Chương tám
Đồng dao của những số phận

1
Đại đội trinh sát dừng chân trong một rẻo rừng tràm nhỏ, bên cạnh bãi nhận hàng, gần kênh Ngô Văn Xuân, cách căn cứ thứ Mười
Một, chi khu Hiếu Lễ, chừng mười lăm cây số đường chim bay. Đây là một bãi nhận hàng dã chiến, mới được thành lập cách đây một
tuần, nên cơ sở chẳng có gì đáng kể.
Người ta để tạm lương thực, thực phẩm lên những cây tràm được kê vội vàng ngay trên mặt đất và được phủ lên bằng những tấm ni
lông màu nõn chuối.
Bãi hàng hầu như hoạt động suốt đêm. Hết tốp bộ đội này đi, tốp khác lại tới. Có khi họ chỉ dừng chân, nghỉ vài giờ đồng hồ cho lại
sức, rồi lại lên đường hành quân đi tiếp.
Đại đội trinh sát tới đây vào lúc rạng sáng, sau khi tổ chức không thành công chuyến vượt kênh Cô Ba để luồn sâu vào căn cứ địch.
Ngay từ buổi chiều hôm trước, lúc đơn vị sắp sửa lên đường, trong lòng đại đội trưởng bỗng dấy lên một cảm giác hồi hộp, lo lắng mơ
hồ, hầu như không thể chế ngự được. Thật khó có thể giải thích được tại sao cảm giác ấy lại xuất hiện vào một thời điểm gần như hoàn
toàn suôn sẻ, thuận lợi của đơn vị. Này nhé: sáng sớm, anh đưa bộ đội đi nhận vũ khí, có ngay. Tốp đi nhận lương thực, thực phẩm do
Ba Trần chỉ huy, cũng hoàn toàn trôi chảy; thậm chí, còn nhận được cả những loại đồ hộp thật ngon lành. Đến chiều, sau bữa ăn thịnh
soạn, chờ đến giờ lên đường, mọi người còn uống trà đậm và hút thuốc Ara nữa. Chỉ có một điều khác lạ là chiến sĩ Lê Văn Đức, một
người chuyên giả nghèo, giả khổ, bỗng nhiên đem bộ quần áo mới toanh ra mặc.
-- Này, bộ mày tính đi hỏi vợ hay sao mà ăn mặc kẻng thế? - Ba Trần đang cầm ca nước uống dở trên tay, đặt xuống đất, hỏi.
-- Ôi dào, thủ trưởng tính, trên cấp, không mặc, để làm gì? - Đức nói tưng tửng - Mặc bộ đồ này, không may có nghoẻo, mất xác, bọn
địch nhìn thấy, khỏi nghĩ là chúng ta nghèo.
-- Mày đánh giặc thuộc vào loại được. Nhưng cái mồm bữa nay nói toàn những điều thối hoắc. Ba Trần vặc lại với vẻ bực bội.
-- Số đã không chết thì dù có đi nhơn nhơn trước bom đạn, cũng chẳng sứt nửa cái lông chân. Còn nếu đã tới số, thì chui dưới hầm
boong ke cũng "ỏm". Đức nói với giọng bất cần đời.
-- Mẹ cái thằng... ăn nói dở hơi, ấm a ấm ớ! - Tiểu đội trưởng Nguyễn Hữu Phách chột dạ, nói.
Đúng giờ, đơn vị bắt đầu lên đường. Họ vượt qua kênh Ngang một cách trót lọt và bắt đầu tiến qua khu rừng chết, hướng đến kênh Cô
Ba. Cho đến lúc ấy, mọi việc vẫn được tiến hành trôi chảy. Sự cố bắt đầu xảy ra vào lúc nửa đêm, khi tốp trinh sát đi đầu, do tiểu đội
trưởng Nguyễn Hữu Phách chỉ huy, vấp phải mìn trái sáng trên dải đất trống dẫn ra bờ kênh.
Trong đêm tối vắng lặng, với khoảng cách chừng vài chục mét, đại đội trưởng chợt nghe thấy tiếng "tách" nhẹ của kim hỏa mổ vào hạt
nổ, ngay lập tức, liền một lúc, hai ánh chớp lóe lên từ mặt đất, tức thì hai trái hỏa châu vọt lên trời. Sự việc diễn ra quá bất ngờ, không
một ai phản ứng kịp, đứng chết trân.
-- Đù mẹ, nằm xuống đi! - Tiếng ai đó hét lên từ phía sau, làm mọi người bừng tỉnh, nằm vội xuống.
Liền sau đó, súng địch bắt đầu nổ. Không phải một khẩu mà là mấy chục khẩu cùng bắn một lúc. Chớp lửa đầu nòng nhoáng lên liên
tục, trải dài trên một dải đất gồ ghề, đen sẫm, hàng mấy trăm mét, dọc theo bờ kênh.
Hỏa châu từ khắp nơi thi nhau vọt lên trời. Mặt đất thoi thóp, thu mình dưới ánh sáng trắng xanh, lạnh ngắt, ma quỷ. Trong tiếng nổ
dồn dập, hỗn loạn, đại đội trưởng nghe thấy cả tiếng súng cối nổ "pung, pung" đanh, gọn, theo sau là những tiếng nổ "ùng, oành", liên
tục. Đại đội trưởng úp mặt xuống đất, chịu trận, mặc cho đạn bay chiu chíu và đất rơi đùm đụp trên người.
Tàu giặc đang chốt trên cửa lạch nào đó cũng bắt đầu nổ máy, sùng sục chạy trên kênh. Chúng quét đèn pha dọc đôi bờ và nã đạn 50
ly vào những cánh rừng ở phía sau đoàn quân.
Đại đội trưởng cảm thấy hồi hợp, e ngại. Anh sợ nhất là chúng điều động lực lượng từ căn cứ số Hai, đóng ở ngã tư kênh Ngang và
kênh Ba Điền, đánh tập hậu vào đơn vị. Nếu bọn chúng thực hiện ngay điều đó thì coi như các anh sẽ đi đứt.
-- Tình hình có vẻ nguy đấy, Ba Trần ạ! - Đại đội trưởng nói với vẻ lo lắng - ông cho bộ đội triển khai, cảnh giới ở phía sau, đề phòng
địch đánh tạt sườn, để tôi lên xem tụi thằng Phách thế nào?
Nói xong, đại dội trưởng quay đầu, khoác chéo khẩu AK trên lưng, rồi trườn về phía trước. Đất rừng vừa mới được tưới bởi những cơn
mưa đầu mùa trở nên ẩm xì, nhớp nháp. Những gốc cây cháy đen, nhọn hoắt nhô lên khỏi mặt đất, cản trở hướng đi của anh. Đại đội
trưởng vẫn trườn lên một cách chậm chạp.
Trước mặt anh, chếch về phía tay trái vài trăm mét là hai cái lô cốt xây âm xuống đất, trông xa giống như hai khúc gỗ đen xì. Tại đấy,
hai khẩu đại liên của địch cứ "tằng tặc" trút đạn xối xả về phía anh.
Thật khó có thể xác định được là kẻ thù đã thực sự nhìn thấy các anh, hay chỉ do thấy động, nên bắn tràn vào khu vực xảy ra sự cố.
Nhưng dù rơi vào khả năng nào thì việc điều nghiên của các anh đêm nay coi như đã xôi hỏng bỏng không.
Đại đội trưởng vừa nghĩ vừa trườn lên từng tí một. Với khoảng cách chỉ có vài chục mét mà anh cảm thấy như quãng đường dài dằng
dặc. Trườn mãi, cuối cùng, anh cũng đã gặp được người lính đầu tiên, chiến sĩ Lê Văn Đức.
-- Em bị thương rồi, thủ trưởng ạ! - Đức thều thào - Bị thương vào chân.
-- Có tự bò ra được không? - Đại đội trưởng thở dốc, hỏi.
Người chiến sĩ nhìn anh với cặp mắt bạc phếch, cam chịu. Đại đội trưởng nhìn thấy nơi bắp chân đang co lên của Đức, hiện ra một lỗ
thủng toang hoác, nhầy nhụa thịt và máu. Không nói không rằng, anh với tay tìm nơi thắt lưng một cuộn băng to, rồi dùng răng xé ra,
băng bó cho anh ta. Động mạch bị đứt, nên máu tuôn ồng ộc, ướt đẫm cả tay anh. Vất vả lắm anh mới băng kín được vết thương cho
Đức. Xong, anh rướn người, vẫy tay, ra hiệu cho Ba Trần đưa người lên, dìu Đức ra.
-- Cậu nằm yên ở đây một lát! - Đại đội trưởng nói - Ba Trần sẽ cho người vào đưa cậu ra. Tôi phải lên xem thằng Phách thế nào.
Đại đội trưởng tiếp tục trườn lên phía trước. Anh mới bò được chừng vài mét, thì hai trái đạn cối nổ nhoáng lửa ở phía trước, hất đất và
bùn vào giữa mặt anh, làm một bên mắt bỏng rát, không mở ra được. Đại đội trưởng vuốt mặt, rồi dùng một tay bưng lấy mắt, tiếp tục
trườn đi. Anh không dám dụi mắt, bởi anh nghĩ, làm như vậy, đất cát sẽ không cho anh mở mắt ra được nữa. Mặc dù để nguyên trạng,
sẽ rất khó xoay sở, nhưng anh buộc lòng phải làm như thế.
Đại đội trưởng bò tới gần phía trước mặt, thì gặp một bóng người động đậy bò về phía anh. Dưới ánh sáng nhập nhòa của ngọn đèn dù,
anh nhận ra đó là tiểu đội trưởng Nguyễn Hữu Phách.
-- Cao đâu? - Đại đội trưởng hỏi nhỏ.
-- Nó chết rồi! - Phách hất hàm về phía sau, nói - Tôi bị thương vào vai, nên không đem nó ra được.
Cái tin Cao chết làm cho đại đội trưởng bàng hoàng. Anh cắn môi, lặng người trong giây lát.
-- Mắt anh làm sao thế? Cũng bị thương à? - Phách thở dài, nhăn nhó hỏi.
-- Bị sình bắn vô, không mở ra được. Khó chịu lắm!
-- Tạm thời lấy băng, băng lại. Rồi ra kênh, tính sau! - Phách bảo - Mở mắt ra lúc này không chịu được đâu. Băng ở túi quần tôi đây
này. Hai cuộn đấy. Anh lấy một cuộn mà băng, khỏi giữ tay làm gì. Còn một cuộn, băng giúp tôi.
Đại đội trưởng thọc tay vào túi quần của Phách, lấy băng ra, rồi bắt đầu băng bó cho bạn. Hóa ra Phách không phải bị thương vào vai,
mà là bị thương vào bẹ sườn. Viên đạn cày một đường dài chạy từ ngực về phía sau lưng. May mắn là vết thưong chỉ ở phần mềm,
không ảnh hưởng gì đến nội tạng. Đại đội trưởng phải dùng hết hai cuộn băng mới tạm thời bịt được miệng vết thương lại.
-- Ráng bò ra đi! - Đại đội trưởng nói - Rồi ta sẽ tìm cách đưa xác Cao ra. Bữa nay thật xúi quẩy, thằng Đức cũng bị thương vào chân,
nặng lắm!
Tiểu đội trưởng nhìn chỉ huy, im lặng. Phách bảo:
-- Anh để súng lại, tôi cảnh giới cho. Đem theo súng, mang vác khó lắm.
Đại đội trưởng để khẩu súng lại, rồi tiếp tục bò lên. Thỉnh thoảng, anh dừng lại, nghe ngóng. Hai khẩu đại liên của địch vẫn trút đạn về
phía anh một cách ngoan cố. Đạn túa ra như hoa cà hoa cải, bay vèo vèo. Cuối cùng, đại đội trưởng cũng tìm thấy Cao nằm gục bên
vũng máu, đầu ngoẹo về phía sau, như thể đang ngóng chờ ai đó. Phách nói đúng. Cao đã chết. Một viên đạn đại liên đã xuyên thủng
hộp sọ của anh. Khẩu AK của Cao rơi xuống bên cạnh.
Đại đội trưởng lắc đầu chua chát. Sau vài giây nghĩ ngợi, anh xoay sở, kéo xác Cao lên lưng mình, lượm khẩu súng, rồi từ từ bò ra.
Sau một hồi bắn phá, không thấy sự chống trả, súng địch bắn thưa dần rồi im bặt. Hỏa châu cũng tắt ngấm trên bầu trời. Chỉ còn tiếng
tàu địch chạy ầm ào từ kênh xáng Xẻo Rô vòng lên kênh Ba Đồ, rồi mất hút trong một cánh rừng nào đó. Lợi dụng khoảnh khắc tối
đen, đại đội trưởng chống súng đứng dậy. Anh chạy thật mau về chỗ Nguyễn Hữu Phách. Tại đây, y sĩ Thảo và đồng đội đang chờ
anh.
Mọi người nhanh chóng đưa thương binh, tử sĩ vượt qua bãi trống, rồi trở lại khu rừng xuất phát - Bãi nhận hàng này.
Vừa tới bờ kênh, đại đội trưởng chuyển xác Cao cho Ba Trần, rồi lội xuống dòng kênh. Công việc đầu tiên của anh là úp mặt xuống
nước một hồi lâu và chớp lấy chớp để cho mi mắt đẩy bùn đất rơi ra. Anh làm việc này một cách kiên nhẫn, nhẹ nhàng. Cho tới khi
cảm thấy không còn bị cộm nữa thì cũng là lúc anh thấy mắt mình rát bỏng. Rất có khả năng thủy tinh thể đã bị xây sát, làm cho tầm
nhìn trở nên mờ mịt, khó chịu.
Đại đội trưởng vừa từ dưới kênh bước lên thì Ba Trần cầm đèn pin, hoảng hốt chạy tới, giọng lập cập:
-- Quý ơi! Thằng Đức vừa tắt thở rồi!
Đại đội trưởng đứng sững một hồi lâu. Anh hết nhìn trời lại ngó đất, dậm chân, miệng kêu khổ. Thế là đợt ra quân lần nay, các anh đã
không gặp may. Chưa làm nên cơm cháo gì, các anh đã mất hai người, bị thương một. Đối với đơn vị, đây là sự mất mát quá lớn, nhất
là ở vào một thời điểm đầy khó khăn, tệ hại như lúc này.
Đại đội trưởng buồn bực theo Ba Trần trở về nơi dừng chân của đơn vị. Dưới mái lán ni lông che tạm, mọi người đang túm tụm giúp y
sĩ Thảo tắm rửa, thay áo quần cho tử sĩ, chuẩn bị khâm liệm.
Mang danh là người lạnh lùng, nhưng bữa nay, Thảo rất xúc động. Anh vừa làm việc, vừa khóc. Nước mắt anh rơi lã chã xuống thi thể
bạn bè.
-- Thằng Thắng đâu, kéo thằng Thảo ra ngay! - Ba Trần bỗng hét lên, làm ai nấy đều giật mình - Để nước mắt nó rơi xuống tử thi thế
kia, linh hồn người chết làm sao thanh thản được. Chừng nào nó hết khóc, hãy cho làm!
Nói rồi, Ba Trần quay sang Phan Lâm, lúc đó đang đứng lóng ngóng cầm tấm ni lông và cuộn dây dù, chờ khâm liệm:
-- Mày hỏi xem thằng nào còn tiền, đưa đây vài tờ, bỏ vào túi áo cho tụi nó. Trước khi rút cây đũa ở miệng ra, thì nhớ bỏ vào một ít
gạo.
-- Tại sao phải làm như vậy, trung đội trưởng? Phan Lâm e dè hỏi.
-- Tất cả những người chết ở quê tao đều được làm như thế! - Ba Trần nói - Người chết cũng phải có tiền, có gạo khi sống ở thế giới
bên kia. Chúng mày còn trẻ, không ai dạy nên chẳng biết đếch gì cả. Nếu ngày mai, không may, tao có chết, thì thằng nào còn sống,
có điều kiện, cũng phải làm như vậy. Đấy là phong tục tốt đẹp của tổ tiên... Sực nhớ ra điều gì đó, Ba Trần nói tiếp - Bắt đầu từ ngày
mai trở đi, tôi xin mấy người nhớ cho rằng: trước lúc ra trận, đừng một thằng nào ngứa mồm nói ra những điều xúi quẩy đấy! Đứa nào
cố tình vi phạm thì đừng có trách.
Đêm hôm ấy, sau khi chôn cất đồng đội xong, mọi người nhanh chóng mắc võng nằm nghỉ. Một không khí ảm đạm, buồn tẻ bao trùm
cả khu rừng. Đại đội trưởng lững thững đi đến chỗ Thảo, nhờ xem cho con mắt. Thảo đổ cồn ra rửa tay, rồi rọi đèn pin, xem xét. Có thể
con mắt của anh bị xây sát nặng, nên người y sĩ vừa tra thuốc vừa luôn miệng kêu trời. Xong, anh ta dùng gạc và băng keo băng con
mắt anh lại.
-- Thằng Đức có trăng trối gì không? - Đại đội trưởng hỏi.
-- Không! - Thảo nói - Nó chỉ mong mọi người bỏ qua cho nó, việc nó vận quần áo mới bữa qua.
-- Chỉ có thế thôi à?
-- Có thế thôi...
Đại đội trưởng gật đầu. Nước mắt cứ chực trào ra.
2
Cuối cùng, đại đội trưởng Lê Sỹ Quý cũng đã chợp mắt được. Giấc ngủ đến với anh một cách chập chờn, rời vụn. Trong khi ngủ, hình
như có một đơn vị nào đó đã tấp xuồng vào trong lạch, tràn sang nơi đóng quân của đơn vị, trải ni lông, mắc võng nằm la liệt. Đại đội
trưởng nghe thấy tiếng con gái gọi nhau, tiếng xuồng va chạm lạch cạch, tiếng chửi thề và cả tiếng ca cổ khê nồng phát ra từ một nơi
nào đó.
Đã mấy lần anh định ngồi dậy xem sự thể ra sao, nhưng bụng lại nghĩ rằng đó chỉ là một giấc mơ, nên lại nằm rốn.
Tiếng con gái vẫn rì rầm nói chuyện, lần này không phải xa xôi gì, mà là ở ngay bên cạnh anh. Điều kỳ lạ là chính anh cũng không thể
xác định được đó là thực hay mơ nữa.
-- ủa, mà chế vừa mới nói đến chuyện ai chiêu hồi? - Tiếng một người con gái hỏi.
-- Thì mấy hia đã chẳng vừa nói đó thôi. Có một thằng cha ở tiểu đoàn bộ binh, bể bạc, mò ra chiêu hồi, khai tét lét với địch về những
hoạt động sắp tới của ta, nên chúng mới ném bom, đổ quân, tăng cường kiểm soát hành lang từ mấy bữa nay lựng. Bộ mày không thấy
chúng bắn phá dữ sao?
-- Hèn chi... Bữa qua, chúng đánh suốt đêm.
-- Đơn vị nào nằm ở đây vậy ta?
-- Ai mà biết. Nhưng ngó bộ thì đây là một đơn vị thọc sâu. Nhìn họ ngủ thì biết, trằn trọc, khổ sở...
Câu chuyện qua lại của các cô gái làm đại đội trưởng bừng tỉnh. Cảm giác đầu tiên của anh là con mắt bị trầy xước, qua đêm, sưng to,
cay xè, làm cho cái nhìn trở nên nhòe nhoẹt. Đại đội trưởng nằm im một hồi, rồi nhổm dậy.
Trời đã sáng. Rẻo rừng trước mắt anh giờ đây đã quá tải, dày đặc người. Những cây tràm thanh mảnh, nhỏ bé, không kham nổi sức
nặng của hai tầng võng, ngọn ngả vào nhau, oặt oẹo. Ngay trước đầu võng anh, có tới bốn cô thanh niên xung phong, trải tấm choàng
xuống đất, người lấm lem, nằm ôm nhau ngủ. Dưới con lạch cạn, có tới mười mấy chiếc xuồng chở đầy vũ khí đựng trong những thùng
nhựa hàn kín, được tháo rời và những thùng thuốc tây kềnh càng của chính phủ Thụy Điển gởi tặng. Những chiếc xuồng ấy nằm ghếch
mũi lên nhau, tựa như cũng đang nằm ngủ, sau một đêm thức trắng. Cách con lạch chừng hai chục mét, dưới gốc cây tràm, là một cái
bếp dã chiến. Tại đấy, có bốn thanh niên vận quần lót, cởi trần, đầu quấn khăn rằn, không rõ thuộc đơn vị nào, đang nấu nước pha trà,
khói đùn lên cuồn cuộn.
Đại đội trưởng không yên tâm một chút nào. Nếu máy bay địch bay ngang qua, phát hiện, không hiểu ngần này người sẽ chui vào đâu.
Dường như khi đã quá mệt, giấc ngủ đối với người ta đôi khi còn quan trọng hơn cả cuộc sống nữa.
-- Khói quá đấy, mấy ông ơi! - Đại đội trưởng nhắc khéo.
-- Ông sợ à? - Một người trong bọn cất tiếng - Sợ thì đi nơi khác.
Đại đội trưởng đỏ mặt vì câu nói phách lối của anh ta. Nhưng để tranh cãi phải, quấy đối với những người không quen biết thì chẳng
được tích sự gì. Đại đội trưởng tính cho qua chuyện này, nhưng Ba Trần lúc đó đã thức dậy, không chịu được, tung võng, bước xuống
đất, tiến tới trước mặt mấy người thanh niên đang nấu nước, hất hàm hỏi:
-- Thằng nào vừa nói xóc hông đấy, lên tiếng tao coi?
Nhìn vẻ mặt phừng phừng, mắt ngầu đục, đang muốn gây sự của Ba Trần, mấy thanh niên im bặt.
-- Mẹ kiếp! - Ba Trần chửi thề, mở phanh nút áo, cố tình để lộ những vết sẹo chằng chịt chạy dài từ ngực tới bụng - Chúng tao trầy trụa
đánh giặc khắp nơi, mà mày dám nói vậy hả. Hai thằng lính của tao vừa mới chết đêm qua, còn nằm kia kìa, mở to mắt ra mà nhìn.
Đại đội trưởng không thể ngờ rằng sự việc lại diễn ra theo chiều hướng này. Anh vội bước tới, chắn ngang mặt Ba Trần, can thiệp,
tránh cuộc ẩu đả có thể xảy ra.
-- Nóng nảy, mất khôn! Đại đội trưởng nói - Hãy bỏ qua chuyện này đi! đồng đội với nhau cả mà.
Một người trong bọn, có lẽ là chỉ huy cũng bước tới, vỗ vai Ba Trần, nói:
-- Đồng chí bớt giận. Anh ta lỡ lời thôi!
Ba Trần bực bội, phẩy tay bước đi, không quay lại. Đại đội trưởng yên tâm, quay sang người đối diện, hỏi:
-- Các đồng chí ở đơn vị nào?
-- Tụi tôi là cán bộ, chiến sĩ thuộc trung đoàn bốn mươi tám đặc công, quân tình nguyện Khu Tây Bắc. - Anh lính kể - Đơn vị vừa mới
bị giải thể và chúng tôi được điều về đại đội trinh sát của Đoàn Hai. Tụi tôi đến đây hồi hôm, nên chưa tìm được đơn vị. Nghe nói, họ
đã thọc sâu rồi.
-- Ra là thế. - Đại đội trưởng xuống giọng - Đồng chí có đem theo giấy tờ gì không?
Anh lính xin phép đại đội trưởng, chạy về chỗ ở, mở xắc cốt, lấy ra chiếc phong bì mở s1/2n, chạy lại, vẻ ngập ngừng...
-- Nhưng... Đồng chí là...
-- Tôi là Lê Sỹ Quý, đại đội trưởng trinh sát.
-- Trời đất! - Anh lính reo to làm mọi người xung quanh ngoái cổ lại, ngơ ngác, không rõ chuyện gì xảy ra - Đánh nhau rồi mới nhận
họ. Tất cả tụi bay lại đây, lại cả đây. Chúng ta tìm thấy đơn vị rồi. Đây là đồng chí đại đội trưởng.
Những người lính mới tới trở nên bẽn lẽn. Tuy vậy, họ vẫn bước đến chào đại đội trưởng, miệng cười chiếu lệ.
-- Đây là thư của thủ trưởng trung đoàn gởi cho anh. Tất cả giấy tờ có liên quan đến chúng tôi và đơn vị đều ở trong này! - Anh cán bộ
mới tới nói.
Đại đội trưởng vui vẻ mở phong bì ra. Ngoài quyết định điều động của Phòng Cán bộ Quân khu, còn có quyết định điều động của
quân lực đối với những người mới tới. Tiếp đến là thư động viên của thủ trưởng trung đoàn, những ý kiến đóng góp về việc điều nghiên
các mục tiêu cụ thể, quyết định khen thưởng, phong cấp, cho một số cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị. Đại đội trưởng xem xong, mỉm cười:
-- Như vậy, ông là...? - Đại đội trưởng hỏi.
-- Tôi là Lê Đình Thực, chính trị viên phó đại đội! - Anh lính tự giới thiệu - Còn đây là chiến sĩ Tạ Ngọc Lỡi, xạ thủ B40, kế bên là tiểu
đội phó, Bùi Đoàn. Còn người nói lỡ lời hồi nãy là trung đội trưởng Nguyễn Thế Quang. Anh ta là một người trung thực và dũng cảm...
-- Tốt rồi! - Đại đội trưởng nói - Có thêm mấy ông, tôi nhẹ cả người. Đại đội ta vừa trải qua một đợt hoạt động độc lập, dài ngày, chưa
được nghỉ ngơi bao lâu, đã lại về đây. Mới đêm qua, đơn vị gặp tai nạn, hai chiến sĩ hy sinh, một bị thương nằm đó. Người lúc nãy cự
lự với mấy ông là Ba Trần. Anh ấy là một người bộc trực, ngay thẳng, dũng cảm và cũng rất đại lượng.
Nói đến đây, đại đội trưởng vời Ba Trần lại, tiếp tục:
-- Ông chuẩn bị khao đi. Cấp trên đã có quyết định phong cấp đại đội bậc phó và Huân chương Chiến công cho ông đấy! Còn đây là
chính trị viên phó đại đội ta, thiếu úy Lê Đình Thực... Kể từ lúc này, chúng ta là anh em một nhà.
-- Thôi, ta lại đằng này uống nước! - Chính trị viên phó nói rồi kéo Ba Trần và đại đội trưởng về chỗ bếp dã chiến.
Hai người ngồi xuống bên các chiến sĩ mới. Trung đội trưởng Nguyễn Thế Quang rót nước ra chén, mở ăng-gô lấy ra miếng đường thốt
nốt màu ngà, bẻ đôi, đưa cho đại đội trưởng và Ba Trần, mỗi người một nửa.
-- Đây là sản phẩm tôi mang từ Pusat về! - Trung đội trưởng nói - Mời hai anh... Lúc nãy, tôi lỡ lời, có gì không phải, anh thể tất cho...
Ba Trần cầm miếng đường, nhìn trung đội trưởng lom lom.
-- Ông có vẻ ý tứ quá đấy! - Anh nói với vẻ không hài lòng - Lính tráng với nhau, sống nay chết mai, ai mà để bụng làm gì. Về đây rồi,
ông sẽ thấy. Tụi này không có tật đá giò lái nhau đâu.
-- Lính với nhau, phải thế chứ! - Phó chính trị viên đại đội cười, nói - Thế, ông quê ở đâu, Ba Trần?
-- Làng Văn Cú, đất Ninh Bình cũ.
-- à há, còn hắn, - Chính trị viên phó hất hàm về phía Quang - ở ngay thị trấn Kim Sơn.
-- Còn đại đội trưởng thì ở Hiền Lương! - Ba Trần góp lời.
-- Biết quê hương với nhau, để sống cho tốt hơn với mọi người, chớ ở đại đội này, chẳng ai có tư tưởng cục bộ đâu. Đại đội trưởng nói -
ý thức địa phương ở đây kém lắm! Đã là cộng sản, mà lại còn phân biệt miền nọ, miền kia, thì có khác quái gì bọn thực dân.
Chính trị viên phó lắng nghe, khẽ gật đầu. Anh nói:
-- Bữa ở trung đoàn, chính ủy có kể với tôi về thành tích chiến đấu của đại đội, tôi rất phục. ổng có nói về sự đoàn kết, thương yêu nhau
muôn người như một ở đây. Gặp các ông, tôi thấy chính ủy đã nói đúng. Ngừng một lát, chính trị viên phó nói tiếp - Chính ủy còn nói
rằng đại đội còn là nơi sản sinh ra những bài đồng dao hay tuyệt. Có đúng vậy không?
-- Hay thì chưa biết, nhưng đồng dao thì có. Ba Trần cũng là một trong những ông trùm.
Mọi người tiếp tục uống trà đường một hồi lâu mới giải tán. Đại đội trưởng đưa chính trị viên phó tới thăm Nguyễn Hữu Phách và động
viên anh về quân y viện điều trị. Tiểu đội trưởng buồn rười rượi. Anh khăng khăng, nhất định không chịu đi.
-- Tôi chỉ bị thương vào phần mềm, đi bệnh viện làm gì cho mệt! - Tiểu đội trưởng nói - ở đây còn được sống. Về bệnh viện, có khi bị
tàu nhanh nó úm giữa đường, không biết chừng.
-- Nói bậy nào! Ông phải về điều trị mới mau khỏi bệnh được. ở lại đây, chẳng lẽ tụi tôi bỏ ông một mình. Đơn vị hết người rồi. Ông
phải thương tụi tôi chớ!
-- Tôi đi bệnh viện, đơn vị lại phải mất mấy người khiêng! - Sau cùng, tiểu đội trưởng Nguyễn Hữu Phách nói.
-- Chiều tối nay, đơn vị lại lên đường rồi! - Chính trị viên phó nói - Đưa ông đi, đã có đại đội thanh niên xung phong. ở viện, có mấy
em chăm sóc, ông sẽ mau khỏi thôi.
3
Những cơn mưa đầu mùa bắt đầu trút nước xuống cánh rừng xơ xác vì đạn bom và rộp bỏng bởi chất độc tại vùng châu thổ. Như
thường lệ, vào những buổi chiều, mây đen không biết từ đâu kéo đến, dồn cục ở một góc trời. Khi ánh chớp tím ngắt, nhoáng nhoàng,
lóe lên là tiếng sấm nổ rền rĩ, nghe như tiếng bom đạn, loang dài trong không gian. Đạo quân mây, sau khoảng thời gian ùn tắc, bắt
đầu chuyển động ào ạt, làm tối sầm cả trời đất.
-- Khẩn trương lên, mấy cha! - Chính trị viên phó đại đội giục - Các phân đội cho anh em lãnh cơm, nước đi, rồi còn ăn, kẻo mưa
xuống bây giờ đấy!
Mọi người lục tục kéo đến bếp dã chiến, nhận cơm vắt và nước uống. Từ trên võng, được che bởi tấm tăng, nhìn ra ngoài, đại đội
trưởng cảm thấy thật khổ tâm khi phải chứng kiến đồng đội của mình mỗi ngày một gầy yếu, nhếch nhác. Tuy vậy, ở trong con người
họ luôn luôn tồn tại một sức mạnh dai dẳng, thần bí. Đã không ít lần đại đội trưởng tìm cách lý giải vấn đề này, nhưng không thấy thỏa
đáng. Dường như ở đây, từ trong sâu thẳm của mạch đất này, luôn tỏa ra một loại thiên khí thiêng liêng, có khả năng liên kết, bện chặt
mọi cuộc đời vào sự nghiệp chung. Điều này càng được chứng minh khi đất nước lâm nguy, hữu sự.
-- Lính tráng gì, trông chứ như ma đói! - Đại đội trưởng buột miệng, nói bâng quơ.
-- Thủ trưởng cũng có hơn gì đâu mà nói! - Phan Lâm nhận khẩu phần ăn giúp đại đội trưởng trở về, đứng lóng ngóng nơi đầu võng,
nói - Bữa nay, bà Bảy Tâm mà nhìn thấy anh, chắc không nhận ra quá.
Đại đội trưởng cười nhăn nhó. Kể từ bữa xa người yêu đến nay, tính ra đã hơn ba tháng rồi. Đối với anh, đây là một khoảng thời gian
dài đằng đ1/2ng, đầy những tâm tư. Trên đường hành quân, nhất là khi tạm dừng, anh thường nhớ cô đến quặn thắt. Nỗi nhớ đôi khi
làm anh mụ mẫm cả người. Nhưng cho tới hôm nay, anh gần như đã lấy lại được quân bình.
Mọi người kéo xuống bếp quây quần ăn cơm. Thức ăn của họ chiều nay chẳng có gì khác hơn ngoài mắm ruốc rang khô, chỉ cần ngửi
mùi đã thấy ớn lạnh. Nhưng mọi người vẫn ráng ăn như một bổn phận.
Gió bắt đầu nổi lên mỗi lúc một mạnh. Những hạt mưa to, tròn, từ trên bầu trời rơi xối xả xuống đất. Rừng cây vật vã, run rẩy trong cơn
mưa trắng xóa cả đất trời.
Đại đội trưởng đơm vội chén cơm đầy, gắp một ít mắm ruốc, băng qua mưa, về võng của mình. Đại đội phó Ba Trần cũng bê cơm chạy
theo. Họ đứng khom lưng trong tấm tăng, ăn vội ăn vàng. Những người khác cũng rời mâm cơm, bỏ chạy, núp vào dưới những tấm
tăng, tránh mưa.
Ba Trần nhai cơm một cách rời rạc, biếng nhác, mắt không ngừng ngó lên những đám mây đang ào ạt chuyển động.
-- Ông Quý à, nhìn lên trời mà xem điều gì đang xảy ra ở đấy! - Ba Trần nói - Hình như có một bàn tay thần bí nào đó đang điều khiển
vũ trụ, đúng không?
-- Đúng vậy. Nhưng rồi sao? - Đại đội trưởng thờ ơ hỏi.
-- Chẳng sao cả! - Đại đội phó ngập ngừng - Tôi nghĩ, trên đời này, mọi thịnh-suy, tiến-thoái, mạnh-yếu, hên-xui, thắng-bại, sống-chết,
dường như đã được thiên cơ ấn định các mã số và được cài đặt một cách bí hiểm, giống như vũ trụ vậy...
Đại đội trưởng hứng một ít nước mưa vào chén cơm đang ăn dở, rồi lùa hết vào trong miệng, nhai dập dạp, hỏi:
-- Theo ông thì mã số của con người được thiên cơ cài đặt ở đâu?
-- ở các vân tay! - Ba Trần trả lời không cần suy nghĩ - Chính hình vẽ trên các vân tay là mã số bí hiểm được thiên cơ cài đặt nơi con
người từ lúc hình thành trong bụng mẹ. Không một ai trên đời này có vân tay giống nhau, cho dù anh em sinh đôi đi chăng nữa. Mỗi
người một kiểu, một cách, một cuộc đời, một số phận khác nhau, mà không phụ thuộc nhiều lắm vào giờ sinh, tháng đẻ.
-- Từ lúc nào, đằng ấy nghĩ ra điều này thế? - Đại đội trưởng hỏi.
-- Chẳng rõ. Bỗng dưng tôi nghĩ thế!
Đại đội trưởng hứng nước mưa rửa chén, rồi hỏi:
-- Ông có nghĩ rằng các số phận cũng có lúc thay đổi?
-- Thay đổi. Đương nhiên, nếu như những số phận tu sửa hạnh kiểm, hoặc có những việc làm gây thiện cảm với người đời, thì số phận
nghiễm nhiên sẽ được cải thiện. Đức năng thắng số. Tổ tiên chẳng đã dạy chúng ta như vậy sao?
Sau một hồi vật vã, cơn mưa tạnh hẳn. Bầu trời xanh dần lên. Cảnh vật trở nên trong vắt, kỳ lạ. Vầng mặt trời cuối ngày lại lóe sáng,
trút bỏ những tia nắng yếu ớt, đuối sức xuống cánh rừng.
Từ dưới mái tăng, mọi người tỏa ra, thu dọn nồi niêu, chiến dĩa, chuẩn bị hành quân.
Trước khi đi, đại đội trưởng đưa các chiến sĩ ra viếng mộ hai đồng đội. Nhìn những người lính trẻ măng lặng lẽ cúi đầu, đại đội trưởng
cảm thấy chạnh lòng. Anh băn khoăn tự hỏi: liệu rồi những trận đánh sắp tới, ai sẽ là người tiếp tục nằm xuống đây?
Sẩm tối, đoàn quân bắt đầu lên đường. Theo yêu cầu của đại đội trưởng, mọi người phải đi giày của địch, để khỏi tốn thời gian xóa dấu
vết trên đường. Ba Trần đi đầu đoàn quân. Họ vượt qua kênh Ngang, rồi cắt chéo về hướng kênh Kim Quy. Sau gần hai giờ hành quân,
đại đội phó mới tới điểm tạm dừng. Tại đây, sau khi nghỉ ngơi cho lại sức, đơn vị chia làm hai tốp. Tốp một do Ba Trần và chính trị viên
phó Lê Đình Thực chỉ huy. Họ có nhiệm vụ trinh sát toàn bộ khu A, rộng chừng hơn bốn cây số vuông, giới hạn bởi con kênh Kim
Quy - Xẻo Rô và Cô Ba. Tốp hai do đại đội trưởng trực tiếp lãnh đạo, nghiên cứu khu B - Khu vực quan trọng, nằm ở phía bên trái khu
A, nếu lấy kênh Kim Quy làm ranh giới.
Chờ cho tốp của Ba Trần đi được chừng năm phút, đại đội trưởng mới cho phân đội hành quân. Đi đầu đội hình là Nguyễn Văn Thắng,
tiếp đến là trung đội trưởng Nguyễn Thế Quang, Phan Lâm, Bùi Đoàn. Hai người đi sau cùng là anh và y sĩ Thảo. Mọi người đi được
chừng hơn mười phút đồng hồ thì đụng một cánh rừng tràm non, cây bị đốn ngang, bẻ gập xuống, cao ngang ngực, bên dưới có chông
và mìn. Đây là một loại hàng rào phản xung phong khá hiệu quả. Kiểu bố trí hàng rào tự nhiên loại này, nguyên là của bộ đội miền
Đông. Rất có thể bọn chiêu hồi đã cung cấp kinh nghiệm này cho địch và chúng đã tận dụng sáng kiến tuyệt vời này để chống lại các
anh, những người sản sinh ra nó.
Đại đội trưởng rướn người quan sát, nhưng anh không nhìn thấy gì cả, ngoại trừ sương trắng và những ánh đèn mờ ảo ở phía xa.
Đại đội trưởng ngồi xuống, lấy cây đèn bấm, rọi sát xuống mặt đất, xem xét, rồi kêu Thắng lại, hỏi nhỏ:
-- Lính trinh sát, trước khi vượt qua hàng rào của địch, phải làm gì?
Thắng hoàn toàn bất ngờ trước câu hỏi của cấp trên. Sau vài giây lúng túng, anh nói như một đứa trẻ trả bài:
-- Thưa, phải kiểm tra kỹ xem có mìn thì gỡ, có hầm chông, phải đánh dấu. Đi trong rừng phải cò cây, qua ngã ba phải rấp lối. Sinh
mệnh người lính là vô cùng quan trọng, nên phải hết sức cẩn thận, tránh cẩu thả, chủ quan...
-- Rất tốt! - Đại đội trưởng nói - Bây giờ, cậu hãy thực hành đi. Tôi nhắc lại, phải tuyệt đối cẩn thận, rõ chưa?
-- Thưa, rõ!
-- Rõ thì làm đi!
Đại đội trưởng không thể ngờ rằng hàng rào phản xung phong của địch lại được thực hiện cẩn thận và chu đáo đến như thế. Để vượt
qua được nó, đơn vị phải mất tới hai giờ đồng hồ. Nhưng nếu chỉ có cây rừng cưa nửa chừng rồi bẻ gập xuống, thì đơn vị không phải
tốn nhiều thời gian như thế. Đằng này, ngoài chông sắt cắm xiên, bọn địch còn cài nhiều loại mìn sát thương xen kẽ, làm cho việc tháo
gỡ mất rất nhiều thời gian.
Phải thừa nhận rằng Thắng là một chiến sĩ có nhiều kinh nghiệm trong việc gỡ mìn. Anh ta đã khóa mõm được hơn sáu mươi trái mìn
các loại, mở ra một lối mòn an toàn, rộng rãi, giúp cho phân đội yên tâm bò qua.
Tiếp với hàng rào phản xung phong là khoảng trống rộng, đầy cỏ, dẫn ra con đường đá đỏ, nội hạt, rất ít người qua lại. Tới đây, mọi
người có thể nhìn thấy ánh điện sáng trưng, trải dài theo kênh xáng Xẻo Rô, suốt từ kênh Cô Ba tới kênh Ba Đồ. Gió liu riu thổi. Thỉnh
thoảng, cánh đồng cỏ lại rùng mình đung đưa, phát ra những tiếng động, nghe như tiếng thở dài.
Đại đội trưởng cho bộ đội dừng chân trong giây lát, rồi cắt thẳng về hướng tây nam. Đi được chừng non nửa cây số, họ lại đụng hàng
rào đơn, tiếp đến là hàng rào bùng nhùng, bao bọc xung quanh căn cứ. Đại đội trưởng thở dài, cho bộ đội dừng lại, rồi bước tới xem
xét. Sau ít phút bàn bạc với Quang và Thắng, anh quyết định cho cắt hàng rào, tiền nhập vào khu vực ngã tư, đoạn giao nhau giữa kênh
Kim Quy và kênh xáng Xẻo Rô.
Theo chỉ đạo của trung đoàn, hướng đột kích chính sẽ là khu vực này - Căn cứ hỗn hợp thứ Mười Một - Kẻ địch gọi là chi khu Hiếu
Lễ.
4
Phải mất tới ba đêm liền, đại đội trưởng mới đưa được phân đội vượt qua những lớp hàng rào dày đặc, tiếp cận khoảng trống xạ giới,
rộng chừng hai trăm mét. Khoảng xạ giới này, trước đó đầy cỏ, đã được đốt trụi vào mùa khô, hiện tại cỏ non đã bắt đầu mọc lại. Đại
đội trưởng nằm xuống sát mặt đất, quan sát. Anh nhìn thấy phía sau khoảng trống trước mặt là một tuyến công sự, dày đặc những ổ đề
kháng trồi sụt, nhấp nhô. Cứ vài mét, bọn địch lại dựng lên cái chòi nhỏ cho hai, ba người ở. Tuyệt nhiên, đại đội trưởng không hề
nghe thấy một tiếng động nào, dù là rất nhỏ, phát ra từ tuyến bố phòng ấy.
Sau khi quan sát một cách tường tận, đại đội trưởng nhận thấy ở phía bên phải anh, nối liền giữa tuyến công sự là một con đường rộng,
dẫn tới khu nhà lớn ở phía sau, có khả năng là một cái kho quân dụng. Muốn lọt được vào bên trong căn cứ của địch, phân đội chỉ có
thể đột nhập từ con đường ấy. Để kiểm tra độ chính xác của mình, đại đội trưởng khẽ hỏi Nguyễn Thế Quang:
-- Ông nhìn lại xem, có đúng bên tay phải ta là một con đường ăn thông ra khu nhà cao phía sau không?
-- Đúng thế! - Quang gật đầu xác nhận.
Đại đội trưởng yên lòng, cho đơn vị tiếp tục bò lên. Con đường không xa như đại đội trưởng nghĩ. Nó cách các anh lối chừng một trăm
rưởi mét là cùng. Vào tới con đường, mọi người men theo bóng tối dưới những bụi trâm ổi, tiến vào một khoảng sân rộng, dùng làm bãi
để xe. Hiện tại, trong sân chỉ có tám chiếc, phần lớn bị hỏng. Giáp với bãi để xe là đống lốp cao su, thùng phuy rỗng và vài cái xi tẹc.
Bên cạnh hai cây me lớn là một dãy nhà kho dài, cửa đóng kín, nửa chìm nửa nổi. Thật khó có thể xác định được một cách chính xác
trong kho có những gì. Đại đội trưởng yêu cầu mọi người tỏa rộng ra, tìm kiếm sở chỉ huy, bãi xe tăng, bến tàu và trận địa pháo. Anh
cũng căn dặn mọi người phải có mặt lại tại đây vào lúc ba giờ đúng, để kịp rút ra ngoài. Theo đồng hồ của anh thì mọi người còn được
khoảng hai giờ ở căn cứ địch.
Khi mọi người đi hết, đại đội trưởng mới lần theo những khoảng tối được tạo bởi địa hình, tiếp cận khu nhà tường, có ánh đèn mà anh
nghi là trại lính. So với những căn cứ đại đội trưởng đã từng nghiên cứu, thì đây là một căn cứ hỗn hợp rất mạnh, được tổ chức phòng
ngự chu đáo, có chiều sâu. Nối liền giữa các khu với nhau là những con đường ngoắt ngoéo, có hàng rào kẽm gai bao bọc.
Từ một khoảng trống, được hỗ trợ bởi ánh đèn, đại đội trưởng nhìn khắp căn cứ. Anh bỗng rùng mình, cảm thấy như đang lọt vào giữa
mê hồn trận. Với ngần ấy người, các anh thật khó có thể nắm được một cách toàn diện cách bố trí lực lượng địch ở đây. Nghĩ như thế,
đại đội trưởng vẫn cố tìm cách thực hiện công việc một cách vẹn toàn. Anh nhanh chóng lần đến khu trại lính. Có một điều anh cảm
thấy khác lạ là đèn trong nhà vẫn sáng, nhưng xung quanh lại không được quét dọn sạch sẽ. Đại đội trưởng không tin rằng quân địch
lại ở đơn sơ như thế. Anh lén đến bên cửa sổ, nhìn vào trông và bỗng chưng hửng khi nhận ra rằng nhà không hề có người ở. Đại đội
trưởng kiểm tra tới ba bốn căn, nhưng tuyệt nhiên, anh không thấy bất kỳ bóng dáng một tên lính nào. Mẹ kiếp. Chúng nó mò đi đâu
nhỉ? Đại đội trưởng chửi thầm. Chẳng lẽ chúng đã điều bọn lính ở đây đi ứng cứu một nơi nào đó bí mật tới mức mà cấp trên không
hay biết gì ư? Suy nghĩ một hồi, đại đội trưởng đi vòng về phía nhà vệ sinh, cách trại lính vài chục mét. Nhà vệ sinh không có mùi phân
người mới, chứng tỏ bọn địch bày trò bật điện sáng, để đánh lừa đối phương. Nếu đúng như anh suy nghĩ thì lực lượng của chúng hiện
ở đâu?
Trưa hôm qua, tại căn cứ tạm dừng, Ba Trần và chính trị viên phó Lê Đình Thực đã cảnh giác với anh rằng bọn địch ở khu A, chỗ họ
điều nghiên, thay đổi chỗ ở liên tục. Chúng thường để vài ba tên lính gác ngồi trong chốt, còn đại bộ phận thì lỉnh ra một chỗ nào đó,
nằm im mai phục.
Ba Trần cũng hé mở cho anh biết là có khả năng bọn địch đánh hơi thấy lực lượng của ta đang di chuyển tới khu vực này, nên tăng
cường cảnh giới. Ba Trần cho biết là anh cũng đã phát hiện ra dấu giày của địch lần theo hướng trinh sát của họ. Bởi vậy, trước khi tới
hàng rào, Ba Trần đã cho bộ đội đi giật lùi, nhằm đánh lạc hướng chúng. Đó là một sáng kiến thông minh, nhưng chỉ có thể lừa được
những tên địch ngu đần, còn đối với những kẻ ranh mãnh thì không thể. Bọn này chỉ cần xem kỹ mũi giày có bâm sâu xuống đất hay
không là phát hiện ra ngay mặt trái của vấn đề.
Nếu đặt nhận xét của Ba Trần bên cạnh hiện tượng bọn địch không ngủ tại khu gia binh, kết hợp với việc đụng địch mới đây lại với
nhau, thì rất có khả năng kẻ địch đã lờ mờ nhận thấy lực lượng ta đang nhòm ngó đến căn cứ này. Do vậy, việc chúng đề phòng, không
lấy gì làm lạ.
Thây kệ chúng mày, đại đội trưởng nghĩ, chúng mày muốn cảnh giác thế nào thì mặc xác, nhưng khi chúng tao đã mò vào được đến
đây thì cứ liệu hồn. Hiện tại, tạm thời chúng mày đã thắng, nhưng về lâu dài, cứ đợi xem.
Ngẫm nghĩ một lúc, đại đội trưởng nhổm dậy, nghiêng người lách qua khoảng tối, được tạo bởi những hàng rào tôn, tiếp cận khu dân
cư. Tại đây, bọn địch bố trí người ở xa hẳn khu trại lính, sát mé kênh. Đó là những ngôi nhà liền vách, thấp lè tè, lợp lá hoặc lợp tôn, có
cầu vươn ra dòng nước. Ngay sát chân cầu là xuồng ghe neo đậu dày đặc. ở tách hẳn khu dân cư chừng một trăm mét, có một nhà máy
xay xát gạo, với những đống trấu to như những quả đồi.
Vào giờ này, các gia đình đều đã đóng cửa, ngủ yên, chỉ còn ánh đèn màu đỏ nhấp nháy, hắt ra từ những bàn thờ.
Bên kia bờ kênh, nơi đèn điện sáng trưng là dinh quận Hiếu Lễ. Qua ánh sáng điện, đại đội trưởng nhìn thấy cột cờ dựng ở trước sân,
bên cạnh là một sân bay trực thăng dã chiến. Tại đấy, có năm chiếc trực thăng chờ s1/2n, có thể cất cánh bất cứ lúc nào. Vào đúng lúc
đại đội trưởng đang định quay đi, tại sân bay dã chiến, bọn địch chạy rầm rập. Nửa phút sau, anh nghe thấy tiếng trực thăng khởi động
máy. Đồng thời, đèn pha bật sáng rực trời. Không gian bị khuấy động bởi tiếng động cơ phành phạch, rền rĩ. Ba chiếc trực thăng lần
lượt bốc mình lên khỏi mặt đất, lao đầu về phía U Minh Hạ. Tiếng máy bay chưa dứt hẳn, đại đội trưởng đã nghe thấy tiếng còi tàu rú
lên một hồi dài. Đại đội trưởng cho rằng đó không phải là còi báo động mà là lời chào, báo hiệu cập bến của một đoàn tàu tuần tiễu
nào đó. Có tới cả phút sau, anh mới nhìn thấy ba chiếc tàu loại PCF, từ hướng An Biên chạy tới. Chiếc đi đầu bật đèn pha sáng trưng,
còn những chiếc đi sau thì bật đèn xi nhan, xin vào bến.
Khi chiếc PCF đi đầu cua vòng trở lại, qua ánh đèn pha, đại đội trưởng nhìn thấy ở phía bên tay trái anh, tách khỏi khu dân cư một
khoảng cách khó xác định, là những đống đất mới được đào, trông thoáng qua, giống như tuyến công sự phòng thủ. Rất có thể đó là
cụm phòng ngự lớn của địch.
Gần tới giờ quy định, đại đội trưởng vội quay về điểm hẹn. Vài phút sau, trung đội trưởng Nguyễn Thế Quang cũng có mặt. Anh ta
thông báo với anh là đã tìm thấy bãi xe thiết giáp gồm mười xe M113 và M118. Số xe này đều đặt âm dưới đất. Như vậy, khu đất mới
đào mà đại đội trưởng vừa nhìn thấy trước đó, chính là bãi để xe này.
Trung đội trưởng còn cho biết thêm là ở xa hơn bãi xe một chút, dọc theo kênh Ba Đồ là tuyến công sự bố phòng của địch nhiều tầng,
nhiều lớp. Trên con đường dọc theo kênh, còn một kho xăng dầu, tiếp tế cho cảng và một kho đạn nhỏ có nhiều lớp hàng rào bao bọc.
-- Tốt rồi! - Đại đội trưởng nói. Anh giơ tay về phía ánh sáng, xem giờ. Đã ba giờ kém mười lăm phút. Như vậy là chỉ còn khoảng mười
lăm phút nữa, các anh phải rời khỏi căn cứ địch.
-- Ông có thấy thằng Lâm và thằng Thảo đâu không? - Đại đội trưởng khẽ hỏi.
-- Thằng Lâm? Tôi không thấy! - Trung đội trưởng nói - Tôi chỉ gặp thằng Thắng, thằng Thảo và thằng Đoàn. Tôi thấy chúng xuất hiện
ở khu trận địa pháo.
Ngay sau khi anh vừa nói, thì Thảo và Bùi Đoàn đã băng qua bãi xe của địch hướng tới điểm hẹn. Hơn một phút sau, Thắng cũng về
tới. Anh ta báo với đại đội trưởng là đã xác định được cơ quan chỉ huy của địch. Để chứng minh cho lời nói của mình, anh ta đưa ra
một lá thư của tướng Nguyễn Vĩnh Nghi gởi đại tá Lãm, chỉ huy trưởng.
Đã lố giờ hành quân tới hơn mười phút đồng hồ, nhưng Phan Lâm vẫn chưa về tới. Điều này cũng có nghĩa là anh ta đã gặp rắc rối,
chưa rút lui được. Việc thiếu vắng Lâm làm cho đại đội trưởng bứt rứt trong lòng. Nếu cứ chờ anh ta về tới rồi mới rút đi, rất có thể sẽ
đẩy đơn vị lâm vào thế kẹt. Đại đôi trưởng nóng ruột, trao tấm bản đồ cho Nguyễn Thế Quang và cho mọi người ra trước. Còn anh ở
lại, chờ Phan Lâm rồi sẽ ra sau.
5
Cuối cùng thì Phan Lâm cũng đã ra tới. Anh ta ra chậm so với thời gian quy định gần một tiếng đồng hồ. Thật ra, những trường hợp
như thế này không có gì là ghê gớm, cá biệt, đối với những người lính trinh sát, nếu như vào lúc ấy, không có tiếng súng nổ vang, từ
phía bên kia kênh Kim Quy vọng lại. Thoạt đầu, đại đội trưởng nghĩ rằng đó chỉ là những loạt súng ngẫu nhiên, do đội tuần tiễu của
địch, trên đường tuần tra, nghi ngờ, bắn thị uy vào một nơi nào đó. Nhưng đến khi cả súng cối, súng phóng hỏa tiễn cùng nổ dồn dập,
quyết liệt, thì đại đội trưởng không thể bình tâm được nữa. Rất có khả năng phân đội trinh sát hướng khu A do Ba Trần và phó chính trị
viên đại đội chỉ huy, trên đường rút ra ngoài bị lộ và quân địch đang dùng hỏa lực bắn lại họ.
Tại khu B, nơi đại đội trưởng và Phan Lâm đang mắc kẹt, bọn địch cũng bắt đầu báo động. Tiếng còi tàu đồng loạt hú lên, hoảng loạn.
Từ những tuyến phòng ngự, hỏa châu véo véo vọt lên, sáng rực cả bầu trời. Bọn lính bố phòng lố nhố, xuất hiện đầy chiến hào. Từ dưới
bến tàu, một đơn vị thủy quân lục chiến của địch ôm súng, chạy rầm rập lên bờ, tỏa ra chiếm các lô cốt, công sự trên những giao lộ
trong căn cứ. Tiếng chúng gọi nhau vang lên trong máy bộ đàm.
Cho đến lúc này, đại đội trưởng không còn một cơ hội nào rút lui được nữa. Anh cùng Phan Lâm nằm bẹp trong đống vỏ xe, thùng đạn
trên sân. Tình cảnh trớ trêu làm cho ruột gan anh co thắt, rối bời. Đại đội trưởng nằm im, bất động. Nỗi lo phải nằm lại căn cứ địch cứ
lớn dần trong anh, gần như không cưỡng lại được. Trong lúc đang hoang mang, lo lắng, bất chợt, anh nghe thấy tiếng "cạch" do súng
đạn va vào nhau vang lên từ một chỗ nào đó, rất gần. Đại đội trưởng giật thót người, ngó quanh. Anh chợt nhận ra hai tên lính thủy
quân, không biết từ đâu tới, ngồi ngay trên chiếc thùng đạn, phía sau lưng anh. Đại đội trưởng cảm thấy mất bình tĩnh. Hai đầu gối anh
run lên. "Mẹ kiếp! Có thế mà cũng hoảng hốt". Đại đội trưởng rủa thầm. Anh thận trọng xoay người, đưa khẩu AK báng gập về phía
hai tên địch, s1/2n sàng nhả đạn, nếu như bất chợt, chúng phát hiện ra anh. Sau đó, anh sẽ cùng Phan Lâm chiếm lấy kho đạn, tử thủ.
Anh tin rằng kẻ địch không dám bắn vào kho đạn. Chúng thừa biết điều gì sẽ xảy ra nếu mấy chục tấn đạn dược kia phát nổ tức thì.
Sau đợt bắn phá dữ dội xảy ra, không gian yên tĩnh trở lại. Bọn lính thủy quân lục chiến lục tục rời bỏ công sự, lũ lượt kéo nhau về bến
tàu.
-- Về thôi, hai thằng pêđê. Tụi mày còn ngồi làm chi vậy? - Tiếng một tên lính cất lên.
-- Tụi bay về trước đi! tụi tao phải gác cho tới sáng lựng!
Nghe bọn lính nói chuyện với nhau, đại đội trưởng thấy chột dạ. Nếu hai tên lính mả mẹ này cứ ngồi lỳ ở đây cho đến sáng, thì sẽ rất
nguy hiểm cho tính mạng của Phan Lâm và anh. Đại đội trưởng rất muốn thoát khỏi sự kiểm soát của hai tên lính gác này, chạy về phía
khu dân cư, nhưng lúc này, khó có thể thực hiện được. Với khoảng cách quá gần, chỉ cần động đậy là chúng sẽ phát hiện ra ngay.
Thời gian vẫn nặng nề trôi. Kim đồng hồ chỉ năm giờ kém mười lăm phút. Như vậy là các anh đã mắc kẹt ở đây mất hơn một tiếng
đồng hồ. Chẳng còn mấy thời gian nữa là trời sẽ sáng. Đợi đến lúc đó, thì dù có muốn, các anh cũng sẽ không thể nào thoát được.
Đại đội trưởng đã tính đến chuyện mạng đổi mạng, nhưng anh không muốn. Anh không thể chết vào lúc này, lúc mà anh vẫn có cơ
may sống sót. Hơn nữa, anh cũng không muốn để Phan Lâm phải chết cùng với anh. Cuộc sống chính là điều quan trọng bậc nhất mà
anh phải giữ gìn. Điều này không chỉ liên quan tới anh, tới Lâm mà còn liên quan đối với mẹ và người yêu của anh nữa.
Trong lúc đại đội trưởng còn đang nghĩ cách tìm lối ra thì Phan Lâm ngó anh lom lom. Trong cặp mắt của cậu ta ánh lên cái nhìn vừa
ân hận, vừa tuyệt vọng. Đột nhiên, đại đội trưởng nghĩ đến việc phải thủ tiêu hai tên lính gác mà không được xảy ra tiếng động. Nghĩ
thế, anh ra hiệu cho Phan Lâm biết là phải làm gì. Cậu ta gật đầu chấp nhận.
Tức thì, cả hai người đứng bật dậy, dùng súng phang vào gáy hai tên địch. Sự việc diễn ra nhanh đến mức chính đại đội trưởng cũng
không sao hiểu nổi. Sau hai tiếng "bụp, bụp" chắc nịch, gọn lỏn, hai tên lính ngã gục xuống đất. Đại đội trưởng rùng mình. Anh xách
súng cùng Phan Lâm chạy như bay về phía khu dân cư, cách họ lối chừng ba trăm mét.
Đại đội trưởng áng chừng chạy được hơn hai trăm mét, thì bọn địch ở phía tay trái anh phát hiện, bắn theo. Nhưng anh vẫn cứ chạy.
Khoảng cách giữa anh và ngôi nhà đầu tiên trong khu dân cư còn chừng không đầy năm mươi mét, thì anh bị trúng đạn. Anh cảm thấy
có một vật gì đó nóng rát, chui rất ngọt vào phía ngực bên phải, gần với vai, làm anh sựng người lại trong giây lát, rồi loạng choạng
chạy tiếp. Được vài bước, anh dừng lại, khoác khẩu súng lên cổ, Phan Lâm nhào tới, đỡ lấy anh.
-- Mày chạy đi. Chạy ngay đi, khi còn có thời gian. Để mặc tao! - Đại đội trưởng nói một cách khó nhọc.
Phan Lâm không nỡ bỏ đại đội trưởng ở lại một mình. Anh ta cố gắng dìu chỉ huy chạy tiếp. Bọn địch từ các nơi ập đến rất nhanh.
Phan Lâm ném liền hai quả lựu đạn về phía chúng, rồi kéo anh đứng lên, nhưng đại đội trưởng xua tay, giận dữ:
-- Chạy đi! Thằng điên!
Phan Lâm nhìn thủ trưởng trong giây lát rồi giương súng bắn vài loạt về phía địch. Sau đó, anh lẩn vào trong khoảng tối và mất hút
dưới dòng kênh. Còn lại một mình, đại đội trưởng cũng ráng sức chạy được vào những ngôi nhà gần nhất. Anh đã lần ra được chỗ cây
cầu rửa, bắc ra kênh, rồi nhảy xuống nước.
Trong khoảng thời gian ấy, anh chỉ loáng thoáng nghe thấy tiếng súng nổ, tiếng la hét, tiếng gầm của tàu địch chạy về phía anh.
6
Đại đôi trưởng Lê Sỹ Quý thức dậy vào lúc trời đã về chiều. ánh nắng muộn màng, thoi thóp xuyên qua kẽ lá, rọi thẳng vào mặt, làm
anh nheo mắt lại. Đại đội trưởng ngơ ngác, nhìn quanh, thấy mình đang nằm trong bụi móp đầy gai, kín mít, sát kênh xáng Xẻo Rô.
Quần áo, da thịt anh bám đầy sình đất, váng nước. Vết thương nơi ngực anh sưng to, ri rỉ máu. Anh thấy mình không khác gì một cái
xác chết trôi. Đại đội trưởng nằm im, nhắm mắt lại. Anh cố hình dung ra tất cả những gì đã xảy ra, sau khi anh nhảy xuống dòng kênh,
lúc đó, nước ròng rất mạnh. Và, cái khối nước ấy đã đẩy anh đi. Không. Không hẳn chỉ có thế, đại đội trưởng xác định lại. Lúc đó, anh
vẫn còn khoác khẩu súng ở cổ, dùng cánh tay khỏe mạnh còn lại, cố sức bơi đi. Anh nhớ là mình cũng đã đội trên đầu một dề cỏ, đề
phòng bọn địch lùng sục có thể nhìn thấy. Anh nhớ tiếng chúng la hét, chạy rầm rập trên bờ. Rồi thì chúng kéo xuồng, tìm kiếm. Anh
nhớ đến ánh đèn pin đan chéo nhau, loang loáng trên mặt nước, tìm bắt anh. Rồi sau đó, sự kiện diễn ra thế nào thì anh lại không nhớ
được. Hình như lúc đó, anh đã bị dòng nước cuốn đi trong trạng thái nửa mê, nửa tỉnh. Cho đến khi anh cảm giác một cách rõ ràng là
có một vật nào đó níu kéo, giữ anh lại. Nhưng nó là vật gì thì anh lại không nhớ. Có một điều anh không thể nào tin được là vì sao anh
lại không chết? Tại sao kẻ thù tìm kiếm anh như thế, mà không bắt được anh? Chẳng lẽ chúng mù cả hay sao mà không nhìn thấy anh,
trong khi anh nằm gần như tênh hênh thế này?
Đại đội trưởng ráng sức nhớ lại. Anh cố gắng nối những sự kiện rời rạc lại với nhau, để tìm ra một câu giải đáp có thể chấp nhận được,
nhưng vô vọng. Nhưng anh vẫn không tìn rằng sự việc lại chỉ diễn ra đơn giản như vậy. Hình như còn có một cái gì đó bí hiểm đã từng
xảy ra, mà anh không thể nào hiểu nổi. Thôi thì mặc xác cho những điều bí hiểm, đại đội trưởng tự nhủ. Vấn đề quan trọng nhất là anh
vẫn còn sống, vẫn tồn tại một cách thần kỳ.
Trời sẩm tối. Dòng kênh trở nên xám ngắt như chì. Đại đội trưởng cựa quậy, cố nhấc thân hình ra khỏi bãi sình nhão nhoét, nhưng
không được. Anh thấy như chính bùn đất đang níu kéo, giữ rịt anh lại. Anh phải tốn rất nhiều sức lực mới bò được lên gần bờ. Đến lúc
này, anh mới thật sự cảm thấy đau đớn. Vết thương nơi ngực có thể đang gây chảy máu trong, làm cho cánh tay anh tê dại, giống như
một miếng thịt thừa. Đã thế, lại còn đói và rét nữa. Mà cũng phải thôi. Suốt từ đêm qua đến giờ, anh đã ăn một miếng nào vào bụng
đâu, lại còn phải ngâm mình hàng chục giờ đồng hồ trong nước nữa.
Đại đội trưởng nhìn quanh. Anh cảm thấy thiếu một cái gì đó. Phải rồi. Khẩu súng, anh nghĩ. Người lính mà không có súng thì như
người không có tay. Nhưng súng ở đâu? Nó đã rơi chỗ nào? Đại đội trưởng cố nhớ một lần nữa. Sau cùng, tuy không có vẻ chắc chắn
lắm, nhưng anh cũng quyết định lội xuống chỗ bụi móp, tìm kiếm. Một lần nữa, đại đội trưởng đã gặp may. Anh mò được khẩu súng ở
ngay dưới gốc cây móp xù xì. Sung sướng đến tột đỉnh, đại đội trưởng trườn xuống dòng nước, rửa khẩu súng và giũ bớt bùn đất trên
người. Xong, anh ráng bò lên bờ, rồi nằm vật xuống vệ cỏ, hoàn toàn kiệt sức. Chưa lúc nào đại đội trưởng thấy mình yếu nhanh đến
thế. Dường như tất cả sức lực đã lặng lẽ rời khỏi anh, đến mức, anh không thể nào gượng dậy nổi.
Hãy ráng lên, Lê Sỹ Quý, đại đội trưởng tự động viên mình. Ráng lên. Nếu như mày nằm lại, thì sẽ không thể nào đứng lên được nữa.
Nào hãy dồn sức đi. Chống khẩu súng xuống đất làm điểm tựa mà đứng dậy. Ráng lên. Ráng một chút xíu nữa. Có thế chứ!
Cuối cùng, đại đội trưởng cũng đã đứng lên được. Nhưng hai đầu gối anh run lẩy bẩy. Mồ hôi trên trán túa ra. Đại đội trưởng cắn răng,
tha theo khẩu súng, đi từng bước một. Nhưng đi đâu? Anh tự hỏi. Trong căn cứ rộng lớn này, chỗ nào mà chẳng có quân địch? Có lẽ
phải mò về khu dân cư. Đại đội trưởng nghĩ thế. Nếu gặp được người tốt cưu mang, thì anh sẽ sống. Còn nếu như không gặp may thì
anh cũng chỉ như một người lính chết giữa chiến trường.
Đại đội trưởng khoác dây súng vào cổ, tay ôm vai, run rẩy bước đi theo sự phó thác của số mệnh. Anh đi như là một biện pháp cần
thiết để khẳng định là anh vẫn còn tồn tại.
Hóa ra đại đội trưởng đã bị dòng nước đẩy cách xa khu dân cư tới hai cây số. Với sức lực hiện tại của anh, để tới được đó, không phải
dễ dàng gì. Nhưng đến khu dân cư vào giờ này, còn quá sớm. Không khéo, anh lại tự dẫn thân vào trúng miệng hùm. Tốt nhất là anh
cần phải kiếm một bụi cây nào đó, nằm lại, đến nửa đêm rồi tính. Suy xét mãi, cuối cùng, đại đội trưởng tìm đến một bụi trâm ổi, mọc
um tùm cạnh bức tường đổ, ngồi xuống, thư thả duỗi chân ra, đặt khẩu súng bên cạnh, rồi nằm xuống. Đến lúc này, vết thương trên
người mới thực sự gây trở ngại cho anh. Đại đội trưởng lên cơn sốt. Hai hàm răng đập vào nhau lập cập. Anh rên lên khe khẽ, hai mắt
ríu lại. Anh tự dặn mình là không được thiếp đi. Nếu không tỉnh táo, rất có thể anh nằm lại đây cho đến sáng bảnh mắt và rơi vào tay
quân tuần tiễu. Dù đã tự cảnh cáo, nhưng đại đội trưởng cũng không cưỡng lại được sức lực của mình. Anh không biết mình đã thiếp đi
trong thời gian bao lâu, đến khi tỉnh dậy, anh bỗng giật mình hoảng hốt. Theo thói quen, anh giơ tay xem đồng hồ và chợt nhận ra nó
không còn trên tay anh nữa. Đại đội trưởng nhìn lên trời, ước tính là đã quá nửa đêm. Thế là vẫn còn may. Anh nghĩ, rồi ráng đứng lên,
bước tiếp. Khi anh tiến đến gần nhà xay xát lúa thì hoàn toàn kiệt sức. Anh lảo đảo ngã vật xuống bên cạnh đống trấu to như ngọn đồi
nằm sát cạnh nhà.
Nghe thấy tiếng động, có lẽ là do khẩu súng phát ra, từ trong nhà, một người đàn ông xuất hiện, bước ra ngoài. Ông ta ngó quanh,
nhưng không nhìn thấy đại đội trưởng lúc đó nằm khuất trong bóng tối. Đại đội trưởng cho rằng đây là thời cơ tốt nhất để anh có thể
cất lời:
-- Ông ơi! Cứu tôi với! - Đại đội trưởng nói một cách yếu ớt.
Người đàn ông giật mình, hoảng hốt nhìn anh, miệng ú ớ:
-- Việt cộng!
-- Vâng, tôi là Việt cộng! - Đại đội trưởng xác nhận - Tôi bị thương!
Người đàn ông lập cập quỳ xuống, vái anh như tế sao:
-- Tôi van ông. Mời ông đi đi cho. Ông đừng gây họa cho gia đình tôi.
-- Ông hiểu cho tôi! - Đại đội trưởng rên rỉ - Tôi bị thương, không thể đi được nữa.
Ông già nhìn về phía dinh quận trưởng, nằm ở bên kia dòng kênh, rồi nhìn quanh khu vực một lần nữa.
-- Nếu ông không đi, tôi sẽ gọi lính! - Ông già đe dọa.
Cơ sự đã xảy ra như thế này, đại đội trưởng không còn cách xử trí nào tốt hơn được nữa. Anh nằm im, không động đậy. Anh hy vọng
là ông già sẽ cứu anh. Nhưng nếu ông ta làm đúng như lời nói, thì đây cũng là một dịp may cuối cùng để anh có thể diệt thêm một hai
tên địch, rồi cùng chết. Anh đâu phải gắng sức đến đây để tặng không cho chúng sinh mệnh của mình.
Người đàn ông đứng im một lúc như thể đang suy nghĩ. Sau cùng, ông ta ngó quanh một lần nữa, khi thấy hoàn toàn yên tâm, mới tiến
tới, đỡ anh dậy, rồi đưa anh vào nghỉ trong kho cám.
7
Đại đội trưởng tỉnh dậy vào lúc rạng sáng, sau một cơn sốt triền miên, kéo dài tưởng như vô tận. Cho đến lúc này, lúc anh cảm thấy có
phần tỉnh táo, cơn sốt vẫn cứ hoành hành, không chịu buông tha anh. Toàn thân anh nóng hổi như than hồng. Chạm tay vào chỗ nào
cũng thấy nóng hầm hập.
ít nhất là đã hơn mười ngày nay, đại đội trưởng luôn ở trong tình trạng sốt cao, hôn mê liên tục. Mặc dù đã được Ba Quảng, con dâu
góa của ông Tư Xay Xát - Người đã cứu sống anh - rửa kỹ vết thương, băng bó chu đáo và được điều trị bằng thuốc kháng sinh liều
cao, nhưng vẫn bị nhiễm trùng, sưng to, làm cho dải băng thiết lại, gây nên cảm giác nhức nhối, thốn đến tận đỉnh đầu.
Đại đội trưởng nhận thấy rõ nơi tận cùng vết thương, chỗ viên đạn bị mắc kẹt, thịt da đã bắt đầu thối rữa, bay ra một mùi hôi rất khó
chịu. Hình như bên dưới lớp da kia, ấu trùng đang sinh sôi, lớn dậy và đang chui sâu vào lồng ngực của anh. Tất cả những điều này
báo hiệu một tình thế chẳng mấy tốt lành về cuộc sống của anh.
Khuya hôm trước, Ba Quảng rọi đèn cầy, xuống hầm, thay băng cho anh, đã phải bịt miệng bằng chiếc khăn rằn, rồi dùng quạt xua
mùi hôi nồng nặc ra ngoài. Tuy vậy, thỉnh thoảng chị vẫn phải đứng lên, thò đầu ra ngoài hầm, hít thở không khí trong lành, rồi mới
tiếp tục được công việc. Chị đã đổ gần hết lọ cồn vào trong vết thương, rồi ngồi chờ đợi. Một lát sau, những con bọ trắng phau, nung
núc bò ra ngoài, rơi từng đống xuống tờ báo đặt phía dưới lưng anh. Khi lũ ấu trừng đã bò hết ra ngoài, Ba Quảng gom chúng lại, rồi
đổ tiếp dầu mù u trộn lẫn mật ong vào trong vết thương, băng lại.
-- Chị Ba ơi, - Đại đội trưởng nói - Chị nói với ông già, đêm nay, cho tôi ra ở ngoài đống trấu được không? ở hầm này, có chuyện gì
không may xảy ra, thì nguy hiểm cho gia đình quá.
-- Ba tôi đã tính chuyện đưa anh ra ngoải từ mấy bữa trước lựng, chỉ hiềm một nỗi, lính bố dữ quá, nên chưa thực hiện được! - Ba
Quảng nói - Cực chẳng đã, anh phải ở lại đây, thì cũng đừng ngại. Biết đâu, anh chẳng phải là người được Đức Bồ Tát cử tới để thử
thách sự giác ngộ của ba con tôi.
Đại đội trưởng nằm im một hồi lâu rồi nói:
-- Tôi tin rằng vết thương có một cái gì đó không ổn, chị Ba ạ. Rất có khả năng tôi đang bị hoại thư.
-- Không sao đâu, anh cứ yên tâm đi! - Ba Quảng đặt lòng bàn tay vào trán anh, nói - Xức dầu, uống thuốc đầy đủ, anh sẽ khỏe thôi
mà. Anh đừng có nôn nóng.
Câu nói của Ba Quảng dường như chỉ là để động viên anh, thay vì nói rõ sự thật. Giờ đây, khi đã tỉnh lại rồi, đại đội trưởng linh cảm
thấy tình hình ngày một thêm tồi tệ. Chưa lúc nào anh nhìn thấy mình suy sụp như thế. Toàn thân anh chỉ còn da bọc xương. Anh có
thể nhìn rõ hình dáng từng khúc xương nơi cánh tay, cẳng chân của anh. Anh không hiểu vì sao mình lại sút nhanh đến thế?
Nhưng đại đội trưởng không quan tâm đến điều đó nữa. Anh chỉ muốn biết điều gì đang xảy ra ở phía trên đầu anh. Hàng ngày, vào
giờ này, anh có thể nghe thấy tiếng chân người đi lại trên mặt đất, tiếng ghe máy ầm ào, tiếng pháo địch bắn chi viện, hoặc tiếng trực
thăng cất cánh, nhưng tuyệt nhiên, bữa nay, tất cả đều im bặt, tắt lặng, như thể không còn sự hiện hữu của con người.
Đại đội trưởng cảm thấy trong lòng trống vắng, nặng trĩu cô đơn. Anh không sao có thể tự giải thích được hiện tượng bất thường này.
Anh quờ tay vào trong ngách hầm, nơi đặt đồ ăn thức uống và bắt gặp một nắm cơm to, vài lát thịt kho, một ly sữa đã nguội. Rất có thể
ông già và Ba Quảng đã đi đâu từ rất sớm, không kịp nói với anh. Hoặc giả, họ định nói, nhưng lúc đó, anh đang sốt mê man thì sao?
Nhưng mọi người đi đâu? Cả dân làng xung quanh nữa? Chẳng lẽ, họ bị bắt tất cả rồi sao? Đại đội trưởng nghĩ ngợi một hồi, rồi tự phủ
định tất cả. Anh tin rằng mọi người ở đây đã bị đưa đi làm một việc gì đó rất bí mật, mà bản thân họ cũng không được biết. Đại đội
trưởng quờ tay tìm khẩu AK, đặt dưới lớp trấu, bên tay phải anh. ý thức muốn tìm hiểu sự việc đã thúc đẩy anh tìm cách ngồi dậy,
nhưng không được. Toàn thân anh đau đớn, rã rời. ý thức về cá nhân chợt lóe sáng trong đầu anh. Một lần nữa, anh dồn sức, đạp chân
vào thành hầm, dùng cánh tay khỏe mạnh còn lại nâng mình lên, nhưng sức lực cạn kiệt đã không cho anh làm được cái điều anh mong
muốn. Dường như sự sống ở trong anh ngày một trở nên mỏng manh và đang có dấu hiệu lụi tàn. Một cảm giác cam chịu, cay đắng,
xuất hiện ở đâu đó trong sâu thẳm lòng anh. Nó cứ đeo bám anh dai dẳng, không rời.
Đại đội trưởng nghĩ rằng có khả năng anh bị đói, nên sức lực mới trở nên tồi tệ như vậy. Nếu anh uống hết ly sữa kia và ăn được nửa
nắm cơm, thì chắc chắn sức khỏe của anh sẽ được cải thiện. Nghĩ thế, anh với tay lấy ly sữa. Khốn thay, đến ngay những ngón tay
cũng không cử động theo sự điều khiển của anh. Anh đã phải dùng cả cánh tay bị thương để hỗ trợ, mới nâng được ly sữa lên miệng.
Đại đội trưởng ráng sức, uống một mạch cho hết ly sữa,rồi bắt đầu tính chuyện ăn cơm. Anh ăn một cách uể oải, nhưng đầy vẻ kiên
nhẫn. Phải mất cả nửa tiếng đồng hồ, anh mới ăn được non nửa nắm cơm. Với số lượng thức ăn có được trong người, đại đội trưởng
thấy sức lực tăng lên rõ rệt. Anh đã tự ngồi dậy, kéo theo khẩu AK, bò ra tới cửa hầm. Vừa bò, vừa thở, vừa nghỉ, cuối cùng, đại đội
trưởng cũng đã đẩy được mấy bao cám xếp chồng lên nhau, ngoi lên khỏi mặt đất.
Một luồng gió mát bất thần ập đến làm anh sây xẩm mặt mày. Anh vội túm lấy cây cột, nhắm mắt lại cho khỏi chóng mặt. Sau vài phút
nghỉ ngơi, thức ăn trong bụng anh lại bắt đầu dở quẻ, cuộn ngược trở ra, không thể nào kìm chế được. Đại dội trưởng nôn thốc nôn
tháo, nôn ra cả mật xanh mật vàng. Anh nôn đến mức mệt lả, nước mắt đầm đìa. Lẽ đời, ăn được vào trong bụng, nếu yên, thì có thêm
sức lực, nhược bằng phải nôn ra, thì còn mệt hơn cả lúc chưa ăn nữa. Nhưng cũng nhờ có chút thức ăn ấy mà anh đã lên được khỏi căn
hầm, nhìn thấy được một phần trời và đất.
Còn bây giờ, anh lại thấy sức lực của mình suy kiệt hơn lúc nào hết.
Lần đầu tiên trong đời, đại đội trưởng ý thức về cái chết. Không bao lâu nữa, sự sống sẽ chia lìa anh, không một loại thần dược nào có
thể cứu sống anh được. Anh nhận ra rằng anh không thể nào đi qua hết cuộc chiến tranh. Rồi đây, anh sẽ chết trong căn nhà này - Chết
một cách lặng lẽ. Không một đồng đội nào biết để xác minh về cái chết của anh. Sau khi cái chết đến rồi, mặt trời cũng sẽ tắt, mọi thứ
trước mắt anh sẽ phai nhạt, lụi tàn. Thế là hết!
Đại đội trưởng cắn môi, nước mắt ứa ra. Vào lúc này đây, lúc đại đội trưởng trở nên tuyệt vọng, đáng buông xuôi nhất, thì phẩm chất
người lính lại không cho anh cái quyền được yên nghỉ. Nó thôi thúc anh phải làm một điều gì đó có thể được, cho đến chừng nào số
phận gọi tên anh. Đại đội trưởng chợt nghĩ đến việc làm nổ kho đạn, nơi anh và Phan Lâm đã từng trốn, trong cái đêm rủi ro vừa rồi,
nhưng ngay sau đó, anh thấy ý nghĩ của mình thật viển vông. Khoảng cách từ đây đến kho đạn dài gần cả cây số, giữa ban ngày ban
mặt, cho dù còn đủ sức lực đi nữa, thì kẻ địch cũng không cho phép anh bén mảng tới gần, nhất là vào lúc này. Mặt khác, anh cũng
không có được lấy một trái thủ pháo dùng để kích nổ, thì làm sao có thể đánh được kho đạn? Tốt nhất, anh nghĩ, là hãy bò ra khỏi căn
nhà, với khẩu súng trong tay, anh có thể sẽ làm được một cái gì đó cần thiết, mà không gây phương hại đến những người đã từng đùm
bọc, cưu mang anh.
Đại đội trưởng thực hiện ý định của mình một cách kiên trì, không nản. Anh khoác chéo khẩu súng trên vai, bò qua khỏi khoảng trống
của tấm liếp, hướng tới khoảnh đất rộng phía trước mặt. Ra khỏi căn nhà, đại đội trưởng mới thấy là ngay cả ý định vừa rồi của anh
cũng khó thể thực hiện được. Với sức khỏe rã rời như hiện nay, anh không thể làm được điều gì khác, ngoài việc ban cho quân thù sinh
mạng của mình. Thà rằng anh khoác cả khẩu súng vào cổ, bò ra bờ kênh, rồi lăn tòm xuống dòng nước mà chết, xem ra còn có lợi hơn
là để cho quân thù hí hửng vì đã bắn hạ được anh.
Một lần nữa, cơn đau lại bắt đầu nổi lên, làm cho đại đội trưởng co rúm người lại. Anh cảm nhận một cách lờ mờ rằng toàn thân anh
đang co giật liên hồi. Mỗi lần như thế, anh lại thấy má mình chà lên mặt đất rát bỏng. Đại đội trưởng không biết là mình co giật trong
bao lâu, nhưng tới khi định thần được, thì ánh sáng đã chan hòa trên mặt đất. Lần này, anh thấy mình đang nằm ngay sát bờ kênh, bên
cạnh là cây trâm đầy quả. Rất có thể, do cơn co giật mà anh đã lăn đến đây rồi bị cây trâm giữ lại.
Trong lúc đại đội trưởng còn đang trong trạng thái mông lung thì có tiếng máy bay từ phía xa vọng tới. Ngay sau đó, anh nghe thấy
tiếng trống khua vang từ phía dinh quận trưởng, bên kia dòng kênh, cách anh khoảng hai trăm mét. Với một khoảng trống không che
khuất, đại đội trưởng ráng vịn vào cây trâm đứng lên, xem điều gì đang xảy ra. Anh đã nhìn thấy một đám đông, tới mấy ngàn người,
tay cầm cờ, đang vẫy chào ai đó. Cho đến lúc này thì đại đội trưởng hiểu rằng bọn địch đã huy động dân đi từ sớm, tụ tập ở trước dinh
quận kia, là để làm trò tung hô này.
Chiếc máy bay trực thăng từ từ hạ xuống bãi đáp. Từ trong khoang máy bay, một người đàn ông tầm thước, vận complet trắng, bước
xuống, theo sau là vài quan chức ăn vận sang trọng. Bọn phóng viên ùa ra, quay phim chụp ảnh. Tiếng hô khẩu hiệu vang lên. Nghe
thấy tiếng hô vang dội, đại đội trưởng giật mình kinh ngạc. Kẻ vận bộ complet trắng đang giơ tay chào đoàn người, nhanh nhẹn bước
lên bục cao phía trên kia, chẳng là ai khác, mà chính là Nguyễn Văn Thiệu, gã tay sai mẫn cán, hung hăng nhất của chế độ Sài Gòn.
Phải chăng đây chính là sự sắp đặt thần bí của tạo hóa, giúp cho anh có được một cơ hội, mà cả đời có khi chỉ gặp được một lần. Đại
đội trưởng run lên vì xúc động. Anh cố giữ chặt lấy chạc cây trâm, đề phòng bị ngã xuống dòng nước, rồi dùng cánh tay bị thương kéo
khẩu súng về phía trước. Sau khi cảm thấy yên tâm, anh đẩy khóa an toàn trở về nấc liên thanh, nheo mắt ngắm. Khốn thay, hình ảnh
của Nguyễn Văn Thiệu cứ nhòe nhoẹt trước mắt anh. Đại đội trưởng ngừng thở mấy lần, chuẩn bị xiết cò thì nòng súng trở nên chao
đảo, không thể nào giữ vững được nữa.
Đúng lúc ấy, cơn đau trong anh lại bắt đầu nổi lên. Lần này, dữ dằn hơn. Nhưng đại đội trưởng không cho phép mình được ngã vào
thời điểm có một không hai này. Anh cắn răng vào một cành cây đến bật máu, kềm nén cơn đau. Cuộc đời trớ trêu đến thế là cùng. Tại
sao cơn đau lại nổi lên vào đúng lúc này để cản trở anh? Đại đội trưởng vẫn ráng sức chịu đựng. Hai đầu gối anh bắt đầu run lên từng
chặp. Anh nhận thấy sức lực trong anh đã tụt đến giới hạn rồi, không còn khả năng vực dậy được nữa.
Đừng bi quan, đại đội trưởng, trung úy Lê Sỹ Quý ạ. Ráng kiên nhẫn một chút nữa, chỉ cần vài giây đồng hồ, đủ để mi đưa cái tên tổng
thống khốn kiếp kia vào đúng trong tầm ngắm để lẩy cò, rồi sau đó, ra sao cũng được. Đại đội trưởng tự nhủ mình.
ở bên kia dòng kênh, tiếng loa phóng thanh vẫn vang lên: "Thưa quý ông, quý bà, thưa toàn thể nhân dân và các chiến sĩ, thay mặt
chính phủ Việt Nam cộng hòa, tôi long trọng thông báo cho nhân dân cả nước biết rằng, cho đến ngày hôm nay, mồng một tháng sáu,
năm một ngàn chín trăm bảy mươi mốt, ngày lịch sử trọng đại, quân đội đồng minh cùng với quân lực hùng mạnh của chúng ta đã quét
sạch cộng quân ra khỏi vùng này. Hiện nay, chúng chỉ còn một trăm tên ở U Minh Thượng và cũng khoảng ngần ấy ở U Minh Hạ.
Quân lực của chúng ta sẽ tiếp tục truy quét, cho tới khi chúng trở về vùng quên lãng trong trí nhớ của chúng ta. Thay mặt chính phủ, tôi
tuyên bố thành lập chi khu Hiếu Nghĩa".
Sự huênh hoang của Nguyễn Văn Thiệu truyền đi qua loa phóng thanh bỗng dưng trở thành một liều thuốc kích thích đại đội trưởng.
Anh nâng súng lên và lấy điểm ngắm. Cho tới khi khẩu súng của anh rung lên, nhả đến viên đạn cuối cùng, thì cũng là lúc anh không
còn có thể làm được điều gì hơn nữa. Cả anh và khẩu súng đều rơi xuống dòng kênh.
Trong cái khoảnh khắc cuối cùng ấy, anh chỉ kịp mong rằng mẹ và người yêu hãy thông cảm cho anh - Rằng, anh không phải là người
không nghĩ đến họ, mà là anh không có được cái may mắn sống sót cho đến cái ngày đất nước hòa bình - Rằng, họ cứ yên tâm về
phẩm chất người lính của anh. Anh đã sống, đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, hiểu theo đúng nghĩa của từ này.