PHẦN IV
HẬU DUỆ LOÀI NGƯỜI
Chương 32

phan4

 

63

63
- Ai lồng tiếng chuột Mickey? – Marena hỏi.
- Gượm hẫng, - tôi nói. Tôi muốn ho. Tôi ho.
- Jed? Anh cần uống thêm chút Squirt không?
- Không, cảm ơn, - tôi đáp, - anh không sao, à... Chính Walt Disney là người đầu tiên lồng tiếng chuột Mickey.
- Đúng. Căn bậc hai của nam bằng bao nhiêu?
Tôi đọc cho cô ta kết quả.
- Tên của người cuối cùng... khoan đã, - Marena dừng lại, - Ana đang gọi, cô ta muốn chúng ta dừng lại ở đây.
- Đến đây là đủ rồi, - giọng của bác sĩ Lisuarte cất lên ngay sau lưng tôi. Bà ta dừng lại một lát.
- Chờ đã. Không, tôi cần trao đổi với phòng thí nghiệm trước đã, - bà ta nói tiếp, hiển nhiên là với Ana qua bộ đàm. - Được rồi, thoát. CTP phải không? Akagi đây, chúng tôi nhận được “ba chín tám” từ Keelorenz.
Tôi phải mất một lúc mới nhớ ra CTP là phòng thí nghiệm Giao thức chuyển đổi ý thức, Akagi là bí danh của Lisuarte và Keelorenz là bí danh của Ana Vergara. Nhưng “ba chín tám” thì tôi chịu không biết gì.
- Được rồi, - Lisuarte nói. Dừng một lát. - Họ đã nhận đủ.
Tôi đoán câu cuối cùng là dành cho Marena và tôi, ý là phòng thí nghiệm đã quét đủ quy trình tư duy của tôi và có thể dừng chuyền tín hiệu được rồi.
 - Nghĩa là tôi sắp được gỡ ra? - tôi lừ khừ hỏi.
Họ đáp “phải”. Lisuarte tắt “toa-lét”, tức là cái vòng chụp não to tướng màu trắng trên đầu tôi. Tôi nghe thấy tiếng các cục nam châm kêu rèn rẹt trên rãnh khi chúng chạy chậm dần lại. Ánh sáng trước buổi bình minh đã hé lên ngoài cửa. Marena gỡ các điện cực khỏi người tôi theo kiểu rất gợi tình. Thôi, thế là xong. Phiên bản của tôi, được hình thành sau cuộc hỏi đáp, đã lên đường rồi. Thực ra, nó đã đi, đã đến nơi, đã xong nhiệm vụ và chết từ lâu rồi.
Họ hối hả lôi tôi ra khỏi cân điện của ahau. Bầu trời đã chuyển sang màu xám sẫm và sao đã lặn. Michael và Hitch đang đứng đợi giữa nhịp cầu thang; học giúp Marena đỡ tôi xuống các bậc cầu thang đổ nát, mỗi bậc cách nhau đến hai mươi sáu inch. Tôi cảm tưởng như phải mất một tháng nữa mới xuống đến nơi.
- Tôi tự đi được mà, - tôi nói.
- Phải, nhưng chẳng vững mấy tí, - Marena đáp.
Có một bãi trống dưới chân kim tự tháp và một lối mòn dẫn xuống đồi, đi qua cung điện xuống bờ sông. Tôi đi xiêu vẹo, Ana và Grgur đợi sẵn trên bãi đất nơi tôi và Marina đã làm tí việc nhỏ cách đây mười bốn tiếng. Ana đang nói chuyện với không khí, một tay đặt lên tai.
- Có chuyện gì thế? - Marena hỏi Michael khi lão đã lấy lại hơi. Theo kế hoạch chúng tôi đã bàn, đây là nơi chiếc máy bay Hippo sẽ đón chúng tôi trong trường hợp phải rời đi khẩn cấp.
- Ana nghĩ chúng ta có thể rút đi ngay, - Michael nói. Không như Marena, Lisuarte và tôi, lão đã nghe tất cả các cuộc trao đổi qua điện đàm.
- Sao lại thế? - Marena hỏi.
- Có một đội tuần tra đang tới. Họ nghĩ chúng sẽ đi qua đây.
- Mẹ kiếp, - Marena nói, - nếu chúng không đi qua khu di tích,chúng ta sẽ quay lại đấy sau vậy.
Chúng tôi đứng chờ. Ana vẫn đang nói. Cô ta không giải thích với ai cái gì.
- Không Đời Nào đâu rồi? - tôi hỏi. Michael đáp lão không biết. Gã Commando hình như cũng không có mặt ở đây. Tôi tìm thấy tai nghe, đeo vào và bật lên.
-... mười sáu tiếng đập, - Ana nói. - Này, các vị đi đâu thế? - cô ta hỏi to lên.
- Tôi cần quay lại cung điện để lấy đồ, - Marena đáp.
- Không được, Asuka, - Ana nói, - không ai đi đâu hết.
- Sao chúng ta không trốn vào đâu đó trong rừng như các nhân viên khác của ES? - tôi hỏi, nhân lúc Ana ngừng nói qua bộ đàm.
- Vì nếu phát hiện ra các thiết bị của chúng ta, chúng sẽ để mắt theo dõi, - Ana đáp. - Chúng ta sẽ phải chạy từ đây đến tận Đường 14. Và ngay cả ở đó chúng ta vẫn có thể bị tóm. Chúng ta đã đề cập đến khả năng đó rồi mà.
- Chắc tôi đã bỏ lỡ buổi học đó, - tôi đáp.
- Dù sao, Hippo cũng là máy bay tàng hình với sóng ra-đa, nó sẽ đưa chúng ta đi mà không gặp rắc rối gì.
- Thế nếu chúng...
- Nếu chúng đi vòng qua khu di tích thì hai ngày nữa chúng ta sẽ quay lại và đào, - Ana cắt ngang, - đừng hỏi thêm câu gì nữa nhé.
Tôi ngậm miệng lại. Điều cô ta không nhắc đến là nếu đội tuần tra tìm thấy đồ đạc và máy móc của chúng tôi thì còn chán chúng tôi mới quay lại đây được. Mà Ix lại là nơi duy nhất Jed 2 sẽ tự chôn mình. Hay tôi nên nói là đã tự chôn mình. Nếu không đào các hầm mộ hoàng gia lên thì chúng tôi không thể biết anh ta có làm được điều đó hay không. Và cũng sẽ không có ký ức nào của Jed 2 được đưa lại vào não tôi. Tôi sẽ giữ lại cho riêng mình toàn bộ những gì tôi được chứng kiến ở quá khứ. Nếu các bạn hiểu ý tôi. Mẹ kiếp. Mặt khác, nếu chuyện đó xảy ra thật thì ký ức của ông ta cũng có thể đã xóa ký ức của tôi, ý tôi là ký ức mà tôi vừa tạo ra vài phút trước, hoặc từ một thời điểm nào đó trong lúc tải xuống, ký ức của chúng tôi được tách ra và...
- Nó đây rồi, - Ana nói, - hai phút nữa nhé.
Tôi gật đầu. Lo chuyện ấy sau vậy.
Một cái bóng lớn, sắc nét, rung rung trên đầu chúng tôi. Một tiếng bùm, sau đó là tiếng động cơ khởi động rền rĩ và tiếng nổ xình xịch; mặt nước phẳng lặng phía ngoài đám lá hoa súng gợn lên da cá mập. Cái bóng ấy cứ như hiện ra từ một nếp gấp trong không khí, một đốm trắng nằm giữa một cánh tay dài, thẳng, đu đưa chậm rãi như mũi kim trên la bàn. Ra đây chính là Hippogriff, - tôi nghĩ. Hẳn là nó có một hệ thống đánh lửa nhanh nào đấy để lượn mà không cần động cơ. Ana lội về phía nó với những động tác tuân thủ nghiêm chỉnh sổ tay dành cho lực lượng đặc nhiệm. Bọn lính tráng lúc nào cũng nghiêm túc quá thể. Cô ta đưa tay lên, tóm láy một khoang chở hai người bằng nhựa dẻo trong không trung. Ai đó đi ngang qua tôi, biến vào đám khói xăng. Marena nắm lấy tay tôi và chúng tôi cùng lội ra giữa xoáy nước nhỏ đang sôi réo. Ana đẩy chúng tôi vào cái chuồng năm góc. Cô ta vặn ngoéo cái cẳng chân dính đầy bùn của tôi khi tôi còn đang đứng khiến tôi gần như ngã quỳ xuống nền lưới. Dây rợ màu da cam giăng chằng chịt. Tôi ngước lên. Chiếc máy bay to đùng ngã ngửa, hình thù dị hợm đang lơ lửng cách đầu tôi năm mươi feet, đu đưa khe khẽ. Nó không muốn hạ thấp hơn vì cánh quạt có thể vướng vào cành cây. Các cánh quạt méo mó nhô ra từ các rãnh tỏa nhiệt dọc thân máy bay nom như khe mang của loài cá mập.
- Từ từ đã, Không Đời Nào đâu? - tôi hỏi.
- Đẩy một chuyến, kéo lên đi, - Ana nói. Chúng tôi được kéo giật về phía một khoang cửa lớn trên bụng máy bay. Tôi cố nhìn về phía cung điện để xem có Không Đời Nào hay ai đó ở đấy không, nhưng chúng tôi bị lắc lư nhiều quá. Tôi nắn các túi quần áo. Điện thoại của mình đâu rồi nhỉ? - tôi phân vân. Tốt nhất là họ đừng bỏ quên nó lại đó. Hai bàn tay đi găng màu da cam kéo cái khoang vào một rãnh tối. Có cái mùi nằng nặng của dầu máy, vinyl clorua và vải da cũ. Anh chàng đi găng tháo các cuộn dây, kéo tôi và Marena lên mặt sàn có đệm và thả cái khoang xuống. Tôi ngồi dạng chân dạng tay trên thảm và nhìn lên chủ nhân của đôi găng. Một gã cao lớn. Anh ta đội một cái mũ có camera nhưng lưỡi trai được đẩy lên và tôi nhận ra đó chính là viên phi công cứu hộ, hay chính xác hơn, theo các dấu hiệu trên trang phục, là WSO, tức sĩ quan chuyên trách hệ thống vũ khí - mặc dù máy bay của chúng tôi không hề có vũ trang - đã đi cùng chúng tôi trên chuyến bay từ Stake đến Pusilha. Phi đội này vỏn vẹn có hai người.
- Mời các vị về chỗ ngồi như chuyến bay trước, - anh ta nói cứ như chúng tôi đang ngồi trên máy bay của hãng hàng không Virgin Air không bằng. Nó hơi tối, nhưng mọi vật đều được chiếu sáng bằng đèn đi-ốt nên anh vẫn có thể phân biệt được thứ gì là thứ gì, nghĩa là nếu anh đã biết chúng là thứ gì. Tôi đứng lên, và trước khi Marena kịp tóm lấy tôi, tôi đã đập bốp đầu vào cái trần xốp bọc ni lông. Marena dẫn tôi tới chỗ khoang ghế bên tay trái. Nhìn nó hệt như chiếc ghế an toàn của trẻ con, có điều to đùng. Một thanh ngang màu xanh lơ xấu xí hạ xuống ngang tầm mắt tôi, trên viết dòng chữ in hoa màu da cam: KIểM TRA KHóA AN TOàN và có cả một bàn phím tiêu chuẩn. Marena ngồi đối diện tôi; hai chúng tôi đang ngồi sát nhất vị trí lẽ ra là vách ngăn giữa buồng lái và khoang hành khách. Tôi nhìn quanh. Các ô cửa sổ hành khách đã bị che kín, tôi đoán là vì chiếc máy bay đang thi hành nhiệm vụ quân sự, nhưng tôi nhìn thấy một phần tấm kính chắn phía trên đầu viên phi công trong khoang lái và một khe của khoang cửa sổ gầm mạn trái, bắt đầu từ ngay gần mắt cá chân tôi. Khi các cánh quạt xua tản bớt một phần sương mù, tôi có thể quan sát thấy một mảng tối đen của dòng sông. Michael và Lisuarte lồm cồm bò lên qua khoang cửa gầm và đi ngang qua chúng tôi. Michael được xếp chỗ gần đuôi máy bay để phân tán đều trọng lượng. Tiếp theo làn Hitch và Grgur. Hắn leo lên ít nặng nhọc hơn tôi tưởng nhiều và cúi xuống gần Marena một lúc, thì thào cái gì đó, trước khi đi xuống cúi ngồi đối diện với Michael. Anh cùng WSO ngồi vào chỗ của mình bên phải viên phi công. Ana lên cuối cùng, kéo theo cái khoang. Tôi đoán gã Commando ở lại dưới bụi rậm. Cô ta lật một chiếc ghế phụ ở giữa và lùi về phía sau so với ghế của hai phi công. Cô ta định thắt dây an toàn song lại thôi, đưa tay vòng ra sau như định ôm choàng lấy tôi. Nhưng hai bàn tay đã đưa lên quá đầu tôi.
Tôi cảm thấy áp lực hơi đè lên màng tai và chìm vào sự yên lặng; những tiếng đập khe khẽ như thể một con chim ruồi đang vỗ cánh quanh tôi, với một tiếng rít mảnh và những tiếng bíp lặp đi lặp lại hai giây một lần như thể tiếng châu chấu gọi bạn. Cô ta vừa kéo một chiếc mũ chụp xuống đầu tôi. Nó có lưỡi trai như bình thường nhưng có thêm một tấm kính trượt xuống, cho anh nhìn thấy thêm các hình ảnh video qua hai mắt kính của chiếc mũ. Khi chúng tôi sử dụng chiếc máy bay này lần đầu tiên ở Belize, họ đã khuyên chúng tôi nên “triển khai” cặp kính AVRV này mọi lúc, phòng khi có kẻ tấn công chúng tôi bằng tia laze gây lóa mắt. Ban đầu nó mờ mờ ảo ảo, nhưng một lúc sau, cặp kính điều chỉnh thích hợp với mắt tôi và tôi bắt đầu nhìn mọi vật dưới một góc độ khác. Hình ảnh sắc nét hơn đời thực, gần giống như nghe tiếng đàn vi-ô-lông qua tai nghe thay vì nghe trực tiếp âm thanh ngọt êm trên dây đàn. Thêm vào đó, mọi hình ảnh đều sáng và tương phản rõ hơn - tính năng này được áp dụng khi nhìn trong bóng tối - và vì hai ống kính camera trên mũ được đặt cách xa hơn khoảng cách giữa hai mắt nên nó làm phóng đại khoảng cách giữa mọi vật. hệt như trong phim hoạt hình 3-D kiểu cũ trong đó hình ảnh hoặc đập vào mắt người xem hoặc lùi tít đến hàng thứ Z. Và cuối cùng, chỉ để trải nghiệm thêm phần rối rắm, trên mọi thứ tôi nhìn thấy đều lởn vởn một hàng chữ, nhấn mạnh vào những vị trí quan trọng trên máy bay để chỉ ra các tính năng an toàn, các dấu hiệu chỉ dẫn, thậm chí chú thích cả phi đội và hành khách. Đương nhiên, nó cũng có một dòng chữ chạy dưới chân màn hình, trình bày những con số mà tôi không sao đoán được là cái gì. Có một bản đồ đường bay nho nhỏ nhưng khá rõ dưới góc phải. Nó cho biết chúng tôi sẽ bay theo hướng bắc – đông bắc đến Belize, ngang qua cửa sông Sarstoon, tức là con sông tạo thành đường biên giới phía nam. Hừ, xem ra dễ dàng đây, - tôi nghĩ. Sẽ không có trục trặc gì đâu.
Không Đời Nào vẫn ở ngoài kia ư? - tôi lại phân vân. Liệu cậu ta có gặp rắc rối gì không? Tôi đã kéo cậu ta vào cái trò chết dẫm này. Gần như bản năng, bàn tay trái của tôi đưa lên bàn phím trên thanh ngang và nhấn các phím cho đến khi thấy có tiếng động phát ra. Một âm thanh mới len vào thế giới bị bao bọc kín mít.
- Hê, khoan đã, chờ một giây nào, - tôi nói nhưng không nghe thấy giọng mình. Tôi tìm thấy phím MIC và bật lên.
Tôi chuyển sang kênh riêng của Marena.
- Marena? - tôi gọi.
- Chào anh, Jed. Anh ổn không? - cô ta trả lời.
- Có, - tôi uể oải đáp.
- Anh hiểu em nói gì không?
- Có. Anh ổn. Anh ổn. Anh ổn. Không Đời Nào vẫn đang ở khu di tích à?
Giọng Ana cắt ngang:
- Yêu cầu tất cả không đàm thoại, - cô ta ra lệnh. Đồ chết tiệt, - tôi nghĩ bụng. Marena tiếp tục nói.
- Jed, chúng ta không thể tin anh ta được. Có lẽ anh ta đã rời đi rồi.
- Không có chuyện ấy đâu, - tôi đáp, nhưng chỉ vừa nói hết từ “không” thì Ana đã tắt phụt mic của tôi. Tôi cởi mũ ra, được nếm ngay sự tối tăm và tiếng ồn bên ngoài, liền nghĩ có nó thì tốt hơn và đội lại. Tôi chăm chú nhìn vào dòng chữ DANH SÁCH ĐÀM THOẠI nằm góc trên bên trái màn hình, đưa con trỏ vào kênh đàm thoại của viên phi công và bật lên.
-... các ngọn cây, - một giọng nói cất lên.
- Xong, chúng tôi lên hết rồi, đi thôi, - tiếng Ana nói. Tôi cảm thấy mình đang rơi xuống, bị hút qua một vết nứt trên ghế và chìm xuống lòng đất khi chiếc Hippo bắt đầu cất cánh theo kiểu hết sức khó chịu với phần đuôi chổng lên như đuôi con cá voi. Áp lực không khí đột ngột tăng khi các cánh cửa sập lại. Bên ngoài cửa sổ gầm, các tán cây lùi dần và biến mất khi chúng tôi bay vào một đám mây mưa thấp. Các hạt nước bậu kín tấm kính. Tiếng Marena lại vang lên.
- Jed, nếu anh có cần gì, hãy dùng kênh 4, - cô ta nói.
Tôi tìm thấy và bật lên.
- Không Đời Nào không tự dưng bỏ đi đâu, - tôi nói.
- Jed, có lẽ anh ta bị đội tuần tra cản đường về, - Marena nói.
- Anh không nghĩ thế, - tôi nói.
- Dù sao thì anh ta cũng chưa bao giờ thực sự tin tưởng chúng ta. Thôi nào...
- Ý anh là...
- Chúng ta sẽ gọi cho anh ta khi quay lại, - Marena nói, - bây giờ không phải lúc tranh cãi chuyện này.
Chúng tôi bay vào một luồng không khí bớt dày đặc hơn và lượn vòng. Cơn buồn nôn lại trào lên cuống họng tôi. Bên ngoài cửa kính khoang lái, sương mù rẽ ra và không gian như bị bẻ cong đi như thể chúng tôi đang ở trong mắt một con cá. Đám mây đen thứ hai trải rộng bên trên và phía trước. Tôi rụt chân lại khi thấy một ngọn cây cọ suýt chạm vào cửa kính. Chúng tôi đang bay thấp hơn tôi tưởng. Tôi nhìn sang Marena nhưng cô ta không nói gì, chỉ tỏ vẻ sợ hãi nên tối ấn vào DANH SÁCH - QUAN SÁT, vào mục TỔ LÁI - HTDKVK - QSLT - nghĩa là hệ thống điều khiển vũ khí và quan sát liên thông – rồi ấn chữ WSO. Hệt như tôi vừa đổi đầu cho người khác; tôi đang ngồi trên ghế trước, nhìn thấy chính xác những gì WSO đang nhìn thấy. Tôi đoán ý tưởng của thiết bị này là cho phép người đội bất cứ chiếc mũ nào cũng có thể tiếp cận với hình ảnh mà người đội một chiếc mũ khác đang nhìn thấy; như vậy, cả đoàn đều có thể nhìn bằng cặp mắt của viên phi công và biết tình hình bay ngay lập tức. Hoặc viên phi công cũng có thể nhìn thấy những gì người ngồi cuối nhìn thấy, hoặc gì gì đó. Cả một lô thông tin hiện lên, nào vec-tơ, nào vận tốc, nào áp suất, nào nhiệt độ, các ô cửa sổ hiển thị TỐC ĐỘ BAY 248KM/H, ở ĐỘ CAO 381M SO VỚI MỨC NƯỚC BIỂN, 28,2M SO VỚI MẶT ĐẤT, và các dòng chữ chạy liên tục nắc đi nhắc lại những dòng cảnh báo như TRUYỀN PHÁT NỘI BỘ, ĐÂY KHÔNG PHẢI THÔNG TIN HIỂN THỊ RỘNG RÃI, thậm chí cả những dòng nhắc nhở không nên xem nếu bị chứng động kinh. Tầm mắt hướng lên trên, tôi thử cúi đầu xuống nhưng dĩ nhiên chẳng thay đổi được gì. Nó phụ thuộc hoàn toàn vào cặp mắt của anh chàng kia và anh ta đang tập trung nhìn về phía chân trời ảo (Chân trời ảo: Đường tương tự như đường chân trời thật nhưng nằm lệch lên trên hoặc xuống dưới) vẽ thành một vệt màu xanh da trời trên nền mây. Tôi tìm được kênh đàm thoại của WSO.
- ... no te preocupes amorcita, este es el caballo (Đừng lo em yêu, con ngựa ấy đây), - anh ta đang nói. Đó là điểm nút của một câu chuyện khôi hài nào đấy.
- Sí, pues.. .(Ừ, thế thì...), - một giọng đặc Guatemala đáp. Xem ra anh chàng WSO đang tán phép qua điện đàm với người kiểm soát không lưu địa phương như bạn bè lâu năm. Biết đâu chuyện này rốt cuộc sẽ ổn thỏa. Chắc họ phải dàn xếp trước với người Guatemala. Nhưng vậy thì những kẻ suýt đụng phải chúng tôi ở khu di tích là ai? Chỉ là một đội tuần tra nào đó không tham gia vụ dàn xếp ư? Chắc họ không muốn đưa quá nhiều người vào danh sách nhận tiền.
Chúng tôi bay gần như thẳng hướng đông, qua những triền dốc cao phía trên thác nước và rẽ sang hướng đông nam ở đúng quãng dòng Chisay đổ vào sông Río Cahabón. Một vách đá vôi xám xịt hiện ra trước mắt chúng tôi và thay vì vượt qua, viên phi công lại bay vòng dưới thấp và tiếp tục bay là là giữa dòng sông khiến tôi có cảm giác như đang trượt tuyết chứ không phải đang bay. Các tán cây như bao phủ lấy chúng tôi, nhưng rồi chúng tôi vượt qua và bay vào khoảng không trải rộng.
Một giọng nói khác xuất hiện trên kênh đàm thoại chính:
- Es este el vuelo 465-BA del poptún? (nghĩa là “Các anh có phải chiếc 465-BA khởi hành từ Poptún?”)
Chỉ dẫn nhận dạng cho biết đó là giọng của một người gọi từ căn cứ Gúzman của sân bay quân sự Guate City.
- Correcto (Phải), - anh chàng WSO đáp.
- Perdone la molestia, mas el OC dice qué  pasa? (Xin lỗi đã làm phiền, nhưng chỉ huy hỏi có chuyện gì xảy ra vậy?)
- Có vụ việc gì đó bất ổn ở nam Chisec, - anh chàng WSO trả lời bằng tiếng Tây Ban Nha, - hạ sĩ Olaquiaga ở căn cứ Portún ra lệnh cho chúng tôi ứng phó.
- Tốt thôi. Tuy nhiên hình như hôm nay các anh đến muộn rồi.
- Nói thật, đó là lý do vì sao chúng tôi đang quay lại.
Á à, - tôi nghĩ. Té ra anh ta đang giả vờ chúng tôi là máy bay quân sự của Guatemala, cố lừa các kiểm soát viên không lưu càng lâu càng tốt. Điều đó có nghĩa là chúng tôi không hề có tay trong trong quân đội Guatemala.
Chiếc Hippo leo lên độ cao một ngàn feet khi bay qua đầu nguồn sông Oxec, nằm giữa dãy Cerro Tabol bên tay trái và sườn tây của dãy Sierra de Santa Cruz đồ sộ bên tay phải.
-... đọc số hiệu chúng tôi cấp đi, - giọng gã Guatemala nói.
- GAC 465 BA, 20380-821809-234874211, - anh chàng WSO đáp.
- Chúng tôi phải kiểm tra lại, bằng không họ sẽ gây khó khăn cho anh khi bay qua biên giới.
- Tôi sẽ gọi cho họ.
- Sao các anh không dừng lại một giây? Bay chậm lại!
Tôi chuyển sang kênh 4, kênh đàm thoại của Marena và gọi. Cô ta trả lời. Tôi bảo cô ta rằng hình như phía Guatemala đã bắt đầu ngờ vực.
- Đó chưa chắc đã là vấn đề đâu, - cô ta đáp, - họ canh chừng các chuyến bay đến chứ không phải các chuyến bay đi.
-... nhưng sao lại là hướng này? - một giọng Guatemala khác hỏi.
- Có khả năng một vài tên khủng bố đã rời đi bằng xe tải sáng nay, - anh chàng WSO bịa đặt, - ông ta muốn chúng tôi thử xem có thể phát hiện được chúng ở biên giới hay không.
- Thôi, được rồi, nhưng chúng tôi phải thu thập thông tin về mọi chuyến bay gần DMZ, - viên sĩ quan kiểm soát không lưu nói.
- Anh nên gọi cho Olaquiaga, - anh chàng WSO nói và bắt đầu đọc cả một loạt số điện thoại.
- Ông ta không ở căn cứ đó, anh phải gọi cho sĩ quan chỉ huy ở đó.
- Anh chuyển máy cho tôi được không? - anh chàng WSO đề nghị.
- Anh phải gọi bằng tần sóng của các anh.
- Tôi sẽ làm.
Anh ta tắt radio. Viên phi công - người tôi đoán là không bao giờ lên tiếng nếu không cần thiết - xuất hiện trên kênh  KếT NốI TOàN Bộ. Tức là anh ta đang nói với toàn bộ hành khách trên chiếc Hippo.
- Xin thông báo, - anh ta nói, - chúng ta chuẩn bị tăng tốc.
Nhưng anh ta chưa kịp nói xong thì đầu tôi đã bị ấn dính vào cánh phải của chiếc ghế và chỗ da chùng trên hai má bị kéo ra sau thêm bốn hoặc năm đơn vị lực G. Anh ta vừa tắt cánh quạt và khởi động động cơ phản lực.
Thế là hết cả lén lút, - tôi nghĩ.
- Chờ một giây đã nào, - tiếng của viên sĩ quan kiểm soát không lưu Guatemala.
Giọng Ana hỏi:
- Anh nghĩ sao?
- Họ không biết mình đang làm gì đâu, - viên phi công đáp, - ta cứ duy trì tốc độ này.
Bàn tay phải của anh ta xoay nhẹ cần điều khiển nằm giữa hai chân.
Đám người Guatemala lại gào lên:
- 465 BA, căn cứ Gúzman CG đây, các anh đang làm gì thế?
Chúng tôi không trả lời.
- Xin lỗi, - viên sĩ quan kiểm soát không lưu nói, - các anh phải xin chỉ thị mới hoặc quay đầu và hạ cánh ở đây.
- No me quiebres el culo (Đừng làm tôi cuống lên), - anh chàng WSO nói, - không phải anh bảo tôi quay lại đấy chứ?
- Xin lỗi.
- Olaquiaga  se va a cagar (Olaquiaga sẽ ỉa đùn ra mất).
- Yo no te puedo asegurar que llegues salvo (tôi không thể đảm bảo an toàn cho các anh đâu), - giọng nói kia trả lời, - Te van a chingar por el culo. Agarra la onda (Họ sẽ cho các anh toi đấy. Thôi, chấp nhận đi).
Anh chàng WSO im lặng một lúc.
- Bueno, reconocido, Guzman (Tốt thôi,đồng ý, Guzman).
- Bueno (Tốt), - giọng nói kia trả lời và ngừng liên lạc.
Nhưng chúng tôi vẫn bay tiếp. Trên bản đồ đường bay, hành trình của chúng tôi đổi hướng. Chúng tôi bay xuống phía nam về phía hồ Izabal rồi bay ra Mar de Ias Antillas, tức biển Carribe. Tôi đoán ý định của viên phi công là làm cho họ tưởng chúng tôi đang quay về rồi sẽ tiếp tục hành trình, bay là là trên mặt nước, nơi không có các thiết bị phát hiện máy bay lớn.
Viên sĩ quan kiểm soát không lưu Guatemala lại xuất hiện trên radio.
- 465 Barcelona Antonio, atterrize en seco (465 Barcelona Antonio, quay vào đất liền và hạ cánh), - anh ta nói.
- Somos responsables del seguridad Corporal Olaquiaga (Chúng tôi phải chịu trách nhiệm về sự an toàn của hạ sĩ Olaquiaga), - anh chàng WSO lại bịa.
- No contestes. Pararse en seco desde ahora (Không lý do. Vào đất liền hạ cánh ngay).
Anh chàng WSO tắt liên lạc và thông báo với chúng tôi:
- Họ không cắn câu rồi.
- 465 BA, toma tierra a Poptún (465 BA, hạ cánh xuống Poptún ngay), - viên sĩ quan Guatemala nói rít răng, - Esto es el último apelar (Đây là lời yêu cầu cuối cùng).
- No puedo (Tôi không thể), - anh chàng WSO đáp, - xin gọi giúp sĩ quan chỉ huy của anh. - Anh ta tắt liên lạc và quay lại kênh đàm thoại với chúng tôi: - Tệ thật, - anh ta lẩm bẩm, - ta phải tuân lệnh thôi.
Viên phi công giảm tốc độ, bay song song với mặt đất và quay đầu vào đất liền.
- Các anh làm gì thế? - đó là giọng của Marena.
- À, nói ngắn gọn là họ vừa chặn đường chúng ta, - anh chàng WSO đáp.
- Chúng ta phải quyết định, - Ana nói, - hoặc để họ ép chúng ta hạ cánh, hoặc chuyển sang kế hoạch B.
- Được, - Marena đáp.
- Được gì? - Ana hỏi. Dừng một lát. - Đến lượt cô quyết định đấy. – Cô ta nói rành rọt hơn bình thường để đảm bảo máy ghi âm thu không sót từ nào.
- Kế hoạch B, bỏ chạy, - Marena nói.
- Rõ, - Ana trả lời. Thêm một phút im lặng. - Ô-kê, chúng ta sẽ chọn kế hoạch này, phải không? Có ai phản đối không?
Chuyện này sẽ vượt khỏi tầm kiểm soát mất, - tôi nghĩ, - có lẽ mình nên phản đối.
Không ai có ý kiến gì.
- Tốt, vậy thì từ lúc này trở đi, tôi là sĩ quan chỉ huy duy nhất, - Ana nói, - không ai được nghe lệnh từ Marena hay bất cứ người nào khác.
- Hoo - hah, - viên phi công đáp.
- Hwah, - anh chàng WSO đáp.
Họ nói gì vậy? - tôi thắc mắc - À. Ra là HUA (HUA, viết tắt của cụm từ tiếng Anh: “heard, underwood, and acknowledged” nghĩa là “nghe rõ, hiểu, đồng ý), nghĩa là nghe rõ, hiểu, đồng ý.
- Khoan, chờ chút đã, - anh chàng WSO nói. Anh ta bật một kênh đàm thoại khác, - Zepp gọi căn cứ NERV.
- Xin chào, Zepp, - giọng của một người da trắng đáp. Đó là tay chỉ huy bộ phận kiểm soát không lưu ở Stake., - căn cứ NERV đây, nói tiếp đi.
- Chúng tôi chuyển sang kế hoạch B, - viên phi công nói, - yêu cầu MD4.
- Nghe rõ, xin chờ một giây, - căn cứ NERV trả lời, - xem ra các anh gặp rắc rối hả?
- Quỷ tha ma bắt cái kế hoạch A.
Chúng tôi tiếp tục giảm tốc độ cho đến khi chỉ còn bay lờ vờ. Qua chiếc camera đặt ở mũi máy bay, tôi nhìn xuống một khoảng rừng đang cháy. Tôi đánh chữ “MD4?” lên bàn phím. Hình ảnh một tên lửa không người lái mang đầu đạn hạt nhân tầm thấp hiện lên. Nó thon mảnh, chỉ dài chừng sáu feet với hai cánh mũi dài. Màn hình cho biết nó có tốc độ cao, được trang bị đầu đạn không đối không. Cha mẹ ơi. Ra là yêu cầu gửi tên lửa đến. Ối giời ơi. Toi rồi. Chúng ta sẽ bị bắn hạ ngay thôi. Thôi, ít như vậy cũng không đau đớn...
- Được rồi, Zepp, - tiếng anh chàng ở căn cứ NERV, - chúng tôi đã thấy tín hiệu của anh, bốn MD4 đã sẵn sàng phóng.
- Cảm ơn, NERV.
- Bảo bên kia là chúng tôi đang hạ cánh, - Ana nói.
- Được rồi, Guzmán. Chúng tôi đồng ý và đang quay về Puerto Barrios, - ành chàng WSO nói phét. Đường bay trên bản đồ của tôi quay một vòng khi máy bay của chúng tôi quay ngoắt lại.
- No Puerto (Không phải Puerto), - viên sĩ quan kiểm soát không lưu Guatemala đáp, - Pop... - tắt phụt.
- Zepp, - giọng từ căn cứ NERV, - MD4 đã phóng và đang bay tới chỗ anh.
- Cảm ơn, NERV, - anh chàng WSO đáp, - các anh có cài đặt thời gian đến đích không?
- Chúng tôi đã bay đến chỗ anh trong hai phút bốn mươi nhăm giây nữa. Các anh chỉ cần xoay sang hướng nam thêm bốn mươi độ nữa, như vậy chúng sẽ không phải quay đầu.
- HUA.
- Cẩn thận nhé, nghe rõ không?
- Rõ, cảm ơn NERV.
- Chuẩn bị xoay bốn mươi độ, - viên phi công nói. Anh ta nghiêng sang trái và nhấc chân khỏi bàn điều khiển động cơ đuôi, đưa chúng rẽ một vòng chóng mặt. Chúng tôi xé gió quay sang hướng nam, bay dọc một dòng nước hẹp giữa các hẻm núi và ra đến sông Moxela.
- Máy bay đánh chặn kia, - anh chàng WSO thông báo.

64

64
Tôi nhìn quanh nhưng không thấy chiếc máy bay nào. Tôi đoán ý anh ta là nó xuất hiện trên bản đồ. Tôi bật lên và phóng lớn màn hình. Nó bắt đầu chuyển sang tính năng của một giao diện. Phía trước chúng tôi, đườg biên giới Belize chi chít các trạm phòng không như một chuỗi đèn màu giáng sinh. Oa, đây rồi. Hai chấm đỏ đang lượn về phía chúng tôi theo một góc 310 độ. Tôi đặt con trỏ lên hai cái chấm và đánh chữ “IFF”, nhận diện quân ta hay quân địch. Một cửa sổ hiện lên, rà soát tí hiệu ra-đa của nhiều chiếc máy bay khác nhau cho đến khi tìm được thông tin khớp. Dòng chữ “COMANCHE H-18 (?) AIRBORNE A+?” hiện lên. Tôi đoán chữ “A+?” có nghĩa là chúng được trang bị vũ khí nhưng không chắc là vũ khí gì. Tôi tìm thấy mục KHả NăNG ĐáNH CHặN trên danh mục và thấy nó vẽ ra hai đường tròn thể hiện tầm đạn, đường màu xanh lá cây bao quanh chúng tôi và đường màu đỏ bao quanh hai chiếc máy bay kia. Chúng gần nhau đến mức khó lòng mà an tâm được.
- Chúng không muốn bắn hạ chúng ta đâu, - anh chàng WSO nói, - chúng muốn tóm được một chiếc Hippo. Chúng sẽ cố ép chúng ta hạ cánh.
- Đừng quá chắc mẩm chuyện đó. – Ana nói.
Mẹ kiếp. Sao mình có thể lâm vào cảnh này được nhỉ? – tôi nghĩ bụng. Mới một tiếng trước, chúng tôi vẫn còn yên lành và ấm cúng trong căn điện của nhau, thong thả làm mọi việc và bây giờ chúng tôi có cơ toi mạng trong tay không lực Guatemala. Sao Ana không để họ bắt chúng tôi cho xong nhỉ? Warren có thể dùng tiền cứu chúng tôi ra chỉ trong một tuần. Không, chỉ hai ngày thôi. Thời gian biểu có gì mà quan trọng đến thế. Ý tôi là nó cũng quan trọng, nhưng… mẹ kiếp. Đơn giản là tôi không chịu hiểu rằng những gã này luôn sẵn sàng đưa mọi chuyện đi xa hơn nữa. Quân ôn vật. Thằng ngu. Mày biết mà, Jed, mày muốn tự dối mình rằng mày đang làm việc với bọn con buôn, nhưng thực ra mày đang dính líu với lũ côn đồ. Và thành thật mà nói, mày vẫn luôn biết điều đó. Vì thế, đừng…
Chúng tôi bay lên cao, hướng về trung tâm dãy Sierra de Santa Cruz với tốc độ hai ngàn feet một phút và lao vụt qua một vách núi xanh với hẻm núi đá phấn trắng hẹp. Vòng tròn đang dịch chuyển về hướng nam thu hẹp lại và chúng tôi đang bám theo nó với tốc độ 340 dặm một giờ, bay sát sàn sạt các vách núi. Trên bản đồ, hai vòng tròng thể hiện tầm bắn mỗi lúc một tiến lại gần nhau và chuẩn bị tiếp xúc.
Ôi thôi, thế là hết cả hầm lẫn mộ, - tôi rên lên trong bụng. Còn lâu chúng tôi mới có thể quay lại phế tích Ix một lần nữa. Hoặc có thể chẳng bao giờ. Việc duy nhất chúng tôi có thể làm là tìm hình chữ thập đá nam châm – đấy là nếu như chúng tôi về được Stake, một điều xem ra càng lúc càng ít chắc chắn, ý tôi muốn nói đến – tôi nghĩ tôi đã nói rồi – hình chữ thập mà Jed 2 phải chôn bản sao của các mẩu ghi chép về cờ Hiến tế. Và đến lúc này, chúng tôi lại hy vọng nó nằm cách Ix đủ xa để chúng tôi có thể lén quay lại vào đào lên mà không bị lính Guatemala quấy rầy. Và đấy là nếu Jed 2 làm được điều đó. Bao nhiêu cái “nếu” rồi không biết? – tôi tự hỏi. Cả đống…
Một loạt chấm sáng khác xuất hiện trên bản đồ, đến từ hướng bắc.
- Tốt rồi, đó là MD4 của chúng ta, - anh chàng WSO nói.
Chúng tôi bay chậm lại. Các đốm sáng tăng tốc va bay sát vào dưới chúng tôi như những con cá thuyền. Tôi đoán họ làm vậy để giấu chúng trong phạm vi tín hiệu ra-đa của chúng tôi.
- Được rồi, NERV, chúng tôi đây rồi. – anh chàng WSO thông báo.
- Nghe rõ, Zepp, chúng tôi đang tháo dây. Nhận lấy nhé.
- Cảm ơn. Nhận được rồi. À này, Keelorenz muốn biết chắc là các anh đã sắp xếp ổn thỏa “đàn vịt”, - ý anh ta muốn nói đến những chiếc thuyền đón chúng tôi.
- Đàn vịt ổn rồi.
- Tốt.
Tôi chỉnh thanh cuộn trên bản đồ đường bay cho đến khi nhìn thấy dây thuyền. Chúng tôi có bốn chiếc ở hai nơi để lựa chọn, hoặc ở Mar de las Antillas, hoặc ở vịnh Mexico. Liệu có phải nhảy dù không đây? – tôi tự hỏi. Không rõ vì sao nhưng tôi rùng mình. Không, không có chuyện ấy đâu. Họ sẽ hạ thấp máy bay cho chúng tôi xuống. Rồi sau đó tôi lại nghĩ hai anh chàng này có thể sẽ hạ cánh xuống quần đảo Keys, trả lời thẩm vấn, ở tù một khoảng thời gian và được đền bù thảo đáng.
- Tôi thấy chúng rồi, tôi thấy chúng rồi, - anh chàng WSO nói. Tôi đẩy thanh cuộn lên chỗ hai chấm sáng của quân địch. Trên màn hình ghi “(2) US-B/CAH#220?”. Như thế có nghĩa là đây là hai máy bay trực thăng Comanche của Guatemala. Chúng chở theo rốc-két.
- Chúng ta nên sẵn sáng đón một phát đạn, - viên phi công nói. Anh ta đã đổi hướng bay bốn mươi độ về hướng tây bắc, về phía Punta de Manabique.
- Tốt hơn hết là nhanh chân lên, - anh chàng WSO nói, - nhanh lên, nghiêm túc đấy.
Chúng tôi bay vào một đám mây dày đặc, trong một giây, tôi có cảm tưởng như chúng tôi đang lún trong mớ bông, và rồi chiếc máy bay lao khỏi đám mây ra khoảng thời xanh.
- …no me friegues (đừng phí thì giờ nữa) – một chiếc Comanche kêu gọi, - hạ cánh và đầu hàng đi.
- Bảo chúng cứ thử đi, - Ana nói.
Chắc ở đây họ không làm theo luật nữa, - tôi nghĩ. Thường thì anh không được trao đổi với phe bên kia. Có lẽ ES đã bỏ qua luật đó kể từ khi họ chuyển sang lĩnh vực bảo vệ tư nhân.
- Nghe này, hai Comanche, hãy tránh đường cho chúng tôi, - anh chàng WSO nói.
- Vớ vẩn, - một trong hai chiếc Comanche đáp.
- No les hables (đừng nói chuyện với chúng), - một viên sĩ quan kiểm soát không lưu Guatemala cắt ngang.
- Quay lại đi, - anh chàng WSO nói, - các anh đang đâm đầu vào việc mà mình chưa sẵn sàng đấy.
- Các anh nên đầu hàng đi!
- Chúng tôi có vũ khí hạng nặng, các anh sẽ bị bắn hạ đấy.
- Mẹ chúng mày, - viên phi công Guatemala rủa.
- Chúng tôi không muốn bắn hạ các anh. Đi đi. Cơ hội cuối cùng đấy, - anh chàng WSO nói xong, tắt liên lạc và quay về kênh đàm thoại với chúng tôi. – Được rồi, toàn đội, nghe cho kỹ này. Đề phòng trường hợp chúng ta…
Tiếng còi báo động mục tiêu tới gần rít lên.
Ôi, mẹ kiếp, - tôi nghĩ.
- Ôi, mẹ kiếp, - viên phi công thốt lên.
- Lạy đức mẹ Maria. Phải bắn thôi!!! – anh chàng WSO nói, - Khốn nạn thật! Đường lo, chúng ta phải trù liệu những việc như thế này khá thường xuyên…
- Thử mức năm mươi nhăm, - tiếng người ở căn cứ NERV, - bốn và sáu phẩy bốn mươi hai.
Một luồng sáng hồng rực chiếu vào cabin khi tia laze nhắm mục tiêu của phía Guatemala quét qua chúng tôi. Tôi nuốt vào một bãi nôn chực phun ra. Toi cả lũ rồi, - tôi lầm bầm không thành tiếng với cái lưỡi trai trên mũ, - không thể tin được mình lại bị lôi kéo vào chuyện này, không thể tin được, không thể tin được, không thể tin được. Tôi nện xuống đùi mình.
- Nghe rõ, - viên phi công đáp, - chúng tôi sẽ chỉnh sang chín mươi nhăm ở tầm thấp.
- Bán kính thấp nên là một trên tám mươi.
- Cứ lấy một trên bảy mươi đi.
Một chấm đỏ xuất hiện trên màn hình của tôi và hình như không di chuyển, không có vẻ gì giống một vật đang lao về phía chúng tôi. Chào mày!!!
- Xong rồi. Nào, đếm từ mười nhé.
- Được, chú ý nào.
Viên phi công mở đồng thời vài vị trí trên vỏ động cơ và cánh quạt nghiêng khiến chiếc máy bay gần như quay ngoắt một trăm tám mươi độ. Đầu tôi như muốn văng khỏi xương sống. Bất thình lình, các tua-bin quay chậm lại và tốc độ cánh quạt cũng thay đổi khiến chúng tôi gần như đứng yên trong không trung và không khí bên trong máy bay yên ắng một cách lỳ quặc. Tôi thấy bẵng một cái khi chúng tôi lao xuống. Không sao đâu, - tôi thầm gào lên với mình, - không sao đâu mà, vẫn còn cả đống không khí bay xuống dưới tầng mây thấp và tôi có thể nhìn thấy chấm đèn hiệu màu đỏ của ngọn hải đăng Punta de Amatique cách chừng một dặm về hướng đông. Chúng tôi bay qua vịnh theo hướng đông bắc.
- Được rồi, mục tiêu vẫn đang áp sát, - anh chàng WSO thông báo, - chín mươi. Tám mươi năm.
- Được rồi, - Viên phi công nói, - Chú ý.
Động cơ quay chậm lại và tôi thấy chúng gần như dừng hẳn.
Bên mạn trái, một tên lửa MD4 đã khởi động theo tín hiệu bằng nhiệt. Chúng tôi rơi xuống. Ở độ cao khoảng hai ngàn feet, viên phi công xoay cánh quạt về vị trí cũ nhưng vẫn để máy bay gần như rơi thẳng về phía đám bọt bể sát mép bờ bán đảo, xuống tới tầng không khí dày đặc hơn giúp làm giảm xác suất trúng mục tiêu của rốc-két ATA. Tôi có cảm giác như chúng tôi đang sục vào bơ lạc mềm. Trên bản đồ của tôi, đầu tên lửa trông như đang treo lơ lửng cạnh vị trí cố định của chúng tôi ở giữa màn hình, chốc lại nhón chân tiến gần hơn một chút rồi lại lảng xa ra.  Ở độ cao dưới hai mươi feet so với mức nước biển, viên phi công điều khiển máy bay vọt lên cao theo một đường parabol êm đến chóng mặt. Tôi cảm thấy hai hòn dái như chạy ngược lên qua ống bẹn rồi qua đường tiêu hóa lên tới tận miệng. Tôi nuốt chúng xuống. Xin thề rằng tôi thực sự cảm nhận được cả hai, hòn bên phải to hơn hòn bên trái và tôi phải nuốt xuống từng hòn một. Một tiếng PHụụPPP vang lên bên dưới chúng tôi, nghe như tiếng một đầu van an toàn bật khỏi chiếc máy pha cà phê khổng lồ, đó là lúc chấm màu đỏ bay ngang qua chúng tôi, nó lao theo cái mồi nhử xuống nước. Tôi không được chứng kiến vụ va chạm, nhưng chắc hẳn quả rốc-két đã dâm xuống vị trí chỉ cách chúng tôi chừng một trăm feet, ngay sát ngọn hải đăng. Sức ép đè lên cabim và những tiếng răng rắc phát ra cùng một lúc khi lớp vỏ hợp kim của chiếc Hippo dãn nở dưới tác dụng của nhiệt. Cửa sổ gần lõm cả vào bên trong do sức ép và khi trở lại hình dáng bình thường thì đã đẩy vết nứt rạn. Sỏi đá đập rầm rầm vào bộ càng má bọc sợi tổng hợp. Chúng tôi bay cao lên, sau đó tất cả trở lại bình thường. Tôi bật camera đặt ở đuôi máy bay. Tất cả những gì tôi nhìn thấy là đám mòng biển bay nháo nhác và một đám hơi nước nhìn như đĩa khoai tây nghiền to bằng tòa nhà mười tầng. Không hiểu sao tôi lại nghĩ tới lũ cá vẹt chết oan. Chiếc máy bay lấy lại tư thế thăng bằng, thẳng hướng tây bắc ra vịnh Honduras và lại bay cao lên.
- Nhanh lên, - anh chàng WSO nói, - chúng vẫn còn năm đầu đạn nữa. Đừng để mất thời gian.
Chúng tôi bay lẫn vào mây và tiếp tục bay cao lên. Cái trò nhảm nhí này, - tôi rủa thầm. Nếu thích chơi trò chiến tranh, tôi đã vứt mẹ cái đống điểm sát hạch vào đại học mà gia nhập lính thủy đánh bộ, làm giả giấy khám sức khỏe và bốc hơi ở Irap rồi. Tôi liên lạc với kênh 4.
- Marena? – tôi gọi, - em ổn chứ?
Tôi không nhìn thấy mặt cô ta qua camera trên mũ, hay chính xác hơn, cô ta chỉ hiện lên dưới dạng một cái nhãn để tên.
- Em không sao, - vài giây sau mới có tiếng trả lời, - em vừa nhận được điện thoại của Max. Em sẽ gọi lại cho anh sau.
Tắt phụt một nhát.
Tôi ngửi thấy mùi bãi nôn nằng nặng, điểm thêm mùi nước biển và có lẽ cả mùi phân nữa. Ai đó đã sợ đến mức để cho tất cả những thứ ấy tuôn ra. Chắc là Michael rồi, - tôi nghĩ. Đúng là thẳng hèn.
- Quay lại đi, - anh chàng WSO nói qua radio. – Tôi sẽ bắn hạ đấy. Tôi sẽ bắn hạ đấy.
- Muerancen huecos (chết đi, lũ đồng tính), - viên phi công Guatemala đáp. Còi báo động của chúng tôi lại rít lên. Chết tiệt. Tôi lại lên một cơn hoảng hồn nữa và rúc lọt thỏm vào cái ghế với cảm giác an toàn giả dối.
- Ana, cho hắn một phát đạn đi, - viên phi công nói.
- Được thôi, - Ana đáp, - mẹ cái lũ ấy. Nhắm mục tiêu. Tấn công.
Trên màn hình của tôi, một cửa sổ nhỏ hiện lên thông báo chiếc máy bay gần hơn là mục tiêu của đầu đạn MD4 thứ hai. Theo mô tả, tên lửa MD4 là loại phương tiện hàng không không người lái đa tính năng. Chúng có thể được dùng làm mục tiêu đánh lạc hướng đạn rốc-kết như vừa rồi, nhưng cũng có thể đóng vai trò tên lửa tấn công. Chúng chậm hơn rốc-két ATA, tốc độ chỉ bằng tên lửa Sidewinder hay gì đó nhưng vẫn có thể bay đến bên cạnh một chiếc máy bay, lên áp sát và nổ tung. Tôi dõi theo đầu đạn MD4 thứ hai tách khỏi máy bay của chúng tôi và lượn về phía hai chiếc Comanche.
- Mày sắp toi rồi đấy, thằng ỉa đùn, - anh chàng WSO của chúng tôi nói qua radio.
- Thằng phét lác, - viên phi công Guatemala đáp.
Trong lúc đó, đầu đạn ATA thứ hai đã tiến sát tới đuôi chúng tôi.
- Tôi sẽ bắt chúng lui hẳn lần này, - anh chàng WSO nói với chúng tôi.
Tôi phóng lớn hình ảnh thu từ camera đặt ở đuôi máy bay. Một chuỗi thứ gì đó nhìn như hàng ngàn đốm lửa bắn tung tóe sau chúng tôi, như thể chiếc máy bay của chúng tôi đang đẻ ra cả một đàn sứa vàng. Mỗi đốm lửa thực chất là một quả bóng ni lông trắng kim loại nhỏ có thể tự bơm căng, bay theo một chuỗi dài những sợi tua và một thân pháo sáng cháy đùng đùng. Trên màn hình theo dõi ra-đa của bản đồ, một vệt nhiễu xuất hiện giữa chúng tôi và quả rốc-két, còn trên màn hình theo dõi hồng ngoại thì nhìn như có tới một ngàn điểm phát nhiệt. Dù là thế nào, bộ óc thô sơ của quả rốc-két cũng bị gãy nhiễu và nó bay chệch đi. Cùng lúc đó, viên phi công cho chúng tôi lượn một đường hình chữ S. Có tiếng rít chói tai, tiếp đến là những tiếng rên rĩ nhỏ dần khi một quả rốc-két khác lao sạt qua phía dưới chúng tôi. Chắc nó đã nổ ở đâu đó vì chúng tôi không phải tránh nó nữa. Thay vào đó, chúng tôi lấy lại tư thế bay song song với mặt đất và lao thẳng về hướng đông bắc. Yên tĩnh một lúc, cứ như không phải chúng tôi đang đánh nhau mà chỉ đang lấy trộm máy bay của người khác đi chơi một vòng. Tuy nhiên, quan sát trên bản đồ, hai chiếc Comanche đang lừ đừ chặn đầu ở hướng đông, chắn ở khoảng giữa chúng tôi và mặt trời sắp lặn. Tôi đoán ý định của chúng là sẽ tiến lại thật gần và bắn đồng thời hai quả rốc-két, như thế, chúng tôi sẽ không có cách nào làm trệch hướng hoặc tránh được cả hai.
Thời gian tạm ngừng giữa trận chiến cứ kéo dài mãi.
- Mẹ yêu con lắm lắm, - tiếng Marena nói với Max, - con ngoan nhất trên đời của mẹ.
Tôi dõi theo hai chấm màu da cam của quân địch đang iến lại gần. Tôi dõi theo các chỉ số dòng chảy bên dưới. Tôi dõi theo chấm màu xanh lá cây tượng trưng cho đầu đạn MD4 của chúng tôi đang lượn mỗi lúc một sát vào chiếc Comanche gần nhất. Trên màn hình camera đặt ở đầu máy bay, đám mây bên dưới chúng tôi nom như một lớp băng nổi đầy những nếp gấp nhăn nheo. Một khối máy tính lớn nhô lên trên khoảng không quang đãng ở tít xa đằng đông nom như những mái vòm cung điện trong Nghìn lẻ một đêm, đánh dấu vị trí của vỉa đá ngầm Cuba bên dưới. Tôi vẫn chưa nhìn thấy chiếc máy bay nào. Nhưng cuối cùng, chấm sáng tương ứng với chiếc Comanche gần hơn cũng quay ngoắt về hướng đông nam. Viên phi công đã nhận thấy điều gì đang diễn ra. Chiếc tên lửa không người lái đang lặng lẽ tiến sát đến phía sau hắn. Hắn cua một đường gấp theo hình parabol, cố đẩy nhiệt của động cơ máy bay phản xạ xuống mặt nước nhưng đã quá muộn. Trên màn hình video, tôi chỉ thấy một ánh chớp màu vàng lóe lên khi đầu đạn MD4 phát nổ, tiếp đến là một vệt màu đỏ cam của nhiên liệu bốc cháy kéo một vạch xoắn ốc nằm ngang.
- Đồ kém cỏi, - viên phi công của chúng tôi buông một câu.
- Mẹ đoán xem chuyện gì xảy ra trong trận bóng hôm nọ nào? – tiếng của Max.
Lúc này, chúng tôi đã tới đủ gần để trông thấy chiếc trực thăng đang bay lờ đờ sát mặt biển với một quả cầu hơi nước bao quanh, bắn ra những tia lửa cháy rừng rực. Một chiếc ghế phóng để nhảy dù lúc nguy cấp bật lên khỏi đám khói và hơi nước. Nó bật lên khá cao nhưng không mở được dù, vì vậy, viên phi công Guatemala vẫn ngồi trên chiếc ghế, lao xuống theo một đường xoáy như quả cầu lông bị vẹo, để lại phía sau những tàn lửa hồng của nhựa cháy.
- Dios mio (lạy Chúa tôi), - anh chàng WSO lầm rầm, và qua giọng nói, tôi biết chắc anh ta đang làm dấu thánh giá.
- Viên phi công phụ có nhảy dù được không? – Ana hỏi.
- Tôi nghĩ là không. Thứ thiết bị ấy chỉ là đống bỏ đi, - anh chàng WSO đáp, - chúng có làm ăn được gì bao giờ đâu.
- Chết tiệt. Tôi phải chịu trách nhiệm việc này, - cô ta nói.
Chúng tôi bay qua xác chiếc máy bay. Mặt nước đang sủi tăm. Chiếc Comanche thứ hai đã xuất hiện trên màn hình. Tôi đoán nó chuẩn bị khai hỏa, nhưng không hề. Có lẽ viên phi công đã hãi chúng tôi, hoặc chỉ huy của hắn ra lệnh cho hắn không được dây vào.
Chúng tôi lại rẽ hai mươi nhăm độ sang hướng bắc, bay vào vịnh Honduras. Chúng tôi bay qua điểm gần nhất với chiếc Comanche thứ hai. Không có chuyện gì xảy ra. Chúng tôi bay tiếp.
Dù sao, - tôi nghĩ, - chắc mọi chuyện cũng sẽ ổn thỏa thôi. Không sao đâu.
Không ai nói gì trên kênh liên lạc chung, vì vậy tôi ấn phím THEO DÕI TẤT CẢ. Cũng chẳng thấy ai nói năng gì. Chắc các bạn nghĩ người ta sẽ nhảy lên, reo hò và chúc mừng nhau. Nhưng không. Tuy nhiên tôi cũng không cho là họ bị xáo trộn bởi những thiệt hại vừa rồi. Đơn giản là vì mọi việc vừa bất thình lình đi từ một vụ rắc rối thành một vụ thực sự rắc rối. Bỗng dưng tất cả chúng tôi đều đủ tư cách để ngồi từ vô khối thời gian. Chưa phải ain cũng đã bình tâm lại sau chuyện vừa rồi. Hơn nữa, chúng tôi vẫn chưa về đến nhà an toàn. Tôi nhận thấy tốc độ đã quay về 600km/h. Tôi chuyển sang nhìn bằng chiếc mũ của anh chàng WSO. Anh ta đang kiểm tra lướt qua một loạt các tần sóng liên lạc. Có hàng tá người trong cơn tức giận đang gào lên bằng tiếng Tây Ban Nha và một vài câu tiếng Anh. Tôi nghe được mấy từ “cho cất cánh toàn bộ”. Nghe có vẻ không lành lắm.
- Có chuyện gì thế? – Ana hỏi anh ta.
- Không hay lắm, - anh ta đáp, - tôi nghĩ căn cứ Tyndall đang đưa thêm máy bay đến. Có lẽ họ đã trao đổi với căn cứ Belize.
- Chết tiệt.
- Tuy nhiên, bên nào cũng nghĩ chúng ta thuộc phe bên kia.
- Hay thật đấy, - cô ta đáp, - Thôi được, thế anh nghĩ sao?
- Tôi nghĩ chúng ta sắp bị chụp ảnh.
- Chết tiệt.
Hẳn nhiên là họ vẫn nuôi ý định đưa chiếc máy bay này về Stake nguyên vẹn.
- Để tôi nghĩ một giây.- Ana nói. – Chiếc thuyền A còn cách bao xa?
- Khoảng… Ờ… một phẩy năm phút. Nó đang ở Northeast Cay.
Tôi mở rộng cửa sổ bản đồ. Nó đang hiện hình ảnh tối thiểu mười hai chiếc trực thăng và phản lực khác đang lao tới, trong đó có cả hai chiếc F-22 Raptor đến từ căn cứ Belize
- Chúng ta còn khoảng bốn phẩy năm phút nữa, - anh chàng WSO thông báo, ý anh ta là trước đợt đánh chặn thứ hai của quân địch.
Một khắc im lặng ngắn ngủi nhưng nặng nề.
- Tốt thôi, - Ana đáp. Cô ta vào kênh liên lạc chung. – Tất cả chú ý. Chúng ta chuẩn bị bỏ chiếc máy bay này.
-Từ từ đã, - viên phi công nói. Lần đầu tiên anh ta tỏ vẻ hơi bối rối. Chắc anh ta không quen với việc vứt bỏ những thứ còn tốt.
- Việc này không ảnh hưởng gì đến lương lậu, tiền thưởng hay quyền lợi của bất cứ ai đâu. – Ana nói. – Dù sao đó cũng là lựa chọn duy nhất, nếu không chúng ta sẽ phải hạ cánh ở Miami và ngồi chờ xem họ có đưa được chúng ta ra khỏi tù trước lễ Giáng sinh hay không.
- Không được, nếu thế chúng ta sẽ chỉ còn cách quên toàn bộ dự án này đi. Jed, phải về được Stake để giải mã các thông tin. Gọi cho LW mà xem, ông ta cũng sẽ nói thế.
- Nào, - Ana nói, chắc là với viên phi công.
- Thôi được, - anh ta đáp, - làm thế vậy.
- Tốt.
- Chúng ta đang bắt được tín hiệu từ “Con vịt Alpha”, cô muốn gọi không?
- Cứ cho khởi hành toàn bộ và bảo họ đi theo tín hiệu của bè cứu sinh, chứ không phải đến chỗ chiếc máy bay này. Và đó sẽ là lần liên lạc cuối cùng. Họ sẽ phải tìm chúng ta. Hiểu chứ?
- Hiểu.
- Nhưng nghe này, anh phải làm cho giống một vụ tai nạn.
- Để làm gì? Lấy bảo hiểm à?
- Phải đấy. Sao nào? Anh định nói với ai chuyện ấy à?
- Không, không…
- Thế thì tốt, - Ana nói. Chúng tôi bay thẳng hướng đông bắc, qua dãy Laurence Rock rồi qua Ranguana Cay, một hòn đảo chia thành hai múi hình dáng như con trùng đế giày nằm giữa một dải dài màu xanh lục trong vắt của san hô sống.
- Chúng ta không có thiết bị nổ điều khiển từ xa, - anh chàng WSO nói.
- Nhưng các anh có kíp nổ chứ, phải không? – Ana hỏi.
- Phải. Hai cái.
- Vậy hãy dùng một cái để làm bắt lửa một ít xăng.
- Ở trên này không có thùng xăng dự trữ, - anh chàng WSO nói, - ừm… có lẽ tôi sẽ khoan một lỗ trên ở dầu nhờn.
- Ý hay đấy, - Ana đáp, - Được rồi. Sóng thế nào.
- Năm feet, - anh chàng WSO nói, - không sóng lớn.
- Nhiệt độ không khí?
- Bảy mươi tư. Sức gió mười lăm trên bốn mươi.
- Nhiệt độ nước biển?
- Sáu mươi.
- Tốt. Gendo?
- Vâng, thưa chỉ huy.
- Đặt chế độ tự động để đưa chúng ta từ từ xuống gần thuyền A.
- HUA, - viên phi công đáp, té ra bí danh của anh ta là Gendo.
- Nhưng đừng để cái thứ chết toi này bay vào không phận Cuba.
- Vâng, rõ
- Và hãy đảm bảo rằng nó không rơi xuống đầu bất kỳ ai, - Marena xen vào.
- Chúng tôi sẽ làm mọi việc có thể.
Viên phi công giảm tốc độ xuống còn hai trăm cây số một giờ. Chúng tôi bay qua đảo Silk vào biển Mar de Antillas, hướng đến cái vạch màu xanh tím sẫm của hải lưu Gulf Stream ở cuối đường chân trời.
- Tất cả sẵn sàng, - Ana ra lệnh. – Bỏ mũ.
Tôi bỏ mũ xuống. Nó có quạt thông gió, thế mà cái đầu gần như hói trụi của tôi vẫn có nhỏ giọt mồ hôi và không khí như đóng băng lại trên đó. Marena, Lisuarte, Michael, Hitch, Grgur và tôi, tất cả đều liếc sang nhau, trong đầu phân vân không biết ai là người đã nôn lúc nãy. Chúng tôi lao xuống khá nhanh. Ana từ đằng sau len qua chúng tôi. Cô ta vừa lấy trong tủ ra một chiếc cưa không dây và trèo vào cabin chỗ anh chàng WSO.
- Nhờ xóa hết thông tin trên các đĩa khác, - cô ta vừa dặn vừa bắt đầu cưa vào một rãnh nhỏ trên bản gần thiết bị phía trên đầu, giống như đang nạy đồ hộp.
Không có chiếc mũ, tôi không biết chúng tôi đang bay với tốc độ bao nhiêu, vì thế, tôi bèn nhìn xuống bảng điều khiển, nhưng cũng không thấy. Tuy nhiên, có vẻ như chúng tôi đang lao xuống với tốc độ hai mươi dặm một giờ.
- Tất cả tháo dây bảo hiểm, - Ana ra lệnh qua loa, - mặc áo phao và kiểm tra tai nghe.
- Nào, Jed, bắt đầu nhé? – Marena nói. Sau vài lần thử, họ lôi được tôi ra khỏi chỗ ngồi. Cô ta giúp tôi mặc một chiếc áo phao mỏng màu vàng, không khác gì đang thay bỉm cho tôi. Cô ta đưa tôi một cặp kính bơi thuyền bình thường. Cuối cùng, cô ta lôi ra một chiếc mũ giống như mũ bảo hiểm cho người đi xe đạp, với một bóng đèn hiệu nhỏ trên chóp và chụp nó lên đầu tôi. Tôi nhận thấy tất cả đều đã đội một chiếc như thế.
- Nhớ đừng tắt tai nghe nhé! – Marena nói. – Và nhớ để mở kênh liên lạc để có thể liên lạc với cả đội. Được chứ?
- Vâng, - tôi đáp, - thưa cả đội.
Tôi nhận ra rằng tuy tôi vẫn tỉnh táo nhận thức được mọi việc như thường nhưng cử động thì tôi không ổn lắm. Chắc là mình mệt quá thôi, - tôi nghĩ. Nào làm tình, nào leo lên, nào leo xuống, nào thức đêm, cũng khá nhiều căng thẳng đấy. Rồi, mình sẽ đánh một giấc trên xuồng. Không sao đâu. Michael, người tỏ ra hiểu biết đôi chút về máy bay, chen qua chỗ tôi, kéo theo hai bọc lớn màu vàng, bơm căng lên sẽ trở thành hai chiếc bè cứu sinh đầy đủ tiện nghi với mái chèo có thể gập lại và thậm chí cả động cơ nhỏ gắn ngoài với lượng nhiên liệu đủ chạy được một dặm. Ana từ buồng lái quay ra, tay cầm theo một khối màu xam xám có vẻ dễ vỡ. Tôi đoán đó là ổ cứng của máy ghi âm trên máy bay. Cô ta ngồi xuống sàn, cúi xuống cái ổ, lôi từ trong đó ra một cái chiếc hộp nhựa bé xíu và dùng chiếc tua vít xọc mạnh vào nó. Michael buộc hai chiếc xuồng vào khoang chở hàng và món chúng vào một cái quai móc bên trên cửa trái. Tôi đoán là chúng tôi cũng sẽ xuống như thế.
Ana đứng lên.
- Nào, - cô ta nói, - mọi người đều nghe thấy tôi chứ?
Mọi người đều nghe thấy.
- Sẵn sàng rời máy bay rồi chứ? Mũ bảo hiểm ổn cả chứ? Tốt. Thứ tự sẽ là Gendo xuống trước tiên với chiếc xuồng thứ nhất. Asuka và Pen-Pen theo sau ngay lập tức. Tiếp đến là Akagi và Kozo. Zepp lên xuồng thứ hai. Rồi đến Marduk và Shiro. Cuối cùng là tôi. Vậy là năm người trên xuồng thứ nhất và bốn người trên xuồng thứ hai. Rõ rồi chứ?
Tôi đoán là tất cả đã rõ. Anh chàng WSO len qua chúng tôi xuống đuôi máy bay. Anh ta bò xuống tít phía cuối, giật một tấm vách trên sàn và bắt đầu chọc ngoáy thứ gì đó.
- Tốt rồi, - Ana nói. – Nhớ rằng khi tất cả đã lên thuyền, chúng ta sẽ chuyển sang thuyền C ngay khi có thể, vì thế phải luôn sẵn sàng mọi trang thiết bị. Rõ chứ?
Tất cả đều ra ít nhiều ra hiệu “rõ”.
- Áo phao của mọi người sẽ tự động bơm căng khi gặp nước. Hoặc nếu không, hãy thổi vào cái van nhỏ. Mọi người điều biết cách nhảy quay lưng rồi chứ?
Không ai trả lời.
- Như trên tàu Jacques Cousteau ấy, - cô ta nói tiếp, - có ai sợ việc này không? Pen-Pen?
- Tôi sẽ nhảy, - tôi đáp.
- Anh ấy nhảy được, - Marena nói.
- Có ai còn bỏ sót bất cứ vật gì khiến họ nhận dạng được chúng ta không? Còn ai chưa tháo hết dây bảo hiểm không? Pen-Pen?
Xem ra tất cả đều đã sẵn sàng.
- Tốt. Hãy nhớ, cứ thả nổi người. Đừng quẫy đạp. Chúng tôi sẽ vớt các vị lên.
- Chúng ta sẽ nhìn thấy chiếc thuyền trong khoảng tám mươi giây nữa, - viên phi công thông báo, - cô có muốn gọi họ không?
- Không phát tín hiệu nữa, dưới bất kỳ hình thức nào, - Ana đáp, - họ sẽ tự nhìn thấy đèn hiệu.
Cô ta dùng nắm đấm nện một phát lên trần và cánh cửa lớn bên mạn trái mở ra. Áp lực tăng lên như thể chúng tôi đang đứng trong một quả bóng bị thổi quá căng. Mẹ kiếp, ngoài kia còn sáng quá, - tôi nghĩ. Chúng tôi còn cách đỉnh sóng cao nhất chưa đến mười feet và ngay cả với tốc độ chậm như thế này, tôi vẫn cảm thấy như chúng tôi đang lao đi vùn vụt trên đám bụi nước. Ở đằng chân trời, ngay trên những đám mây thấp bao phủ Northeast Cay, mặt trăng sáng trắng in rõ mồn một hình Con Thỏ Vấy Máu đang vụt chạy trốn khỏi các Chúa Tể của Bóng Đêm. Ana quăng chiếc máy ghi âm chuyển bay ra khỏi cửa.
Có tiếng xè xè ở phía cuối máy bay và mùi WD-40. Tôi nhìn quanh. Trên sàn ngay cạnh chân anh chàng WSO là một tia chất lỏng phun lên. Anh ta đã đục thủng một trong mấy cái ống dầu nhờn và đang hý hoáy với thứ gì đó nhìn như chiếc đồng hồ kỹ thuật số rẻ tiền.Cái kíp nổ. Cha mẹ ơi. Đến lúc phải đi rồi.
- Được rồi, đi thôi, - Ana nói.
Gendo – người mà lúc này nhờ hệ thống lái tự động nên chẳng còn việc gì phải làm nữa – tháo chiếc xuồng đầu tiên, đẩy nó ra khỏi cửa và biến mất theo nó sau một cú nhảy ở tư thế ngồi quay lưng.
- Xong, - Ana gào to.
Marena nắm vai tay tôi, ấn tôi ngồi xuống.
- Nào. Ba, hai, một. Nhảy.
- Từ từ đã, - tôi kêu lên, nhưng không thành tiếng. Mặt nước hỗn độn bên dưới chúng tôi nhìn như đang nằm trên một cái máy mài nhám. Marena kéo tôi ngã ngửa ra sau cùng cô ta và chúng tôi rơi vèo khỏi ô cửa, như một chiếc tách và một chiếc đĩa rơi khỏi bàn trả xuống nền gạch.