PHẦN IV
HẬU DUỆ LOÀI NGƯỜI
Chương 34

67
Tôi có phần hy vọng rằng DHS và tất cả các cơ quan điều tra khác đã được hối lộ đủ tươm tất và rằng sẽ không có điều gì xảy ra sau khi chúng tôi chỉ ra thủ phạm, ngoài họ, đang cố sát chúng tôi. Nhưng xem ra chính phủ vẫn chưa hoàn toàn hợp nhất thành một khối bởi, thật đáng kinh ngạc, sáng ngày 28, FBI đã tiến hành khám xét đồng thời các văn phòng của Halliburton ở Houston và Baskerfield, tòa cao ốc KBR ở hạt Harris, mười hai văn phòng và một trăm mười máy chủ thuộc sở hữu của Dyn-Corp và các công ty vỏ do tập đoàn Carlisle điều hành. 243 người bị bắt. Theo lời Laurence, người đã hóng tin từ Lindsay và ông này chắc chắn đã nghe được chuyện từ một nhân vật nào đó trong cuộc hoặc từ Chúa, trong bốn cuộc khám xét, người ta đã tìm thấy các tài liệu liên quan đến plutonium dưới dạng phun xịt, ngoài ra, trong một máy chủ còn lưu một bản ghi nhớ trong đó nói rằng việc tập trung hóa các lực lượng quân sự là “ưu tiên hàng đầu của chúng ta”. Tôi đoán rằng các mắt xích của việc hối lộ sẽ khá tệ hại khi người ta tập hợp đủ các chi tiết. Nói ngắn gọn, những kẻ này đã sử dụng hệ thống hawala, nghĩa là tất cả những người tham gia đều là thành viên của một phe cánh Hồi giáo nào đó mà mọi người đều tin tưởng nhau và không ai viết ra bất kỳ điều gì. Không có khoản tiền mặt nào được gửi đến bất cứ đâu. Nhiều năm trước – cụ thể là năm 2006 – vài chủ khách sạn ở Dubai đã thuê mấy nhà thầu đóng trụ sở ở Moscow xây một số đường cao tốc và đường băng riêng với cái giá hơi cao một chút. Các nhà thầu này dùng tiền để trả nợ cho một công ty khác – có lẽ là một trong các công ty đã sáp nhập với Lukoil và được thừa hưởng lượng polonium 210 không có trong sổ sách từ công ty sản xuất ban đầu. Sau đó, người của tập đoàn Carlisle lại bán cho chuỗi khách sạn một vài công trình xây dựng ở Jordan và Lebanon với giá hơi rẻ một chút. Và hoạt động này cứ diễn ra hàng tá các thương vụ giao dịch qua máy tính. Và hẳn các bạn nghĩ với cách thức như vậy, họ đã giấu nhẹm được mọi chuyện dưới tấm thảm Ba Tư. Thế nhưng, mười tám tỉ dù gì vẫn là con số lớn, ngay cả vào thời buổi này, và phần lớn trong số đó đang nằm tại một vài tài khoản ở đâu đó. Với luật ngân hàng mới và các công cụ tìm kiếm được cải tiến, ngày càng dễ tìm ra các khoản tiền gửi khớp với con số ước đoán của khoản tiền mất tích. Một khi LEON và các “đồng nghiệp” ở DHS biết phải tìm kiếm thứ gì, chúng chỉ việc sàng lọc các số liệu cho đến khi tìm ra hai mô hình – có thể hình dung giống như hai dấu vân tay – đủ trùng khớp để thuyết phục bồi thẩm đoàn.
Tuy thế, ho vẫn chưa xin được lệnh bắt Cheney – hắn đang chỉ bị coi là “đối tượng tình nghi” – và, như thế có thể đoán trước, hắn đã được bảo mật tin tức nội bộ và không ai còn tìm ra hắn được nữa.
Không có khả năng tìm được thật – tôi nghĩ. Con mèo ấy có nhiều chỗ ẩn náu không được tiết lộ hơn cả Chương trình Tên lửa phòng thủ Atlas. Cho dù chúng tôi dành toàn bộ thời gian để tìm hắn thì chúng tôi cũng chỉ việc chuyển hắn từ nơi này đến nơi khác và chúng tôi sẽ luôn đến chậm một bước. Ừ thôi, tôi đã làm xong việc của mình. Nó không hoàn toàn như ý, nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra như ý cả. Dù sao, rất có thể sau này mọi chuyện sẽ tiếp tục sáng tỏ. Sẽ có thêm nhiều người bị bắt và biết đâu kẻ nào đó sẽ bán rẻ hắn. Cho đến lúc này, moi tin tức trên phương tiện truyền thông về vụ bắt giữ vẫn chỉ là tin nghe hơi nồi chõ, nhưng nghe đâu thông tin thật sẽ được tiết lộ trong tuần này.
Hoặc chính mình sẽ chỉ điểm, - tôi nghĩ. Ngay khi mình được rảnh với những vấn đề cấp thiết hơn.
Tình hình thế giới thì mỗi ngày một tệ hại hơn. Bangladesh gần như không còn điện, thức ăn, nước uống và luật pháp. Lưỡi Gươm của Thánh Allah (Lưỡi Gươm của Thánh Allah: Danh hiệu vinh dự dành cho các chiến binh hồi giáo) đang tấn công các căn cứ quân sự của Mỹ ở Pakistan.. Cục Quản lý Tình huống Khẩn cấp Liên bang cho biết họ đã ước tính sai con số nạn nhân mắc bệnh giai đoạn cuối ở Florida và rằng trong vài năm tới, số nạn nhân tử vong dự tính sẽ lên tới sáu mươi ngàn, đưa tổng số thiệt hại về người của vụ Kinh Hoàng ở Disney World lên hơn một trăm ngàn. Có thể là 124.030 - tôi nghĩ - cộng trừ một tí. Không còn đủ phương tiện để chăm sóc toàn bộ số nạn nhân này ở Mỹ. Vì vậy, các ca có tiến triển tốt hơn được đưa ra nước ngoài cho dù bang Floria đã bắt đầu xây dựng một bệnh viện lớn và hiện đại nhất thế giới. Tính tới thời điểm này, đã có mười bốn vụ báo động tương tự như ở Orlando tại các thành phố lớn, nhưng tất cả chỉ là hoảng báo, chẳng có polonium nào hết nhưng việc di tản tốn mất hàng tỉ. Hai ngày trước, tám mươi người đã thiệt mạng trong một vụ đánh bom tự sát ở DeKalb, bang Illinois. Như rất nhiều vụ đánh bom kiểu mới khác, vụ ở DeKalb được chia thành hai giai đoạn, nghĩa là trước tiên, một quả bom lớn phá sập một căn nhà tập thể và thủ phạm theo dõi toàn bộ qua ống nhòm, xong xuôi, hắn bèn tự sát bằng một chất nổ nào đó khoảng bằng quả lựu đạn cầm tay. Các điều tra viên hầu như chắc chắn đó là một vụ mà họ gọi là “không liên kết”, tức là nó không liên quan đến tư tưởng gì cả mà chỉ là một phần của xu hướng đánh bom tự sát đang ngày một phổ biến giữa những người bình thường, đơn giản là quá chán sống và muốn đưa theo mình càng nhiều bạn cùng lớp, đồng nghiệp, cảnh sát càng tốt, những kẻ đó, vài năm trước đây, còn bằng lòng với một nắm người mà họ có thể bắn trước khi tự sát. Và tồi tệ hơn cả, theo những gì tìm hiểu đước qua cờ Hiến tế. tên dooomster vẫn đang tiếp tục lên kế hoạch của hắn.
Vào ngày cuối cùng của tháng 3, các công cụ tính toán xác xuất của LEON đã chỉ ra rằng thế giới - nói rất chung chung thôi – đã rơi vào tình trạng khủng hoảng thường xuyên. Nghĩa là lịch sử loài người đang ở thời điểm mà bất cứ một động tĩnh nhỏ nào cũng có thể châm ngòi cho một vụ lở đất san phẳng cả đụn cát. Về những bước tiến của tên dooomster, LEON ám chỉ rằng ngay cả khi chúng ta chỉ ra và ngăn chặn được tên doomster thứ nhất (vẫn chỉ là giả thiết thôi) thì chẳng mấy chốc sẽ lại xuất hiện một kẻ thứ hai như hắn. Và sẽ còn nữa, với tần suất ngày một cao, có thể là cứ hai hoặc ba năm một tên, một thời gian sau sẽ là một tháng một tên, rồi mỗi ngày một tên, và cứ thế đến mức không thể ngăn ngừa được nữa. Nói tiếp đến vấn đề đó, ngay cả khi hành động của tên dooomster đầu tiên không thành công một trăm phần trăm – ngay cả khi nó ảnh hưởng đến một lục địa, ví dụ thế - thì một “sự kiện gây tổn thất” như thế cũng “đủ để làm thoái hóa hoạt động của mọi xã hội đến mức chúng sẽ vô cùng dễ bị tổn thương trước những căng thẳng tiếp theo”. Hay theo cách nói của Ashley 2, hệ miễn dịch của thế giới đang bị tổn thương nghiêm trọng và một cơn cảm lạnh cũng có thể dẫn đến tử vong.
Tôi cứ nói mãi rằng chúng tôi cần tăng liều lượng. Lisuarte thì cứ chần chừ. Khoảng ngày mùng 4 tháng 4, tôi bắt đầu có cảm giác rằng hình như chúng tôi chậm chân. Chỉ cảm giác thôi, nhưng tôi vẫn không thích cái ngày mà LEON đánh dấu: ngày 28 tháng 4. Đây không phải lần đầu tiên nó xuất hiện. Và cứ mỗi lần như thế, tôi lại nhìn thấy một quầng xám xịt vây quanh nó. Và không chỉ vì nó là ngày có tiền lệ xảy ra những điều không hay.
Cái ngày này cho tôi cảm giác nó là thời điểm mà từ khi đó trở đi mọi chuyện sẽ tiếp diễn không thể ngăn lại được nữa. Có lẽ tên doomster sắp dùng một loại vi-rút nào đó được hẹn giờ để các triệu chứng được bộc phát đúng vào ngày Chúa tể 4 và chuẩn bị gieo rắc vào ngày hai tám. Hay cũng có thể là một quả bom thông thường hay một phản ứng dây chuyền nào đó được châm ngòi vào đúng ngày đó. Dù gì đi nữa thì tôi cũng cảm thấy giờ 0 của chúng tôi đã bắt đầu từ ngay lúc này, thậm chí có khi là từ hôm qua rồi. Đã đến lúc phải hành động quyết liệt.
Thật dễ dàng khi muốn ăn trộm thứ gì đó của một người vốn tin tưởng anh. Lừa bác sĩ Lisuarte thì khó. Nhưng Taro cũng được quyền tiếp cận tủ thuốc và nhân viên phòng thí nghiệm của ông ta chẳng phải đội thủy thủ kỉ luật nhất thế giới. Và lúc này, tôi và Asley 2 đang… Ờ… chúng tôi đang làm tí việc nho nhỏ, loại việc xảy ra khi Marena vắng mặt, chồng của Asley 2 bị kẹt ở Bắc Kinh và mọi chuyện đang ập đến với chúng tôi như trong phim Bình minh của cái chết. Nó đại loại là một tý giải trí tiện thể. A2 không phải kiểu người thu hút được sự chú ý của người khác, nhưng thực sự, nếu anh cởi bỏ cặp kính và chiếc áo choàng trắng cho cô ta rồi đưa vào một căn phòng tranh tối tranh sáng thì cô ta có thể thành bản sao ục ịch hơn một tí của Chương Tử Di. Cô ta đang thử học chơi cờ Hiến tế - gần như là người chơi tồi nhất ở đây – và tôi đang dạy cô ta vài bài đặc biệt và được trả công. Cũng không có gì to tát lắm, chỉ là cô ta để dành cho tôi một phần nhỏ trong phần ma túy của mình. Đến hôm nay, tôi đã gom được khoảng 480 miligam – thành phần gây ảo giác về không gian lại ở dạng lỏng nên được đựng trong các lọ dung dịch 40 miligam và tôi đã tích được 300, gấp mười lần liều lượng chuẩn của tôi, vào một cái ống trước dùng để chứa helium. Không có máy quay trong phòng biệt lập – chí ít là tôi không thấy cái nào và dù gì ở đây người ta cũng không quá cứng nhắc. Tôi bóc lớp băng dính dán cái ống nhỏ bằng thép dưới nách, luồn nó qua chun quần xuống mé trong đùi phải và vặn nút. Một tiếng động nhỏ phát ra như một tiếng vặn từ từ nắp một chai Shasta lạnh, một cảm giác như có miếng nước đá đang hình thành trong tĩnh mạch chủ dưới da rồi tan mất.
Nếu tôi tính toán đúng thì liều thuốc này, sau hai mươi phút nữa sẽ đưa tôi đến ngưỡng khoảng bằng một phần năm lượng thuốc mà chúng tôi tính rằng Koh đã dùng trong ván cờ cuối cùng với Jed 2. Cố nhiên, bà ta đã có cả đời để tăng khả năng chịu thuốc. Người của phòng thí nghiệm Lotos nói lượng thuốc ngần này có thể gây ra chết hoặc làm nổ tung hồi hải mã trong não tôi. Nhưng họ là một đám người chuyên hù dọa người khác. Mà đằng nào, nếu tôi bị tai biến, người của Lisuarte sẽ lao vào, cho tôi uống thuốc và chăm sóc cho tôi trở lại bình thường. Thời buổi này người ta có thể làm bất cứ thứ gì. Phải vậy không? Dù sao, chúng ta cũng có nhiều chuyện quan trọng hõn phải lýu tâm. Tập trung vào ði.
Tôi di chuyển quân đầu tiên trong số chín quân đến ngày 28 tháng 4 và thay thế hạt của LEON. Nhận lấy này, đồ óc thủy tinh. Ô cửa sổ của nó hiện lên dòng chữ ĐANG SUY NGHĨ. Tôi đứng ở vị trí mới và tìm quanh. Nói là “tìm” thì không đúng lắm vì lúc này, khi cảm thấy chớp máu sôi lên trong động mạch, tôi đang thực sự nhìn thấy, nếu có thể gọi như vậy, với những cái rùng mình và giật khe khẽ, tưởng như mọi nguyên tử trong cơ thể tôi đều có một hạt tương ứng trên bàn cờ. Có lẽ nó giống như cách những người mù với máy quay gắn vào trong não và điện cực gắn trong yết hầu có thể nhìn bằng lưỡi…
BÍP.
LEON di chuyển hai bước về phía trung tâm bàn cờ.
Hừm.
Tôi cũng di chuyển sọ của mình lên phía trước. Tôi thấy như đang leo cầu thang, thấy không gian vừa giãn nở ra lại thu hẹp lại. Rất khó giải thích, nhưng nó giống như cảm giác của một người đã sống cả đời ở một thành phố nhỏ, biết mọi đường lối đi lại nhưng chưa từng nhìn thấy chúng trên bản đồ, rồi một hôm, anh ta leo lên một tháp truyền hình cao vừa được dựng lên ở trung tâm thành phố, và thế là, lần đầu tiên anh ta được nhìn xuống thành phố từ trên cao. Sau vài giây, anh ta hiểu ra nhiều điều mà trước đây anh thậm chí không biết có chúng ở trên đời để mà hiểu. Anh ta sẽ thấy những nơi lúc trước tưởng như xa cách nhau nay xích lại gần, những con phố mà anh ta cho là nằm vuông góc nhau thực ra lại cắt xiên lộn xộn, các khu công viên mà anh ta cho là vuông vắn lại có hình tứ giác, không đều, những tòa nhà quen thuộc tưởng là to bỗng trở lên nhỏ hơn cả những tòa nhà ít quen thuộc hơn mà trước đây tưởng là nhỏ; trình tự nhận biết trở nên hoàn toàn khác lạ, hoàn toàn mới mẻ, thứ mà anh không thể có được nếu chỉ sống ở một nơi, dù là hàng trăm kiếp.
Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ cảm giác này có vẻ như hay ho, thậm chí vui vẻ. Nhưng thực tế thì không, nó chỉ đáng sợ thôi. Nó đặc biệt đáng sợ vào lúc này, dĩ nhiên. Nhưng lúc nào nó cung đáng sợ. Sự sợ hãi của anh tăng lên cùng khả năng nhận biết. Và nó phải như vậy.
Khi tôi đọc xong ghi chép về các con vật của công nương Koh, dường như nó không khiến tôi kinh ngạc như Jed 2. Thực ra, tôi luôn dùng chính mình làm con khỉ. Nghĩa là, để thực sự điều khiển được quân cờ, tức là các sọ, anh phải có sự sợ hãi trong mình. Ngay cả khi chơi cho một người mà anh chẳng mấy quan tâm, anh vẫn phải cảm nhận được sự sợ hãi. Anh cần phải cảnh giác nhìn quanh như con thú đang bị săn đuổi, phải thấy cái bóng nào cũng giống con dã thú săn mồi. Và khi khả năng nhận biết của anh càng mở rộng, thay vì mạnh mẽ hơn, anh thấy sợ hãi hơn. Nó trở thành nỗi sợ không chỉ cho bản thân mà cho các con vật cùng cảnh bị săn đuổi, cho bầy đàn mà lúc này anh đang thấy tất cả vây quanh mình, đông không kể xiết. Thay vì tìm đường thoát, anh lại tính xem có bao nhiêu kẻ cùng cảnh ngộ quanh mình và nơi ẩn náu an toàn còn cách bao xa. Anh bắt đầu nhận thấy ý thức của mình dễ lung lay đến mức nào, và càng lên các bậc cao hơn, anh càng cảm thấy nó mong manh. Anh bắt đầu thấy rõ hơn hiện tại, quá khứ, thậm chí lờ mờ một chút tương lai, rồi thêm nhiều khả năng sẽ có thể xảy ra, thêm nhiều khả năng đã có thể xảy ra – ví dụ như một nghìn triệu khả năng anh không được sinh ra trên đời chẳng hạn – và tiếp đến là những hiện tại không thật, những tương lai không tồn tại và những thế giới không thực, các vũ trụ nơi ánh sáng đi với tốc độ chậm và cục bộ, lực hấp dẫn thì lớn, tầm ảnh hưởng xa, nơi hai cộng một bằng một, hay thậm chí hai cộng hai bằng một chùm nho, ví dụ thế. Và nó không chỉ khiến người ta tò mò. Nó khiến người ta phát khiếp.
Nhưng nếu anh vượt qua được cảm giác hoa mày chóng mặt trước tất cả những điều đó, anh sẽ bắt đầu thấy một vài hình thù. Tôi thu nhỏ của sổ bàn cờ trên màn hình tường và liếc sang hàng loạt thông tin chạy dọc màn hình. Lúc này, LEON đang lọc các thông tin liên quan đến những người có cùng tên và kiểm tra xem chúng có được đặt cho đúng người hay không. Và khi nói “thông tin”, ý tôi là tất cả các thông tin: nghề nghiệp, phả hệ, các mối quen biết đời thực và qua mạng, hồ sơ tín dụng, tình hình mua sắm, học bạ, ngày sinh, ảnh, các sở thích chắc chắn và suy ra, các trang web đã xem, số cặp gen đơn bội ước tính, tham khảo chéo, y bạ, cả một thác sự kiện, ngôn ngữ, của cả con người lẫn máy tính. Tôi đang nhìn thấy thứ gần nhất những gì mà Chúa nhìn thấy, thậm chí gần hơn cả những gì Google nhìn thấy bởi mọi thứ mà Google tìm kiếm đều phụ thuộc vào những gì mà những kẻ không được thông minh lắm tìm kiếm. Việc tìm kiếm thông tin có định hướng thật sự phải có tính chọn lọc hơn rất nhiều. Anh cần phải tập trung. Và ý tôi không phải sự tập trung vào từng chi tiết nhỏ như tìm kiếm từ khóa. Nó giống việc xem tranh ảo hơn, khi anh tập trung nhìn sâu xuống một vài feet dưới bề mặt tờ giấy và nếu không bị phân tán bởi những đường ngoằn nghoèo vô nghĩa, anh sẽ nhìn thấy hình vẽ mà bức tranh thể hiện – hay phải gọi chính xác hơn là không gian mà bức tranh thể hiện bởi thực ra anh chỉ nhìn thấy không gian, nghĩa là nếu chỉ dùng một mắt, anh sẽ chẳng thấy gì hết – nếu cứ tập trung vào hình đó, nó sẽ dần hình thành hình khối rõ rệt, lớn hơn, sâu hơn, nhẵn hơn, và đến một lúc nào đó, anh sẽ nhìn rõ nó là thứ gì. Khi Bụi Của Người Chèo Thuyền Già bắt đầu ngấm, tôi cảm thấy như con mắt thứ hai đang từ mở ra; tôi dần nhìn thấy đường viền của một hình thù nào đó ở hướng đông, các cơ mống mắt của tôi chậm rãi hướng ra xa, vượt qua một biển mênh mông những cái tên, những ngày tháng, những con số và hàng ti tỉ những thứ lỉnh kỉnh khác hợp thành một thế giới khổng lồ này, và tôi gần như nhận ra đó là thứ gì, một thứ gì đó được tạo bởi toàn bộ những thứ trên, nhưng lại hoàn toàn không phải là chúng, thứ gì đó gớm guốc đang lờ mờ hiện ra ở phía trước.

68
LEON chuyển quân. Tôi chuyển quân. Nó chuyển quân. Tôi chuyển quân, về phía hình thù nọ. Nó có vẻ giống một kim tự tháp đổ nát hoặc một miệng núi lửa tắt, nhưng bị xói mòn ghê gớm, đầy mảnh vụn và khe nứt. Ngay sát đỉnh có thứ gì đó nom là lạ, một chỗ lồi lên như một cái mụn cóc khổng lồ. LEON chuyển quân.
Hừm.
Tôi chuyển quân, cần mẫn và khó nhọc đi xuyên qua cơn bão tuyết của dữ liệu.Quá nhiều tiếng ồn và quá ít tín hiệu – tôi nghĩ. Cứ ý như màn hình nhiễu vậy. LEON chuyển quân. Hừm. Không phải cái này. Không phải cái kia. Mỗi lúc một khó lần đường tiến lên phía trước. Mỗi lúc một ít những cái mô đất rắn giữa đầm lầy.
LEON chuyển quân. Những nước đi giả thiết mờ ảo hiện ra rồi lại biến trước mặt tôi. Tôi chuyển quân. Lúc này, tôi thấy mình như đang leo lên các bậc thang dốc, xói lở và mấp mô không đều. Nhiều hình thù lớn vây quanh tôi nhưng không nhìn thấy, hay đúng hơn không hình dung ra chúng là những thứ gì, vì trong trò chơi này, người ta không thực sự nhìn thấy thứ gì cả, người ta chỉ có cảm giác về nó. Có lẽ cảm giác này giống như của anh chàng leo núi mù (tức Erik Weihenmayer, người mù duy nhất cho đến nay chinh phục được đỉnh Everest), người liên tục đạt những kỷ lục mới ở Tây Tạng. Vì không thể hình dung ngay được mọi thứ xung quanh, anh ta phải lần lượt tiếp nhận từng mẩu thông tin, lần tìm đường qua các hẻm núi, giữa các đỉnh núi không hình thù và khe hở rộng ngoác chẳng biết là của cái gì nữa, từ đó, tập hợp lại trong óc hình ảnh con đường một cách cần cù và một chiều, như xâu chuỗi hạt. Những bậc thang dẫn tới ngày Chúa tể 4. LEON chuyển quân. Tôi chuyển quân. Leo lên nữa, lên nữa. Một âm thanh, hay đúng hơn là cảm giác về ký ức về một âm thanh, vọng đến từ đâu đó gần trục giữa bàn cờ, một tiếng rì rầm khe khẽ và đứt quãng, gợi tôi nhớ đến một âm thanh từng nghe cách đây rất lâu, một âm thanh gì đó… hừm. Ký ức đó đã chập chờn hiện ra nhưng tôi không thể nhớ hẳn ra được. Đừng để ý chuyện ấy nữa. Tập trung vào. Lúc này, tôi bắt đầu có cảm giác về một cái hố gần đỉnh núi, thứ mà trong tiếng Ch’olan chúng tôi gọi là k’otb’aj – hang mặt trời. LEON chuyển quân, cố đẩy tôi xuống chân dốc. Tôi đặt thêm một quân cờ nữa xuống bàn. LEON quay lại. Hừm. Nó chuyển quân, tôi chuyển quân, nó chuyển quân… xong. Tôi lại tiếp tục lên dốc.
LEON chuyển quân. Tôi chuyển quân. Lên cao nữa. Lên cao nữa. Hình như có những viên đá màu đỏ gỉ sắt giống đá bọt Badland vỡ lạo xạo dưới chân tôi. Lên cao nữa. Tôi có cảm giác đã lên tới độ cao quá ngọn cây. LEON chuyển quân. Tôi chuyển quân. Lên cao nữa. Độ cao này thì đến kền đền cũng không lên. Tôi đang đứng trên sườn tây ngọn núi, nơi vẫn còn giữ được chút hơi nóng của mặt trời già cỗi. Đây là một mặt trời khác, không phải mặt trời mọc hàng ngày, mà là mặt trời của b’ak’tun, mặt trời 394 năm. Nó sẽ không lên tới thiên đỉnh trước ngày Chúa tể 4. Và vì chúng tôi đang ở nửa kia của thế giới – nửa phản xạ, có thể gọi thế - nên mặt trời này mọc ở đằng tây.
Lên cao nữa. Cao nữa. LEON chuyển quân. Tôi chuyển quân.
Ahhhh.
Ngừng một lát.
Dường như tôi đang đứng trên một bậc chuyển tiếp giữa hai đoạn cầu thang, hoặc một bình nguyên, hoặc một tablero nếu coi ngọn núi này là tàn tích của một kim tự tháp kiểu Teotihucán. Phía trước, cách không xa là một lối của rộng nằm trên một thềm đá phẳng, một hình ô-van nham nhở, không cân xứng, với một lối dốc xuống dẫn sâu vào trong núi, ngay phía sau lối cửa là talud – dốc núi tiếp theo, tiếp tục chạy lên theo một đường thoai thỏai… và tiếp nữa, ở rìa của tablero tiếp theo, hình như tôi thoáng thấy một tảng đá khổng lồ nhô ra, màu da cam xỉn. Tôi di chuyển quân cờ lên phía trước. LEON chuyển quân. Tôi chuyển quân. Đây rồi.
Âm thanh nghe rõ dần, hay tôi nên nói là cảm giác về âm thanh ngày một mạnh mẽ. Nó giống tiếng gào the thé, tiếng kêu be be sâu trong cổ họng và rõ ràng là vọng lên từ con đường ngầm chạy vào trong núi. Và qua độ cong của tiếng vang, tôi có phần nào khẳng định rằng hang động đó còn lớn hơn chính bản thân trái núi, và rằng đủ rộng đến vậy, nó vẫn chật ních các sinh vật. Chúng giống dơi, nhưng không phải là dơi. Có lẽ chúng treo mình thành từng bầy như dơi, hay chí ít những con cùng bầy tụ tập gần nhau, và chúng đông như dơi trong hang động lớn, thực ra còn hơn thế, thậm chí là vô số nghìn tỉ con. Và nghe ra thì không phải dơi. Chúng to lớn hơn. Vì lý do nào đó tôi cảm giác rằng chúng trụi lông. Chúng là thứ gì không biết? Tiếng kêu gợi tôi nhớ đến thứ gì đó, thứ gì đó từ thời thơ ấu, nhưng không liên quan đến Guatemala, thứ gì đó… ồ, phải rồi. Nhớ ra rồi.
Đó là Eumetopias jubatus (Loài sư tử biển sống ở bắc Thái Bình Dương, còn gọi là sư tử biển Stelller). Năm thứ ba sau khi chuyển đến ở cùng nhà Ødegãrd, họ có đưa tôi theo trong một chuyến du lịch cùng các con chiên trong giáo sư đến San Francisco và Seattle; trên đường quay về, xe búyt ghé lại Hang Sư Tử Biển, một điểm tham quan tư nhân nằm ven đường cái gần một thành phố tên là Florence trên bờ biển thuộc địa phận bang Oregon. Vào mùa xuân, ở đây có khoảng ba trăm con sư tử biển Steller tụ tập và kết đôi trên các vách đá. Tôi đi cáp treo từ trên vách núi xuống, đi qua con đường ăn sâu vào núi đá vôi, dẫn ra một bao lơn đục vào đá khoảng ba tầng nhà, bên trên là trần hang cao bằng mười tầng, tôi đứng, cố hiểu xem chuyện gì đang xảy ra với những cái đống nần nẫn toàn mỡ và xương kia. Các con cái kêu rít lên khi các con đực nặng hàng ngàn pound cuỡi lên người chúng. Những con đực đầu đàn và con đực chưa có đôi liên tục gầm rào với nhau hàng tiếng đồng hồ. Nhữnt tiếng rống dội đi dội lại trên mặt đá ướt. Thời buổi này, khi nói “tiếng động lớn và đáng sợ”, anh thường nghĩ đến tiếng động do con người gây ra, tiếng búa khoan san phẳng một đỉnh núi, tiếng những chiếc phi cơ khổng lồ làm nóng động cơ, tiếng nổ, tiếng pháo, vân vân. Nhưng ngay cả khi tiếng động trong cái hang đó tự nhiên một trăm phần trăm – thực ra nó không hề thay đổi, vẫn thế hàng triệu năm nay, thực ra nó không khác lắm tiếng của bầy khủng long lưng gai hay khủng long sừng kiếm, ví dụ thế - nhưng nó vẫn đáng sợ không kém bất kỳ âm thanh nào anh được nghe sau này, thứ âm thanh mà không ai có thể chịu đựng được và hiển nhiên không thể quên được. Tôi nhích lên từng inch một. Trong tiếng ồn có điều gì đó khiến tôi cảm giác các sinh vật kia đang phấn khích, đang xòe rộng cánh, sẵn sàng lao ra khi mặt trời này bị chôn vùi vào ngày Chúa tể 4. Chúng sẽ lũ lượt ào ra thành một dòng gần như bất tận, qua nhiều tunk’atun, và b’ak’tun, chúng sẽ tràn ra khắp trái đất, lớn lên và sinh sôi. Nếu các bạn chưa từng nhìn thấy dơi trong hang động thì tôi có tả các bạn cũng chẳng hiểu, mà nếu các bạn thấy rồi thì chẳng cần tôi giải thích nữa. Nhưng điều đáng sợ nhất nằm ở chỗ chúng dường như đông vô kể. Tưởng như ngay cả trong lòng đấy cũng chỉ toàn dơi là dơi.
Tôi dò dẫm lần đường quanh cửa hàng. Bây giờ, tôi có thể chắc chắn những tiếng kêu gào và rú rít ấy quá đa dạng và lặp lại quá nhiều để có thể coi là kêu bừa linh tinh, tôi dừng lại ở ô cờ này một lát, cố nghe xem chúng đang nói gì, ừ, đúng, đó là một thứ ngôn ngữ nào đó – tôi nghĩ. Nhưng là thứ ngôn ngữ tôi chưa từng nghe, thậm chí tôi cá rằng đó không phải là tiếng người; thực tế, một vài âm tiết gợi tôi nhớ đến tiếng rủa mà lòai khỉ rú thường dùng khi… hừm. Giá tôi có thể nghe rõ thêm một chút, giá tôi có thể đứng lại đây lâu hơn một chút, tôi nghĩ mình đã đóan được ra… nhưng LEON lại chuyển quân và nó không ngừng suy nghĩ trong lúc đồng hồ của tôi chạy; mặt trời đang nhích dần về phía ngày Chúa tể 4 và MÌNH PHẢI ĐI TIẾP – tôi nghĩ. Tôi liền đẩy sọ thứ tám của mình tiến thêm hai ô, cố không tỏ ra bị đẩy vào thế phòng thủ. Đừng để LEON lấy lại thế chủ động, - tôi tự nhủ. Lúc này tôi đang đứng ở một bên cửa hang, tại một vị trí mà tôi có thể ngẩng đầu nhìn lên tảng đá phía trên. Nhìn từ đây, không thể tin rằng nó được chống đỡ bởi thứ gì đó. Nếu nó bị trượt khỏi chỗ đang nằm và lăn xuống, nó sẽ đè bẹp tôi như con bọ chét dưới gót giày sắt. Nhưng nghiêm trọng hơn, nó sẽ bít kín cửa hang và những sinh vật kia sẽ không bao giờ ra được. LEON đi lùi một ô. Tôi tiến một ô, đến vị trí mà tôi cảm giác như chạm được vào mặt dưới tảng đá.
Oa.
Nó nhúc nhích. Khiếp quá. Tôi giật nẩy mình, thu người lại như quả bóng trong ghế, như thể tảng đá đang lao sầm xuống người tôi, nhưng một lát sau, rõ là tôi vẫn còn sống, tôi lại chạm vào nó lần nữa. Nó vẫn ở đó, cho dù “đó” là chỗ nào đi nữa. Tảng đá khổng lồ vẫn đứng thăng bằng ở tâm của trọng lực, nó chỉ hơi lắc lư chậm rãi trong gió quanh cái bản lề bé tí xíu. Nó là một tảng đá bập bềnh, giống như ngôi đền trên tảng đá vàng ở Kyaiktiyo, Myanmar, mỗi ngày dường như lại trượt một tẹo khỏi đỉnh. Quả thực, người ta khó có thể tin rằng ngôi đền đó vẫn chưa rơi hẳn xuống. Nó nằm trên ấy chí ít là hai ngàn năm rồi, mà đấy chỉ là khỏang thời gian mà lịch sử ghi chép lại được thôi. Tôi cảm giác rằng tảng đá mới chỉ hơi mấy thăng bằng một chút thôi, rằng nó hơi ngả sang hướng tây, rằng nó muốn rơi xuống miệng hang và bít chặt nó mãi mãi. Khi dò dẫm đến gần hơn, hình như tôi sờ thấy một hòn cuội đá chặn vào giữa tảng đá và vách núi. Và rồi hình như tôi cảm thấy có một sợi dây hoặc sợi thừng buộc quanh viên đá và kéo căng ra, căng cứng như dây C8 của cây đàn piano, chạy vào khoảng không trống rỗng bên tay trái tôi. Tôi liền hiểu ra: toàn bộ những thứ này là một cái bẫy, một cái bẫy tai ác giống loại bẫy mà thổ dân Paiute trước kia dùng để đè chết chuột vàng và chó sa mạc. Và tôi hiểu ra rằng có kẻ nào đó đang đứng từ rất xa, giữ đầu dây bên kia, đang chuẩn bị tư thế sẵn sàng giật để kéo bật hòn cuội ra, đẩy tảng đá lao xuống hang. Và đây cách duy nhất để ngăn điều đó xảy ra, để những thứ bên trong – dù có là thứ gì đi chăng nữa – được ra khỏi hang đúng như dự tính là tìm cho được cái thằng khốn giữ dây – tức tên doomster – và chặn không cho hắn giật.
Tôi ngả người trên ghế và giật một túm trong mớ tóc, nhờ giời phù hộ, đang mọc lại. Chỉ hơi có cảm giác. Tôi sờ lên mũi nhưng chẳng biết đã chạm vào nó hay chưa nếu không lé mắt nhìn. Tê hết cả người rồi, - tôi nghĩ. Chết tiệt, mình kiệt sức rồi. Tôi ngồi thẳng dậy và cảm giác như có thể với được sợi dây. Nó quá mảnh để trông thấy, hay đúng hơn là hình dung thấy, nhưng vẫn có một vạch xam xám cho thấy nó chạy về hướng bắc – tây bắc, đến ô phần tư màu đen trên bàn cờ, sát với ô màu trắng. Tôi gãi đầu, lùi lại một tí và gần nhu trông thấy sợi dây căng ngang qua đầu và mất hút trong màn hơi mù mịt trên mặt nước Thái Bình Dương. Alaska chăng? – tôi phân vân. Nhìn từ đây thì không nói chắc được. Tôi cảm nhận nó một lần nữa. Không có cách nào nối nó vào ròng rọc hay lần dọc theo nó được, không chỉ vì đây chỉ là tượng tưởng – mặc dù lúc này với tôi nó hoàn toàn y như thật – mà vì trò chơi không cho phép ta làm vậy. Nếu làm vậy sẽ giống như cho quân xe trong môn cờ vua nhảy theo đường chéo. Tôi phải chạy bộ trên đất liền theo nó. Quá khứ. Hiện tại. Tôi lao xuống các bậc thang phía bắc và rẽ sang hướng tây bắc, chạy ngang qua vùng đồng bằng. LEON bám theo tôi. Tôi nhảy về phía trước. Nó nhảy theo. Đôi lúc tôi tưởng như mình cảm nhận được sợi dây ở trên cao, điều đó có nghĩa là cho đến lúc này linh cảm cuối cùng của tôi vẫn đúng, và rằng thằng cha mà chúng tôi đang đeo đuổi – nhân đây, xin kể với bạn đọc rằng chúng tôi đã khẳng định hắn là đàn ông, vì đàn bà không thích tội ác diệt chủng­ có liên quan tới vùng tây bắc Thái Bình Dương (Khu vực nằm phía tây bắc lục địa Bắc Mỹ, chỉ các vùng đất liền chứ không phải đại dương.) Nhưng điều đó cũng không giúp thu hẹp phạm vi tìm kiếm xuống mức chấp nhận được, dĩ nhiên. Nó vẫn rộng chẳng kém gì khái niệm “ẩm thực châu á”. Các công cụ tìm kiếm lại thu nhập được thêm vài nghìn tỉ byte. Chết tiệt, mình cần một thuật toán tinh vi hơn để giải quyết cái đống này. Nhiều khả năng phỏng đoán hơn. Các đường cong khớp nhau nhiều hơn. Một chức năng nên quỷ quái nào đó kiểu Kolmogorov (Andrey Nikolaevich Kolmogorov, nhà toán học người Nga.) Tuy nhiên, hắn chắc chắn phải là một kẻ trong số đó. Thời buổi này, khó còn có người nào không để lại vết tích trên mạng. Để hoàn toàn không có thông tin về bản thân lưu trên thế giới internet, anh phải là một đứa trẻ mới sinh ở một bộ lạc săn bắn hái lượm nào đó tận miền núi New Guinea. Mà như thế thì đằng nào anh cũng chẳng trở thành doomster đựơc. Thằng cha của chúng tôi chắc chắn phải có ít nhiều kỹ năng công nghệ. Gần như không có khả năng hắn không có mặt trong danh sách một trường trung học hạng trung bình nào trong bốn mươi năm trở lại đây. Ngay cả khi học tại gia, hắn vẫn phải đăng ký với một cơ quan giáo dục cấp tỉnh hoặc cấp bang nào đó. Vậy là đã thu hẹp được phạm vi đối tượng xuống còn khỏang một tỉ gì đó trong số 6,8 tỉ người trên thế giới. Cộng thêm việc khoanh vùng trong khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương, con số giảm xuống còn khoảng ba mươi triệu. Khá ngon rồi.
Tôi tiến thêm ba bước về phía tây, tiến sâu hơn vào tương lai, dến tháng 11. Các dữ liệu xoay tít mù quanh tôi, nào tên, địa chỉ, mã số an ninh, hồ sơ nghĩa vụ quân sự, nghề nghiệp, các khoảng đầu tư, tên miền, mã bưu điện, hồ sơ tiền sự, hồ sơ tiền sự vị thành niên có thể đã bị xóa, danh sách nhân viên các công ty tư nhân, danh sách công chức, các phường hội, liên hiệp, hiệp hội ngành nghề, câu lạc bộ xã hội, hội kín, danh sách con chiên theo đạo, đăng ký mua tạp chí dài hạn, thông báo bằng thư điện tử của Google, đăng ký phương tiện giao thông, hồ sơ cước điện thọai, thuốc mua theo đơn, thậm chỉ cả danh sách các đội paintbal (Một trò chơi tập trận trong đó người chơi bắn vào đối thủ những “viên đạn” mang sơn màu), cả một đống tham khảo chéo rối tinh đến mức không thể rối hơn được nữa, hệt như một cái đầu tóc dài bện xoắn xuýt lại với nhau. Tôi chuyển quân. LEON sàng lọc lại thông tin, đánh giá và loại tất, chỉ để lại khoảng 0,00001 phần trăm rồi chuyển quân.
Chưa thấy gì. Tốt thôi. Tôi tiếp tục đi đến tháng 12. Lại một đống thông tin nữa trút xuống. Tôi ngồi chờ. Mạng hôm nay chậm. Một loại vi rút mới nào đó đã làm sập các máy chủ, không chỉ trong vùng mà cả hàng loạt trạm trên cùng đường dây T3. Thiên hạ đồn rằng chuyện này chỉ có chính phủ Mỹ mới làm được. Hoặc là họ - tôi nghĩ – hoặc là một thằng nhóc mười hai tuổi đủ thông minh với một cái bàn phím và một giấc mơ. LEON xử lý toàn bộ số dữ liệu đó, đánh giá từng mẩu thông tin dựa trên khả năng liên đới với tên doomster giả định. Nó chuyển quân. Tôi chuyển quân. Thêm 3 x 1012 mẩu thông tin nữa. LEON cẫn mẫn sàng lọc, không hề ca thán. Lần này, nó đối chiếu với các giáo phái tin vào thời đại hoàng kim và các tín ngưỡng tin vào ngày tận thế đã được ghi nhận. Thể loại này thì đông vô cùng – kết cục của thế giới luôn là đề tại được ưa chuộng – và Taro đã khăng khăng đòi chúng tôi xây dựng một hệ thống để cứ vài nước đi lại kiểm tra đối chiếu một lần. Song tôi vẫn đoán rằng nghi phạm của chúng tôi là một cá nhân độc lập, hoặc cùng lắm chỉ đặt một chân vào các giáo phái thôi. Hắn có thể là một tên Hồi giáo thuộc nhóm thiểu số hoặc một cựu tín đồ của giáo phái Nhân Chứng Jehovah, hay thậm chí là thành viên của giáo phái Đền Mặt Trời hay gì đó, nhưng dù có thể chăng nữa, tôi vẫn cá một ăn năm rằng hắn không phải là thành viên tích cực gì cho lắm. Hắn là một kẻ cô độc. Và cũng không phải thằng đần kiểu Oswald (Lee Harvey Oswald, kẻ ám sát tổng thống Mỹ John F.Kenedy, ban đầu người ta cho rằng hắn thực hiện một mình nhưng nhiều năm sau ban điều tra kết luận vụ ám sát có thể là kết quả của một âm mưu.) Hắn là kẻ cô độc thực sự.
LEON chuyển quân. Khỉ thật. Không thấy gì.
Hừm. Chậm lại nào. Hít thở đi.
Thu hẹp dữ liệu lại. Có lẽ hắn đang khoe khoang. Dù chỉ một tẹo thôi. Tôi lùi lại một chút, về nơi mà chúng tôi vẫn gọi là Không gian Bugmouth. Đó là một dải thiên hà của các dịch vụ internet, mạng liên kết xã hội và mọi cộng đồng mạng khác, thêm hơn một nghìn tỉ thư điện tử lưu trữ, tin nhắn dạng văn bản, các cuộc điện thoại lưu trên hệ thống máy tính và đủ thứ linh tinh khác. Một con quái vật khổng lồ: 2 x 1012 mẩu dữ liệu đến một nghìn giây này. Nhận lấy này, bé LEON.
Nó nhận. Nó tham khảo chéo mọi thứ mà chúng tôi đã làm đến lúc này đống dữ liệu đó: Twitter, Facebook, Bebo, Orkut, Flickr, MySpace, Blogger, Technorati và hàng trăm trang web khác ít được biết đến hơn, cả đang hoạt động, đang ẩn lẫn ngừng hoạt động. Chó ngoan, - tôi thầm khen nó. Tưởng tượng mà xem, người ta từng gọi nó là Siêu xa lộ thông tin. Siêu kho thông tin thì đúng hơn. Đống rác lớn nhất và bốc mùi nhất thế giới. Bãi rác Staten Island của đầu óc. Bất chấp, LEON vẫn xử lý hết. Esta bien.
Dữ liệu lại được thu hẹp. Tôi chuyển quân đến không gian có tên là “ngôn ngữ đặc trưng”. Về cơ bản, nó là danh sách những từ ngữ tầm phào (như Ngày lên thiên đường (Theo một học thuyết thiên chúa giáo, ngày lên thiên đường là sự kiện chúa Jesu tập hợp các con chiên trên trái đất để đưa lên thiên đường, dến khi hết Khổ nạn lại cùng người quay về), Dajjai (Con quỷ trong quan niệm của người đạo Hồi tin vào thuyết tận thế, sẽ xuất hiện trước ngày Phán quyết), Thuyết tái thế BI, Âm ti, Kali Yuga (Thời đại của quỷ Kali, một trong bốn giai đoạn của một chu kỳ sinh diệt của thế giới theo quan niệm của tín giáo)), các câu nói tầm phào (như “tao có một quả bom”, “tao ghét tất cả giống người”, “thế giới phải bị hủy diệt”) và tất cả những gì gợi cho công cụ tìm kiếm ngày một tinh tế của LEON nhớ đến các từ ngữ kiểu như vậy. Tôi nhắc nó liên tục kiểm tra các lỗi chính tả nhưng có thể bỏ qua các lọai ngôn ngữ lăng nhăng. Nghỉ vài giây đi. Mày giỏi lắm.
LEON suy nghĩ và chuyển quân.
Hừ.
Mười ngàn bốn trăm bốn mươi.
Nghĩ là, đến lúc này, sau ba trăm tám mươi nhăm lần chuyển quân, tôi – hay tôi nên nói là LEON và tôi – đã nhận diện được mười ngàn bốn trăm bốn mươi tên doomster tiềm năng.
Dĩ nhiên, chúng tôi đã bỏ qua rất nhiều đối tượng. Tên doomster có thể đã lọt ra ngoài cùng chỗ nước thừa mà chúng tôi đã hất đi. Nhưng tôi vẫn cá một ăn ba rằng hắn nằm trong số mười ngàn bốn trăm bốn mươi này.
Không tồi. Giờ thì chỉ cần lăn lưng với cái đống này thôi. Nào.
Tôi chuyển quân. LEON chuyển quân. Sợi dây vẫn còn ở rất cao nhưng nó đang tiến gần xuống mặt đất. Tám sọ. Tôi mất một sọ. Bảy sọ. Không phải Alaska. Cũng được tí kết quả rồi. Hừm. Không phải California.
A ha!
Không phải ở Mỹ.
Vậy hắn là người Canada.
Kiểm tra các lại các khả năng. Hắn vẫn ở Canada. Tôi cả gan đánh cược là British Columbia hoặc Alberta (Hai tỉnh niềm tay nam Canada). Có thể bỏ qua toàn bộ vùng phía bắc được rồi. A ha. Tao sẽ tóm được mày, cái thằng mông đường thích (Một sản vật của Canada, nơi cây thích là biểu tượng của đất nước) chết toi kia.
Tôi chuyển quân. Hình như tôi đang đứng đâu đó gần Vancouver (thành phố lớn nhất của British Columbia.) Bây giờ là ngày 10 tháng 12, mười một ngày trước ngày Chúa tể 4, và tôi đang tìm kiếm trong đám sương mù. Tôi không thấy gì nhiều lắm nhưng có cảm giác rằng đám sương mù đang tan dần và mọi thứ sẽ sáng sủa hơn. LEON chuyển quân. Được rồi. Không phải ở đó, - tôi nghĩ. Ở kia. Không. Không phải ở kia. Không phải ở đây. Không phải ở đó. Tôi xem lướt qua các hồ sơ. Rất nhiều trong số đó chỉ là những cái tên với một vài thông tin mà không có tên. Có cái chỉ có ký danh của người dùng. Dù gì thì cũng cứ kiểm tra – tôi nghĩ. Đừng có làm thằng ăn mày kén chọn. Được rồi. Đây. Không phải. Không phải hắn. Không phải hắn. Tôi lại có cảm giác gần như chạm được vào sợi dây, chỉ có điều nó cứ nhảy tanh tách từ chỗ này sang chỗ khác, vuột khỏi tay tôi trong cơn bão. Đây rồi. Tôi tóm lấy nó. Những mẫu dữ liệu không trùng khớp chảy ra và biến mất như những tuyết tan trong không trung. Tuột mất rồi. Cố lên nào. Đi tiếp đi. Tôi chuyển quân. Đây rồi. Mọi thứ quả thực đã rõ nét hơn. Hay đúng hơn là… hừm. Chúng không rõ nét về hình dạng, mà về ánh sáng, ánh sáng…
Ái dà. Một vầng sáng xuất hiện phía trước, một vệt màu, đỏ tươi rực rỡ như màu sơn móng tay của tượng thần Maximôn ở San Cristóbal Verapaz. Lạ thật, - tôi tự nhủ. Màu đỏ là màu của phía đông nam. Nó làm gì ở vùng đất Xám này? Hay là mình đi sai hướng? Có thể lắm.
Bíp. LEON chuyển quân.
Hừ.
Màu đỏ tươi. Được rồi.
Tôi chuyển quân. Còn bảy sọ. LEON chuyển quân. Còn sáu sọ. Tôi lưỡng lự. Còn có năm. LEON chuyển quân. Bốn sọ. Tôi chuẩn bị chuyển quân. Không, chờ đã. Tôi rụt lại. Mẹ kiếp. Đừng có nghĩ thật thà thế.
Hít một hơi đã.
Tôi liếc nhìn lên đồng hồ trên màn hình. Ba giờ chiều. Vậy là tôi đã chơi gần tám tiếng đồng hồ, trước đây tôi chưa từng chơi được lâu đến vậy. Nhưng mặt khác, tôi cũng mệt mỏi chưa từng thấy. Mất thăng bằng, suy nhịp tim và vất vả lắm mới nhớ ra được tên mình. Tôi bám lấy hai cạnh của cái bàn phím như thể nó có thể dùng làm phao nếu tôi ngã xuống nước. Cố mà tỉnh táo đi, Jed. Đến những nước cuối rồi.
Đâu đó, những hạt cuối cùng của Bụi Của Người Chèo Xuống Già phát huy tác dụng ngay trước khi các khớp thần kinh bị phê quá liều của tôi suy sụp. Tôi vẫn còn đủ sức phân vân không biết cái vệt màu khi có phải manh mối dẫn điều gì đó không. Một hình thù, một con vật, thứ gì đó liên quan đến màu đỏ ấy, thứ gì dó tôi từng nhìn thấy, một con số, hay thậm chí một từ, một cụm từ?
Tôi chuyển quân. LEON chuyển quân. Còn ba sọ. Còn hai sọ.
Một từ chăng? Không, là hai từ. hai từ ngắn. Từ gì đó tôi từng nhìn thấy, từ gì đó không có nhiều nghĩa lắm. Nó là gì nhỉ, là gì nhỉ…
Tôi chuyển quân.
Một sọ…
Hell Rot à?

69
Trên cửa sổ màn hình thứ nhất, một khối phơ-rông-lạnh (Một hình thái gây mưa.) trải rộng tám trăm dặm, màu vàng nóng trên nền xanh lam sẫm của vịnh Alaska, di chuyển về hướng tây với tốc độ mười hai dặm một giờ. Theo khung chú thích kèm theo, khối không khí sẽ đổ bộ vào bờ biển British Columbia vào lúc 5h30 phút sáng theo giờ chuẩn Thái Bình Dương, tức là sau năm mươi nhăm phút nữa. Mặt trời sẽ mọc vào lúc 5 giờ 22 phút, tức là hai mươi mốt phút sau giờ ấn định của cuộc tấn công. Trên cửa sổ màn hình thứ hai là một hình ảnh chưa được làm tăng độ nét từ vệ tinh do thám KH-13 Ikon, tôi nhìn thấy eo biển George tối sẫm bên tay trái, những đốm đèn đường màu da cam của Vancouver với vệt tối màu của con sông chảy qua, tiếp đến, bên tay phải là cái đuôi dài sáng trắng ánh đèn của đường cao tốc xuyên Canada chạy về phía đông theo hình chữ U rộng lòng, men theo bờ sông Fraser. Ở điểm tận cùng của chiếc đuôi bên góc phải màn hình là một vệt sáng nhòe nhòe đánh dấu thị trấn Chilliwack. Khung chú thích liệt kê vài thông tin cơ bản: rằng Vancouver là trung tâm công nghệ sinh học lớn thứ hai ở lục địa Bắc Mỹ và phát triển nhanh nhất Canada, rằng nó được nhất trí xếp vào hàng bốn thành phố hàng đầu thế giới về mức sống, rằng chỉ số IQ trung bình của người dân khá cao, khoảng 98, và – có lẽ hơi mâu thuẫn nhưng là điều chúng tôi quan tâm – nó có tỉ lệ tự sát trên đầu người cao nhất trong số các thành phố lớn ở Tây Bán Cầu.
Cửa sổ màn hình thứ ba cho thấy hình ảnh một khu hai dặm vuông của thị trấn Chilliwack. Nhìn nó chẳng có vẻ gì đáng sợ đến thế. Có hai khu tách biệt, một chạy dọc theo hướng bắc – nam, một nằm ở cung phần tư tây bắc, chéo hai mươi độ theo chiều kim đồng hồ. Về phía nam, các con phố dài hơn và uốn lượn nhiều hơn, cho biết chúng là nơi có những khu dân cư mới và đẹp hơn. Mạn đông là khu dân cư cũ, cũng có những ngôi nhà to nhưng các khu phố nhỏ hơn và sát nhau hơn, hẹp theo chiều bắc – nam rộng theo chiều đông – tây. Đại lộ Marguerite chạy từ đông sang tây, cắt ngang thị trấn và số nhà 820 nằm chính giữa. Khung chú thích ghi rằng Chilliwack là một cộng đồng hơn bảy mươi tám ngàn dân, rằng tuy kinh tế chủ đạo của thành phố là nông nghiệp nhưng rất nhiều người vào làm việc trong thành phố lớn cách đó sáu mươi dặm về phía tây, chịu đựng những chặng đường dài dằng dặc như một sự thỏa hiệp với lối sống, rằng thu nhập trung bình của dân thị trấn là bốn mươi tám ngàn đô la Canada, rằng tỉ lệ sinh hàng năm là 0,98% và tỉ lệ chết là 0,7%. Chẳng mấy chốc sẽ là 0 và 100% - tôi nghĩ.
- Sao họ không đón lõng khi hắn ra khỏi nhà nhỉ? – Asley thì thầm vào tai tôi. Cô ta vừa bước vào.
- Hắn không ra khỏi nhà bốn ngày nay rồi, - tôi đáp.
- À.
- Dù sao họ cũng cho rằng hắn cất giữ Con Dê ở đâu đó trong nhà. Đó là lý do vì sao họ chờ đến hôm nay.
Cô ta lại “à” một lần nữa. Cô ta ngồi xuống cạnh tôi và nhìn lên màn hình trên tường. Chúng tôi đang tập trung trong một phòng hội thảo lớn tại trung tâm hội nghị tạm thời gần Hyperbowl – “chúng tôi” ở đây bao gồm Taro, Lisuarte, Larry Boyle, Tony Sic, các sinh viên thực tập của Taoro, Michael Weiner (ngồi lù lù một đống trên ghế bên tay trái tôi), tôi và gần như toàn bộ những ai liên quan đến dự án Parcheesi, trừ Marena, người vì lý do nào đó mà tôi không hiểu, đang theo dõi từ xa, tại nhà riêng ở Colorado. Không khí có vẻ thoải mái đến mức tôi gần như tưởng tượng rằng chúng tôi chỉ là một nhóm sinh viên tự động kéo nhau vào phòng giải trí để theo dõi bầu cử qua truyền hình hoặc xem bộ phim Grinch đánh cắp Giáng Sinh như thế nào. Nhưng không phải đâu, - tôi tự nhắc mình, - không phải đâu đấy.
- Chiếc xe téc thứ hai rồi đấy, - Laurence Boyle nói. Hắn chỉ vào cửa sổ màn hình tiếp theo, màn hình thứ tư, với một chấm laser màu xanh nước biển. Nó đang hiển thị hình ảnh trực tiếp thu từ một vệ tinh ghi hình trong bóng tối; hình ảnh tập trung vào bốn khu nhà, chính giữa là nhà của gia đình Czerwick. Có thể trông thấy rõ căn nhà có hai đầu hồi, một gara hai xe ô tô với cái mái bằng úp chụp lên trên và một cái bàn khá to trong khoảng sân sau dài và hẹp. Mái nhà rất tiếc lại được làm bằng hợp kim mạ đồng nên tia hồng ngoại khó lòng lấy được hình ảnh từ trên cao. Chiếc xe téc mà Boyle vừa chỉ nhìn giống một lon Red Bull, không bật đèn pha, lừ lừ tiến vào, đỗ sau chiếc thứ nhất trên phố Emerald, cách đại lộ Marguerite hai tòa nhà về phía nam. Tôi đứng lên, ngó qua đầu Tony Sic để nhìn cửa sổ màn hình thứ năm. Nó có hình ảnh nét thu từ một máy quay đặt trên tháp truyền hình cách trung tâm năm khu nhà, bao quát được toàn bộ 800 khu nhà từ một góc nghiêng 45 độ. Qua góc quay này, có thể thấy căn nhà có áng chừng bốn phòng ngủ, vừa đủ kiểu cách để người ta nhận ra là nhà của người da trắng. Thềm trước cửa có bốn bậc dẫn lên một hàng hiên có mái che, khoảng trống này sẽ làm đội phản ứng nhanh mất chừng một giây gì đó. Nhưng ngôi nhà không lớn lắm – khu này được xây dựng từ năm 1988, ngay trước thời kỳ hoàng kim của McMansion (Tên dùng để chỉ những căn nhà lớn của tầng lớp trung lưu) – và tay đội trưởng nói họ có thể kiểm soát toàn bộ trong vòng không đến tám giây. Các căn nhà ở cả hai bên đường đều na ná như căn nhà này, chỉ khác nhau tí tẹo. Một vài sân nhà có trồng mấy cây phong đang độ tráng niên. Chúng vẫn chưa ra lá. Mọi thứ nom có vẻ bình thường. Thậm chí có thể coi là định nghĩa của sự bình thường. Lúc trước thì mình có thể khẳng định như vậy, - tôi nghĩ. Từ vài chục năm nay, ai cũng biết rằng các khu ven đô là một ý tưởng tồi, nhưng người ta vẫn cứ xây dựng chúng rồi bây giờ lại thắc mắc không biết những điều tệ hại đầu từ đâu tới.
Ông bố và bà mẹ - ở tuổi ba mươi sáu, Madison Czerwick vẫn sống cùng cha mẹ - hầu như chắc chắn đang ngủ ở phòng ngủ lớn ở tầng hai. Ai đó, có thể là em trai hắn, ngủ ở phòng phía sau. Madison – chúng ta sẽ gọi tên hắn thay vì họ - nhiều khả năng đang ngồi trong phòng mình. Tất cả các màn hình theo dõi khác đều cho thấy cái mà người ta gọi là “khung cảnh phù hợp với giấc ngủ đêm”. Nghĩa là không hề có ti vi, đèn bàn ở tầng một và tầng hai. Hơn một giờ đồng hồ vừa qua chưa thấy chuyển động nào của con chuột máy tính. Điện thoại, máy tính bỏ túi và các thiết bị truy cập mạng khác đều tắt. Biểu đồ đo điện chạy không dứt khoát, nghĩa là có thứ máy móc gì đó, tuy không lớn, đang chạy dưới tầng hầm. Có thể tất cả đều đang nằm ấm cúng trên giường mình. Với hình ảnh của tội ác diệt chủng đang nhảy múa trong đầu.
- Họ đang bàn chuyện lùi lại năm phút, - tiếng Ana thông báo qua hệ thống loa chung, có thể nghe thấy cả các giọng nói khác xì xầm phía sau, - để chuẩn bị cho xong các đường ống.
- Cảm ơn cô, Vergara, - Boyle đáp. Cô á? Vào lúc khác, tôi và tất cả những người khác có lẽ đã phì cười. Nhưng hôm nay thì không. Ana – người té ra ít giống lính tráng, mà giống vận động viên nhà nghề hơn tôi nghĩ – là một trong khoảng ba mươi hành khách ngồi trong toa moóc của một chiếc xe nhà di động được cải tạo khá lịch sự, đỗ cách số nhà 820 chừng mười khu nhà.
- Đây, họ đây rồi, - Ana nói. Con trỏ của cô ta xuất hiện trên màn hình số 5, khoanh tròn quanh một nhóm bốn người đang nối những cái ống dài màu trắng vào sau hai chiếc xe téc màu vàng. Họ xếp những cái ống thành hai đường thẳng thớm dẫn đến nơi cách nhà 820 năm mươi feet, mỗi đầu để chừa vài trăm feet. Ngừng lại một lát. Ai đó vặn van, hai đường ống căng lên, đến chỗ để chừa thì dừng lại, tôi đoán ở đó có một cái van khác để chặn. Đã thấy hơi nước tụ dày đặc quanh hai đường ống. Chúng chứa đầy nitơ lỏng mà chúng tôi hy vọng có thể khống chế Con Dê.
Trong ngày điều tra đầu tiên, các thám tử phát hiện ra Madison đã từng bị “tước quyền” tiếp xúc với một quần thể Brucella abortus được “gây với mục đích đặc biệt”. Đến cuối ngày thứ hai, họ khẳng định rằng các hoạt động trên mạng internet của hắn, nhất là các bản đồ gen mà hắn tải về, cho thấy hắn đang tích cực tìm hiểu cấu trúc AND của chúng. Brucella (Vi khuẩn này không lây từ người sang người) là một loại vi khuẩn lâu đời và đáng tin cậy, anh chỉ có thể bị nhiễm khi đỡ đẻ chO một con trâu nước hay uống sữa dê chưa tiệt trùng chẳng hạn. Lâu nay, nó vẫn được gọi là bệnh sốt Malta, “sốt dê”, sảy thai nhiễm khuẩn (Ở gia súc), bệnh dịch Bang và hàng trăm cái tên khác. Chúng tôi thì chỉ gọi đơn giản là Con Dê. So với loại vi rút được phát tán ở Disney World, các triệu chứng do vi khuẩn này gây ra chẳng là gì: bất thần đổ mồ hôi có mùi như rạ ẩm, đau cơ, choáng váng và tử vong, dĩ nhiên. Cũng khá ghê rợn, nhất là phần đổ mồ hôi. Tốt nhất là nhớ mang theo một lọ khử mùi hữu cơ trên đường xuống âm ti.
Tai tiếng lớn nhất của Con Dê là nó là loài khuẩn hình que đầu tiên được vũ khí hóa bởi tay chính phủ Mỹ. Năm 1953, họ đã thử nghiệm nó trên động vật, dưới dạng bom chùm tương tự như với khuẩn than sau này. Lực lượng không quân đã chọn sử dụng nó vì không như phần lớn các khuẩn hình que khác, nó có thể tồn tại nhiều giờ trong quá trình chuyên chở bằng máy bay, và thú vị hơn, nó có thể xâm nhập qua da người mà không cần có vết sứt sẹo nào, vì thế, khi chuyển chúng từ ống nghiệm này sang ống nghiệm khác, dù anh có đeo mặt nạ chống hơi độc NBC mà để hở một mảng da thì anh cũng sẽ thành mẩu bánh nướng.
Tuy vậy, đến những năm 1970, các chủng còn lại của loài vi khuẩn này đã bị cấm sử dụng và được lưu trữ trong tủ băng tại kho quân sự Pine Bluff Arsenal ở bang Arkansas. Đến những năm 1980, chúng được cho là đã bị hủy. Nhưng từ đó trở đi, có kẻ nào đó vẫn đang táy máy với loại vi khuẩn này, hoặc để phát triển các phương thức chống lại nó, hoặc để bán, hoặc có thể cả hai.
rong vòng mười sáu tháng kể từ khi mất việc ở chi nhánh Vancouver của CellCraft, Madison đã phát triển Con Dê lên mức đáng kể. Chủng Czerwick – theo dự đoán của Trung tâm Phòng chống và Kiểm soát Dịch bệnh qua những những gì họ tìm được trong ổ cứng máy tính của Madison – hiện có các đặc tính tức thời phổ biến như sinh sản nhanh, kháng chất diệt trùng, không gây triệu chứng ngay sau khi nhiễm và hoạt động như một quả bom hẹn giờ chính xác đến từng ly. Nhưng đặc điểm cải tiến đang chú ý nhất là khả năng truyền nhiễm linh hoạt. Các chủng Brucellis cổ điển có thể lây truyền từ một vài loài động vật sang người và có thể là từ người sang động vật. Nhưng đa số các loài động vật hoàn toàn miễn nhiễm, hoặc do tuổi thơ hoặc phương thức sống mà không thích hợp để làm trung gian truyền bệnh cho người.
Công trình của Madison đã đào rộng thêm cái hố của các trung gian truyền bệnh tiềm năng một cách đáng kể.  Chủng vi khuẩn mới biến đổi nhanh hơn, theo hướng dễ thích nghi hơn bất cứ loài khuẩn hình que tự nhiên nào khác. Cứ như thể chúng tự biến đổi được AND của chính mình để thích ứng với cấu trúc prô-tê-in của hàng trăm họ động vật khác nhau cứ không chỉ loài linh trưởng. B, czerwichi có thể nhảy qua rào cản của sự khác biệt giữa các loài hết lần này đến lần khác, nhảy qua nhảy lại, khắp sinh quyển. Thông thường, bệnh dịch sẽ ít gây tử vong hơn khi chúng lan rộng – vì nếu không sẽ chẳng còn động vật trung gian nào để truyền bệnh – nhưng vì có quá nhiều loài có thể làm trung gian truyền Con Dê nên cũng còn chán mới đến được cái ngưỡng ít gây tử vong ấy. Theo một vài dự đoán của Trung tâm Phòng chống và Kiểm soát Dịch bệnh, Con Dê có thể giết sạch các loài thuộc họ linh trưởng và toàn bộ hoặc phần lớn các loài có vú khác. Điều đó cho anh thấy con chồn nhỏ Czerwick mà tức giận thì sẽ như thế nào.
Giống như các vị tổ tiên của mình, Con Dê có thể bị tiêu diệt bằng kháng sinh trị nhiễm trùng tiêm thẳng vào cơ. Nhưng với việc phát bệnh hàng loạt vào đúng một thời điểm ấn định trước, sẽ chẳng có đủ thuốc kháng sinh cho tất cả, cho dù còn đủ người để đi phân phát chúng. Và đương nhiên, Trung tâm Phòng chống và Kiểm soát Dịch bệnh đã bắt tay vào nghiên cứu vắc-xin, nhưng phải mất thêm một thời gian nữa mới hoàn tất và hơn một năm nữa mới có thể sản xuất được thuốc hàng loạt. Các dự đoán của Trung tâm Phòng chống và Kiểm soát Dịch bệnh – hay chí ít cũng là các dự đoán mà chúng tôi được biết – chỉ ra rằng chỉ một số người sinh sống ở các vùng gần cực có thể sống sót. Nhưng với khả năng chịu lạnh của Con Dê, con số đó cũng sẽ không nhiều. Thứ vi khuẩn đó có thể lây khắp các loài này sẽ khiến vùng cận cực cũng trở nên quá nóng đối với con người trong vòng vài thập kỷ, ít nhất là thế.
- Anh nghĩ hắn có bao nhiêu thứ đó trong đấy? – A2 hỏi. Tôi nhận ra cô ta đang đứng kiễng chân để ghé được vào tai tôi. Tôi đoán cô ta quá lịch sự hoặc quá câu nệ để nắm lấy vai tôi và kéo đầu tôi thấp xuống. Tôi hơi cúi xuống.
- Ana đoán khoảng hai ga-lông, - tôi đáp. – Hắn dùng bovine colloid (Một loại protein dùng làm môi trường nuôi cấy vi khuẩn) nhiều như cháo đậu vậy.
- Như thế có đủ không?
- Ý cô là có đủ để tiêu diệt cả hành tinh không á?
- Ừ.
- À, cô phải tính rằng mỗi ga-lông chứa khoảng ba phẩy tư nghìn tỷ con vi khuẩn, - tôi đáp, - vì vậy, nếu tốc độ phân chia là 10% một ngày thì ngay cả khi tỉ lệ chết tự nhiên là 20% một ngày, cô cũng sẽ có 2 x 1018 con trong vòng một tuần, nhiều hơn phần lớn các đại dịch khác.
- Ồ.
- Đúng thế đấy. Tùy thuộc vào số lượng các loài trung gian truyền bệnh tăng thêm… trong vòng một tháng, nó sẽ đông đúc và phổ biến như… như khuẩn tụ cầu chẳng hạn.
- Gesundheit (“Sức khỏe”, một câu trong tiếng Đức mà người ta thường nó khi có người hắt hơi), - Micheal ghé vào tai tôi.
- Cảm ơn, - tôi đáp.
- Phải đấy, chẳng có gì hài hước bằng chuyện cười về cái giá treo cổ, - lão gật gù.
- Chí ít thì có vẻ như họ đã nắm rõ tình hình, - Ana nói.
- Hy vọng thế, - tôi đáp. Thực ra cô ta đúng, hay phải nói là đúng hơn tôi. Theo những gì tôi thấy, chí ít là vậy, các thám tử Mỹ và Canada – thật đáng kinh ngạc – đã hoàn thành xuất sắc công việc. Tôi tưởng họ sẽ mất hàng tuần để thu thập các chứng cứ kết tội hắn, nhưng họ đã xong xuôi chỉ trong có vài ngày. Thực tế, hắn đã để lại khá nhiều dấu vế trên blog, đủ để các bạn nghĩ rằng đáng ra tôi phải phát hiện ra hắn từ lâu rồi. Hắn cứ lải nhải suốt rằng vụ Disney World là do bàn tay của một kẻ lo sợ người khác sẽ làm việc đó trước hắn, rằng hắn lo sợ một thằng nhãi ranh nào đó sẽ ăn cắp vị trí của hắn trong lịch sử chứ không thực sự quan tâm đến vấn đề này. Đáng ra mình phải biết là hắn ngay từ lúc ấy chứ - tôi tự nhủ đến lần thứ “n”. Thằng đần. Nhẽ ra mình đã có thể tránh được toàn bộ chuyện này. Nhưng đâu có dễ thế, phải không? Nhất là đối với một người như tôi, người phải gắng sức mới có thể thấu cảm. Dù sao, cứ nghỉ ngơi tí đã. Hell Rot không phải một trang web thông dụng, nhưng hàng ngàn người đã xem nó, trong đó có cả các nhân viên theo dõi hồ sơ tội phạm của DHS, và chẳng ai trong số họ đánh dấu nó để lưu ý, bất chấp việc nó có những câu như thế này:
Con người đã viết sách, làm
phim và trò chơi về NGÀY TẬN
THẾ TỪ BỐN NGÀN NĂM NAY
BỞI HỌ BIẾT ĐÓ LÀ ĐIỀU NÊN
LÀM. Và cuối cùng điều đó cũng có thể
 thực hiện được [trích dẫn nguyên văn]
Có lẽ nó lọt lưới đơn giản vì Madison không đề cập thứ gì cụ thể. Hắn không nhắc đến bất cứ cái tên, địa điểm hay ngày tháng nào. Nói đến chuyện này, có điều lạ lùng rằng hình như hắn đã chọn ngày 21 tháng 12 một cách ngẫu nhiên, chí ít là qua những gì thấy trên blog của hắn. Không hề có chữ nào về lịch Maya hay những thứ liên quan đến thời kỳ tiền Columbia, hay bất cứ thứ gì tương tự. Như thế hắn đơn giản lôi nó ra từ cái mũ giấy của mình, mà tôi chắc chắn không phải vậy.
- Hai trăm giây, - Ana nói.
Tất cả mọi người trong phòng ngồi thẳng người dậy. Micheal Weiner chuẩn bị ho nhưng cố nén lại. Lần này không có ai nôn mửa. Người nào đó bật đài theo dõi chiến dịch và chúng tôi lắng nghe tiếng viên chỉ huy kiểm tra toàn bộ các đơn vị lần cuối.
- Hazmat A? – tiếng anh ta vang lên.
- Đã vào vị trí, - giọng một phụ nữ của đơn vị Hazmat A trả lời.
- Hazmat B?
Trong vòng sáu mươi giây tiếp theo, họ rà soát một danh sách dài: một đơn vị phụ trách hóa chất, một chuyên gia về chất độc, một đơn vị hạn chế hiểm họa sinh học sử dụng các bình xịt chống vi rút và vi khuẩn, hai chuyên gia về thuốc xông, hai xe téc chở ga nén, một xe tải chở đầy chó nghiệp vụ đánh hơi, một đội rà phá bom mìn, một rô bốt phá bom nổ chậm, một người điều khiển rô bốt phá bom nổ chậm. Tiếp đến, ba nhóm biệt kích, mỗi nhóm năm người, báo cáo có mặt. Đúng ra, phải gọi là “đơn vị” chứ không phải nhóm. Mỗi đơn vị có một chỉ huy, hai lính chiến đấu, một người phát hiện mục tiêu và một người cảnh giới phía sau. Hai đơn vị sẽ xông vào qua cửa trước, kiểm soát các phòng từ tầng một trở lên. Đơn vị còn lại sẽ đột nhập từ phía sau, kiểm tra bếp sau đó xuống tầng hầm.
- “High Man” A?
- Đã vào vị trí, “High Man” A đáp.
Sau anh ta, thêm sáu người phát hiện mục tiêu, hay còn gọi là “High Man”, báo cáo có mặt. Mỗi người đóng tại một vị trí khác nhau trên mái nhà hoặc cột điện thoại. Thông thường, một vài trong số đó đồng thời là lính bắn tỉa, nhưng hôm nay không ai có vũ khí. Thực tế, chiến dịch Con Dê khác phần lớn những cuộc đột kích khác ở chỗ không hề có khẩu súng nào gần khu vực tấn công. Lý do không chỉ vì không có khả năng bị bắn trả - ai quan tâm đến chuyện ấy cơ chứ, khi tất cả chúng ta đều sắp toi cả? – mà vì “việc bắt được nghi phạm trong tình trạng còn sống và nguyên vẹn quan trọng hơn mạng sống của cảnh sát”. Xuất hiện cuối cùng là các cỗ xe chuyên dụng. Hai xe cấp cứu chạy vào phố Marguerite và đỗ lại cách nhà số 820 một khu nhà. Một xe cứu hỏa thông thường đỗ trên phố Ermerald. Khoảng hai mươi xe cảnh sát không biết từ đâu lù lù hiện ra, vây thành một vòng tròn quanh bốn khu nhà với tâm là số nhà 820.
- Còn vấn đề gì không? – viên sĩ quan chỉ huy hỏi. – Tốt rồi. Chúng ta còn cách giờ T bảy mươi giây nữa. Tôi muốn kiểm tra lại công tác chuẩn bị đối với nhà số 820.
- Tất cả đã sẵn sàng, - một giọng đặc Anh trả lời. Ý anh ta là họ đã sẵn sàng tắt nguồn điện ngay khi các đơn vị biệt kích phá cửa để ánh sáng không làm chói mắt kính nhìn trong đêm của họ, và rằng chuông báo động ở cửa nhà Czerwick đã được ngắt tại trạm cung cấp dịch vụ, và rằng bà Czerwick nuôi hai con mèo chứ không nuôi hai con chó. Ana cũng thông báo rằng toàn bộ sáu con chó của nhà hàng xóm, được đánh giá là cảnh giác quá mức, đều đã bị đánh thuốc an thần nhẹ. Tôi không biết rõ họ làm điều ấy bằng cách nào, nhưng họ không muốn lộ thông tin cho bất cứ ai ở các nhà xung quanh, vì thế, có thể là họ cho người lẻn vào, mang theo diazepam nhét trong thịt lợn muối xông khói. Sự chuẩn bị ở đây còn bao gồm cái họ gọi là “làm chậm đường dây”. Tức là vào lúc hai giờ sáng, họ đã đẩy lùi thời gian của toàn bộ căn nhà đi sáu mươi giây. Họ cài đặt lại đường dẫn đến đồng hồ nguyên tử trên các máy tính của Madison, chỉnh đồng hồ trên internet và trên điện thoại di động chậm đi sáu mươi giây, thậm chí còn gửi các tín hiệu mới đã được làm chậm thời gian đến chảo bắt sóng truyền hình trên mái nhà và các máy radio kiểu cũ mà người trong nhà có thể bật lên. Đương nhiên, tất cả đồng hồ đeo tay, đồng hồ bàn và đồng hồ bỏ túi không được kết nối qua sóng hoặc mạng internet sẽ tắt hết, nhưng thời buổi này ai còn xem giờ bằng những thứ ấy nữa? Như vậy, nếu có kẻ ba hoa nào nhận thấy có chuyện đang diễn ra ở đây và bắt đầu thông báo trên mạng và truyền hình (tôi thấy nó đủ ghê gớm để làm xôn xao cả nước) thì họ sẽ chặn được nó lại.
- Rồi, - viên sĩ quan chỉ huy nói. – Đơn vị Brown, tôi muốn…
Sóng radio bị ngắt. – Im lặng.
Có cảm giác rằng tất cả - nghĩa là tất cả những người ngồi trong phòng hội thảo này – đều đang nhấp nhổm một cách bất an, hệt như đang xem hồ sơ của CIA thì có một cái bút bôi đen gạch xoẹt mất một dòng.
- Tôi cá là anh ta đang kiểm tra các FAE, - giọng Ana vang lên.
Ý cô ta là bom nhiệt áp. Và cô ta đang ám chỉ tới một mẩu thông tin mà chúng tôi, có thể là cả những người đang ngồi trong xe moóc, thậm chí có thể là chính Lindsay Warren – người chắc chắn đang ngồi xem từ phòng an toàn cách ly mầm bệnh ở Hyperbowl – đáng ra không được phép biết.
Trước đó, trong các buổi họp bàn về chiến dịch Con Dê, đã có không chỉ một người nhắc đến khả năng phá hủy cả thị trấn. Hình như thời buổi này, một việc như vậy có thể được thực hiện chỉ bằng một chuỗi bom nhiệt áp đặt ở các vị trí sao cho đảm bảo thiêu hủy mọi thực thể sống trong khu vực. Ana cho biết Mỹ đã làm như thế hai lần ở Afghanistan, và cả hai lần, không một hiểm họa sinh học nào lọt được khỏi các nhà máy bị tấn công. Tuy nhiên, lựa chọn này bị loại bỏ khá nhanh chóng, không phải vì vấn đề lương tâm, mà vì vẫn có khả năng Madison âm mưu cùng những kẻ khác – bất kể các phân tích tâm lý cho thấy khả năng này không nhiều – hoặc có những kẻ khác biết về hắn, hoặc hắn biết về những kẻ khác, hoặc hắn đã gửi một vài phần của công trình nghiên cứu cho những kẻ khác qua thư điện tử, hoặc những kẻ khác đã gửi thứ gì đó cho hắn, hoặc kinh khủng nhất là hắn đã bắt đầu phát tán vi khuẩn. Chưa rõ hắn lên kế hoạch tiến hành việc này như nào, nhưng có thể chỉ đơn giản là gửi các gói nhỏ đến nhiều địa chỉ khác nhau khắp thế giới.
Hai ngày trước, Ana nói với chúng tôi rằng cô ta đoán các quả bom áp nhiệt vẫn được nối mạch và đặt quanh thị trấn và rằng ai đó ở Victoria sẽ cho nổ nếu họ khẳng định rằng sự phát tán không thể kiểm soát đã diễn ra. Cô ta nói một phần lý do của sự “bỏ rẻ” này là các bị chóp bu ở Washington D.C và Ottawa – giám đốc FBI và CSIS (Cục Tình báo Canada) chẳng hạn – không muốn phải lộ diện. Nếu các chuyên gia về chiến tranh sinh học khẳng định rằng sự phát tán không thể ngăn chặn đang diễn ra thì chúng tôi nên sẵn sàng đón nhận việc cả khu vực này biến mất và hy vọng rằng nhiệt của quả bom đã diệt được phần lớn vi khuẩn. Trong cuộc hội đàm nhiều bên qua điện thoại, Micheal đã hỏi cô ta rằng vì sao cô ta vẫn còn ở đó, trong khu vực bị cho nổ, nhưng Ana bỏ qua câu hỏi. Tôi đoán đơn giản là cô ta quá nam tính để nghĩ đến những chuyện ủy mị đàn bà như tính mạng cá nhân.
Tiếng viên sĩ quan chỉ huy lại cất lên.
-…hai mươi giây. Tất cả sẵn sàng chưa?
Căn phòng chúng tôi ngồi im phăng phắc. Trên loa, chỗ Ana đang ngồi cũng không một tiếng động. Trên màn hình, căn nhà số 820 phố Marguerite vẫn bình yên. Ai đó vừa bật tiếng của chiếc micrô thu tiếng trên phố Marguerite, có tiếng bồ câu gù gù và một chút gió nhẹ thổi qua các cành cây trơ trụi, nhưng ngoài ra không còn gì.
- Khoan, chờ đã, - tiếng viên sĩ quan chỉ huy. – Tạm dừng đếm ngược.
Lại một sự im lìm. Thoạt đầu là khó chịu, rồi khó chịu hơn, rồi không thể chịu đựng được. Quanh tôi, người ta ngọ nguậy. Tôi gửi thấy mùi mồ hôi trong phòng. Có âm thanh là lạ ngay cạnh tôi và tôi nhận ra đó là răng của A2 đang va lập cập. Có nên vòng tay sang ôm lấy cô ta không nhỉ? Không, đừng. Không khéo cô ta sẽ đột quỵ nếu có thứ gì chạm vào người bây giờ.
- Cửa sổ màn hình số 6, - Ana thông báo, - không có gì đặc biệt, một người hàng xóm thôi.
Con trỏ của cô ta chỉ vào ai đó với mớ tóc đỏ lồng phồng, mặc áo choàng tắm. Đó là một phụ nữ ở nhà bên cạnh, số 818. Bà ta uể oải đi ra chỗ chiếc xe ô tô đang đậu ở lối vào nhà, chậm rãi mở cánh cửa, lục lọi tìm thứ gì đó ở ghế trước nhưng không thấy, liền lững thững vòng sang cửa ghế lái. Tôi tưởng mình sắp giật bong cả da đầu. Chỉ còn cách giờ phút quan trọng nhất của trái đất kể từ sau vụ thiên thạch Chicxulub có mười hai giây và chúng tôi đang phải chờ một bà Endora nào đó đi tìm lọ thuốc nhuận tràng của bà ta. Bà ta mở cánh cửa bên ghế lái, tìm thấy thứ cần tìm, đóng nó lại, lệt xệt kéo đôi dép lê to tướng quay vào nhà. Đến lúc này, tôi chắc chắn một người nào đó trong số chúng tôi sắp nôn, hoặc mất kiểm soát đường ruột, hay chí ít là bất tỉnh. Nhưng chẳng ai làm sao hết. Tôi đoán chúng tôi hoặc đơn giản là những kẻ sắt đá, hoặc đã dùng thuốc đủ mạnh.
Cửa nhà 818 khẽ đóng lại.
- Được rồi, - viên sĩ quan chỉ huy nói. Ngay cả giọng anh ta cũng có phần run run. – Tất cả vẫn ở nguyên vị trí chứ? Tốt. Đếm ngược lại từ đầu, hai mươi giây.
Một giọt gì đó lăn xuống má tôi, tôi nhận ra đó là mồ hôi từ chính trán mình. Tôi chùi mặt vào cổ tay áo jacket – chính là chiếc áo hiệu Varvatos màu xám tôi mặc trong chuyến đi cùng Marena và Max cách đây bảy mươi triệu năm – nhấc chiếc mũ lên, dùng tay xoa một vòng quanh mớ tóc chưa mọc và lại đội vào. Ôi giời. De todos modos.
- Bảy, sáu, - tiếng viên sĩ quan chỉ huy. – Sẵn sàng nào. Ba, hai, xuất phát.
Trên cửa sổ màn hình số 5, mười lính của đơn vị A và B lao qua bãi cỏ như bóng những con quạ bay ngang qua mái nhà. Xem ra họ đã chuẩn bị chìa khóa của cả hai cánh cửa, chúng mở ra mà không gây bất cứ tiếng động nào chúng tôi có thể nghe thấy và hai đơn vị đã lọt vào bên trong. Họ mất tròn bốn giây để ào qua sảnh, vào phòng khách, phòng ăn và lao lên các bậc cầu thang trải thảm nhựa. Hình ảnh thu từ máy quay đặt lên trên mũ của một người cho thấy lờ mờ những bức ảnh đóng khung nhựa mạ vàng trên tường: các lễ tốt nghiệp, các đám cưới và ảnh Madison nhận cúp phần thưởng ở hội chợ khoa học của trường tiểu học. Thông thường, đội đặc nhiệm làm ầm ĩ hết mức có thể khi họ ập vào nơi nào đó, nhưng cuộc đột kích này được vạch kế hoạch trên giả thiết rằng Madison có thể đang đặt ngón tay lên kíp nổ. Vì vậy, chỉ có tiếng cọt kẹt của ván sàn, tiếng ro ro của cái tủ lạnh cũ trong bếp và những cái bóng thoăn thoắt như thể căn nhà là một cái chuồng chim lớn và lũ quạ đang bay về, con nào rúc vào tổ con nấy. Các tay lính đồng loạt ập vào ba buồng ngủ. Ôi, trời ơi. Một khuôn mặt. Một khuôn mặt gớm ghiếc nhe nanh như thằng ăn cướp thình lình lao bổ vào chúng tôi trên màn hình của chiếc camera gắn trên chiếc số 6. Có tiếng thở hổn hển quanh tôi, và Lisuarte giật mình co rúm người lại. Đó là một trong hai con mèo của nhà Czerwick trong tư thế vồ. Nó biến khỏi màn hình. Khi hết giật mình, chúng tôi nhận thấy, qua camera gắn trên mũ của hai người khác thuộc đơn vị A, ông bố và bà mẹ đang bị khống chế một cách khá lặng lẽ trên giường. Một bàn tay rắn rỏi đeo găng Kevlar bịt lên miệng bà Czerwick. Trên màn hình camera số 9, họ đang khống chế thằng em trai hai mươi bảy tuổi của Madison, hắn vùng vẫy và đá chân đá cẳng nhưng vô ích. Và chiếc camera số 6, chiếc đã đụng độ với con mèo, lúc này đang ở bên trong phòng Madison, trên đó…
Hở, Madison không ở trong phòng hắn.
- Ôi, chó chết thật, - Tony Sic nói.
- Số 16, - Larry Boyle nói. Giọng hắn the thé một cách bất thường, - xem số 16.
Chúng tôi nhìn sang màn hình số 16. Đó là hình ảnh thu từ camera của một lính thuộc đơn vị C. Có cái bóng lờ mờ của các bậc thang tầng hầm, một vài hình thù sáng lên giữa một khoảng tối, và sau một vài hình ảnh khác trong chưa đến nửa giây, một chiếc sô pha hiện lên. Một bức tượng bán thân béo lùn, trần trụi ngồi trên sô pha. Một cái đầu cắm trên bức tượng. Một cái miệng rộng há ngoác nằm giữa khuôn mặt. Đó là khuôn mặt của Madison. Có tiếng động nghe như một cái loa trầm bị nổ dây loa và toàn bộ màn hình camera của đơn vị C tối sầm lại.
- Đó là NFDD, - tiếng Ana vang lên với những âm thanh rin rít hoặc rền rĩ gì đó phía sau.
- Là cái gì thế? – Michael Weiner hỏi. Bộ xử lý hình ảnh của cá camera trên mũ đã bắt đầu tự điều chỉnh và một vài hình ảnh lộn xộn xuất hiện lại trên các cửa sổ màn hình.
- Thiết bị nghi binh âm thanh và ánh sáng, - cô ta đáp. Một trong số các lính đột kích đã quăng thứ mà họ gọi là “cú đánh kép” vào tầng hầm. Đó là một vật nhìn như hai quả bóng quần màu vàng cặp vào với nhau. Một quả là lựu đạn cháy nổ thông thường với cường độ sáng tám triệu candela và tiếng nổ 180 decibel. Quả thứ hai là lựu đạn hơi cay, phát tán khoảng hai trăm hạt cao su rắn nhỏ li ti. Nó làm suy yếu đối tượng một cách an toàn hơn, nhất là khi hắn kịp nhắm mắt và bịt tai trong lúc lựu đạn nổ.
- À, phải, - Micheal đáp.
- Suỵt, chúng tôi muốn nghe đoạn này, - Larry Boyle nói.
Chúng tôi lắng tai nghe nhưng tất cả những gì nghe thấy chỉ là một tiếng ré như dê kêu. Nó lịm dần thành tiếng thở hổn hển nặng nhọc, và rồi hình như hắn đột nhiên lấy lại được giọng.
- Vụ tấn công này là sao đây? – hắn hỏi. Cái giọng nam cao của hắn rất quen thuộc với chúng tôi qua máy nghe trộm điện thoại, nhưng lại rờn rợn khi nghe trực tiếp như thế này, nhất là khi nó điềm tĩnh một cách khác thường. Các tay lính đột kích bật đèn flash và chúng tôi trông thấy hình ảnh cận cảnh chân thực bộ mặt của Madison. Tôi nghĩ hắn định nói tiếp “các ông cảnh sát?” nhưng chưa được một nửa thì mấy bàn tay đeo găng đã chẹn lên miệng hắn. Lính đột kích không được để hắn nói ra bất cứ điều gì, phòng khi hắn có công tắc kích hoạt bằng giọng nói đặt ở đâu đó. Trên các màn hình lại xuất hiện những hình thù nhiễu nhằng nhịt trong vòng hai giây, sau đó, chiếc camera thứ 13 nét dần, hiện rõ hình hai bàn tay bóp miệng Madison há ra, bàn tay thứ ba moi móc dưới lưỡi hắn, như thể hắn là một điệp viên phản gián Nga những năm 60, đang chuẩn bị nuốt một viên xyanua. Cuối cùng, họ đẩy hắn đi lên cầu thang. Trên màn hình số 5, bãi cỏ của nhà Czerwick và đại lộ Marguerite bỗng đông đặc cảnh sát trong cảnh phục đen, đột ngột đến mức tôi liên tưởng ngay tới cảnh hỗn độn trong phòng thể thao của bộ phim Bẫy chim. Ai đó bật tiếng của một chiếc camera đặt ngoài trời, có thể nghe tiếng máy bay trực thăng kêu trên đầu và còi báo động ré lên. Trong vòng chưa tới ba mươi giây, Madison đã bị trói vào một cái cáng và khiêng ra xe cứu thương dành riêng cho hắn. Chiếc xe thứ hai đã khởi hành với toàn bộ thành viên còn lại trong gia đình hắn. Tất cả chúng tôi tập trung theo dõi màn hình camera trên mũ số 13, chủ nhân của nó áp tải chiếc xe cứu thương và sắp sửa cho chúng tôi xem thêm vài hình ảnh hiếm hoi của Madison, nhưng đột nhiên nó tối đen đi.
- Chúng ta không đặt camera trong ấy à? – Michael hỏi.
- Không, đó là một trong số những hình ảnh mà họ không cho chúng ta xem, - Ana đáp, - xin lỗi.
Lại một lần nữa, thông tin đến tay chúng tôi bị cắt xén.
Đừng tự ái, - tôi tự chủ. Những gã đang ngồi trong chiếc xe  moóc dành cho các VIP, các vị giám đốc ở hai thủ đô và có thể là cả Lindsay nữa, đều muốn bảo toàn khả năng bác bỏ nếu có bất kỳ sự tra tấn nào trong quá trình hỏi cung. Có lẽ sau này chúng tôi sẽ nhận được vài đoạn băng ghi hình, nhưng sẽ có những điều mà không ai ngoài cái đám ma quỷ ấy được thấy.
Dù gì cũng đừng bận tâm chuyện ấy ngay lúc này, - tôi tự nhủ. Hãy hỏi Marena khi nào cô ta quay về đây. Cô ta có sở trường moi tin từ người khác. Tôi nhìn lên màn hình số 5. Những chiếc xe đen xì, to kềnh càng, chạy trước và sau chiếc xe cứu thương chở Madison. Cảnh sát đi mô tô chạy kèm song song những chiếc xe. Đoàn xe chậm rãi chạy về phía đông dọc theo đại lộ Marguerite. Họ rẽ về phía nam, chạy vào đường Young và hướng ra quốc lộ 1.
Thế thôi à? – chúng tôi băn khoăn. Chúng tôi nhìn nhau. Dưới tầng hầm, họ đã đặt thêm năm chiếc camera điều khiển từ xa, một loạt của sổ mới hiện lên. Các nhân viên kỹ thuật rón rén xuất hiện rồi lại biến mất khỏi màn hình, rà soát khắp nơi để tìm bẫy mìn. Chiếc TV vẫn đang chiếu đoạn băng sex của dân đồng tính mà chắc chắn Madison vừa dung để thủ dâm. Không ai động đến bất cứ con chuột, bàn phím, điện thoại di động, máy tính bỏ túi, điều khiển từ xa hay bất cứ thứ gì tương tự.
- Chú ý, hai đối tượng tình nghi số một, khu vực Delta, - giọng viên sĩ quan chỉ huy.
- Nó có nghĩa là gì thế? – ai đó hỏi.
- Ý anh ta là hai chiếc tủ lạnh, - Ana trả lời, - trong ga ra. Xem màn hình số 34.
Màn hình cho thấy cảnh hai kỹ thuật viên trong bộ trang phục bảo hộ mạ crôm đứng trên mui chiếc xe tải mui trần của nhà Czerwick và khua một cái ống xịt dài về phía hai chiếc tủ lạnh cao đến hông mà theo những người hàng xóm, ông bố Madison dùng để dựng thịt thú rừng săn được vào mùa thu.
- Họ đang phun xịt chúng, - Ana giải thích, ý cô ta là họ đang phun nitơ lỏng từ xe téc. Ngay cả khi có Con Dê nào đó rò rỉ ra ngoài vỏ bọc, chúng cũng sẽ không qua được lớp băng.
- Tốt lắm, - Larry Boyle khen, - các vị làm tốt lắm.
Câm miệng lại đi, - tôi, và có thể là tất cả những người khác, nghĩ. Biến đi đâu cho rồi. Một nhóm tách ra từ đơn vị Hazmat B đang leo lên mái nhà, trải ra những cuộn vải nhựa lớn. Các đơn vị khác đang đóng những cọc thép quanh bãi cỏ. Họ muốn niêm phong nơi này, sau đó sẽ quay một khu lớn tựa như cái lều rạp xiếc phủ lên trên căn nhà và ga ra đã được bọc kỹ. Tiếp đến, họ sẽ lắp đặt một hệ thống ống dẫn và bơm đầy khí CO2 vào khoảng trống giữa ngôi nhà và căn lều. Toàn bộ không khí trong nhà sẽ được hút vào một thùng xe téc và điều áp để phân tích. Nó sẽ được thay thế bằng argon. Cuối cùng, khi áp lực trong các hệ thống dẫn hơi đã ổn định, đơn vị chuyên gia về chiến tranh sinh học có thể bắt tay vào phá hủy căn nhà. Một chiếc xe nâng hạ tiến vào ga ra, sẵn sàng chở các khối nitơ đóng băng ra xe téc kín. Như mọi đối tượng tình nghi khác, cả người lẫn vật, chúng sẽ được đưa tới khu cách ly ở Vancouver, nơi chỉ có không khí đi vào chứ không có khí thoát ra. Lúc này, đã có thêm chút ánh sáng ban ngày hòa vào ánh đèn điện. Một ngày như bao ngày khác ở Canada.
Chúng tôi ngồi uể oải. Khi chẳng còn mấy tí để xem, mọi người lần lượt lượn khỏi phòng. Michael Weiner vỗ vào lưng tôi khi lão bỏ đi, như kiểu “Làm tốt lắm, Columbo”. Vài thực tập sinh hình như chuẩn bị đi ăn mừng sớm. Số còn lại ngồi yên hoặc đứng loanh quanh trong phòng. Chúng tôi chưa tin rằng mọi chuyện đã xong xuôi nên cứ ngồi chờ có người khẳng định điều đó. Thực ra, tôi đã ra ngoài, đi một chuyến thang máy lên mé đông sân vận động Hyperbowl. Trời u ám và ẩm ướt nhưng có vẻ như cơn mưa sáng đã tạnh hẳn. Một tay lái xe buýt hỏi tôi có cần hắn đưa về khu nhà ở không nhưng tôi đáp rằng không. Từ đây về đó chưa đến hai dặm và đi bộ hết quãng đường là bài thể dục duy nhất của tôi trong thời gian gần đây.
- Này, chào anh, - A2 gọi. Cô ta chạm vào bả vai tôi. Tôi nói “xin chào”. Tôi nhìn thấy hai người nữa đang đi phía sau cô ta, cách chừng năm mươi yard, có lẽ là một trong những cái đuôi vẫn lẵng nhẵng bám theo tôi khắp nơi. Tuy đã tìm ra Madison. Nhưng sức khỏe tôi vẫn còn hơi trục trặc sau vụ dùng thuốc quá liều. Cứ kệ họ đi, - tôi tự nhủ. Họ làm thế vì mày thôi mà. Có sao đâu.
Ana muốn theo tôi vào phòng, nhưng tôi nói tôi cần đi ngủ. Cô ta liền quay về. Đó thực ra là một cô gái rất tốt. Tôi uống hai viên Valium xanh (Thuốc giảm căng thẳng thần kinh) và uể oải chui vào giường. Chết tiệt, đúng là tôi hơi mệt thật. Tôi chưa được nghỉ ngơi thực sự từ… tôi cũng không biết nữa. Từ khi học lớp tám hoặc khoảng ấy cũng nên. Tôi lơ mơ ngủ rồi thức, thức rồi ngủ trong hai mươi tiếng liền. Thỉnh thoảng, tôi lại vào kiểm tra tình hình. Không có tin gì mới. Tony Sic gửi tin nhắn trả lời rằng mọi người vẫn đang đứng quanh quẩn quanh các máy bán đồ ăn tự động, nhấp nhổm như ngồi trên kim găm, hay trên dao găm thì đúng hơn. 2 giờ 8 phút sáng, vào giây thứ hai mươi, tôi uống thêm hai viên thuốc nữa. Tôi nhớ giờ chính xác như vậy vì bốn phút sau A2 đập cửa thình thình. Ana vừa gọi điện về. Trong cuộc thẩm vấn thứ hai, Madison khai với các điều tra viên rằng từ tuần trước, hắn đã phát tán một phần tư ga-lông Brucellis, rằng những cuộc thử nghiệm trên chính người nhà và “một vài người bạn” của hắn cho thấy chúng đã đạt đến khả năng lây nhiễm như khuẩn hình que, và rằng – theo dõi diễn đạt cũ rích của hắn – mọi sự đều đã chấm dứt trừ cái chết.