại người thân thích. Thì ra gã lái gỗ chính là truyền nhân của Lỗ gia lưu lại nơi này, cũng là đệ tử thực thụ của Ban môn.
Những người khác, trong đó có cả Nhậm Hoả Cuồng, nghe được điều này đều “ồ” lên một tiếng, họ đều hiểu rõ sự tình hơn gã lái gỗ.
- Hoá ra cũng là đệ tử của Ban môn! Nhưng tại sao bản thân ngươi lại không biết?
- Sư phụ chưa từng nói đến! – Phó Lợi Khai thành thật nói.
- Vậy sư phụ của ngươi danh tính là gì? Ông ta có nói với ngươi tại sao lại phải chờ đợi ở chốn núi rừng này hay không? – Nhậm Hoả Cuồng cũng hỏi rất thực tình.
- Tôi không biết! Khi sư phụ lôi được tôi ra từ trong đống tuyết, tôi vẫn còn là một đứa trẻ sơ sinh. Ông một tay nuôi tôi khôn lớn, dạy tôi kỹ nghệ, song lại chỉ bảo tôi gọi ông là sư phụ, họ Phó của tôi cũng là lấy từ chữ “sư phó” (tức sư phụ) mà ra. Không có sư phụ cũng không có tôi, bởi vậy những điều sư phụ dặn dò, tôi dù phải mất mạng cũng tuân thủ đến cùng! – Lời nói của Phó Lợi Khai đã khiến lão mù bồi hồi xúc động, bởi lẽ cũng ít nhiều giống với cảnh ngộ cuộc đời lão.
- Vậy việc ngươi thu nạp đồ đệ hẳn cũng có nguyên nhân gì khác biệt? – Lão mù chỉ về phía hai kẻ lông lá xồm xoàm rồi hỏi.
- Ông nói hai người kia ư? Họ không phải là đồ đệ của tôi, chỉ là thợ phụ. Họ theo tôi kiếm ăn, song không học kỹ nghệ của tôi. Tôi vẫn chưa tới tuổi thu đồ đệ để lưu truyền di mệnh! – Phó Lợi Khai đáp.
Hai kẻ kia kỳ thực đã mặc lộn ngược lớp lót lông thú của tấm áo bông ra bên ngoài, như vậy có thể giúp họ cử động tay chân thoải mái hơn. Họ là hai anh em ruột. Người mặc áo lông nhiều màu là anh cả, tên Tùng Đắc Lễ; người mặc áo lông tuyền một màu nâu là em tên Tùng Đắc Kim. Nhà họ vốn có bốn anh em, nhưng hai người em đã bị đống gỗ thô đổ sập đè chết khi đang buôn bán ở chợ. Đó là một nỗi mất mát đau thương cho hai người còn lại, và cũng là một bài học xương máu. Bởi vậy họ đã quyết chí khổ luyện được một sức khoẻ phi thường và công phu nhảy trên đống gỗ lăn. Cho nên, khi Phó Lợi Khai tới cứu viện Lỗ Nhất Khí, hai người họ đã chặt dứt dây thừng buộc gỗ, khiến gỗ thô ào ào đổ xuống tấn công đám đao thủ sát nhân.
Nhậm Hoả Cuồng biết Lộng phủ là tín vật do môn trưởng Ban môn nắm giữ, song ông không hiểu chức vị môn trưởng Ban môn đã được chuyển cho cậu thanh niên tướng mạo tầm thường kia từ lúc nào. Ông ta vô cùng kinh ngạc, nhưng kể cũng khó trách, vì nơi đây núi non hẻo lánh tách biệt với bên ngoài, tin tức trong giang hồ khó mà truyền tới. Thứ nữa, cả Lỗ gia và Chu môn đều không phải là những môn phái giang hồ thực thụ. Ví như Chu môn, hành vi của họ người ngoài thường không thể biết được. Thành Bắc Bình, thành Cô Tô xảy ra sự biến, mà họ đều ém nhẹm kín bưng, không để cho người giang hồ hay quan chức phát hiện ra một dấu vết gì. Lỗ gia lại càng không để người khác biết những sự biến xảy ra có liên quan gì đến họ. Xưa nay hành động bí mật vẫn luôn là nguyên tắc của Lỗ gia.
Nhậm Hoả Cuồng chăm chú lắng nghe ba người Lỗ Nhất Khí thay nhau thuật lại những chuyện xảy ra trong suốt hơn một tháng vừa qua, trong lòng bàng hoàng chấn động, bất chợt trào dâng một niềm kính trọng đối với Lỗ Nhất Khí. Cậu thanh niên này là con trai của người bạn chí thân, tuy thuộc hàng tiểu bối, song giờ đây đã là môn trưởng, lại có tài năng thực thụ, bởi vậy quan hệ giữa ông và cậu ta không thể đi ngược với quy củ giang hồ yêu cầu phải tôn trọng môn trưởng của môn phái khác. Nếu không, cho dù Lỗ Nhất Khí không để bụng, cũng khó tránh kẻ khác thừa cơ châm chọc. Đặc biệt, sau khi biết Phó Lợi Khai kỳ thực cũng được coi là đệ tử Ban môn, ông ta càng thấy phải chú trọng đến điều này.
Trái ngược với Nhậm Hoả Cuồng, Phó Lợi Khai lại chẳng bận tâm đến chuyện Lỗ Nhất Khí là môn trưởng, bởi lẽ gã chẳng biết Ban môn là thứ gì, lại càng không biết môn trưởng là nhân vật ra sao. Gã chỉ biết rằng mình cần phải giúp đỡ cậu thanh niên này hoàn thành trọng trách theo đúng di nguyên của sư phụ mà thôi.
Nhậm Hoả Cuồng nói với Lỗ Nhất Khí, ngữ điệu đầy khách khí:
- Lỗ môn trưởng, cậu tới vùng đất khỉ ho cò gáy này chắc hẳn là có việc cần kíp. Năm xưa tôi đã chịu ơn của bậc tiền bối trong nhà cậu. Nếu như cậu không chê, tôi sẵn sàng trợ giúp cậu san sẻ trọng trách nặng nề.
Lỗ Nhất Khí còn chưa kịp cảm ơn, Phó Lợi Khai cũng lên tiếng:
- Phải! Việc của cậu tôi cũng sẵn sàng giúp đỡ để mau chóng hoàn thành. Như vậy, tôi sẽ có thể rời khỏi chốn rừng sâu núi thẳm này, thoải mái ngao du trong thế giới nhộn nhịp ngoài kia.
Nghe lời gã nói, niềm cảm kích đang trào dâng trong lòng Lỗ Nhất Khí bỗng chốc đã biến thành một nụ cười khổ sở:
- Tôi cũng muốn mau chóng hoàn thành nhiệm vụ, chỉ có điều giờ đây, đến địa điểm chính xác ở đâu tôi còn chưa biết rõ!
Câu nói của cậu khiến ông thợ rèn và gã lái gỗ lập tức ỉu xìu. Quỷ Nhãn Tam vốn không thích nói nhiều, đột nhiên bật ra một câu:
- Bức tranh sư phụ để lại không chừng lại là chỉ dẫn!
Cả mấy người mắt đều vụt sáng. Không sai! Phó Lợi Khai lập tức lôi từ trong tay nải to kềnh khoác chéo vai ra một túi vải thô, rồi lại mở tiếp ba lớp túi nữa mới lộ ra một cuốn sách đã ố vàng, đó chính là bản “Ban kinh” chép tay. Những ngón tay dài mà cứng cáp của Phó Lợi Khai nhẹ nhàng lật giở vài trang sách, liền lộ ra một bức tranh tô màu được kẹp ở giữa sách. Bức vẽ sống động như thật, Lộng phủ trong tranh hầu như không có một chút khác biệt so với rìu ngọc ở bên ngoài.
Lỗ Nhất Khí nhẹ nhàng nâng bức tranh trên tay, bắt đầu cảm giác. Cậu cảm thấy chất giấy khá nặng, đặc biệt dai bền, có lẽ là loại giấy Ngọc Lâm đã được trộn lẫn bột lá gai và lông tơ cừu. Làn khí toả ra từ tờ giấy đã mách bảo với Lỗ Nhất Khí rằng, niên đại của nó không thực cổ xưa, chắc hẳn không quá một trăm năm.
Hiển nhiên là giấy có trước, tranh vẽ có sau, bởi vậy tuổi thọ của bức tranh càng ngắn hơn nữa. Thế nhưng Lỗ Nhất Khí vẫn cảm nhận thấy chút hơi hướng cổ xưa toả ra từ bức vẽ, bởi vì chất liệu dùng để vẽ rất cổ, có lẽ là thứ màu “Cung hội thái” từ thời Nguyên. Khi tô màu Cung hội thái, cần phải pha chế với dầu băng tinh, nếu không sau khi tô màu xong, màu sẽ khô lại và bong tróc. Nếu pha với thứ dầu mỡ khác, màu sắc sẽ mờ nhạt, không được tươi tắn. Nhưng màu Cung hội thái có rực rỡ tới đâu, sau vài chục năm cũng sẽ dần dần sạm đi mà phai nhạt. Nếu không biết cách bảo quản, màu sắc còn phai nhanh hơn nữa. Bức tranh này màu sắc vẫn rất tươi, lại nhìn vào cách bảo quản sơ sài của Phó Lợi Khai, chắc hẳn tuổi đời của nó không quá ba chục năm.
Ngoài những điều trên, Lỗ Nhất Khí không còn nhận ra điểm gì khác ở bức tranh nữa. Cậu lật lên lật xuống một hồi, quan sát vô cùng tỉ mỉ, song vẫn không tìm ra được manh mối hay điểm nào khác lạ.

*

Chương 2.3 NGHI NGỜ KHỞI

Nhậm Hỏa Cuồng ngồi bên cạnh không hề nhìn vào bức tranh trên tay Lỗ Nhất Khí, bởi lẽ đây là bí mật của môn phái khác. Song ông ta lại rất tò mò với cuốn “Ban kinh” trong tay Phó Lợi Khai. Bản thân Nhậm Hỏa Cuồng cũng có một cuốn “Ban kinh” do Lỗ Thịnh Nghĩa tặng cho, với mong muốn ông ta hãy dành thời gian nghiên cứu những kỹ nghệ bên trong, để sau này có thể trợ giúp Lỗ gia khi cần thiết.
Lúc này, ông phát hiện thấy cuốn “Ban kinh” trong tay Phó Lợi Khai có vẻ dày dặn hơn của mình rất nhiều, bèn vươn cổ liếc xem, thấy nét chữ trong sách cũng nhỏ hơn, thì cảm thấy rất lạ lùng, không hiểu nguyên nhân là do đâu.
Có người đã nhìn thấu nỗi thắc mắc trong lòng ông ta. Quỷ Nhãn Tam đang ngồi trên một gốc cây bên cạnh bèn lên tiếng:
– Lão Nhậm, đừng nhìn nữa, đó là toàn bộ sáu công phu, còn chúng ta chỉ có phần tổng quát và một công phu thôi! – Quỷ Nhãn Tam đi theo Lỗ Nhất Khí đã hơn một tháng, bởi vậy khi Lỗ Nhất Khí giở cuốn “Ban kinh” do Lỗ Thịnh Hiếu để lại, hắn đã nhìn ra sự khác biệt ở trong đó.
– Vậy mà hắn còn nói mình không phải là đệ tử Ban môn! – Trong suốt những năm qua, Nhậm Hoả Cuồng vẫn đi theo những nhóm đi rừng để kiếm kế sinh nhai, đã quen biết lái gỗ Phó từ trước. Nhưng ông ta chưa bao giờ nghĩ rằng gã thợ giống như lái buôn này lại có liên quan gì tới Ban môn. Giờ nghe Quỷ Nhãn Tam nói vậy, ông ta đã chắc chắn gã lái gỗ kia đích thị là Ban môn đệ tử.
Đầu óc tinh nhanh của Phó Lợi Khai lập tức ý thức được rằng hai người kia đang nói tới cuốn sách trong tay mình, khuôn mặt lệch vẹo bỗng thoáng ửng dó, thần thái cũng trở nên thiếu tự nhiên. Chợt bắt gặp ánh mắt nghi ngờ của Nhậm Hoả Cuồng và Quỷ Nhãn Tam, lại thấy cơ mặt lão mù khẽ giật giật như cảnh giác, thì gã vội vàng giải thích, vì nếu còn không nói e rằng sẽ có hiểu lầm:
- Sư phụ nuôi tôi khôn lớn, có dạy tôi một số kỹ thuật nghề mộc, song rất nhiều kỹ nghệ không cho phép tôi sử dụng trong lúc bình thường. Sư phụ không dạy chữ cho tôi, cũng không cho tôi đi học, nên cuốn sách này viết gì tôi đâu có biết.
Lời giải thích rất hợp lý, song xem ra có phần khiên cưỡng. Mọi người đều trầm ngâm, không ai nói câu nào.
Cuối cùng vẫn là Lỗ Nhất Khí lên tiếng trước, song giống như đang tự nhủ với chính mình:
– Tôi không phát hiện được điều gì từ bức tranh này cả. Nếu tìm được đến vùng đất mẹ, chưa biết chừng sẽ phát hiện được manh mối nào chăng.
Cậu vừa dứt lời, cả Nhậm Hoả Cuồng và Phó Lợi Khai gần như đồng thanh thốt lên:
– Kim gia trại!
Kim gia trại chính là trại đàn bà, trại chủ cũng chính là bà chủ, là một người đàn bà tháo vát và xinh đẹp, tên gọi Thuỷ Băng Hoa. Trong vòng vài trăm dặm quanh đây, không ai không biết tiếng Thuỷ đại nương – ba chủ trại đàn bà. Năm xưa, cô ta mới kết hôn được ba ngày, người chồng đã theo anh em chú bác ra Quan Ngoại làm ăn, hơn hai năm trời bặt vô âm tín. Thuỷ đại nương bèn một thân một mình lặn lội đến tận Quan Ngoại tìm chồng, mới hay tin người chồng vừa tới Quan Ngoại đã bị cây đổ đè chết. Cô ta không quay về nữa, mà dẫn theo vài chục quả phụ và những người phụ nữ chưa tìm thấy chồng có nguy cơ thành quả phụ tìm đến một thung lũng dựng trại trú lại. Trại này chính là một điểm nghỉ chân, cũng là một tổ ấm cho những kẻ cô đơn. Cánh đàn ông đói khát trong rừng có thể tìm tới đây để thoả mãn mọi nhu cầu.
Phó Lợi Khai lập tức nghĩ ngay tới Kim gia trại, bởi vì mấy chữ “vùng đất mẹ” đã khiến gã chợt nhớ đến cái trại đầy những người đàn bà phốp pháp trắng trẻo, nhớ tới vài ả nhân tình đã lâu không gặp, bất giác trên khuôn mặt thiếu tự nhiên của gã lộ ra một nét cười khả ố.
Nhậm Hoả Cuồng nghĩ tới Kim gia trại, vì ở đấy ngoài đàn bà, còn có thể thu lượm được tin tức. Tất cả mọi tin tức sốt dẻo, quái lạ, mọi thông tin về địa giới hay đường đi trong vùng rừng núi quanh đây đều có thể lấy được từ trại đàn bà. Những gã đàn ông ra vào nơi đây không bao giờ hà tiện về những điều họ mắt thấy tai nghe với những cô nhân tình ngọt ngào.
Đường tới Kim gia trại khá xa, đoàn người vẫn phải dò dẫm băng qua ngút ngàn rừng sâu tuyết phủ. Nhậm Hoả Cuồng quảy gánh lò rèn dẫn đầu đoàn người, hai anh em Tùng Đắc Lễ và Tùng Đắc Kim đi sau rốt. Hai gã thanh niên to cao lực lưỡng, rìu giắt sau lưng, vác theo hai chạc thông lá kim thật lớn, kéo lê theo sau để xoá dấu chân. Tùng Đắc Lễ chốc chốc lại vung khúc cây gõ vào những cây nhỏ ven đường, khiến tuyết phủ trên tán cây rơi xuống lả tả, phủ kín vết kéo của cành thông.
Trời đã sẩm tối, bọn họ vẫn ở trong rừng sâu, phóng mắt nhìn quanh không thấy một nóc nhà. Nhậm Hoả Cuồng nói rằng với tốc độ như thế này, chí ít cũng phải quá nửa đêm mới tới được Kim gia trại. Lại thêm đêm đen rừng thẳm, núi dốc đường trơn, chi bằng tìm chỗ nghỉ ngơi, đợi sáng hôm sau đi tiếp.
Mọi người đều đồng ý. Hai anh em Tùng Đắc Lễ nhanh chóng tìm ra một được một sườn dốc đứng cao hơn một trượng, hai cây rìu vung lên loang loáng, thoắt một cái đã đốn đổ hai cây thông tuyết cao lớn phía trước sườn dốc. Cây thông đổ xuống, thuận thế gác lên đỉnh dốc, tán lá um tùm che rợp giống như một mái nhà lớn. Hai anh em Tùng Đắc Lễ lại lom khom chui xuống phía dưới tán cây, một lúc sau hì hục lôi ra hàng bó lớn cành thông. Bọn họ đã dọn dẹp xong những cành cây chìa ra phía dưới, giờ đây cây thông đổ đã thực sự giống như một mái nhà.
Quỷ Nhãn Tam nện cho chắc nền tuyết phía dưới tán cây, còn Phó Lợi Khai dẫn anh em họ Tùng mang mớ cành thông mới chặt cắm ở xung quanh thành một hàng rào, nói rằng để đề phòng thú dữ tấn công. Nếu quả thực có thú dữ tới gần, khi vượt qua hàng rào hẳn sẽ gây ra tiếng động.
Lỗ Nhất Khí cũng ôm một mớ cành cây đem cho ba người họ, tiện thể liếc mắt quan sát cách họ cắm rào. Không hề có bất cứ quy luật hay khảm tướng nào, xem ra đúng như những gì Phó Lợi Khai đã nói, gã chưa từng học “Ban kinh”.
Bên dưới tán cây, Nhậm Hoả Cuồng đã bắt đầu nhóm bếp lò, rồi lôi ra một túi nhỏ khoai lang trong hòm mây bên đầu gánh còn lại, cho lên bếp nướng.
Trong vùng núi rừng phương Bắc, đêm tối ập đến rất nhanh. Trong cả khu rừng chỉ còn lại một đốm sáng duy nhất bập bùng ẩn hiện dưới tán lá thông rậm rạp. Gió Bắc rít lên thành tiếng, tựa như ma quỷ gào rít, chốc chốc lại thổi bạt một đám tuyết từ trên tán lá rơi xuống rào rào, nghe như tiếng bước chân đang từ từ tiến lại.
Mọi người đều túm tụm với nhau bên dưới tán cây, vây quanh lò lửa, cùng ăn khoai lang nướng, chẳng phải bận tâm đến cái giá buốt của đêm tối rừng sâu, cũng không hề sợ hãi trước những âm thanh rờn rợn ở bên ngoài. Họ đều là những cao thủ giang hồ hoặc thợ rừng lão luyện, có thể phân biệt rõ từng loại âm thanh.
Lỗ Nhất Khí vừa chậm rãi ăn khoai, vừa kín dáo quan sát những người xung quanh. Có thể nhận ra, bọn họ hoặc là bản tính thô lỗ, hoặc là đang đói ngấu, nên ai nấy đều nhai nuốt nhồm nhoàm.
Song Lỗ Nhất Khí vẫn nhận ra một vài điểm bất thường. Thứ nhất là lão mù, lão ăn khoai mà cứ như nhai rơm, bộ dạng nửa như trầm tư nghĩ ngợi, nửa như đang nghe ngóng điều gì.
Người bất thường thứ hai lại càng dễ nhận, đó là Quỷ Nhãn Tam. Hắn đang cắn một miếng khoai, có lẽ là do quá nóng, nên hắn há vội miệng ra mà hít hà, lưỡi thè cả ra ngoài. Mới đầu cậu cũng không để ý, song khi ánh mắt lướt qua, dường như có lờ mờ hai chữ “khả nghi” xuất hiện. Cậu vội lia ánh mắt trở lại, và đã nhìn thấy rõ ràng. Quỷ Nhãn Tam đang mấp máy với cậu mấy chữ: “Cẩn thận, người khả nghi!”
Lỗ Nhất Khí không đáp lại, cậu không biết phải ra hiệu thế nào trong khi miệng lúng búng đầy những khoai lang. Cậu chỉ biết nhìn thẳng vào con mắt có thể nhìn thấu đêm đen, rồi chớp mạnh một cái.
Đêm đã về khuya, xung quanh tối đen như mực. Trước khi đi ngủ, Nhậm Hoả Cuồng đã dùng tro than ủ kỹ bếp lò để lửa cháy liu riu. Nhưng giờ đây, trong bếp lò tới một đốm lửa cũng không nhìn thấy.
Bỗng vọng lên một tiếng lách tách khe khẽ. Lỗ Nhất Khí choàng tỉnh từ trong giấc ngủ chập chờn đầy cảnh giác. Gió đã ngừng thổi, không gian lặng phắc như tờ.
Mới đầu, Lỗ Nhất Khí ngỡ rằng âm thanh mơ hồ khi nãy là tiếng than lửa nổ trong lò. Nhưng ngay sau đó lại thêm một tiếng nữa, nghe rõ hơn nhiều, mà trong lò không hề có hoa lửa bắn ra. Cậu đã nhận ra, âm thanh vọng lại từ một chỗ xa hơn rất nhiều so với bếp lò, hình như xuất phát từ hàng rào cành thông ở bên ngoài.
Những tiếng lách tách khe khẽ càng khiến cho không gian xung quanh tĩnh lặng đến đông cứng. Lỗ Nhất Khí cảm thấy quái lạ, tại sao những cao thủ đang nằm ngay bên cạnh đều không hề phản ứng? Lúc này cậu mới cảm thấy một mình đối mặt với nguy hiểm là đáng sợ nhường nào.
Lỗ Nhất Khí từ từ quay đầu lại, cũng từ từ rút khẩu pạc hoọc đang giấu dưới thân mình ra.
Bên ngoài tán cây rậm rạp loáng thoáng có một bóng đen to xù đang lay động, hệt như ác quỷ hắc ám đang múa vuốt nhe nanh. Bóng đen không hề phát ra một tiếng động, chỉ liên tục vừa lắc lư vừa nhích dần về phía Lỗ Nhất Khí từng chút một.
Lỗ Nhất Khí nằm xuống, không dám cử động mạnh, chỉ khẽ khàng rút chốt an toàn của khẩu súng, rồi chầm chậm dịch chuyển nòng súng nhằm về phía bóng đen. Do không biết bóng đen đó là thứ gì, điểm yếu hại ở đâu, nên cậu chỉnh súng về chế độ bắn liên tục.
Những cao thủ nằm bên vẫn không chút động tĩnh. Lỗ Nhất Khí khẽ với tay trái sang bên cạnh, đó là vị trí của lão mù, song tay cậu chỉ chạm vào khoảng không, lão mù đã biến mất! Lỗ Nhất Khí vội duỗi chân trái vươn ra phía ngoài, Quỷ Nhãn Tam lẽ ra phải nằm ở đó, thói quen của hắn chính là luôn che chắn cho Lỗ Nhât Khí an toàn ở bên trong. Song lúc này, Quỷ Nhãn Tam cũng không thấy đâu nữa.
Bóng đen đã tới sát tán cây, đã có thể nghe rõ tiếng lào xào do bóng đen quẹt qua cành lá. Lỗ Nhất Khí tựa sát lưng vào đá núi lạnh buốt, cầm chắc khẩu pạc hoọc trong tay.
Bỗng đột ngột vọng lên một rú ghê rợn, vang dội và rất đỗi chói tai, tựa như một mũi kiếm lạnh buốt đâm toac màn đêm tĩnh mịch trong rừng thẳm. Trong tiếng rú còn xen lẫn cả những tiếng ken két vô cùng quái dị, tựa như thú dữ mài vuốt, ma quỷ gặm xương.
Tiếng rú chỉ vang lên trong khoảnh khắc, nhưng những âm thanh quái dị vẫn tiếp tục không ngừng. Nhưng rất nhanh, tiếng rú lại dội lên, khoảnh khắc gián đoạn vừa nãy tựa như chỉ là dừng lại lấy hơi.
Bóng đen khựng lại hồi lâu, cuối cùng không nhịn nổi nữa, gầm lên một tiếng trầm dục, rồi nửa thân trên đổ ập xuống, nằm sấp lên phía trên hai cây thông tuyết đổ nghiêng, ra sức tìm cách lách qua những khe hở rất hẹp giữa những cành cây và thân cây rậm rạp để chui xuống phía dưới. Hai thân cây oằn hẳn xuống dưới sức nặng của bóng đen, phát ra những tiếng răng rắc ghê tai
Chính vào lúc này, lại thêm hai tiếng gầm rú vọng lên, hoà lẫn với tiếng rú ban đầu và những tiếng cọt kẹt ghê rợn, tiếp tục vang dội trong rừng thẳm núi sâu, trước sau tiếp nối, trận trận gần xa, liên hồi không dứt.
Những tiếng gầm rú đột ngột dường như đã khiến bóng đen kinh hãi, nó đâm sầm về phía trước một cú, chỉ nghe “rắc” một tiếng, một cây thông tuyết đã bị đè gay gập. Song vừa đâm gãy thân cây, bóng đen lập tức quay đầu, quăng mình lăn lông lốc xuống sườn dốc. Thân hình tuy đồ sộ song di chuyển cực nhanh, trong nháy mắt đã mất hút trong rừng sâu đen thẳm.
Có bóng người xuất hiện trên đỉnh dốc ngay trên đầu Lỗ Nhất Khí, đó là anh em họ Tùng. Hai anh em tung người nhảy thẳng xuống, rơi lên đống tuyết. Khi Lỗ Nhất Khí chui ra khỏi tán cây, Tùng Đắc Lễ đã châm lên một ngọn đuốc. Trong ánh lửa, họ nhìn thấy Phó Lợi Khai đứng bên sườn dốc cạnh đó, nét mặt thiếu tự nhiên giờ đây tràn đầy nghi hoặc, miệng lẩm bẩm không ngừng:
- Sao thế nhỉ? Sao thế nhỉ? Không thể như vậy được!
Không cần nói cũng biết, những âm thanh quái dị vừa rồi là do ba người họ tạo ra để xua đuổi quái thú. Không hiểu Phó Lợi Khai đã dùng thứ gì mài vào lưỡi cưa để phát ra những tiếng cọt kẹt ghê rợn nhường đó.
Lỗ Nhất Khí không hỏi Phó Lợi Khai đang nghi hoặc điều gì, bởi trong cậu còn rất nhiều thắc mắc chưa được giải đáp. Quỷ Nhãn Tam và lão mù đã đi đâu? Cả Nhậm Hoả Cuồng cũng không thấy đâu nữa?
- Ai?
Tùng Đắc Kim đột ngột quát lên, hạ thấp thân người, cây rìu cán dài đưa ngang trước ngực. Tùng Đắc Lễ vội cắm phập ngọn đuốc đang cầm trong tay phải vào đống tuyết để dập lửa, tay trái lập tức rút rìu, ở trong tư thế sẵn sàng tựa như con báo chuẩn bị vồ mồi.
Động tác của Phó Lợi Khai rõ ràng không nhanh nhẹn bằng hai gã thợ, tư thế phòng bị cũng đầy rẫy sơ hở. Gã đứng dang cả tay chân như hình chữ đại, hai tay giơ ngang, lưỡi cưa bên tay phải chắn trước mặt Lỗ Nhất Khí. Tuy làm như vậy có thể che chắn cho Lỗ Nhất Khí đang đứng cách gã ba bước, song bản thân gã lại trở thành mục tiêu lộ liễu, cửa ngõ tênh hênh.
Từ phía sau một cây sam tuyết cao lớn ở phía nam bỗng hiện ra hai cái bóng lênh khênh hệt như hồn quỷ, một là lão mù thân thể tong teo như cây gậy, một là cây gậy thép mảnh khảnh dài nghêu như thân người lão. Lão mù dường như đang hổn hển. Với tuyệt kỹ khinh công thượng đẳng như của lão mà phải hào hển như vậy, chắc chắn là vừa phải chạy gấp một đoạn đường rất xa.
Tùng Đắc Lễ lại châm bó đuốc vào bếp lò, những đốm lửa yếu ớt mau chóng bén vào thân cây cháy bùng thành ngọn, xem ra trên thân cây đã được bôi một loại dầu đặc biệt, hoặc là bản thân chất gỗ cực dễ bắt lửa.
Lỗ Nhất Khí lại quay sang quan sát lão mù. Lão đã thôi hổn hển. Bộ quần áo trên người lão vẫn đen trũi như màn đêm trong rừng thẳm, không có lấy một đốm tuyết dính vào.
Lại một bộ mặt bóng nhẫy thò ra từ phía sau bụi cây rậm rạp cách lão mù hơn chục bước chân, chính là Nhậm Hoả Cuồng. Có thể nhận ra, thứ bóng ướt nhễ nhại trên khuôn mặt ông ta chính là mồ hôi. Thợ rèn vốn cả ngày làm việc bên bếp lò hừng hực lửa, vốn dĩ chịu nóng rất giỏi, không dễ vã mồ hôi, nhưng tại sao ông ta lại mồ hôi lút mặt trong một đêm đông buốt giá nhường này?
Người xuất hiện cuối cùng là Quỷ Nhãn Tam. Đã thấy cái bóng của hắn lững thững đi lại từ vạt rừng cây ở phía nam, cùng một hướng với lão mù, dáng vẻ vô cùng thận trọng nhảy qua hố trũng, vòng qua đống tuyết, tốc độ chậm rãi hệt như đang tản bộ sau bữa ăn chiều. Song thế đi có phần quái lạ, đầu cúi gục, lầm lũi mà bước, tựa như một kẻ mất hồn, lại giống như một bóng ma không mặt. Nếu trong tay hắn không có cây Vũ Kim Cương, trên lưng không khoác khẩu súng trường, hẳn Lỗ Nhất Khí đã chĩa nòng súng về phía hắn.
Lỗ Nhất Khí cau mày nhíu trán, bộ óc bắt đầu cảm thấy bất lực. Trong khoảnh khắc, vô số hoài nghi và thắc mắc đã như một mớ bòng bong quấn chặt lấy cậu, nhất thời không thể gỡ ra.
Cặp mắt bên to bên nhỏ của Phó Lợi Khai liên tục hấp háy theo ánh đuốc bập bùng, quét lên quét xuống trên những người vừa xuất hiện. Gã cười hai tiếng gượng gạo, rồi hỏi:
- Các người đi đâu thế? Mộng du à?
Cơ thịt trên gò má lão mù giật lên vài cái. Lão lên tiếng, giọng nói thâm trầm khác thường:
- Ta ra đấy làm một bãi. Muốn không?
Quỷ Nhãn Tam đã dừng lại ngay sau lưng lão mù, lúc này mới chịu ngẩng cái đầu cúi gục lên, vẻ mặt thản nhiên như không, buông một câu gọn lỏn:
- Tôi cũng thế!
Nhậm Hoả Cuồng bật cười ha hả, chừng như vô cùng đắc ý:
- Tôi cứ tưởng chỉ mình tôi ăn khoai lang thông phân nhuận ruột, té ra hai người cũng vậy!
Tùng Đắc Kim đứng cạnh, nhìn điệu cười đắc ý của Nhậm Hoả Cuồng, bốp chát luôn một câu:
- Đi cầu mà mặt toé đầy mồ hôi, không đến nỗi máu toé đầy mông đít đây chứ?
- Hờ hờ! – Nhậm Hoả Cuồng tuy không tỏ ý phật lòng, song tiếng cười đã nhỏ đi một chút, trở nên âm trầm khó hiểu.
- Chúng ta đi thôi, ở đây rất nguy hiểm! – Lão mù đột ngột lên tiếng, giọng đầy kích động xen lẫn vẻ kinh hãi.
- Sao ông biết? Chúng tôi vừa mới bị một con gấu rất lớn tấn công đấy! – Phó Lợi Khai hấp háy đôi mắt giảo hoạt, nhìn chằm chằm vào mặt lão mù.
- Phó Lợi Khai, ngươi mộng du à! Thời tiết này gấu ngủ đông hết rồi, làm gì có chuyện chui khỏi hang mà vồ ngươi? Chả nhẽ có con gấu cái ngửi thấy mùi đực từ ngươi mà mò đến? – Nhậm Hoả Cuồng cao giọng, xem ra ông ta không thể tin vào lời lẽ của Phó Lợi Khai.
- Vậy ông lại mà xem, nó vừa đập gãy cả cây thông kìa! Nếu chúng tôi không gây tiếng động để doạ nó chạy đi, không khéo lúc này nó đã nằm khểnh ở đây rồi!
Nghe gã nói vậy, Quỷ Nhãn Tam và Nhậm Hoả Cuồng đều tiến lại gần thân cây bị đè gãy.
Lão mù không đi lên cùng họ, mà tiến thẳng tới hang rào cành thông, ngồi thụp xuống mò mẫm một hồi.
- Không phải là gấu, dấu chân to hơn chân gấu rất nhiều! – Lão mù thận trọng đưa tay sờ khẽ vào một dấu chân to đùng trên tuyết. Lão vừa lên tiếng, tất cả mọi người đều kinh sợ, vội cúi xuống quan sát trên nền tuyết. Nhưng các dấu chân xung quanh đều đã bị mọi người xéo nát, nên nhìn không rõ. Duy chỉ nơi lối vào của hàng rào là còn một hàng dấu chân rất rõ ràng, nên bọn họ đều chạy đến vây xung quanh lão mù.
- Thì tôi vừa nói đấy thôi, con gấu rất lớn! – Thấy mọi người không tin, Phó Lợi Khai có vẻ hơi bực bội.
- Nhưng dấu chân không hề có vết móng, có vẻ giống dấu chân người đi ủng. Nhưng nếu là người, hình như lại to lớn thái quá! – Nhậm Hoả Cuồng nói.
Đúng vậy, dấu chân trên tuyết thực sự không giống chân gấu, có hình bầu dục tròn trịa không một góc cạnh, và quan trọng nhất là không hề có vết móng nhọn.
- Nếu nó là dấu chân gấu, hẳn là con gấu biết đi ủng! – Quỷ Nhãn Tam lên tiếng, vẻ mặt rất mực nghiêm túc.
- Đúng là gấu thực! Không tin cứ hỏi Tùng anh và Tùng em! – Lái gỗ Phó bắt đầu cuống. Cũng dễ hiểu thôi, khi người khác không tin vào điều mình tận mắt chứng kiến, bất kỳ ai cũng có phản ứng như vậy.
- Chúng tôi cũng không nhìn rõ, chỉ biết đó là một con vật rất to lớn.
Câu trả lời của hai anh em họ Tùng nằm ngoài dự liệu của Phó Lợi Khai, gã đứng ngẩn tò te, không nói được lời nào. Lẽ nào gã đã sợ quá mà hoa mắt?
- Mặc kệ nó là giống gì, chúng ta vẫn phải rời khỏi nơi đây ngay lập tức! – Lỗ Nhất Khí cũng đã lên tiếng.
- Hay là tìm một chỗ khác để nghỉ vậy. Tôi biết gần đây có một hốc đá kín gió, đủ chỗ cho tất cả chúng ta! – Tùng Đắc Lễ đề nghị. Gã có vẻ ngại ngần không dám băng rừng ngay trong đêm hôm khuya khoắt.
- Không được! Bây giờ thứ đáng sợ không phải là dã thú, mà là người! Đúng ra ngay từ lúc trời vừa tối chúng ta đã không nên dừng lại! – Nhậm Hoả Cuồng nói xong, lập tức quảy quang gánh lên vai, dẫn đầu đi luôn. Hai anh em họ Tùng chỉ còn biết cầm đuốc, đi song song ở phía sau.
Lỗ Nhất Khí đi sau hai anh em họ Tùng. Nhìn vào dáng đi của họ, cậu có phần cảm khái, khẽ nói với Quỷ Nhãn Tam đang đi bên cạnh:
- Anh nhìn xem, đúng là hai anh em ruột có khác, đến dáng đi cũng đối xứng đều tăm tắp!
Họ đã đi lên sườn dốc được khoảng hơn chục bước, Lô Nhất Khí bèn quay đầu lại quan sát. Rõ ràng sự thể có phần quái lạ, con người cũng rất khả nghi. Song cụ thể là người nào, là tình tiết nào, cậu lại không thể đoán ra. Đi trên đường rừng ngập tuyết giữa đêm đen thăm thẳm, thật khó có thể suy nghĩ cho thấu đáo kỹ càng. Cậu chỉ còn biết ghi nhớ kỹ từng tiểu tiết trong đầu, giống như đã từng ghi nhớ những kí hiệu văn tự chưa thể phá giải. Cậu tin rằng những tiểu tiết đó cũng giống những ký hiệu văn tự bí hiểm, đến khi cần thiết chắc chắn sẽ hiện lên trong trí não, để xác nhận hay giải thích cho một sự thực sau này.
Khi mặt trời vừa ló rạng, những dãy nhà gỗ ngang dọc của Kim gia trại cũng đã hiện ra trước mắt. Khu trại nằm gọn trong một thung lũng, núi non xung quanh không quá gập ghềnh, cũng không cao lắm. Mặt trời đã leo lên một sườn núi thoai thoải, dát lên toàn bộ khu trại một ánh vàng kim mờ ảo.