Dịch giả : Trần Xuân Thủy
Chương 30
Chuyến tàu tốc hành xuyên Siberia

     . Tàu M.V Khabarovsk
Tại ranh giới phía Đông, tàu tốc hành Xuyên Siberia là một con tàu biển Nga đầy mùi mốc, cứ mỗi tháng lại hai đến ba lần rời khỏi vùng Yokohama đầy sương khói, đi qua các eo biển Tsugaru đầy gió và biển Nhật Bản – nơi có nhiều hải lưu gặp nhau và không còn bão tuyết – để tới Nakhodka thuộc vùng Primorsk băng giá, như một hòn đá ném đi từ Vladivostok. Đó là con đường phía Tây duy nhất tới Nakhodka, tuyến đường mà bệnh viêm phổi theo bão gió bay tới mạn tàu. Cũng giống như tàu hỏa, con tàu biển Khabarovsk mang phong cách của người Xô Viết: bí ẩn với sự khác nhau tinh vi giữa các hạng, nó đưa một người Mác xít được đào tạo đi theo để đề cao những điểm khác nhau đó. Tôi được ở trong một cabin bốn giường ngủ ở mé mặt nước, một trong những cách phân chia thứ cấp của hạng thường (cách mô tả này đúng hơn so với quảng cáo du lịch là hạng sang). Bruce và Jeff, hai người Úc ở giường trên đang lo lắng cho chuyến đi tới Siberia. Anders ở phía giường đối diện, một thanh niên Thụy Sĩ có khuôn mặt đầy mụn nhọt, một trong những kiểu mặt Scandinavia điển hình thường tự mãn về sinh lý với một trí tưởng tượng nghèo nàn. Anh chàng lắng nghe hai người Úc nói chuyện và rồi khi anh chàng cất tiếng: "Này, tôi nghe nói thời tiết ở Siberia rất lạnh," tôi biết chuyến đi sẽ gặp nhiều sóng gió.
Vào chiều muộn của ngày đầu tiên, lúc chúng tôi đang rẽ vào các eo biển thì bờ biển Honshu có tuyết rơi. Mũi tàu Khabarovsk và boong trước đã bị bao bọc trong băng xanh. Ngoài những ngọn hải đăng lâu lâu lại xuất hiện và một vài tàu đánh cá han gỉ đang tự do thả neo giữa dòng biển mạnh thì chẳng có dấu hiệu nào của sự sống. Bờ biển và những dãy núi phía sau con tàu trông hoang vắng. "Kia là Osorayama," một trong các sinh viên Nhật Bản nói, chỉ về phía một ngọn núi. "Trên đỉnh núi có ma quỷ sinh sống. Vì thế người ta chẳng bao giờ lại gần đó." Đám người Nhật Bản đứng bên lan can, chụp vài kiểu ảnh về cái nơi quỷ quái này. Họ lần lượt chụp cho nhau, cầm một phiến đá nhỏ, ghi ngày, giờ, địa điểm lên đó: các kiểu chụp ảnh luôn giống hệt nhau nhưng thông tin trên phiến đá lại thay đổi rất mau chóng. Họ hầu hết đều là sinh viên, một số người là khách du lịch. Họ gồm khoảng hai mươi người và đang đi khắp nơi, nhưng chỉ có một người nói tiếng Anh. Một nhà xã hội học đang trên đường tới Sorbonne không nói được tiếng Pháp, cũng như người đàn ông đang trên đường tới Viện Max Planck không nói được tiếng Đức. Họ mang những cuốn sách thành ngữ và lật từng trang liên tục. Nhưng những cuốn sách thành ngữ này không giúp được gì nhiều trong giao tiếp. Chúng được những người Nhật Bản khó tính biên dịch ra và có những câu rất Nhật Bản trong đó, như: "Căn phòng này không hợp với tôi" bằng tiếng Đức, Anh, Ý, Pháp và Nga.
Tôi mang theo cuốn New Grub Street tới quầy bar, nhưng liên tục bị chặn đường: những người Nhật Bản xếp ghế, ngồi thành vòng tròn, cầm những cuốn sách thành ngữ giống như những người điều khiển đội hợp xướng đang cầm sách thánh ca, họ đang tìm hiểu về giá thuê phòng ở London. Một đôi vợ chồng Mỹ muốn biết tôi đang đọc cái gì; và còn có cả Jeff, ông người Úc lớn tuổi hơn đang trên đường tới Đức. Jeff có ba ngày để nuôi râu và ông có thói quen đội mũ bê rê để che đi cái đầu hói của mình. Ông thấy ghét con tàu này nhưng vẫn đang hy vọng:
"Anh đã ở trên cái tàu nào như thế này chưa?" ông ta hỏi.
Tôi đáp chưa.
"Nghe này, tôi có một người bạn đã từng ở trên một con tàu như thế này. Anh ta đi từ Sydney tới Hồng Kông, tôi nghĩ vậy. Anh ta bảo rằng mọi người đều rất vui vẻ khi tất cả vừa lên tàu, nhưng ngay khi ra biển, họ bắt đầu trở nên điên loạn. Anh hiểu ý tôi nói không? Họ hành động theo lối trước đây chưa bao giờ làm." Ông ta liếc mắt và nói: "Như kiểu họ vừa đánh mất những đồ cẩm thạch quý giá của mình vậy."
Đêm hôm đó người ta chiếu một bộ phim về Minsk trong phòng khách. Jeff đi xem và kể lại cho tôi nghe. Bộ phim mô tả Minsk là một thành phố đầy nắng, với những cuộc trình diễn thời trang, những trận bóng đá, và gần gụi với hình ảnh chi tiết về một nhà máy thép. Sau đó, các chiêu đãi viên người Nga chơi nhạc, tổ chức nhảy, nhưng có rất ít người tham gia. Hai người Nam Tư nhân viên của con tàu nhảy với hai thủ thư đến từ Adelaide; ông người Mỹ nhảy với vợ, những người Nhật chỉ xem và giữ chặt lấy mấy cuốn thành ngữ.
"Có ai bị mất bộ cẩm thạch không vậy?" tôi hỏi.
"Đây không phải là chuyến đi dài," Jeff nói. "Đây chỉ giống như một buổi dã ngoại vào Chủ nhật ở trường học. Nếu anh hỏi tôi thì tôi cho rằng đó là vì người Nga đã tổ chức chuyến đi này."
Người pha chế ở quầy rượu, một cô gái tóc vàng vẻ khỏe khoắn, đi đôi tất hồng ngắn đến mắt cá chân, lắng nghe Jeff than phiền. Cô hỏi: "Anh không hài lòng à?"
"Tôi hài lòng." Jeff nói. "Chỉ là tôi chưa quen thôi."
Nikola, một người Nam Tư nhập bọn cùng chúng tôi. Anh ta nói anh thấy rất vui vẻ khi nhảy và anh muốn biết tên của người thủ thư thấp hơn. Anh ta nói: "Tôi đã ly dị, ha ha!"
"Galina Petrovna," tôi nói với người phục vụ, "cho một cốc bia nữa."
Cô gái tóc vàng thôi không đan nữa, thì thầm với Nikola bằng tiếng Nga và rót đầy cốc bia của tôi.
Nikola bảo: "Cô ấy muốn anh gọi cô ấy là Galya. Như thế nghe dễ gần hơn."
"Tôi nghĩ tôi chả được gì khi gọi cô ấy là Galya."
"Anh nói đúng," Nikola nháy mắt, "chả được gì cả."
Chúng tôi nói chuyện về nước Nam Tư. Nikola nói: "Ở Nam Tư, chúng tôi có ba thứ: tự do, đàn bà và rượu!"
"Nhưng chắc chắn không phải cùng lúc có cả ba thứ đúng không?" tôi hỏi. Việc đề cập đến tự do đã khiến cuộc trò chuyện xoay quanh Djilas, một nhà văn Nam Tư bị ngược đãi.
"Về ông Djilas," Nikola nói, "để tôi kể anh nghe. Khi tôi còn đi học, họ bắt tôi ngốn mọi sách của Djilas. Tôi phải học tất cả những gì ông ta đã đọc. Về Stalin. Anh ta nói, hừm, Stalin giống như Zayoosh, vị thần Hy Lạp. Không phải ông ta nghĩ giống như Zayoosh, nhưng trông giống Zayoosh – tai to mặt lớn. Tôi gọi Djilas là kẻ phản bội chủ nghĩa cộng sản. Đây là lý do. Ông ta đọc sách – một quyển sách lớn – có tên, hừm, Conversation with Staleen (Đối thoại với Stalin). Nhưng, hừm! Giờ thì ông ta nói Stalin là quái vật. Quái vật cơ đấy! Đầu tiên là Zayoosh, sau đó là quái vật. Tôi hỏi anh vì sao. Vì sao? Bởi Djilas là kẻ phản bội…"
Nikola đã từng là thuyền trưởng một con tàu Nam Tư. Giờ anh là nhân viên của một công ty tàu biển, anh đang trên đường tới Nakhodka để kiểm tra một tàu chở hàng bị hư hỏng. Anh ước mình vẫn là thuyền trưởng và đang nhớ lại thời điểm con tàu của anh gần như chìm trong bão ở eo Tsugaru. "Chúng tôi lúc đó đang vượt qua những dòng biển nguy hiểm." Anh ta kể, "Đôi khi bạn phải cầu nguyện, nhưng không được để ai nhìn thấy."
Đến đêm khuya hôm đó, quán bar của con tàu Khabarovsk chỉ còn lại đôi vợ chồng người Mỹ, Nikola, một vị khách người Ba Lan trông buồn rầu có cái tên tôi chưa nghe thấy bao giờ, và tôi. Đôi vợ chồng Mỹ nói rằng họ đã từng gặp ma. Tôi hỏi họ bằng chứng. Thế là họ kể cho tôi nghe những câu chuyện ma. Câu chuyện đầu tiên là về một con búp bê Nhật Bản mà họ từng mang theo. Nó có một chiếc mũi sứt. "Hãy vứt nó đi! Nó còn sống đấy!" Một người Nhật nói với họ như vậy. Nó có linh hồn. Họ đi tới một ngôi đền, rắc muối thành vòng tròn và làm lễ rửa tội. "Nếu không sẽ có điều xấu xảy ra với khuôn mặt chúng ta." Tôi cho rằng chuyện đấy chỉ hoàn toàn là suy đoán đơn thuần. Họ lại kể tôi nghe một câu chuyện khác. Chuyện xảy ra ở New Orleans. Họ được tặng một cuốn sách kỳ lạ. Những vị khách được mời ăn tối thấy vô cùng thất vọng về ngôi nhà của họ, cuốn sách bỗng toả khói. Họ đốt cuốn sách trong một cái thùng đựng rác và một tuần sau đó ngôi nhà của họ cũng cháy rụi – không ai biết tại sao.
"Tôi có biết một nhà buôn qua các tài liệu cổ," tôi nói và bắt đầu kể họ nghe câu chuyện rùng rợn nhất mà tôi biết, có tên "The Mezzotint" (Bản khắc) của M.R.James.
"Khiếp!" Người phụ nữ thốt lên khi tôi kết thúc câu chuyện. Chồng bà ta nói: "Này, thế là anh cũng gặp ma rồi à?"
Sáng hôm sau, chúng tôi rời khỏi các eo biển; tôi cứ ngỡ biển Nhật Bản sẽ yên bình hơn, nhưng thực ra lại tồi tệ hơn. Nikola giải thích rằng có hai dòng biển trong biển Nhật Bản, dòng hải lưu nóng Kyushu từ phía Nam chảy xuống và dòng hải lưu lạnh từ biển Okhotsk chảy đến: chúng gặp nhau và gây ra áp lực lớn. Suốt cả ngày con tàu bị cuốn đi trong bão tuyết và những con sóng lớn đập mạnh vào các cửa sổ. Tàu cứ dập dềnh đưa chúng tôi vào trạng thái không trọng lượng, khiến những chiếc chân vịt cũng như lung lay và ít phút sau thì mọi người bắt đầu nôn mửa. Say sóng thật đáng sợ – sợ con tàu sẽ bị đắm xuống vùng biển băng giá, sợ phải đối mặt với tuyết và những con sóng đập vào đám thuyền cứu hộ mỏng manh.
Vị khách người Ba Lan nói trông tôi rất mệt.
"Tôi phát ốm mất!"
"Làm một ngụm đi!"
Tôi thử một ngụm rượu Georgia, nhưng sau đó còn cảm thấy tồi tệ hơn, cứ như thể tôi vừa uống nhựa thông vậy. Con tàu rung chuyển dữ dội, nó trở nên náo động vì những tiếng gầm thét của sóng biển trên thân tàu, tiếng cánh cửa va đập, những cái tủ cốc chén đang long dần ra khỏi tường và rít lên với những chấn động dường như khiến chúng sắp nổ tung ra thành từng mảnh. Tôi trở về cabin của mình. Anders đang nằm trên giường, mặt tái mét. Jeff và Bruce đang rên rỉ. Bây giờ thì con tàu dường như không còn ở trên biển, nó đột ngột bay lên không trung trong khoảng năm giây và sau đó rơi xuống kèm theo từng mảng gỗ bung ra. Tôi không cởi bỏ quần áo. Thuyền cứu hộ số 7 là của tôi. Trong khi ngủ, Anders còn cố hét lên với tiếng khản đặc: "Không!"
Trước khi bình minh lên, sóng biển trở nên dữ dội nhất. Tôi cứ thế bị ném tung lên không từ trên giường mình nằm hết lần này đến lần khác, và một lần tôi cụng đầu vào khung giường. Bình minh lên, ánh sáng chiếu xuyên qua lớp băng trên các ô cửa sổ – mặt biển đã yên bình hơn. Tôi ngủ được khoảng một tiếng, trước khi bị đánh thức vì tiếng nói chuyện:
"Này, Bruce."
"Hả!!!"
"Ned Kelly nhỏ bé của anh thế nào rồi?"
"Ổn."
"Anh bị mất giọng rồi à?"
"Không."
"Đi nào! Sóng dữ thật! Mấy cái giường này như địa ngục vậy."
Jeff yên lặng trong giây lát. Anders lẩm bẩm gì đó. Tôi cố gắng bật chiếc radio đã mua ở Yokohama lên.
"Không hiểu bữa sáng có gì đây?" Cuối cùng Jeff nói.
Bữa sáng (xúc xích, ô liu, trứng vỡ, bánh mì ỉu) sẵn sàng phục vụ cho tám vị hành khách. Số người còn lại, bao gồm tất cả những người Nhật Bản đều bị say sóng. Tôi ngồi với vị khách người Ba Lan và Nikola. Ông Ba Lan và tôi trò chuyện về Joseph Conrad. Ông ta gọi Conrad bằng tên họ nguyên gốc: Korzeniowski. Nikola ngạc nhiên về mối quan tâm của tôi và nói: "Ông ta cũng viết về Stalin, ông nhà văn Korzeniowski ấy, đúng không?"
Đó là ngày cuối cùng của chúng tôi đi trên con tàu Khabarovsk. Trời nắng, nhưng nhiệt độ vẫn dưới không độ – trời quá lạnh nên không thể ở trên boong quá vài phút. Tôi vẫn ngồi trong quầy bar đọc Gissing. Đến tầm buổi trưa, Nikola dẫn theo sau một người Nga luống tuổi với mái tóc hoa râm. Họ uống vodka và cứ mỗi khi nhấp môi, người Nga đó lại bắt đầu kể những câu chuyện về chiến tranh.
Ông ta (theo như Nikola dịch lại) đã từng là người bạn đồng hành của anh trên một con tàu chở hàng cũ kỹ mang tên Vanzetti – tàu chị em của Sacco – do một tay nghiện rượu khét tiếng làm thuyền trưởng. Thuộc đoàn năm mươi con tàu hộ tống băng qua Đại Tây Dương, Vanzetti chạy quá chậm đến nỗi bị bỏ lại xa phía sau và một hôm, khi cả đoàn tàu hộ tống gần như mất hút thì một tàu ngầm của Đức tiến lại gần. Vị thuyền trưởng đã liên lạc bằng máy radio kêu gọi giúp đỡ nhưng đoàn tàu hộ tống không quay lại, bỏ mặc tàu Vanzetti tự lo liệu. Và không hiểu sao con tàu Vanzetti vẫn né được hai quả ngư lôi của tàu ngầm Đức. Quan sát một lúc, viên thuyền trưởng nghiện rượu lôi khẩu đại bác hoen gỉ của ông ta ra; ông bắn một phát, làm thủng chiếc tàu ngầm và làm đắm nó. Những người Đức cho rằng cái tàu cũ nát kia, được điều khiển bởi những kẻ bất tài, là một thứ vũ khí bí mật nên không làm phiền đoàn tàu hộ tống nữa. Khi con tàu Vanzetti ì ạch cập cảng Reykjavik, nước Anh đã tổ chức một bữa tiệc đặc biệt cho những người Nga đến muộn hai tiếng và đang hét lên những bài hát tục tĩu, còn viên thuyền trưởng say mềm vì rượu đã được thưởng huy chương.
Chiều đến, tôi nhìn thấy những con mòng biển, nhưng đã là năm giờ chiều trước khi nhìn thấy bờ biển Xô viết. Thật không ngờ, nơi đó toàn là tuyết. Khung cảnh màu nâu, bằng phẳng, không cây cối, một nơi u ám nhất mà tôi từng thấy; nó giống như một bãi biển mênh mông đầy thứ bẩn thỉu đông cứng vì bị một biển dầu đen đánh vào. Những hành khách người Nga, sau đó đã đi loanh quanh trên tàu trong bộ quần áo cũ kỹ, xỏ dép lê bọc nỉ, khoác vào những bộ vest nhàu nhĩ, đội chiếc mũ lông để chuẩn bị xuống tàu, còn dọc theo mạn tàu bên phải tôi thấy họ đang gài những tấm huy chương ("Công nhân gương mẫu", "Hợp tác xã Yakutsk", "Đoàn thanh niên Blagoveshchensk") lên túi áo ngực. Con tàu cập cảng khá lâu ở Nakhodka. Tôi tìm được một nơi trú ngụ trên thân tàu, chỉnh sóng radio và nghe được bản nhạc Digan – tiếng violon chơi rời rạc như một điệp khúc cưa xẻ. Một thủy thủ mặc áo khoác rách rưới và đội chiếc mũ bẩn thỉu đang núp sau chiếc cần trục neo. Anh ta bảo tôi vặn nhạc to lên, bằng tiếng Anh (anh ta đã tới Seattle!). Anh ta cười rầu rĩ, cho tôi thấy hàm răng giả bằng kim loại. Anh từ Moldavia tới và đang ở rất xa nhà.
2. Tàu Vostok
Thành phố cảng Nakhodka của Siberia vào tháng Mười hai mang lại cho người ta cảm giác như đang ở bên rìa của thế giới, trong một không gian thiếu thốn sự sống. Cây cối trụi lá, mặt đất dày cứng không có cỏ mọc bên trên, đường phố không xe cộ, vỉa hè không người qua lại. Có những ngọn đèn sáng, nhưng chúng giống như đèn cảnh báo cho những ai bị lạc gần Nakhodka rằng đây là một nơi rất nguy hiểm và chỉ có sự trống rỗng bên trong. Thời tiết dưới không độ làm cho ta thấy xung quanh thật vô vị và chẳng có âm thanh nào phá vỡ được sự yên ắng nơi đây. Nakhodka khiến người ta thấy có cơ sở cho ý niệm trái đất này là một mặt phẳng.
Tại nhà ga (tên đầy đủ là Ga Tikhookeanskaya – như trong sách quảng cáo du lịch), một tòa nhà xây bằng vữa theo lối cân xứng của nhà thương điên Kabul, tôi bỏ ra sáu rúp để được chuyển từ vé hạng thường sang hạng sang. Nhân viên ở đó nói điều này là không thể được nhưng tôi vẫn nài nỉ. Có hai giường ngủ trong một khoang hạng sang, bốn giường đối với hạng thường và tôi đã nhận được một bài học bổ ích về việc quá tải trong một khoang ở tàu Khabarovsk. Việc đi lại ở Nga đã khiến tôi có ý thức về các thứ hạng. Và bây giờ tôi có nhu cầu xa xỉ, một nhu cầu không hề có ở Nhật Bản, nơi thủ tướng có toa riêng (thậm chí còn dành mười một toa riêng cho Nhật hoàng). Thế là tôi chọn một giường ngủ sang trọng ở toa số 5 của tàu Vostok.
"Vâng, anh thắc mắc điều gì ạ?" Một phụ nữ đội mũ lông hỏi. Sân ga đang đóng băng và nhằng nhịt những vết chân giống nhau trên mặt băng. Người phụ nữ thở ra cả hơi nước.
"Tôi đang tìm toa số 5."
"Toa số 5 bây giờ là toa số 4. Anh vui lòng tới toa số 4 và đưa ra biên lai. Xin cám ơn!" Người phụ nữ sải chân bước đi.
Một đám người đang đứng trước cửa toa mà người phụ nữ kia vừa chỉ cho tôi. Tôi hỏi người ta đây có phải toa số 4 không.
"Nó đấy!" Một người Mỹ trông có vẻ bí hiểm cho biết.
"Nhưng họ không cho chúng ta vào," vợ của ông ta nói, "ông kia bảo chúng ta phải đợi."
Một nam công nhân ăn mặc trông như một con gấu xám tiến đến. Anh ta dựng một cái thang với vẻ quan tâm đến mấy thứ máy móc vô nghĩa như kiểu một diễn viên trong một vở kịch thử nghiệm với mục đích tránh nhàm chán cho khán giả. Bàn chân tôi đang dần đóng băng, đôi găng tay Nhật Bản bị gió lùa vào dễ dàng, mũi tôi cũng đỏ lên như một miếng băng, thậm chí đầu gối tôi cũng đã lạnh cóng. Anh công nhân dùng móng tay lần mò từng bảng kim loại một.
"Jeepers, em lạnh quá!" Vợ người đàn ông Mỹ cất tiếng. Và cô ta bật khóc.
"Đừng khóc, em yêu!" Người chồng nói rồi ngoảnh ra hỏi tôi: "Anh đã thấy cảnh này bao giờ chưa?"
Người công nhân trên chiếc thang gỡ số 4 ra khỏi thành toa, đẩy số 5 vào khe, cố định bằng nắm đấm, gỡ chiếc thang xuống, ấn cho thẳng lại rồi ra hiệu cho chúng tôi vào bên trong.
Tôi đã tìm được khoang của mình và nghĩ chuyện này thật kỳ lạ. Nhưng rồi tôi cũng thở phào và tận hưởng niềm vui sướng tột bậc mà một hành khách có thể cảm nhận được: không gian sang trọng nhất, gian phòng tiện nghi nhất mà tôi được biết trong suốt ba mươi chuyến tàu từ trước tới nay. Ở đây, trên con tàu Vostok, đỗ ở một sân ga có vẻ như hoang vắng nhất trong vùng Viễn Đông Xô viết, lại có một gian phòng có thể nói là tựa như của nữ hoàng Victoria, tất nhiên đó là thời trước cách mạng. Bản thân toa này trông như một chiếc đi văng hẹp trong một quán rượu sang trọng ở London. Sàn hành lang được trải thảm, gương treo mọi nơi, những vật bày biện bằng đồng sáng bóng hợp với đồ gỗ được đánh véc ni cẩn thận; rồi có cả hình những cây anh túc được khắc trên quả cầu thủy tinh của một đôi đèn đỏ bên cạnh những chiếc gương, làm cho những rèm cửa bằng nhung đỏ và những con số La Mã trên cửa ra vào của gian phòng cũng sáng lên theo. Số La Mã trên cánh cửa khoang của tôi là VII. Tôi có một chiếc ghế rất dễ chịu vì những tấm vải bọc được đan móc khéo léo và ghim chặt vào ghế; một tấm thảm dày trải trên sàn nhà và một tấm khác trong nhà vệ sinh, ở đó có chiếc vòi hoa sen trắng bóng nằm cuộn lại cạnh bồn rửa. Tôi đấm đấm vào cái gối: hóa ra bên trong đầy lông ngỗng ấm áp. Và tôi ở đây có một mình. Tôi đi đi lại lại trong phòng, xoa xoa tay rồi châm một tẩu thuốc, xỏ dép lê, khoác chiếc áo choàng mới của Nhật và tự rót một cốc vodka lớn. Tôi ngả lưng xuống giường, tận hưởng chuyến đi chín mươi sáu nghìn ki lô mét từ Nakhodka đến Moscow, chuyến tàu dài nhất trên thế giới.
Để tới được toa ăn, hôm đó tôi phải đi qua bốn toa khác, giữa các toa, trong cái bốt cao su trên chỗ nối là một khoảng đất Bắc Cực. Một cơn gió buốt lạnh thổi qua những vết rách trên bốt cao su, sàn đầy tuyết, trên thành toa là một lớp băng rất dày và nắm đấm cửa cũng bị đóng băng luôn. Ngón tay tôi mất cả cảm giác vì những nắm đấm cửa đó; vì thế sau đó mỗi khi di chuyển giữa các toa trên tàu cao tốc xuyên Siberia, tôi lại đi găng tay vào. Hai bà già người Nga già nua chào tôi. Họ mặc áo khoác trắng, đội khăn xếp và cánh tay họ đỏ lựng lên vì nhúng vào chậu nước. Có những bà già khác nữa đang quét hành lang bằng chiếc chổi kết từ cành cây – đất nước này có những cụ già luôn khom mình, lam lũ. Bữa tối gồm cá mòi và món hầm, hai chén rượu vodka khiến đồ ăn ngon hơn hẳn. Tôi đang ăn thì hai nhà huyền bí người Mỹ bước vào. Họ gọi rượu. Người vợ nói: "Chúng ta nâng cốc chúc mừng thôi. Bernie vừa hoàn thành khóa học bác sĩ nội trú."
"Tôi không biết là các nhà huyền bí lại phải học khóa bác sĩ nội trú."
Bernie nhăn trán: "Tôi là bác sĩ."
"A, một vị bác sĩ thực thụ!"
"Chúng tôi đang ăn mừng bằng chuyến đi vòng quanh thế giới," người vợ nói, "Chúng tôi đang trên đường tới Ba Lan, ý tôi là sau khi tới Irkusk."
"Thế thì các bạn hơi phung phí quá!"
"Có lẽ vậy."
"Bernie," tôi nói, "Anh sẽ không quay lại và trở thành một thầy lang đòi tiền chữa chứng hôi miệng chứ?"
"Học y tốn rất nhiều tiền." anh ta càu nhàu và bảo rằng đã bỏ ra hai mươi nghìn đô la cùng hàng năm trời để học nghề bác sĩ. Sách giáo khoa rất đắt và vợ anh ta phải đi làm kiếm tiền. Tôi bảo rằng mấy thứ đó nghe có vẻ không có gì là thử thách. Tôi đã phải bỏ ra nhiều tiền hơn thế. Anh ta nói: "Thậm chí tôi đã phải bán máu mình."
"Tại sao thế?" tôi hỏi, "Tại sao bác sĩ lúc nào cũng phải kể lể chuyện họ đã phải bán máu như thế nào khi còn là sinh viên? Anh không thấy rằng bán máu chỉ là một ví dụ khác của sự hám lợi sao?"
Bernie nói: "Tôi không việc gì phải đôi co với anh." Anh ta túm lấy tay vợ và lôi ra khỏi toa ăn.
"Một nhà huyền bí vĩ đại!" Tôi thốt lên và nhận ra rằng mình đang say. Tôi trở lại căn phòng số VII và trước khi tắt đèn bàn, tôi ngoảnh nhìn ra ngoài cửa sổ. Tuyết đã phủ kín mặt đất và xa xa, dưới ánh trăng mờ lạnh giá là những cành cây khẳng khiu, trơ trụi lá.
Khi tôi tỉnh dậy, trời vẫn tối đen như mực mặc dù đồng hồ đã chỉ tám giờ hơn. Bình mình bắt đầu lên, một vầng sáng nhỏ hình bán nguyệt giống như hình lớp thịt hồng hào bên dưới móng tay xóa tan đi vẻ ảm đạm nơi chân trời. Một tiếng sau, vầng sáng ấy bắt đầu ửng đỏ, hào quang mùa đông hiện lên trên mặt băng bằng phẳng của vùng Primorsk, chiếu sáng căn nhà gỗ nhỏ chỉ như một cái chuồng gà có ống khói và mảnh sân có những đống rơm và tuyết xung quanh. Một vài người đã tỉnh dậy, họ mặc đồ mùa đông, những áo khoác đen dày dặn và đôi ủng to nặng khiến họ trông như thể có bàn chân dị tật. Họ rảo bước như những con búp bê thâm thấp, béo tròn, những ống tay áo có đệm lót dày bên trong khiến cánh tay của họ cứ thò ra. Trên tấm màn bình minh chậm rãi của mùa đông, tôi trông thấy một người đàn ông rất nhanh nhẹn đang trượt xuống dốc, lái đôi chân như thể trượt tuyết; anh ta mang một chiếc đòn gánh với hai cái xô. Sau bữa sáng, tôi còn nhìn thấy cảnh đó nhiều hơn, cảnh người ta đi gánh nước. Một người đàn ông đi xe trượt tuyết ngựa kéo, trông ông ta lạnh đến nỗi khó mà quất nổi roi ngựa, còn một người đàn ông khác thì đang kéo lũ con trên chiếc xe trượt tuyết. Nhưng chẳng mấy ai ra ngoài vào giờ đó cả, chẳng có mấy nhà cửa ở nơi đây và đường sá cũng không nốt. Chỉ thấp thoáng mấy túp lều đang tỏa khói được dựng lên chẳng theo một lề lối nào trên một bề mặt bằng phẳng.
Mặt trời đã xua tan lớp sương mù và chiếu sáng cả một bầu trời quang mây, sưởi ấm rèm cửa và những tấm thảm của toa ngủ. Thỉnh thoảng lại có những nhà ga với khung bằng gỗ và mái hình những chiếc bánh gừng. Nhưng chúng tôi chỉ dừng trong chốc lát, chỉ đủ để xem những tấm áp phích, ảnh chân dung của Lenin và các công nhân, cả những bức vẽ nhiều màu trên tường về những người dũng cảm đang khoác tay nhau. Tôi để ý xem những người Nhật trên tàu Vostok có phản ứng gì không, nhưng trông họ vẫn rất bình thản. Có lẽ những bức tranh trên tường mô tả người Trung Quốc và người Nga chăng? Chắc vậy. Đây là vùng tranh chấp. Suốt quãng đường tới Khabarovsk, chúng tôi đi dọc theo biên giới Trung Quốc, được đánh dấu bằng con sông Ussuri. Nhưng bản đồ đã chỉ nhầm: góc Trung Quốc này không khác gì với Liên Xô: một cánh rừng bạch dương ánh bạc uốn mình dưới một lớp băng tuyết dày và dưới ánh mặt trời chói sáng.
Thành phố Khabarovsk xuất hiện trên nền tuyết trắng giữa ban trưa và phải mất hơn một tuần tôi mới quen được với thứ ánh sáng chết người này của thành phố, nó nằm gần đường ray xuyên Siberia, bị chôn vùi dưới đáy bầu trời nặng trịch. Đầu tiên là hàng nghìn mét vuông nhà gỗ ở vùng ngoại ô, sau đó đến chỗ đường ray chia làm các ngã rẽ, ở đó những nữ công nhân đang cạo nước đá khỏi các công tắc, những đầu máy xe lửa hơi nước nhả khói và tuyết dần chuyển sang màu đen vì bồ hóng, các tòa nhà bắt đầu xuất hiện, cho đến khi toàn bộ thành phố hiện ra bao quanh con tàu với những dãy nhà ở, những túp lều gỗ và tòa nhà nhỏ. Tuy nhiên, trong lịch sử tuyến đường sắt xuyên Siberia thì Khabarovsk là một nơi quan trọng. Đây là một tuyến đường sắt lớn, được gia đình Perry McDonough Collin đề xuất từ năm 1857, bắt đầu được xây dựng vào năm 1891 dưới sự giám sát của Tsarevich Nicholas và hoàn thành vào năm 1916. Xây dựng gần đây nhất là cây cầu Khabarovsk bắc qua sông Amur và vì thế tuyến đường sắt được mở rộng từ Calais tới Vladivostok (giờ đây khách nước ngoài bị cấm vì lý do quân sự).
Mọi người xuống khỏi tàu Vostok. Hầu hết họ đều bắt chuyến máy bay đi Moscow khởi hành lúc chín giờ, một số người còn lại, trong đó có tôi, thì nghỉ lại một đêm ở Khabarovsk trước khi bắt chuyến tàu tốc hành Rossiya. Tôi chạy vội ra sân ga. Trời lạnh và khô khiến tôi phải chạy nhanh trở lại Vostok để mặc một chiếc áo len khác.
"Không!" cô nhân viên lữ hành nói, "Anh làm ơn ở yên trên sân ga này."
Tôi nói ngoài trời có vẻ hơi lạnh.
"Trời đang ba mươi lăm độ dưới không!" cô nói, "Ha ha, nhưng không phải là độ C!"
Trên xe buýt, cô ta có hỏi xem liệu có điều gì đặc biệt tôi muốn làm ở Khabarovsk không. Tôi thoáng bối rối, rồi nói: "Thế cô nghĩ sao về một buổi hòa nhạc hay opera?"
Cô ta mỉm cười, điệu cười giống như bao người Bangor, Maine khi được hỏi một câu hỏi như vậy. Cô nói: "Có một vở nhạc kịch hài. Anh có thích nhạc kịch hài không?"
Tôi đáp không.
"Tốt, tôi cũng không giới thiệu nữa."
Sau bữa trưa, tôi đi kiếm một tẩu thuốc lá. Tôi cạn dần thuốc lá và đang phải đối mặt với sáu ngày không thuốc hút ở Moscow nếu như không tìm được một điếu nào. Tôi băng qua quảng trường Lenin, nơi có tượng đài một người đàn ông vĩ đại (một người chưa bao giờ tới thăm thành phố này) đang đưa tay ra giống như đang vẫy taxi. Trên phố Karl Marx, những người bán báo ở các sạp nói rằng họ không có tabak (thuốc lá) nhưng họ mời tôi mua tờ Pravda (Sự thật), trên đó có hàng tít "Công nhân công nghiệp nặng Khabarovsk chúc mừng công nhân sản xuất củ cải đường Smolensk thu hoạch vụ mùa kỷ lục." Kính mắt của tôi bị mờ đi vì hơi nước. Tôi nhìn thấy lờ mờ hình ảnh nhiều người mặc áo khoác đang đứng dựa vào tường và ăn bánh bao. Không có tabak. Ở bên ngoài, hơi nước đã biến thành sương và làm mở hẳn mắt tôi. Lần này tôi vào được chính xác một cửa hàng rau quả có rất nhiều bơ, pho mát, hàng loạt kệ dưa chua và bánh mì. Tôi tình cờ rẽ vào một số nơi như: Ngân hàng Nhà nước Cộng hòa Liên bang Xô viết, nơi có bức chân dung to đùng của Marx đang nhìn chằm chằm vào những người gửi tiền; trụ sở của Đoàn Thanh niên; một cửa hàng trang sức đầy những đồng hồ đeo tay, đồng hồ treo tường xấu xí và những con người luôn giữ một khoảng cách xa như thể đang trong một bảo tàng. Ở cuối con phố, tôi tìm thấy một bao thuốc lá Bulgaria nhỏ. Bước ra khỏi cửa hàng, tôi bắt gặp một khuôn mặt quen thuộc.
Đó là Jeff. "Có nghe tin gì về Bruce không?" Mũi Jeff đã đỏ ửng lên, mũ bê rê của ông ta được kéo sụp xuống che tai như là mũ trùm đầu khi tắm, khăn quàng thì quấn quanh miệng và ông ta đang nhún nhảy giữa trời giá rét. Ông ta giật mạnh cái khăn quàng và nói: "Bruce butcher’s hook!"
"Nghĩa là sao?"
"Anh không biết biệt ngữ đó sao? Chúa ơi, trời lạnh quá! Đó chỉ là một kiểu nói lóng."
Theo lối nói lóng ở khu Đông London thì câu đó nghĩa là có vẻ. Anh ta có vẻ ư? Chả có nghĩa gì cả. Tôi hỏi: "Từ lóng đó nghĩa là gì?"
"Nghĩa là sắp chết rồi. Có phải người ta dùng từ ‘crook’ cho những ai bị ốm quá nặng đúng không?" Jeff đáp.
"Tôi không nghĩ vậy."
"Sáng nay, trông anh ta có vẻ mệt mỏi. Môi nứt nẻ, mắt đờ đẫn, thân nhiệt mỗi lúc một cao. Một hành khách đã đưa anh ta đi bệnh viện rồi. Tôi nghĩ anh ta bị viêm phổi từ khi ở trên con tàu kinh hoàng kia."
Chúng tôi rảo bước trở về khách sạn. Jeff nói: "Nơi đây cũng không đến nỗi tệ. Có vẻ như nó đang ngày càng khá hơn."
"Tôi thì chẳng thấy vậy chút nào."
Chúng tôi đi qua một cửa hàng, ở đó có khoảng một trăm rưỡi người đang đứng xếp hàng. Người đứng cuối hàng nhìn chúng tôi chằm chằm, nhưng ở phía đầu hàng, nơi cánh cửa chỉ được hé một nửa, họ đang cãi nhau và nếu đứng gần ở đó, bạn sẽ thấy họ đang tranh nhau lao qua một lối vào nhỏ hẹp, vừa lao vừa dùng khuỷu tay xô đẩy nhau. Tôi rất muốn biết họ đang xếp hàng để làm gì – rõ ràng họ đang được phát cho thứ gì đó – nhưng Jeff nói: "Nhìn sang bên phải kìa!" Tôi ngoảnh nhìn và thấy một viên cảnh sát cao to ra hiệu cho tôi đi ra phía sau.
Một vài người có vẻ là người phương Đông trong đám đông đó; Khabarovsk dường như chỉ toàn là người phương Đông sinh sống, những người Trung Quốc to béo với khuôn mặt chữ điền sẫm màu. Họ là dân bản xứ của vùng này, anh em họ xa của người Eskimo Mỹ và có tên gọi là dân da vàng. "Một bộ tộc có đồ may mặc đặc biệt dành cho nam giới," Harmon Tupper viết như vậy trong lịch sử của tàu xuyên Siberia và nhận thấy họ chuyển từ mặc đồ da cá vào mùa hè sang da chó vào mùa đông. Nhưng ở Khabarovsk vào tháng Mười hai, họ vẫn ăn mặc giống như mọi người bình thường: đi ủng da và đeo găng tay hở ngón, mặc áo khoác và đội mũ lông. Jeff phân vân không hiểu họ là ai. Và tôi đã kể cho ông ta nghe như vậy.
Ông ta nói: "Hay thật! Họ trông cũng có giống với thổ dân Úc đâu nhỉ?"
Trong nhà hàng của khách sạn, Jeff đi thẳng tới bàn có hai cô gái Nga đang ngồi ăn. Họ là chị em với nhau. Zhenyia đang học tiếng Anh, còn chuyên môn của Nastasya là văn học Nga ("tôi nói là văn học Nga chứ không phải văn học Xô viết – thứ mà tôi chả ưa thích gì"). Chúng tôi cùng nói chuyện với nhau về sách: tác giả yêu thích của Nastasya là Chekhov, của Zhenyia là J.D.Salinger – "Kholden Khaulfield là nhân vật tuyệt vời nhất trong mọi nền văn học." Tôi nói mình vô cùng ngưỡng mộ Zamyatin, nhưng họ chưa bao giờ nghe tới tên tác giả của cuốn Chúng ta (một tiểu thuyết đã gợi hứng cho Orwell viết tác phẩm tương tự là 1984). Tác giả này đã mất ở Paris vào những năm hai mươi khi đang cố viết tiểu sử Attila the Hun – vua của người Phổ. Tôi hỏi ở Khabarovsk có những tiểu thuyết gia nào thì Nastasya đáp:
"Chekhov đã ở đây."
Năm 1980, Anton Chekhov đã tới thăm Sakhalin, một hòn đảo dành cho các tù nhân, cách Khabarovsk hơn nghìn cây số. Nhưng ở Siberia, mọi khoảng cách đều giống nhau cả: Sakhalin ở sát cạnh.
"Cô còn thích ai nữa?" tôi hỏi.
Nastasya đáp: "Bây giờ anh lại muốn hỏi tôi về Solzhenitsyn ư?"
"Tôi cũng không định thế," tôi nói, "nhưng cô đã nhắc đến tên đó thì cô nghĩ gì về ông ta?"
"Tôi không thích ông ấy."
"Cô đã đọc tác phẩm nào của ông ta chưa?"
"Chưa!"
"Cô nghĩ trong tuyên bố rằng phong trào hiện thực xã hội chủ nghĩa là chống lại chủ nghĩa Marx có chút sự thật nào không?" tôi hỏi.
"Hỏi chị gái tôi ấy," Nastasya trả lời.
Nhưng Jeff lại đang nói chuyện với Zhenyia và khiến cô lườm lại. Sau đó Jeff nói chuyện với cả hai cô gái. "Nghe này, giả dụ các cô được đi tới bất cứ đâu trên thế giới, các cô muốn tới đâu?"
Zhenyia nghĩ trong giây lát. Cuối cùng, cô gái trả lời: "Tây Ban Nha."
"Đúng thế, tôi cũng nghĩ vậy," Nastasya nói. "Tôi cũng thích Tây Ban Nha."
"Tây Ban Nha!" Jeff hét lên.
"Bởi vì ở đó luôn ấm áp, tôi nghĩ vậy," Zhenyia nói. Hai chị em đứng dậy thanh toán hóa đơn. Họ mặc áo khoác vào, choàng khăn, đi găng và kéo mũ len xuống mắt, họ bắt đầu bước đi trong gió mạnh và tuyết.
Sau đó cô nhân viên lữ hành đưa tôi đi một vòng quanh thành phố. Tôi nói tôi muốn tới ngắm con sông. Cô nói, "Đâu tiên, nhà máy!" Có năm nhà máy ở đây. Cô nói những nhà máy này sản xuất ra "kebles, weenches, poolies, bults." Đằng trước mỗi nhà máy là bức chân dung dài hai mét hình một người đàn ông có khuôn mặt khắc khổ, "Công nhân của tháng," nhưng có thể đó cũng là ảnh của một đội chơi bowling ở Chicago. Tôi nói họ có vẻ cằn cỗi. Nữ hướng dẫn viên nói, "Họ có một đội hát opera." Câu này có nghĩa khiển trách khách tới thăm: những con khỉ này có một đội hát opera! Nhưng opera trung lập về mặt chính trị và nhà hát opera Khabarovsk hầu như thường xuyên vắng vẻ. Nếu có một lựa chọn khác, họ sẽ lập một đội chơi bowling. Cũng chẳng có nhiều việc để làm ở Khabarovsk – thậm chí là nữ hướng dẫn viên cũng xác nhận điều đó. Sau khi đi thăm nhiều đài kỷ niệm, tượng đài và một vòng quanh bảo tàng, nơi có đầy những con hổ, hải cẩu phủ bụi, tất cả chúng đều có thể sắp tuyệt chủng, chúng tôi đi đến bờ Đông của sông Amur. Nữ hướng dẫn viên nói cô sẽ đợi trong xe. Cô không thích cái lạnh (cô muốn đến Ý và làm việc cho hãng Aeroflot).
Khúc sông chỗ này rộng chừng bảy tám trăm mét. Từ đây tôi có thể thấy hàng chục đàn ông đứng trên băng, mỗi người lại đứng bên mấy cái hố. Họ là những người câu cá trên băng, hầu hết đều có tuổi, họ trải qua mùa đông theo cách này, chờ đợi để giật mạnh sợi dây câu. Tôi đi xuống bờ sông trong luồng gió thổi mạnh, qua mặt băng đến chỗ một ông già đang đứng nhìn tôi lại gần. Tôi nói xin chào và đếm sản phẩm của ông; ông đã đục mười bốn lỗ trên băng dày hai bộ với một chiếc rìu cùn. Ông đã bắt được sáu con cá, con lớn nhất dài khoảng hai mươi xăng ti mét, con nhỏ nhất khoảng mười xăng ti mét và tất cả đều đã bị đông cứng lại. Ông làm tôi hiểu rằng ông đã đứng câu cá ở đây từ lúc tám giờ sáng; bây giờ đang là bốn giờ rưỡi chiều. Tôi hỏi ông liệu tôi có thể chụp ảnh ông không. "Nyet!" 1 Ông nói và cho tôi xem cái áo khoác tả tơi, cái mũ thủng, cái ủng rách. Ông thuyết phục tôi chụp ảnh một trong những con cá của ông, nhưng khi sắp chụp, có cái gì đó đã bắt mắt tôi. Một con cá chỉ còn trơ xương sống, lốm đốm máu, đầu và đuôi vẫn gắn vào đó.
"Con này bị làm sao đây?" Tôi nhặt cái xương cá lên.
Người đàn ông già cười và làm động tác ăn bằng găng tay và nhai bằng hàm răng sâu của mình. Thì ra ông bắt được bảy con cá: con thứ bảy là bữa trưa của ông.
Sau mười phút ở đây, tôi ngấm lạnh và muốn đi. Tôi đút tay vào túi lấy ra một hộp diêm Nhật. Ông có cần hộp diêm không? Có, rất muốn! Ông cầm lấy, cảm ơn tôi và khi tôi quay đi, ông chạy vội ra chỗ một người đàn ông khác đang câu cá ở cách đó năm mươi mét để khoe.
Người đàn ông câu cá trên băng, những bà già quét máng nước bằng chổi, hàng người xô đẩy trước cửa hàng trên đường Karl Marx, nhưng còn có mặt khác của Khabarovsk. Tối hôm đó, nhà hàng của khách sạn có nhiều sĩ quan quân đội và những phụ nữ trông mặt có vẻ hung tợn. Các bàn có đầy những chai vodka rỗng và nhiều người ăn bánh bao hấp Siberia (pelmenye) với champagne. Tôi nán lại một chút, nói chuyện với một đại úy dữ tợn về tình trạng suy giảm tỉ lệ sinh của Liên Xô.
"Thế còn kế hoạch hóa gia đình thì sao?" tôi hỏi.
"Chúng tôi đang cố ngăn chặn nó!"
"Các anh đã thành công chưa?"
"Chưa. Nhưng tôi nghĩ chúng tôi có thể tăng gia sản xuất."
Ban nhạc bắt đầu chơi, một cây saxophone, một đàn piano, một trống dây: bản Blue Moon (Trăng xanh). Và các sĩ quan quân đội bắt đầu nhảy. Những phụ nữ mặc áo nịt bên trong bộ váy cắt ngắn, kéo váy lên và nhảy cùng bạn nhảy. Một vài người đàn ông đang hát. Có những tiếng hò hét. Một đôi nhảy valse húc vào tay người đàn ông đang nhét bánh bao vào mồm. Một chai rượu rơi vỡ trên sàn; ẩu đả xảy ra. Anh đại úy nói với tôi, "Giờ thì anh phải đi rồi."
3. Chuyến tàu Rossiya
Sau này, bất kỳ khi nào nghĩ về chuyến tàu tốc hành xuyên Siberia, tôi lại thấy những cái bát bằng thép không gỉ đầy củ cải bị đổ ở trong toa ăn của tàu Rossiya khi nó đi vào một khúc cua trên đường tới Moscow, và tại khúc cua đó, một quang cảnh rõ nét hiện ra trên cửa sổ của đoàn tàu hơi nước màu đen và xanh của chúng tôi – từ Skovorodino thẳng tiến, luồng khói đầy hơi nước của con tàu khuếch tán ánh nắng và dạt vào cánh rừng khiến những cây bạch dương trông như đang âm ỉ cháy và làm những con chim ác là lao lên bầu trời. Tôi thấy những cây thông chóp nhuộm vàng trong hoàng hôn và tuyết nằm nhẹ nhàng xung quanh những bụi cỏ nâu giống như kem được trút trên mặt đất; những luống tuyết trông giống những du thuyền ở Zima; ánh lửa như son từ ống khói của những nhà máy sáng choang tại Irkusk; quang cảnh của Marinsk trong buổi sáng sớm, những con sếu đen, những tòa nhà màu đen cùng cảnh vật trôi qua trên cái bóng dài của các toa tàu khi chúng chạy tới nhà ga sáng ngời – có cái gì đó khủng khiếp trong việc kết hợp giữa cái lạnh, bóng tối và những con người bé nhỏ đang đi trên những chuyến tàu Siberia; chiếc hòm băng lạnh buốt giữa các toa xe; cái trán trắng của Lenin hiện ra ở mọi điểm dừng; và các hành khách bị cầm tù ở toa hạng thường: mũ lông, quần lông, quần áo thể thao màu xanh, trẻ con khóc, mùi cá mòi nồng nặc, mùi cơ thể, mùi cải bắp và mùi thuốc lá để lâu, khiến lúc tàu dừng thậm chí có năm phút ở các ga, người Nga bất chấp nguy cơ viêm phổi nhảy xuống sân ga đầy tuyết vì muốn hít thở khí trời; thức ăn chán ngắt; nền kinh tế ngu ngốc; đàn ông và đàn bà ("không có sự phân biệt giới tính trong việc phân toa – sách hướng dẫn du lịch cho biết), họ đều là những người lạ lẫm với nhau trong cùng một toa tàu, ngồi trên các giường đối diện, những người đàn ông râu ria chiếu tướng những người đàn bà cũng có râu, từ những cái mũ mềm đội đầu bẩn thỉu, đến cái chăn họ choàng lên người như khăn, xuống đến những cái mắt cá chân to khỏe gắn chặt vào đôi dép lê sứt sẹo. Hầu hết những chuyện này, tôi nghĩ đến chúng như một trải nghiệm mà thời gian đã chơi trò bóp méo một giấc mơ: con tàu Rossiya chạy vào múi giờ Moscow, sau bữa trưa với khoai tây vàng lạnh ngắt, một bát xúp như cục mỡ có tên solyanka, một bình rượu poóc tô có vị giống như xi rô ho, tôi hỏi giờ và được trả lời là bốn giờ sáng.
Tàu Rossiya không giống tàu Vostok; nó vẫn còn mới. Các toa giường nằm của Đông Đức là những xi lanh bằng thép, được bọc nhựa xám, sưởi bằng lò than đun những nồi nước nóng và ấm samovar, khiến phần cuối mỗi toa trông giống như một cái máy bắn phá nguyên tử trong phim hoạt hình. Provodnik (người phụ trách toa) thường quên cho thêm than vào lò sưởi, và sau đó toa tàu trở nên lạnh lẽo đến độ mang lại cho tôi những cơn ác mộng, đồng thời khiến tôi không ngủ được. Những hành khách khác trong toa hạng sang thì hoặc nghi ngờ, say khướt hoặc không biết gì: một người phương Đông cùng cô vợ Nga trắng trẻo và đứa con nằm trên một đống ủng và chăn, hai người Canada buồn rầu đang ba hoa với hai thủ thư người Úc về sự xấc láo của provodnik, một phụ nữ Nga luống tuổi mặc chiếc áo ngủ có diềm trên suốt chuyến đi, một người Grudia trông như thể đang có rắc rối trong một góc khác của toa và một vài gã say mặc đồ ngủ đang chơi bài domino ầm ĩ. Đối thoại thì vô vọng, ngủ thì sợ và những cái đồng hồ mất nết làm tiêu tan hứng thú ăn uống của tôi. Đó là ngày đầu tiên tôi viết trong nhật ký của mình, Sự thất vọng khiến tôi đói.
Toa ăn chật cứng. Mọi người được ăn xúp rau, sau đó là một quả trứng ốp lết, cốt lết kiểu Wiener – sườn bê rán bơ phủ bánh mì vụn. Có hai người phục vụ, một bà béo ú luôn mồm chỉ huy những người đang ăn, và một cô gái tóc đen xinh xắn kiêm luôn vai trò phụ bếp, trông như thể cô sẽ nhảy ra khỏi đoàn tàu ngay khi có cơ hội rõ ràng tiếp theo. Tôi ăn bữa trưa và ba người Nga ngồi cùng bàn cố xin thuốc lá của tôi. Vì tôi không có, chúng tôi cố gắng bắt chuyện: họ đi đến Omsk; tôi là người Mỹ. Sau đó họ bỏ đi. Tôi tự nguyền rủa mình vì không mua một quyển sách dạy tiếng Nga ở Tokyo.
Một người đàn ông ngồi xuống với tôi. Tay anh ta đang run. Anh ta gọi món. Hai mươi phút sau bà béo đưa cho anh ta một bình rượu vang. Anh ta dốc vào cốc và uống làm hai ngụm. Anh ta bị thương ở ngón cái, anh ta gặm vết thương trong lúc nhìn quanh toa tàu một cách lo lắng. Bà béo vỗ vai anh ta và anh ta đi, chếnh choáng về phía toa thường. Nhưng bà béo để cho tôi yên. Tôi vẫn ngồi trong toa ăn, nhấm nháp rượu nếp, ngắm nhìn cảnh vật thay đổi từ cánh đồng tuyết phẳng sang các ngọn đồi – quang cảnh đầu tiên của Nakhodka. Mặt trời đang lặn nhuộm vàng chúng một cách đẹp đẽ và tôi hy vọng sẽ nhìn thấy người trong khu rừng thưa. Tôi căng mắt suốt một tiếng đồng hồ, nhưng không thấy ai cả.
Không những tôi không thể xác định chúng tôi đang ở đâu mà cái bản đồ của Nhật về Liên Xô cũng chả có giá trị gì, chỉ đến buổi tối tôi mới biết tàu đã đi qua Poshkovo, trên biên giới Trung Quốc. Điều này lại làm tăng thêm sự mất phương hướng của tôi: tôi ít khi biết mình đang ở đâu, tôi không bao giờ biết được thời gian chính xác và tôi bắt đầu ghét ba cái máy làm lạnh mà tôi phải đi qua để tới toa ăn.
Tên của bà béo là Anna Fiodorovna và, mặc dù bà hét vào mặt những người đồng hương của mình, bà vẫn vui vẻ với tôi, thuyết phục tôi gọi bà là Annushka. Tôi đã làm thế và bà thưởng cho tôi một đĩa đặc biệt, khoai tây lạnh với gà – thứ thịt đen dai nhách như vải dệt dày. Annushka ngắm nghía khi tôi ăn. Bà chớp lấy cái cốc trà (nhúng bánh mì vào trà và mút) và sau đó nguyền rủa ông què ngồi vào bàn tôi. Thậm chí bà còn lẳng cái đĩa sắt đầy khoai tây và thịt béo lên trước mặt ông ta.
Người đàn ông què ăn rất chậm rãi, kéo dài bữa ăn kinh khủng bằng cách cắt cẩn thận món thịt của mình. Một người phục vụ đi ngang qua và va phải. Người phục vụ làm rớt cái bình đựng nước trống rỗng lên bàn tôi, làm vỡ cái cốc của người què. Người đàn ông què tiếp tục ăn với sự bình tĩnh tột đỉnh, không đáp lời người phục vụ lí nhí nói câu xin lỗi khi nhặt các mảnh cốc vỡ trên bàn. Sau đó người phục vụ nhặt một miếng thủy tinh vỡ lớn màu bạc trong đám khoai tây nghiền của người đàn ông què. Ông ta ngừng ăn và đẩy cái đĩa đi. Người phục vụ mang ra cho ông ta một suất ăn mới.
"Sprenchen Sie Deutsh?" 2 Người đàn ông què hỏi.
"Vâng, nhưng kém lắm."
"Tôi biết nói tí chút," ông ta nói bằng tiếng Đức. "Tôi học ở Berlin. Anh người nước nào vậy?"
Tôi cho ông ta biết. Ông ta hỏi, "Anh nghĩ sao về thức ăn ở đây?"
"Không tồi, nhưng không quá ngon."
"Tôi nghĩ nó quá chán," ông ta nói. "Thức ăn ở Mỹ ra sao?"
"Tuyệt," tôi đáp.
Ông ta nói, "Bọn tư bản! Anh là một kẻ tư bản!"
"Có thể."
"Chủ nghĩa tư bản xấu xa, chủ nghĩa xã hội tốt."
"Vớ vẩn," tôi nói bằng tiếng Anh, sau đó bằng tiếng Đức, "Ông nghĩ vậy sao?"
"Ở Mỹ người ta thích giết người bằng súng ngắn. Pằng! Pằng! Pằng! Đại loại thế."
"Tôi không có súng."
"Thế những người Negro thì sao? Những người da đen ấy?"
"Họ thì sao?"
"Các anh giết họ."
"Ai nói cho ông những chuyện này?"
"Báo chí. Chính tôi đã đọc. Và lúc nào cũng có trên đài phát thanh nữa."
"Đài phát thanh Liên Xô," tôi nói.
"Đài phát thanh Liên Xô là đài phát thanh tốt," ông ta khẳng định.
Cái đài trên toa ăn đang phát một bản nhạc vui nhộn. Nó mở suốt cả ngày và thậm chí cả trong các toa giường ngủ – mỗi toa có một loa – nó tiếp tục thì thào bởi không ai có thể tắt hẳn đi được. Tôi chỉ ngón tay về phía cái loa và nói, "Đài Liên Xô tiếng quá to."
Ông ta cười hô hố. Sau đó nói, "Tôi là người tàn tật. Nhìn đây, không có bàn chân, chỉ có cẳng chân thôi. Không có bàn chân, không có bàn chân!"
Ông ta cởi ủng nỉ ra và nện cái gậy bịt sắt vào ngón chân. Ông ta nói, "Tôi ở Kiev trong thời gian chiến tranh, đánh nhau với bọn Đức. Chúng bắn tôi – Pằng! Pằng! – vậy đó. Tôi nhảy xuống nước và bơi. Lúc đó là mùa đông – nước lạnh – rất lạnh. Chúng bắn nát chân tôi, nhưng tôi vẫn không ngừng bơi. Sau đó đại úy của tôi nói với tôi, ‘Nhìn kìa, lại thêm bọn Đức kìa…’ và trong tuyết, tuyết rất dày…"
Đêm đó, tôi ngủ trong cái giường kích cỡ chỉ bằng cái ghế băng, mơ về những người Đức bước đi như những con ngỗng với cái chĩa, đội mũ bảo hiểm giống như cái bát trên tàu Rossiya; họ bắt tôi nhảy xuống con sông đầy băng. Tôi tỉnh giấc. Chân tôi trần trụi trong cái giá lạnh từ cửa sổ ùa vào; chăn bị tuột ra và ánh sáng xanh của màn đêm trong toa khiến tôi nghĩ tới phòng mổ. Tôi lấy thuốc aspirin ra uống và ngủ cho tới khi hành lang sáng mờ đủ để tìm thấy nhà vệ sinh. Ngày hôm đó, khoảng buổi trưa, chúng tôi đến Skovorodino. Provodnik, tên cai ngục của tôi, đưa một gã râu xồm xoàm vào khoang giường nằm của tôi. Đó là Vladimir. Anh ta đến Irkusk, mà hai ngày nữa mới tới. Anh ta đọc sách bìa mềm của Nga có những bức tranh ái quốc ở ngoài bìa, còn tôi nhìn ra cửa sổ. Tôi từng nghĩ về một cửa sổ toa tàu khi cho phép mình tự do khám phá thế giới; bây giờ nó giống như thứ đang cầm tù tôi và nhiều lúc là bức tường nhà đá tăm tối.
Tại chỗ rẽ ngoài Skovorodino, tôi đã nhìn thấy tàu được đẩy đi bởi một động cơ hơi nước khổng lồ. Tôi tiêu khiển bằng cách chụp ảnh khi đoàn tàu uốn mình, nhả ra những cuộn khói bay (mặc cho Vladimir mím môi không đồng tình). Những làn khói chạy dọc thân tàu và tan vào những khu rừng bạch dương và cây tuyết tùng xứ Siberia, nơi có vết chân người và dấu hiệu của những đống lửa đã tắt, nhưng không mảy may xuất hiện bóng dáng con người. Cảnh vật thay đổi quá nhanh khiến tôi không thể chụp ảnh qua cửa sổ tàu và tôi chìm vào giấc ngủ. Tôi đã mơ về một hầm rượu đặc biệt ở trường Trung học Medford, sau đó tỉnh dậy, và khi thấy Siberia tôi gần như đã hét lên. Vladimir đã dừng đọc sách. Anh ta ngồi dựa lưng vào tường, vẽ trên một tập giấy với những chiếc bút chì màu, bức họa về một bốt điện thoại. Tôi đi rón rén ra hành lang. Một trong những người Canada đang nhìn tuyết. Anh ta nói: "Ơn Chúa, chúng tôi sẽ xuống ga trưa nay. Anh định đi đâu?"
"Moscow, sau đó đi tàu đến London."
"Thời tiết xấu quá."
"Người ta bảo thế."
Anh ta nói: "Tôi thậm chí không biết hôm nay là ngày nào. Chuẩn bị đến Giáng sinh rồi. Này, lúc nãy anh có nhìn thấy căn nhà cháy ở đằng kia không?"
"Không."
Ngày hôm trước, anh ta đã nói: "Anh có nhìn thấy chiếc xe tuần lộc băng qua dòng sông và đâm vào băng không? Ôi, những chiếc bánh sau của nó bắn ra." Tôi tự hỏi liệu có phải anh ta tưởng tượng ra không nhỉ. Anh ta thường nhìn thấy những thảm họa. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy khuôn mặt của mình đang lo lắng.
Tôi quay trở lại khoang và tiếp tục đọc cuốn New Grub Street nhưng hỗn hợp giữa thứ ánh sáng mù mịt, cái lạnh lẽo, tuyết đổ và cả sự sa sút của Ediwn Reardon đáng thương khiến tôi cảm thấy mệt mỏi và lại thiếp đi. Trong lúc ngủ, tôi mơ thấy mình ở một túp lều trên núi với vợ và các con. Trên ô cửa sổ có tuyết và một tấm gương đen. Tôi thấy u sầu: vài người tôi quen đang ở rất xa và tôi sẽ phải thông báo với họ một tin bi thảm. Bàn chân tôi đóng băng nhưng tôi quyết chí đi để nói với họ tin này. Tôi xỏ chân vào đôi ủng và nói: "Anne, em thế nào? Em không đi à?"
Anne đáp: "Ngoài trời lạnh quá, hơn nữa em đang đọc sách, em nghĩ mình sẽ ở lại đây."
Tôi đành nói chuyện với Annuska, con quỷ của toa ăn trên xe lửa Rossiya: "Bà thấy chưa? Thấy chưa? Cô ấy luôn nói rằng muốn đi với tôi nhưng khi cần phải đi thì cô ấy luôn từ chối."
Anne, vợ tôi, nói: "Anh đang làm mất thời giờ đấy, nếu anh đi thì nhớ đóng cửa và đừng có nói về chuyện đó nữa."
Tôi mở cửa lều. Ở ngoài là khoảng không mênh mang. Gió lạnh ùa vào trong phòng thổi bay vạt khăn trải bàn và khua lanh canh vào cái chụp đèn. Tuyết bay vào đầy sàn nhà.
Tôi nói: "Anh sẽ đi vậy, nếu không ai đi."
"Bố ơi, con đi cùng được không?" Tôi nhìn vào khuôn mặt trắng trẻo của cậu con trai. Nó như đang van vỉ, vai nó run lên.
"Không, bố sẽ đi một mình." tôi nói với nó.
"Đóng cửa vào đi!"
Tôi tỉnh dậy, bàn chân lạnh ngắt. Cửa sổ tối om và toa tàu rung lên (chỉ có tàu xuyên Siberia là nẩy lên, bởi đường ray chắc chắn hơn những mối nối dao động). Giấc mơ vừa rồi khiến tôi cảm thấy lo sợ, một chuyến đi sai lầm và nỗi cô đơn càng khiến tôi cảm thấy đơn độc khi viết ra và chiêm nghiệm nó.
Vladimir dừng vẽ. Anh ta nhìn lên và nói: "Chai."
Tôi hiểu anh ta nói gì. Trong tiếng Swahili, thì chai chính là trà. Anh ta gọi provodnik. Ngoài bánh và trà, tôi đã học được bài học tiếng Nga đầu tiên, tôi ghi chép lại các từ phát âm đúng vào sổ: một công việc chán ngắt nhưng nó giúp tôi giết thời gian hơn là lơ mơ ngủ và gặp ác mộng.
Toa ăn tối hôm đó trống trơn và lạnh lẽo. Băng đóng trên cửa sổ và có thể nhìn hơi thở của những nhân viên phục vụ trên đó như những đám mây khói, Vassily Prokofyevich, người quản lý, đang tính toán và gõ máy tính. Tôi đã ở trong khoang ăn này đủ lâu để biết rằng chiều nay, Vassily, người đàn ông mà khuôn mặt có vết sẹo ngắn – đã uống rượu. Ông ta nhảy lên và phả vào tôi hơi thở toàn mùi rượu vodka, sau đó lôi ra một chai bia và chỉ cho tôi xem làm thế nào mà bia đóng băng trong chai. Ông ta cọ xát một chai vào tay mình, làm tan băng cho tôi rồi quát Nina, cô gái tóc đen. Nina mang cho tôi một đĩa cá hồi hun khói cùng vài lát bánh mì. Vassily chỉ vào cá hồi và nói: "Kita." 3
Tôi nói: "Eto karasho kita." 4
Vassily tỏ ra hài lòng và ông ta bảo Nina mang thêm cho tôi.
Tôi vỗ tay vào cửa kính đóng băng và nói: "Eto oknor." 5
"Da, da." 6 Vassily rót cho mình thêm vodka. Gã uống ừng ực và rót cho tôi một chút vào cốc vại. Tôi uống và thấy Annuska vẫn ở chỗ bà ta thường ngồi, nhúng bánh mì vào trà đen và mút miếng bánh.
Tôi chỉ vào cốc trà của bà ta và nói; "Eto zhudki chai." 7
"Da, da." Vassily cười và rót thêm rượu vào cốc của tôi.
Tôi chỉ cho ông ta cuốn sách của Gissing và nói: "Eto ganyiga." 8
"Da, da?" Vassily nói. Nina tiến lại gần với đĩa cá hồi.
"Eto Nina." 9 Vassily nói, chộp lấy cô gái xinh đẹp, "và đây," tôi dịch hành động của ông ta, ‘đây là ngực của Nina."
Buổi sáng bây giờ trời xầm xì hơn, một mánh lới khác của thời gian khi đi tàu có vẻ khiến tôi mau chóng sa vào hoang tưởng. Sau tám tiếng ngủ, tôi tỉnh dậy trong bóng tối. Dưới ánh sáng yếu ớt của trăng tháng Mười hai, như một chiếc liềm bạc, khung cảnh trở nên trống vắng, không cây cối, không tuyết. Và không có cả gió nữa. Thật là kỳ lạ, khi bình minh sắp lên (theo đồng hồ của tôi lúc đó là chín rưỡi), được thấy những ngôi làng nằm hai bên bờ các con sông Shilka và Ingoda, tập hợp nhỏ nhoi những chiếc lều gỗ cùng những làn khói màu nâu sẫm vươn thẳng qua ống khói khiến tôi nghĩ đến một chiếc xe gỗ đang cháy và bị mắc kẹt trên thảo nguyên hoang sơ. Sau vài giờ trôi qua khung cảnh hiu quạnh này, chúng tôi đến Chita, một thành phố xấu như ma với những ống khói phun cuồn cuộn cùng vô vàn đụn khói cạnh đường ray. Bên ngoài Chita có một hồ nước đóng băng, trên đó những người câu cá thu lu nhìn như những con quạ đen béo xù lông đậu trên cây thông rụng lá bên ven hồ.
Tôi nói: "Vorona." 10
"Nyet." 11 Vladimir trả lời và giải thích đó là người câu cá.
"Vorona," tôi vẫn khăng khăng hình ảnh con quạ cho đến khi anh ta thấy cái mà tôi đang nói đến. Nhưng điều đó cũng chả mất công gì nhiều, bởi vì tôi phát hiện ra sự cuồng tín đầy cảm tính ở những người Nga mình đã gặp, đấy là một cuộc phiêu diêu từ tâm hồn lãng mạn của họ. Vladimir có thói quen trích lại – trích dẫn chứ không phải là nói – những câu dài và thầm thì, Puskin hoặc Mayakovsky. Chính lối hành xử bốc đồng này đã duy trì Liên Xô, nhưng tôi nghĩ nếu mình đang ở Boston cổ kính và Maine thì khi một người đàn ông bắt đầu trích dẫn: "Đây là khu rừng nguyên sinh", tôi hẳn sẽ đổi chỗ ngồi.
Vladimir mua một chai rượu Hungary rồi chúng tôi đánh cờ. Anh ta chơi rất hăng, tay lơ quơ trên bàn cờ và đi cờ nhanh như người thu tiền. Giữa lúc chơi, anh ta thường bẻ các đốt ngón tay. Tôi đi cờ không phải để thắng – tôi biết điều đó nằm ngoài khả năng của mình – mà tôi chơi để hạ nhịp anh ta lại. Anh ta lao vào quân cờ và con tàu lao vào trong gió. Ngoài trời tuyết lại rơi và chúng tôi có thể nhìn thấy hai khung cảnh khác nhau trong cùng một ngày. Những ngọn đồi Mông Cổ thấp lè tè bên rìa sa mạc Gobi được bao phủ bởi những cây tuyết tùng, loại cây có hình dáng giống dương xỉ nhiệt đới. Khi chúng tôi tiến đến cao nguyên trung tâm Siberia là bốn giờ, tuyết bắt đầu thổi qua cửa sổ, những bông tuyết bé xíu đậu trên những vệt khói dài. Ở xa, một cơn bão tuyết đang hình thành một làn sương mù mịt, sắc trắng bao trùm Gobi quyện vào những thân cây bạch dương và làm những cây tuyết tùng càng trở nên mỏng manh. Siberia là rừng và tuyết – ngay những công trình đường sắt cũng được xây dựng phù hợp với rừng: khắp Chitinskaya, các nhà ga là những cấu trúc bằng gỗ làm từ những tấm gỗ trần trụi đặt nghiêng phủ đầy tuyết trắng.
Đánh cờ ngày càng chán nhưng một khi rượu còn rót thì chúng tôi còn tiếp tục. Hai ván nữa qua đi rồi thì rượu vodka cũng hết, không có cồn xem ra chả còn gì thú vị. Nhưng chúng tôi còn có cả một buổi chiều trước mặt. Giấc ngủ ngắn đã chia ngày thành nhiều phần, mỗi phần như cả một ngày trong trạng thái lê thê của người bị sốt cao nằm trong phòng bệnh ít người đến thăm. Vào thời điểm đó, cảm giác nằm trên tàu xuyên Siberia khiến tôi buồn chán và nhớ lại cơn ác mộng như thể mình bị phủ đầy tuyết ở túp lều trên núi. Trời thì lạnh, ánh sáng yếu ớt và di chuyển thật khó khăn khi mà mọi người đã chán chen chúc trên các toa tàu chật kín và thích ra ngoài hành lang đứng hơn. Thực ra là chả còn chỗ nào để đi cả.
Tôi rút ra một tờ giấy và dạy Vladimir chơi cờ ca rô. Anh ta phát hiện ra là trò này rất thú vị – từ tiếng Nga có nghĩa tương tự – và sớm tìm ra mánh để đánh bại tôi. Anh ta giới thiệu cho tôi một trò chơi vô cùng phức tạp của người Nga để giết thời gian. Trò này là phải vẽ trên một tờ giấy mười hình biến thiên kích thước khác nhau để tạo thành những hình vuông. Hình càng không theo quy luật điểm càng cao – hoặc có thể nào ai đó thích điểm thấp chăng? Tôi chưa bao giờ hiểu rõ trò chơi này. Vladimir sau rốt cũng thôi dạy tôi chơi và trở lại với việc vẽ vời của mình. Tôi nài anh ta cho xem các bản phác thảo, và thật kỳ lạ, trang này qua trang khác đầy những cột điện thoại, cột điện cao thế, dãy cao áp, tranh vẽ các thanh rầm được mắc dây và các khí cụ trông như bộ xương. Đó là sở thích của anh ấy, vẽ phác thảo các vật kỳ quái dựng đứng. Anh ta chỉ cho tôi làm thế nào để vẽ một cái cột điện thoại. Tôi giả đò tỏ ra thích thú với thứ vô vị ấy và anh ta gọi provodnik mang rượu tới. Hai chai rượu Hungary được mang tới – pronodnik chỉ đi khi được mời một cốc đầy – và Vladimir vẽ một cái cabin màu đen trên nền cảnh vật nâu đen dưới ánh mặt trời vàng đỏ và bầu trời u ám. Anh ta gọi đó là Siberia. Rồi, anh ấy vẽ một bức tranh có vài ngọn tháp, vài tòa nhà, bầu trời xanh, một ngày đầy nắng.
Tôi hỏi: "Leningrad à?"
Không, anh nói, London. Anh ta viết chữ "London" trên bức tranh. Anh ta còn vẽ bức nữa về London – khung cảnh một bến cảng, một con thuyền buồm, vài con thuyền neo đậu, một ngày nắng. Anh vẽ một bức về New York – có các tòa nhà cao tầng trong một ngày nắng. Nhưng đó chỉ là những bức vẽ tưởng tượng: Vladimir chưa bao giờ rời khỏi Liên Xô.
Vì Vladimir cứ nhất quyết trả tiền rượu nên tôi rút hộp xì gà ra. Vladimir hút năm điếu, rít từng hơi ngắn như hút thuốc lá. Rượu rồi xì gà cho đến khi chúng tôi biết mình đang đi dọc hồ Baikal, Vladimir lại dùng tiếng mẹ đẻ. Vladimir đi đi lại lại trong khoang, xua khói thuốc và nói với tôi hồ Baikal sâu thế nào. Cuối cùng, anh thọc tay vào túi, nhả một hơi đầy khói thuốc, Vladimir nói bằng chất giọng Nga đặc sệt, hay ngừng mỗi khi trích dẫn, cả tiếng ho sặc sụa nữa. Anh nhướn mắt:
"I dym otechestva nam sladok I pryaten."
Tôi hỏi: "Hả?"
"Puskin," Vladimir đáp lại: "Eugen Onegin."
(Nhiều tháng sau đó, tại London, tôi đọc lại phiên âm câu thơ đó cho một diễn giả người Nga, ông này khẳng định đó đúng là Puskin, và câu thơ này có thể được hiểu như sau: Ngay cả khói trên đất mẹ cũng thật ngọt ngào và tuyệt vời với chúng ta).
Ngoài hành lang tối tăm vào sáng sớm ngày hôm sau, những người thủ thư Úc và cặp đôi người Canada đã ngồi trên những chiếc va li của họ. Chỉ hai tiếng nữa là đến Irkusk nhưng họ bảo sợ ngủ quên và đi qua mất. Lúc đó và bây giờ tôi vẫn nghĩ rằng bỏ lỡ Irkusk không thể là một bi kịch trong suy nghĩ của mọi người. Ngoài trời vẫn tối trong khi các ống khói lấp lánh sáng của Irkusk xuất hiện phía mặt đất phẳng, nơi những ngôi nhà gỗ một tầng đóng kín cửa, mái lớp giấy tẩm nhựa đường mọc lên. Không phải là những hàng rào thép hay những ngôi nhà cao tầng mà những người công nhân sống khiến những thành phố này của nước Nga giống các trại tập trung; mà là ánh sáng chói mắt – những chiếc đèn pha, đèn bảo vệ gắn trên cột – làm giảm đi kích thước và khiến họ giống như những tù nhân trên sân tập thể dục. Vladimir bắt tay tôi và nói một câu tạm biệt đầy cảm xúc. Tôi xúc động và thương cảm nghĩ về anh chàng khốn khổ đó, bị kẹt ở Irkusk cả đời, cho tới khi tôi trở lại phòng mình và phát hiện ra anh ta đã ăn trộm hộp xì gà của tôi.
Provodnik đi vào khoang của tôi, thu chăn của Vladimir và ném cái chăn mới lên giường. Đi theo anh ta là một gã cao xanh xao, mặc dù đã giữa buổi sáng, vẫn mặc bộ đồ ngủ, khoác áo choàng tắm và ngồi xuống làm các phép tính phức tạp trên bảng tính kẹp. Hắn không nói cho đến khi chúng tôi tới một ga tàu nhỏ, hắn nói, "Ở đây – muối!"
Mức độ đối thoại của hắn chỉ có thế, thông tin về một mỏ muối. Nhưng hắn đã nói ra điều hắn muốn: chúng tôi thực sự đang ở Siberia. Trước đó, chúng tôi đã đi trên vùng Viễn Đông của Liên Xô, ba nghìn hai trăm mét cả thảy nhưng không có tên trên biên giới với Mông Cổ và Trung Quốc. Từ đây trở đi, rừng Siberia, rừng taiga, rậm rạp, làm nhòa các ngọn đồi xa xa với những vệt mờ cây cối, che đi những khu nhà ở đang nhốt những người Nga bị đày ải. Ở nhiều chỗ, rừng rậm kiểu này biến mất trong khoảng ba mươi cây số; sau đó là lãnh nguyên, một vùng tuyết bằng không dấu chân người, trên đó các cột điện chạy dài ra xa, ngày càng nhỏ hơn giống như các biểu đồ, cột điện cuối cùng trông như một chấm nhỏ. Sự hùng vĩ của Nga tràn ngập trong tôi. Tôi đã đi năm ngày trên những vùng này và vẫn còn hơn một nửa đất nước nữa để đi. Tôi nhìn săm soi qua cửa sổ để tìm một điểm gì đó mới có thể cho thấy chúng tôi đã tới gần Moscow. Nhưng sự khác biệt thấy được ngày càng rất nhỏ; tuyết vô tận, các chặng dừng chân ngắn và mặt trời chiếu chói chang trên rừng taiga, luôn bị các khu thị tứ mà chúng tôi đi qua che khuất: một đám mây sương khói không thể xuyên qua được luôn treo trên các khu thị tứ này, che khuất mặt trời. Những ngồi làng nhỏ thì lại khác, chúng nằm trong nắng, lúc có lúc không, giữa rừng taiga và các tuyến đường ray, sự im lặng của chúng lớn tới mức gần như nhìn thấy được.
Tôi bây giờ là người phương Tây duy nhất trên chuyến tàu. Tôi cảm thấy mình giống như người Mohican cuối cùng vậy. Không có những cuộc chuyện trò thân thiện, không được nghỉ ngơi bởi các cơn ác mộng quấy rầy, bị chọc tức bởi người đàn ông trong bộ đồ ngủ câm lặng và những trang tính toán của hắn, nhân thêm với cơn khó chịu vì những món hầm đẫm mỡ của toa ăn – và với vẻ tội lỗi nghĩ về khoảng thời gian bốn tháng không có mặt ở nhà, nhớ gia đình – tôi hối lộ Vassily để có một chai vodka (ông ta nói họ đã hết, nhưng có hai rúp thì ông ta tìm thấy một vài chai) và dành cả ngày để uống hết nó. Cái hôm mua chai rượu đó tôi gặp một chàng trai trẻ, anh ta nói với tôi bằng thứ tiếng Đức giật cục rằng đang đưa người cha ốm yếu của mình tới bệnh viện ở Svedlovsk.
Tôi nói, "Nặng không?"
Anh ta nói, "Sehr schlim!" 12
Sau đó, chàng trai mua một chai champagne và mang về khoang, cũng ở trong toa nằm của tôi. Anh ta mời tôi uống. Chúng tôi ngồi xuống; trên chiếc giường đối diện, một ông già đang ngủ, tấm chăn kéo tới cằm. Mặt ông trông xám ngoét, nhợt nhạt vì bệnh tật và căng thẳng; ông tựa như đang đau đớn nuốt sự ghê tởm của cái chết, và tất nhiên khoang tàu mang mùi đất đen u tối của cái chết, một ngôi mộ lạnh và ẩm ướt đang ở trên con tàu này. Chàng trai ho lục cục, tự rót thêm champagne và uống. Anh ta cố gắng rót thêm cho tôi, nhưng tôi thấy toàn bộ câu chuyện này thật đáng sợ – ông già sắp chết trên cái giường chật hẹp, con trai ông ta ngồi bên cạnh liên tục uống champagne và ngoài cửa sổ là rừng tuyết của vùng Trung Nga.
Tôi đi về khoang riêng để uống vodka và nhìn thấy trong hoạt động đơn độc của mình có điểm gì đó giống cảm giác hoang vắng của người Nga. Trên thực tế, họ chẳng làm gì ngoài uống. Họ uống suốt ngày và họ uống mọi thứ – cognac có vị như thuốc dưỡng tóc, bia chua õng nước, thứ rượu đỏ có màu không thể phân biệt được với xi rô ho, những chai champagne giá chín đô la và vodka nhạt phèo. Mỗi ngày đều có tin mới: đầu tiên là hết vodka, sau đó là bia, rồi là cognac, và sau khi ở Irkusk người ta thấy mấy gã đàn ông cục mịch dồn hết tiền mua champagne, chuyền nhau cái chai như những kẻ vô công rồi nghề ở lối vào. Giữa các lần uống, họ ngủ và tôi bắt đầu nhận ra những kẻ nghiện rượu kinh niên qua quần áo họ mặc – họ đội mũ lông và mặc quần lông bởi sự quay vòng quần áo của họ là rất ít; tay và môi họ luôn có màu xanh. Hầu hết các cuộc cãi vã và tất cả những cuộc ẩu đả mà tôi thấy đều là do say. Thường thì trận ẩu đả đầu tiên xảy ra ở toa hạng thường sau bữa trưa, còn Vassily khởi đầu cuộc cãi vã ở mọi bữa ăn. Nếu người đàn ông mà ông ta gây sự bị say rượu, ông ta sẽ lấy quyển sổ phàn nàn và viết nguệch ngoạc một cách giận dữ vào đó.
"Tovarich!" 13 người khách sẽ hét lên, yêu cầu cầm quyển sổ phàn nàn lại. Tôi chỉ nghe thấy từ đó được dùng trong lời chế nhạo.
Xảy ra một trận đánh nhau kinh hồn ở Zima. Hai gã trai trẻ – một mặc bộ quân phục – hằm hè với người soát vé trên sân ga. Người soát vé trông có vẻ dữ tợn mặc đồ đen. Anh ta không ngay lập tức phản ứng lại, nhưng khi hai gã trai lên tàu, anh ta chạy đến chỗ bậc thang, kéo chúng lại từ phía sau và đánh cả hai đứa. Một đám đông tụ tập lại để xem. Một gã kêu lên, "Tôi là lính! Tôi là lính!", một người đàn ông trong đám đông lẩm bẩm, "Nó đúng là một thằng lính tốt." Người soát vé tiếp tục đánh hai gã thanh niên trên hành lang toa hạng thường. Điều hay ho không phải bọn trẻ đã uống rượu còn người soát vé nghiêm chỉnh, mà là cả ba bọn họ đều say.
Một ngày nữa, một đêm nữa, một nghìn rưỡi cây số nữa; tuyết rơi dày và chúng tôi đến Novosibirsk. Những người nước ngoài thường xuống Novosibirsk để nghỉ lại qua đêm, nhưng tôi vẫn ở trên tàu. Tôi sẽ không có mặt ở nhà vào Giáng sinh như đã hứa – hôm nay là hai ba tháng Mười hai và chúng tôi phải hơn hai ngày nữa mới đến Moscow – nhưng nếu có quan hệ tốt, tôi có thể về nhà trước năm mới. Người đàn ông cao ráo xanh xao thay bộ đồ ngủ sang quần áo lông, cất các phép tính đi và rời tàu. Tôi dọn giường của hắn và quyết định rằng cái tôi cần là những công việc thường ngày. Tôi sẽ bắt đầu cạo râu thường xuyên, dùng muối hoa quả vào buổi sáng và hít đất trước bữa điểm tâm; không ngủ trưa; tôi sẽ đọc xong quyển New Grub Street rồi bắt đầu đọc quyển Labyrinths (Mê cung) của Borges, bắt tay viết một truyện ngắn, viết vào buổi chiều và không uống rượu trước bảy giờ, hoặc sớm nhất là sáu giờ, hoặc năm giờ nếu ánh sáng quá tồi để viết. Tôi mừng vì sự riêng tư: đầu tôi cần sự ngăn nắp.
Sáng hôm đó, tôi định đưa những ý nghĩ của mình thành hiện thực, dẹp các lo âu sang một bên và bắt đầu truyện ngắn của tôi ngay lập tức. Một phụ nữ bốn mươi tuổi yêu một cậu trai mười chín tuổi. Cậu trai muốn cưới người đàn bà. Người đàn bà muốn gặp mẹ cậu bé. Họ gặp nhau – họ cùng tuổi – tỏ ra ăn ý với nhau, nói chuyện về cuộc li dị của họ, công việc của họ, bỏ qua cậu bé chưa đủ lông đủ cánh, chưa đủ kinh nghiệm, chỉ làm phiền cả hai bọn họ bằng việc cứ nhất định đòi cười. Như thế này:
Vợ chồng nhà Strang có một cuộc hôn nhân hạnh phúc trong nhiều năm làm cho bạn bè cảm thấy ghen tị, và sau đó đổ vỡ từng mảnh khi một buổi chiều hai người lăng mạ nhau một cách kỳ dị, đe dọa đẩy mọi cuộc hôn nhân khác trong vòng một cây số vào cảnh tan tành. Bạn bè thở phào khi Milly, thay vì bám trụ lại ở New York và thuyết phục họ ủng hộ cô trong tranh chấp cay đắng với Ralph, cô chọn bỏ đi đến…
Cánh cửa bật mở, một người đàn ông đi vào mang theo bịch quần áo và một vài gói giấy. Ông ta mỉm cười. Ông này khoảng năm mươi tuổi, tóc hói quanh một đường bất thường trên đầu, bàn tay to và đỏ. Ông ta có đôi mắt chuột của một người cận thị nặng. Ông ta quẳng bịch quần áo lên giường, đặt ổ bánh mì nâu và một lọ mứt nâu lên truyện ngắn của tôi.
Tôi đặt bút xuống và rời khoang. Khi tôi về, ông ta đã thay sang bộ đồ sọc xanh (một cái huân chương anh dũng nhỏ cài trên ngực), nhìn chăm chăm qua cặp kính lớn trên mũi, ông ta đang phết mứt lên lát bánh mì bằng một con dao gấp. Tôi gạt quyển truyện sang một bên. Ông ta nhai trệu trạo lát bánh mì phết mứt và, giữa những lần cắn, ông ợ thành tiếng. Ông ta ăn hết cái bánh mì, mở gói giấy báo, lấy ra một khúc thịt màu xám. Ông ta cắt một mẩu, bỏ vào mồm, gói khúc thịt lại và gỡ kính ra. Ông ta hít ngửi cái bàn, nhặt tấm khăn lau tẩu màu vàng của tôi lên, đeo kính vào và xem những gì tôi viết. Sau đó ông ta nhìn đồng hồ, thở dài. Ông ta nghịch cái tẩu của tôi, diêm, thuốc lá, bút, đài, lịch, quyển Labyrinths của Borges, nhìn đồng hồ giữa những lúc xem các đồ vật và thở dài, như thể mũi ông ta có thể phát hiện ra điều mà mắt không thể.
Chuyện này tiếp diễn suốt cả ngày, đánh gục những kế hoạch mà tôi đã đặt ra trong thời gian biểu và lấy đi mọi khả năng viết truyện của tôi. Tính tò mò của ông ta khiến tôi phát ghét và tôi tưởng tượng ra những gì ông ta nghĩ, khi ông ta gõ nhẹ cái kim thạch anh trên chiếc đồng hồ giữa những lần đánh hơi đồ đạc của tôi, "Ồ, ba mươi giây trôi qua." Ông ta có một quyển bản đồ đường sắt Nga nho nhỏ. Tại mỗi ga, ông ta đều đeo kính vào và tìm tên trên bản đồ. Có khoảng mười lăm ga trên mỗi bản đồ, do đó ông ta lần lượt làm bẩn các trang bằng ngón tay cái trước khi chuyến tàu đi đến trang mới, và từ những vết mứt, vết ngón tay cái trên bản đồ của ông ta tôi nhận biết chuyến tàu Rossiya đã đi bao xa. Ông ta không đọc gì trong suốt chuyến đi. Ông ta không nói gì cả; cũng không ngủ. Làm sao ông ta qua được thời giờ? Ồ, ông ta ngáp: ông ta có thể duy trì cái ngáp trong năm giây, thử với cái lưỡi của mình, liếm quanh hàm và cuối cùng kết thúc bằng tiếng gầm gừ lớn. Ông ta thở dài, ông ta rên rỉ, ông ta nghiến răng, ông ta lẩm bẩm và thực hiện chúng thành các hành động riêng biệt, theo đó ông ta tính thời gian, luôn nhìn đồng hồ mỗi khi hoàn thành một cái ngáp hoặc thở dài. Ông ta cũng ho lên và ngạt thở một cách cố ý, nghiên cứu những cơn ợ của mình, ợ ra một cách hết sức ghê tởm khi ông ta tự vắt kiệt mình để vặn ba cái chốt. Thỉnh thoảng ông ta nhìn ra cửa sổ hoặc nhìn tôi chăm chăm, và cười khi mắt chúng tôi gặp nhau. Răng ông ta làm bằng thép không gỉ.
Tôi thấy rất khó đọc và không thể viết khi có người khác ở bên cạnh. Nếu người đó đang nhìn tôi qua một lọ mứt và một ổ bánh mì vụn, tôi sẽ bị mất tập trung. Do đó, tôi chả làm gì ngoài việc nhìn ông ta bởi cũng chỉ có mỗi việc ấy để làm. Ông ta cũng kỳ quặc theo một kiểu khác nữa: nếu tôi nhìn ra cửa sổ, ông ta cũng nhìn theo; nếu tôi đi ra chỗ tấm rèm, ông ta đi theo; nếu tôi nói chuyện với chàng trai trẻ có cha đang nằm bẹp quanh đống chai champagne rỗng ở phòng kế bên, cái thây ma cũng theo gót tôi và thò đầu qua vai tôi. Tôi không thể tách khỏi ông ta dù tôi đã cố gắng.
Sợ mình bị bỏ lại, tôi không rời tàu ở các chặng dừng ngắn. Nhưng khi sinh vật quỷ ám này đóng đô trong chỗ ngủ của tôi và theo tôi khắp mọi nơi, tôi nghĩ ra một kế hoạch cắt đuôi ông ta ở Omsk. Đó là một kế hoạch đơn giản: tôi sẽ ra khỏi tàu để dẫn ông ta đi xa một chút và sau đó, khi tàu khởi hành, tôi sẽ nhảy lên bậc thang của toa tàu, dừng lại một chút để ông ta không có chỗ đặt chân lên. Tôi đã làm thử ở Barabinsk. Ông ta đi theo tôi đến cửa nhưng không xa hơn. Ba giờ sau ở Omsk là một cơ hội tốt hơn. Tôi khuyến khích ông ta đi theo tôi, dẫn ông ta đến cửa hàng bán bánh sữa và sau đó bỏ rơi ông ta. Tôi đi lên tàu vào phút cuối cùng, tin tưởng rằng ông ta đã bị bỏ rơi, nhưng đã thấy ông ta quay về chỗ ngủ và đang xem bản đồ. Sau đó, ông ta không bao giờ rời khỏi chỗ ngủ. Có thể ông ta nghi tôi đang cố bỏ rơi ông ta.
Kẻ ngốc này, ông ta có thức ăn riêng, do đó ông ta chả thiết đến toa ăn. Bữa ăn của ông ta cũng đặc biệt. Ông ta bày ra quanh mình thức ăn đã mua: một cục bơ gói trong giấy dính đầy mỡ, một ổ bánh mì, một khúc thịt, một gói giấy toàn dưa chua và một lọ mứt. Ông ta xé một mẩu bánh mì và tiêu thụ nó bằng một lát bơ. Sau đó ông lấy một miếng dưa chua, một cục thịt và lần lượt cắn, dưa, bánh mì, thịt, rồi một thìa mứt; sau đó cắn một miếng dưa chua, cứ thế, nhét đầy miệng trước khi nhai. Tôi không thể ngồi yên xem ông ta ăn. Tôi dành ngày càng nhiều thời gian ở toa ăn.
Khi những tay lính tráng say khướt biến khỏi toa ăn uống và những người khác, rất gầy hoặc rất béo, ngẩng mặt lên khỏi cái bát sắt và biến mất, kéo lê ủng của họ, các cánh cửa của toa ăn uống được khóa lại, những người làm trong bếp dọn dẹp. Họ đồng ý cho tôi ở lại, bởi, theo các điều khoản thỏa thuận của chúng tôi, Vassily tiếp tục cung cấp cho tôi những chai vang trắng Hungary miễn là tôi còn hối lộ anh ta để có rượu và chia chút rượu cho anh ta. Vassily chìa sổ kế toán cho trợ lý của mình, Volodya, người cầm bàn tính; Sergei, đầu bếp, liếc mắt âu yếm nhìn Nina từ cửa bếp; Annushka lau bàn; và Viktor, người phục vụ – người sau đó nói với tôi là anh ta trả tiền cho Anna để lau bàn hộ anh ta (anh nói bà ta sẽ làm bất cứ thứ gì vì năm rúp). Viktor ngồi ngay cạnh Vassily và tôi, anh ta moi từ tôi thông tin về những đội chơi khúc côn cầu: "Bostabroons, Doront Mupplekhleef, Moon-droolkanadeens và Cheegago Blekaks." Viktor thường đứng sau Vassily và gãi má bên phải, nghĩa là Vassily say rồi.
Có một chàng trai trẻ tóc đen lau sàn ít khi nói chuyện với ai. Viktor chỉ anh ta cho tôi và nói, "Gitler! Gitler!" 14
Chàng trai lờ Viktor, nhưng để làm cho rõ ý mình, Viktor giậm chân xuống sàn và dập ủng như thể giết một con gián. Vassily để ngón trỏ của anh ta ngay dưới mũi giả làm râu và nói, "Này Gitler!" Như vậy chàng trai này có lẽ là người bài Do Thái hoặc, do thói chế nhạo của người Nga không tế nhị lắm, có thể anh ta là người Do Thái.
Một buổi chiều, chàng trai trẻ tuổi đi đến chỗ tôi và nói, "Angela Davis!"
"Gitler!" Viktor nói và nhăn nhở.
"Angela Davis, karasho," Gitler bắt đầu nói bằng tiếng Nga về cách mà Angela Davis bị hành hình ở Mỹ. Anh ta khua chổi về phía tôi, tóc anh ta rủ xuống mắt và anh ta tiếp tục nói to cho đến khi Vassily đập bàn.
"Chính trị!" Vassily nói. "Chúng tôi không muốn có chính trị ở đây. Đây là chỗ ăn, không phải trường đại học." Ông ta nói bằng tiếng Nga, nhưng thông điệp rõ ràng và ai cũng thấy ông ta cáu với Gitler.
Những người khác đều lúng túng. Họ đuổi Gitler xuống bếp và mang lên một chai rượu khác. Vassily nói, "Gitler – ni karasho!" 15 Nhưng chỉ có Viktor là nhà hòa giải xuất sắc. Anh ta đứng dậy, khoanh tay và, bảo những người khác trong bếp im lặng, anh ta nói lí nhí:
Zee fearst of My,
Zee’art of spreeng!
Oh, leetle seeng,
En everyseeng we do,
Remember always to say "pliz"
En dun forget "sank you"! 16
Sau đó, Viktor dẫn tôi tới khoang anh ta ở và cho tôi xem cái mũ lông mới tậu. Anh ta rất tự hào vì nó có giá một tuần lương của anh ta. Nina cũng ở trong khoang, ở chung với Vassily và Anna – quá đông cho một chỗ chỉ bằng cái tủ quần áo cỡ trung bình. Nina cho tôi xem hộ chiếu của cô, ảnh của mẹ cô và, trong khi chuyện này tiếp diễn, Viktor biến mất. Tôi vòng một tay quanh Nina, tay kia bỏ cái mũ bồi bàn của cô ra. Mái tóc đen của cô rủ xuống vai. Tôi ôm cô thật chặt và hôn, nếm hương vị bếp núc. Chuyến tàu vẫn đang chạy. Nhưng cánh cửa khoang đang mở và Nina đẩy tôi ra nói nhỏ, "Không, không, không được."
Vào ngày trước Giáng sinh, buổi chiều, chúng tôi đến Svedlovsk. Trời màu xám xịt và rất lạnh. Tôi nhảy ra khỏi cửa và nhìn ông già bước xuống bậc thang vào nhà ga. Trong khi ông đang đi, những tấm chăn rơi xuống ngực, tay ông ôm chặt vào ngực, hai móng tay màu xám hợp với màu khuôn mặt ông. Anh con trai chạy đến kéo những tấm chăn cao lên để che miệng ông. Anh quỳ xuống tuyết, quấn cái khăn tắm quanh đầu ông già.
Nhìn thấy tôi đứng gần, chàng trai nói bằng tiếng Đức, "Svedlovsk. Đây là nơi địa đầu của châu Âu và tận cùng của châu Á. Vùng núi này là Ural." Anh ta chỉ vào phía sau đoàn tàu nói, "Châu Á," sau đó chỉ về phía đầu máy, "Châu Âu."
"Bố cậu thế nào?" Tôi hỏi, khi những người khiêng cáng đến và đặt ông lên cáng. Cáng là một cái võng, đung đưa ở giữa họ.
"Tôi nghĩ ông đi rồi," nó nói. "Das vedanya (Tạm biệt)."
Sự chán nản của tôi tăng lên khi chúng tôi tăng tốc về phía Perm trong bão tuyết lồng lộn. Các trại khai thác gỗ và làng mạc chìm một nửa trong tuyết, đằng sau chúng là rừng bạch dương đóng băng dày cả mét, băng bám trên cành cây khiến chúng trông như những đồ bạc chạm khắc. Tôi có thể thấy bọn trẻ con băng qua con sông đóng băng trong cơn bão, đi rất chậm về phía mấy căn lều, chúng làm tim tôi nghẹn lại. Tôi nằm trên giường, vớ lấy cái đài, lớp nhựa của nó lạnh ngắt vì đặt cạnh cửa sổ, tôi cố bắt sóng một đài phát thanh nào đó. Tôi giương ăng ten lên – cái thây ma quan sát tôi qua mớ thức ăn không được che đậy. Sóng rất nhiễu, có một đài của Pháp, sau đó là bài hát "Jingle Bells". Cái xác chết mỉm cười. Tôi tắt đài đi.
Vào tối muộn đêm Giáng sinh, tôi gõ cửa toa ăn và bắt gặp Vassily. Ông ta nói với tôi, với một cái nhún vai, rằng chỗ này đã đóng cửa. Tôi nói, "Đêm nay là Giáng sinh." Ông ta nhún vai. Tôi đưa cho ông ta năm rúp. Ông ta cho tôi vào, lấy một chai champagne và, khi ông ta bật nắp, tôi nhìn quanh toa tàu trống trơn. Trong thời khắc tuyệt vời nhất này, trời lạnh, không có dòng khí ấm áp của lò sưởi và bị gió tuyết vùi dập, trời trở nên lạnh hơn bình thường – chỉ có một đèn ống thắp sáng và hai chúng tôi. Tôi không thể tưởng tượng nổi thứ gì tồi tệ hơn khi chứng kiến đêm Giáng sinh đang đến. Trong cái lạnh rùng mình, Vassily kéo ghế và rót cho cả hai chúng tôi. Ông ta cúi lưng xuống, như thể champagne không ngon, nhăn mặt nói, "Yagh!" 17
Chúng tôi ngồi đối diện, uống và nói chuyện, cho đến khi Vassily nâng cái ly của ông ta lên và nói, "U.S.A!"
Lúc đó, tôi cũng đủ say để nhớ về một trong những bài học tiếng Nga mà Vladimir đã dạy tôi. Tôi chạm cốc với Vassily và nói, "Soyuz Sovietski Sosialistichiski Respublik." 18
"Thảo nguyên!" Vassily la lên. Ông ta hát. "Thảo nguyên! Thảo nguyên!"
Chúng tôi cạn hết chai đó, uống tiếp chai khác và Vassily tiếp tục hát. Khoảng nửa đêm, ông ta chuyển sang hát một bài của quân đội mà tôi cuối cùng cũng nhận ra giai điệu của nó. Tôi hát khẽ theo ông ta và ông ta nói "Da, da!" để khuyến khích tôi. Tôi hát bất kỳ từ gì tôi biết, lời lẽ tục tĩu tiếng Ý đối thoại với những câu thơ yêu nước Nga của ông ta:
Compagna Polacca
Hai fatto una cacca?
Si, Vassili!
Ho fatto venti killi!
Io ho fatto nelle grande steppe… 19
Vassily vỗ tay và hát cùng với tôi bằng tiếng Nga. Chúng tôi đứng trong toa xe ăn uống, hát cùng nhau, vừa uống vừa hát.
Compagna Tatyana,
Hai fatto un’ putana?
Si, Bonanno!
Ho fatto per un’ anno!
Io ho fatto nelle grande steppe… 20
"Chúc Giáng sinh vui vẻ," tôi nói khi chai rượu thứ tư được đưa ra. Vassily mỉm cười, gật gật đầu, cười khùng khục bằng giọng khàn khàn. Ông ta cho tôi xem đống hóa đơn nhà hàng ông đang điền vào. Ông ta rũ nó và tung lên không trung: "Hây!" Chúng tôi lại ngồi xuống, Vassily quá say để nhớ là tôi không nói được tiếng Nga, diễn thuyết với tôi trong vòng mười lăm phút. Tôi đoán ông ta đang nói, "Nhìn tôi này. Năm mươi tuổi và tôi đang điều hành cái toa ăn nhếch nhác này. Ờ. Đi tới đi lui, hai tuần một lần từ Moscow tới Vladivostok, ngủ tại hạng thường, bận đến nỗi không có lúc đi tiểu, ai cũng xấc xược với tôi. Ờ. Anh gọi đó là đời hả?" Đến cuối bài phát biểu, đầu ông ta trĩu nặng, mí mắt sụp xuống và bài phát biểu trở nên nặng trịch. Ông ta gục xuống bàn, vẫn giữ chặt cái chai, rồi lăn ra ngủ.
"Chúc Giáng sinh vui vẻ."
Tôi không uống nữa và trở về toa xe của mình qua đoạn nối.
Sáng hôm sau, Giáng sinh, tôi tỉnh dậy và nhìn thây ma khoanh tay ngủ như một cái xác ướp. Provodnik nói với tôi bây giờ là sáu giờ sáng theo giờ Moscow. Đồng hồ của tôi là tám giờ. Tôi vặn lùi lại hai giờ và đợi bình minh lên, ngạc nhiên vì thấy rất nhiều người trong toa cũng có quyết định tương tự. Trong bóng tối, chúng tôi đứng cạnh cửa sổ, nhìn bóng của mình. Ngay sau đó, tôi hiểu tại sao mọi người lại đứng đó. Chúng tôi đi vào vùng ngoại ô của Yaroslav và tôi nghe thấy người ta xì xào. Bà cụ già mặc bộ váy ngủ có ren, người đàn ông phương Đông đi với vợ và con, những kẻ say rượu chơi domino, thậm chí thây ma cũng đang nghịch cái đài của tôi: họ hướng mặt về phía cửa sổ khi tàu bắt đầu xình xịch chạy qua cây cầu dài. Bên dưới chúng tôi, dòng sông đen ngòm, một nửa đóng băng và nhiều chỗ in bóng ngọn lửa từ các ống khói Yaroslav. Đó là sông Volga.
… Thành phố Hoàng gia của David,
Nơi có lâu đài gỗ nhỏ…
Cái gì thế? Những giọng ngọt ngào, trong như tiếng đàn organ, cất lên từ trong toa của tôi. Tôi đông cứng lại và lắng nghe. Những người Nga, ngỡ ngàng trước quang cảnh sông Volga, đã yên lặng hết thảy; họ nhào tới, nhìn xuống dòng nước. Còn tiếng nhạc thần thánh, mỏng mảnh, thơm ngát, nhẹ lướt trong không trung, ấm như một mùi thơm.
Nơi một bà mẹ sinh đứa con nhỏ
Trong máng cỏ, là giường của nó…
Bài thánh ca cất lên ngập ngừng, nhưng sự tĩnh lặng tôn kính của người Nga, sự chậm rãi của đoàn tàu giúp cho giọng hát mềm mại của đứa trẻ toả hương khắp hành lang. Sự lắng nghe của tôi chuyển thành cơn suy ngẫm về nỗi buồn khôn khuây, như thể cái tinh tế nhất của niềm vui được sinh ra từ mũi kim của đau khổ.
Mary là người mẹ dịu dàng đó,
Jesus Christ, đứa con nhỏ của bà…
Tôi đi về phòng và nghe đài cho tới khi buổi phát thanh kết thúc, chương trình âm nhạc Giáng sinh của đài BBC. Bình minh không bao giờ lên vào ngày hôm đó. Chúng tôi đi trong sương mù dày đặc và qua trận cuồng phong mù mịt khiến cho những khu rừng trở nên ma quái. Trời bên ngoài không lạnh: tuyết đã tan đôi chút và các con đường – bây giờ xuất hiện thường xuyên hơn – bị lún và đầy bùn. Suốt buổi sáng, các thân cây ẩm thâm đen vì ướt, in hình lờ mờ trong sương, những cây thông hiện lên trong tầm nhìn cực kỳ hạn chế vì sương mù dẫn tới những nhà thờ chóp nhọn. Ở đâu cũng vậy, cây cối đều lờ mờ, giống như dư ảnh trong mắt. Tôi chưa bao giờ cảm thấy gần gũi với đất nước này, sương mù càng đẩy tôi ra xa hơn và tôi cảm thấy, sau mười nghìn cây số với tất cả những ngày ở trên chuyến tàu này, chỉ có một sự cách biệt lớn; những gì gợi nhớ về nước Nga – những người đàn bà trong bộ áo khoác vải bạt màu cam cầm xẻng làm việc trên đường ray, hình ảnh tượng Lenin, biển báo ga tàu lẫn trong tuyết vàng và những con chim ác là kêu lên giật mình khi chuyến tàu Nga đi qua – tất cả những thứ này đều làm tôi bức bối. Tôi phẫn nộ với kích cỡ nước Nga; tôi muốn về nhà.
Toa ăn bị khóa cửa vào lúc chín giờ. Tôi quay trở lại lúc mười giờ và thấy nó trống trơn. Vassily giải thích là vì chúng tôi sắp đến Moscow rồi nên toa ăn đóng cửa. Tôi mắng ông ta, tự ngạc nhiên với cơn tức giận của mình. Bị phản đối, ông ta làm cho tôi một quả trứng ốp lết; ông ta mang trứng cho tôi với một lát bánh mì và một cốc trà. Trong khi tôi ăn, một phụ nữ đi vào. Cô ta mặc áo khoác đen, đội chiếc mũ đen có gài phù hiệu của đường sắt Liên Xô. Cô ta nói với Vassily: "Kleb" 21. Vassily đuổi cô ta đi: "Không có!" Cô ta chỉ vào bữa ăn của tôi và nhắc lại yêu sách của mình. Vassily hét vào mặt cô ta. Cô ta đứng lên đẩy mạnh Vassily. Ông ta cười với tôi vẻ xin lỗi khi ông ta đẩy lại. Người phụ nữ bước đi và hét lớn vào ông ta. Vassily tức điên lên. Ông ta nheo mắt lại và quăng mình tới đấm cô ta. Ông ta vặn tay người đàn bà ra đằng sau lưng và đá mạnh. Người đàn bà rú lên rồi bỏ đi.
Vassily nói với tôi, "Nikarasho!" 22 Cuộc đánh nhau khiến ông ta không thở được. Ông ta cười điệu cười khờ dại của mình. Tôi tự thấy xấu hổ vì không giúp người phụ nữ. Tôi đẩy đĩa thức ăn ra bên cạnh.
"Pavel?" Vassily nháy mắt với tôi.
"Ông là một con khỉ khốn nạn."
"Pozhal’sta," 23 Vassily nói, giọng niềm nở.
Chuyến tàu tiến gần đến Moscow với tốc độ trung bình. Tôi đi dọc các hành lang của hạng thường để về chỗ của mình, thu dọn đồ đạc. Những hành khách khác đã thu dọn xong đồ đạc. Họ đứng với vẻ của người đến đích, hút thuốc cạnh cửa sổ. Tôi đi qua từng người, nhìn thấy tội lỗi và lừa lọc trên khuôn mặt họ, sự hung bạo trong những con mắt nhỏ bé của họ, mấy nắm đấm giấu trong ống tay áo dài một cách bất thường.
"Khỉ," tôi nói, khi đi qua một đám lính.
Một người đàn ông giơ cái mũ lông ra chắn đường tôi. Tôi đi đến chỗ anh ta. Anh ta ngoác bộ hàm to đùng ra ngáp.
"Khỉ!" Anh ta đứng sang một bên.
Tôi nói khỉ với provodnik, khỉ với người đàn ông ở cạnh ấm trà, khỉ với tay sĩ quan quân đội trong khoang hạng sang; và tôi cứ lẩm nhẩm, tôi thấy cái thây ma cùng phòng ngồi cạnh cửa sổ trong cái áo choàng, ngón tay lốm đốm của ông ta chỉ về Moscow. "Khỉ!" Tôi chúc mừng Giáng sinh ông ta, tặng ông ta hai cái lau tẩu, một hộp cá trích Nhật và một cái bút bi sẽ hết mực ngay khi ông ta viết tên mình.
Đấy là kết thúc chuyến tàu, nhưng không phải kết thúc hành trình của tôi. Tôi vẫn có vé đến London và hy vọng sẽ bắt được chuyến tàu đi về phía Tây, tôi hủy chỗ đặt tại khách sạn và dành cả buổi chiều để tìm một chỗ ngủ hạng sang trên chuyến tàu đến mũi Hook của Hà Lan, đi qua Warsaw và Berlin. Tôi đã gói ghém hành lý, sẵn sàng lên đường, tôi đến ga tàu sớm hơn một tiếng vào đêm Giáng sinh. Nhân viên lữ hành tiễn tôi tới rào chắn và chào tạm biệt. Tôi đứng bốn mươi lăm phút trên sân ga, đợi toa tàu của mình tới.
Không phải một người khuân vác, mà là một nhân viên xuất nhập cảnh muốn biết nơi đến của tôi. Anh ta nhìn lướt qua hộ chiếu của tôi, giở các trang sột soạt. Anh ta hất hàm hỏi.
"Thị thực của Ba Lan hả?"
"Tôi không dừng ở Ba Lan," tôi nói. "Tôi chỉ đi ngang qua đó."
"Thị thực chuyển tiếp," anh ta nói.
"Anh nói thế nghĩa là sao?" tôi nói. "Này, chuyến tàu này sắp khởi hành rồi!"
"Anh phải có thị thực chuyển tiếp của Ba Lan."
"Tôi sẽ lấy nó ở biên giới."
"Không thể. Họ sẽ đưa anh về đây."
"Này nhé" – còi đã hú rồi – "Tôi phải lên chuyến tàu này. Làm ơn – nó sắp sửa đi mà tôi vẫn chưa lên!" Tôi nhấc đồ của mình lên. Người đàn ông giữ tay tôi lại. Nhân viên gác ghi đi qua, ra hiệu bằng lá cờ xanh. Tàu chuyển bánh.
"Tôi không thể ở đây được!" Nhưng tôi vẫn để người đàn ông nắm tay áo mình và nhìn chuyến tàu tốc hành đi Hà Lan xa dần khỏi ga: Xììììììình xịịịịịịịch. Những khuôn mặt hành khách hiện qua cửa sổ. Họ hạnh phúc, đang yên ổn rời đi. Giáng sinh rồi, em yêu, họ nói, và chúng ta lên đường. Thế là hết, tôi nghĩ, khi nhìn đoàn tàu rời đi, nó mang cả tim tôi đi mất. Thế là hết: tôi bị "duffill!"
Hai ngày sau, tôi đã có thể đi khỏi Moscow, nhưng chuyến đi của tôi tới London chẳng có gì đáng nhớ. Tôi cố gắng thu gom những trí nhớ trong chuyến về này; tôi ngủ khi đi qua Warsaw, nhìn giận dữ ở Berlin và đi vào Hà Lan với một cục đá trong bụng. Tôi cảm thấy như bị lột da sau chuyến đi bằng tàu hỏa dài bốn tháng: như thể tôi đã trải qua đợt điều trị đau đớn, tự làm ốm yếu đi bằng đam mê của mình hòng thoát khỏi nó. Nói trắng ra cái câu khuôn sáo này là tôi đã chán ngấy đi lại, chỉ hy vọng chóng được tới nơi. Còi tàu hú lên khi đi qua nơi giao cắt – một tiếng hú dài kiểu con nít – nó chế giễu tôi, chứ không làm tôi bị mê mẩn nữa. Tôi đã đúng: bất cứ thứ gì cũng có thể có trên một chuyến tàu, thậm chí cả sự thôi thúc muốn xuống tàu. Tôi uống say để tự bịt tai mình, nhưng vẫn nghe được tiếng ầm ĩ của các bánh xe.
Mọi chuyến đi đều theo một vòng tròn. Tôi đã đi qua châu Á, đi theo đường parabol trên một bán cầu của hành tinh này. Sau cùng, chuyến đi hoành tráng này chỉ là đường về nhà của một người đàn ông đầy cảm hứng.
Và tôi đã học được điều mà mình vẫn ngầm tin tưởng, rằng sự khác biệt giữa đi và viết với tiểu thuyết là sự khác biệt giữa ghi lại những gì mắt thấy với khám phá những gì trí tưởng tượng biết. Tiểu thuyết là sự mừng vui đơn thuần – thật buồn là tôi không thể thuật lại chuyến đi như một tiểu thuyết. Tiểu thuyết ấy đã có thể có (bây giờ chúng tôi đang lên một chuyến phà xanh tại mũi Hook của Hà Lan), một hình thức dễ chịu nếu tôi khéo léo thể hiện ánh sáng – bóng tối và sử dụng thủ pháp trì hoãn. Tôi đã có thể gặp hiểm nguy: Sadik có thể có một con dao bấm và răng vàng, đường ray ở Huế có thể dính một quả mìn nổ, chuyến tàu Phương Đông có toa ăn xa hoa và Nina – van nài tôi – có thể nhẹ nhàng gõ vào cánh cửa buồng tôi và cởi phăng bộ đồng phục của cô khi chúng tôi đi qua sông Volga. Mọi thứ không xảy ra như thế và trong mọi trường hợp, tôi có lẽ đã quá bận rộn cho những thứ thích thú đó. Tôi đã làm việc hằng ngày, vầy vò quyển sổ của tôi như Trollope viết vội bản ghi nhớ uỷ nhiệm bưu điện để đặt tất cả chúng trong thì quá khứ.
Vui thay, vẫn còn sự nhanh nhẹn nhờ vào niềm hân hoan không dứt, tôi lên chuyến tàu đi London – sửa lại: Tôi đang rời khỏi Harwich (giữa các mệnh đề thường là ba chục cây số và thêm một trăm năm mươi cây nữa trước khi tôi kết thúc một câu) và nhìn vào cánh đồng tháng Giêng trơ trụi. Trên lòng mình, tôi có bốn quyển sổ dày. Một quyển bị dính nước ở Madras, một quyển dính xúp củ cải, quyển màu xanh (có ghi chữ vàng, Chợ Ga Punjab) có cái vòng đáy cốc rượu ở bìa trước và quyển màu đỏ đã nhạt màu thành màu hồng vì ánh sáng mặt trời ở Thổ Nhĩ Kỳ. Những vết này giống như những ghi chú. Chuyến đi đã kết thúc và quyển sách cũng vậy, trong một thời khắc nào đó, tôi sẽ giở trang đầu tiên ra để tự tiêu khiển trên đường về London, tôi sẽ đọc với chút tâm đắc về chuyến đi, nó bắt đầu rằng, Thuở nhỏ, khi sống trong khu vực quanh Boston và bang Maine, hiếm khi tôi nghe thấy tiếng tàu hỏa đi qua và cũng chẳng dám mơ ước được ngồi trên tàu.
Chú thích:
1Tiếng Nga, "Không!"
2Tiếng Đức, "Anh biết tiếng Đức chứ?"
3Cá voi. Đoạn này trong nguyên bản, tác giả ghi âm tiếng Nga.
4Cá voi này ngon.
5Đây là cửa sổ.
6Đúng, đúng.
7Trà này rất tệ.
8Đây là cuốn sách.
9Đây là Nina.
10Con quạ.
11Không phải.
12Tệ lắm. (Tiếng Đức).
13Đồng chí. (Tiếng Nga).
14Hitler.
15Không tốt. (Tiếng Nga).
16Nói tiếng Anh với giọng Nga, tạm dịch:
Buổi đầu của tôi
Là vẻ đẹp mùa xuân!
Ôi những điều nhỏ bé
Và mọi thứ ta làm
Luôn nhớ nói "làm ơn"
Cũng đừng quên nói "cảm ơn"!
17Hừm. Từ cảm thán tiếng Nga.
18Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Liên bang Xô viết. (Tiếng Nga).
19Tiếng Ý, tạm dịch:
Polacca bạn ơi,
Bạn có ỉa không?
Có, Vassili!
Em ỉa hai chục ký!
Ỉa trên thảo nguyên bao la…
20Tiếng Ý. Tạm dịch:
Tatyana bạn ơi,
Bạn có làm điếm không?
Có, Bonanno!
Em làm một năm rồi!
Em làm giữa thảo nguyên bao la…
21Bánh mì. (Tiếng Nga).
22Không hay tí nào. (Tiếng Nga).
23Làm ơn. (Tiếng Nga).