Chương ba
CHUYỆN ĐỜI NAY

Gần bốn chục năm trôi qua, có hai sự kiện cần được kể lại vì nó liên quan đến cuộc sống ở xóm Linh Linh.
Trước hết là cuộc chiến tranh. Cái vùng đất pha cát này vốn là nơi bỏ quên của cuộc sống đời thường thì chiến tranh lại mò đến kết bạn. Phía trên xóm Linh Linh nơi có khoảng rừng ngày trước ông Hi thường hay mò vào hái củi, sau này trở thành địa bàn của mặt trận. Thế nên bom đạn ngút trời. Rừng cây cháy trụi. Đất đá phơi trần ra. Rồi một căn cứ quân sự  của Mỹ mọc lên. Còn phía đông, bên kia đường quốc lộ, cũng là khu quân sự Mỹ, ban đêm đèn điện sáng trưng. Xóm Linh Linh suốt ngần ấy năm ngập chìm trong tiếng phản lực, tiếng đại bác và xích sắt. Ban đêm phaó sáng đầy trời. Chiến tranh bọc lấy mấy ngôi nhà xơ xác kia khiến cho những người sống ở đó không thể yên ổn được. Những đứa con trai lớn phải bỏ trốn để khỏi bị bắt lính. Đầu tiên là Ngô con của La, sau đó là Ngãi con Lê. Vào những năm cuối của cuộc chiến, Nghi con Lu và cả cậu Ngụ con Lam mới bén tuổi mười lăm cũng phải bỏ nhà trốn vào phố kiếm sống. Còn lại trên xóm Linh Linh toàn là con gái. Trong những đứa cháu gái của ông Hi có lẽ chỉ có Lào, con thứ hai của La là người nối được nghiệp mẹ. Cô không được xinh đẹp cho lắm, lại quá lứa lỡ thì nên lúc nào cũng cáu gắt. Khi những căn cứ quân sự được lập ra gần xóm Linh Linh thì Lào đã vượt qua tuổi ba mươi. Thành thử, cô là người duy nhất cúi đầu xuống bàu nước rêu đen xúc tép, bẩy tôm rồi choàng tấm khăn che nửa mặt mà đi chợ. Còn lại, hầu hết đám cháu gái đều vác mặt lên ti ta ti tởn hướng về mấy cái trại lính. Đứa nhỏ thì thích thú với việc nhặt đồ hộp. Đứa lớn thì tô son trát phấn để bán trôn nuôi miệng. Của đáng tội, đồng tiền làm đĩ cũng đủ để trang trải cho cả nhà. Vì thế đám con gái ấy trở nên kiêu căng, hỗn láo. Chẳng ai dám đụng đến. Trong số đó quá quắt nhất là Lan, con gái duy nhất của Lương. Có lần, lúc mà ông Hi còn sống và còn thều thào nói được, đã gọi Lan lại bên giường, cố lấy giọng mềm mỏng khuyên bảo:
- Cháu đừng đi lại với đám người rừng ấy....
- Rừng nào?- Đứa cháu xếch mi mắt lên nhìn ông.
- Cái bọn tóc quăn.... mắt đục ấy...
Cái môi của cô bé mười sáu tuổi bỗng chìa ra.
 - Đừng... đi.. lại! Thì lấy cái gì mà bỏ vào nồi cho cả nhà ăn nhậu? Hừ, có tí của thì chôn ngập ở đâu đâu... Sắp chết rồi mà ngu vẫn hoàn ngu.
Ông Hi ngậm bặt miệng. Từ ngày lũ trẻ trong nhà này lớn lên, có lẽ bố mẹ nó đã truyền lại hết cho chúng nghe về pho tượng, cho nên hễ đụng vào đứa nào là lập tức bị nó bới móc việc ấy ra. Thật vô phúc.
Chiến tranh kết thúc. Đám lính tóc quăn mắt đục đã rút chạy biệt tăm. Nhưng với xóm Linh Linh hầu như chẳng có gì thay đổi. Những đứa chuyên đi nhặt vỏ hộp thì nay chuyển qua đào bới vỏ liều và nhặt mảnh nhôm, sắt. Cả một đoàn áo quần xơ xác, đầu không mũ, chân không dép, cứ sáng ra vác bao gai kéo nhau ra đi, tối mịt mới về. Những đứa chuyên làm đĩ thì nay vẫn thế. Có điều họ phải đi xa hơn, nhảy xe đò mò vào tận trong phố. Còn những cậu con trai trốn lính thì vẫn biệt tăm mất tích, chẳng thấy về. Có khác chăng là bây giờ xóm Linh Linh không còn cái gì để ồn ào, náo nhiệt nữa. Bảy túp lều lại trở về hoang lạnh như thuở xa xưa.
Sự kiện thứ hai xảy ra có một ý nghĩa như một bước ngoặt trong đời sống của xóm Linh Linh là cái chết của già Hi. Cái chết xẩy ra từ từ, ngoan cố và mòn mỏi. Kể từ bữa ông Hi ngáp liền mấy cái và sau đó hai tay quờ quạng không còn cầm nắm được vật gì nữa cho đến lúc tắt thở kéo dài hơn nửa tháng trời. Ngang đã chuẩn bị xong gỗ hòm, chiếu liệm và sau đó là đào huyệt. Công việc này, ông không cho bất kỳ đứa con nào đi theo. Cứ một mình tay cuốc tay xẻng mỗi ngày đào năm huyệt, mỗi huyệt sâu  trên một mét, rộng phải đến ba bốn người nằm. Không ai trong nhà kể từ các bà vợ đến lũ con đặt miệng hỏi vì sao lại đào nhiều huyệt đến thế. Có lẽ tất cả đều đã hiểu. Họ không hỏi, không đi theo, nhưng hàng chục đôi mắt từ trong các túp lều, các bụi rậm thì lại bám chặt bóng bố không rời. Cả một vùng vườn rộng mênh mông bị đào xới loang lổ. Cũng may, đất ở đây là đất pha cát, đào bới không đến nỗi nặng nhọc lắm. Tuy vậy, đến chiếc huyệt thứ năm mươi thì Ngang vứt xẻng, phủi tay nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống huyệt rồi chưởi: " Đ.mạ, chẳng biết nó chôn chỗ nào!". Ông không đào nữa và sốt ruột vì thấy bố vợ quá ngoan cố không chịu tắt thở.
Ông Hi tắt thở vào một buổi sáng. Lúc ấy mặt trời đã lên chừng hai con sào. Thật là một buổi sáng đẹp trời. Nắng nhàn nhạt. Gió thổi cầm chừng. Trời trong văn vắt và thậm chí sau này ông Ngang còn quả quyết là có chim hót nữa. Chỉ rủi ro, không phải cho ông Hi mà là cho đứa con rể là vào lúc đó, tất cả lũ cháu đều đã kéo nhau đi lên các khu quân sự. Mẹ chúng thì đi chợ, đi lấy củi hoặc ít ra thì cũng đi đâu đó. Từ cái hôm ông Hi ngáp mấy cái, và đặc biệt là sau khi ông Ngang tuyệt vọng trong việc đào huyệt để tìm pho tượng, thì đám vợ ông, nghĩa là lũ con quý hoá của ông Hi cứ sáng ra là bỏ nhà ra đi, chẳng biết đi đâu, đến tối mịt, có khi còn quá tối nữa mới lò dò về. Rõ ràng họ sợ bận bịu vào cái chết của bố! Mỗi lần mò về tới lều, trong bóng sáng lem nhem của đèn dầu, các bà vội vã hỏi con: " Ông chết chưa?" Lũ con đáp gọn: " Chưa" Họ thở dài, đi ngủ và chờ trời sáng.
Cái việc xẩy ra như vốn nó phải xẩy ra. Ông Ngang lễ mễ một mình kéo bố vợ ra huyệt, một mình lấp đất. Bỗng dưng ông căm hận. Căm hận quá chừng. Trước hết là vì cái xác chết quá nặng, huyệt lại sâu, lấp cho kín ngần ấy đất đâu phải chuyện dễ. Thế mà năm nay ông cũng đã trên tuổi năm mươi rồi, sức lực cả một thời trút hết vào cho bảy bà vợ để có thể lòi ra ba mươi tư đứa con. Thế mà đến cái công việc cuối cùng này, lũ vợ ông, cũng là lũ con của nó, rồi cả lũ cháu nó, tức là con mình, chúng nó lại bỏ mặc. Dâu là con, rể là khách. Khách gì lại có thứ khách khốn nạn thế này! Căm hận hơn thế nữa, là cái xác chết ấy cho đến lúc đã nằm khoèo trong huyệt vẫn không chịu hé môi nói ra cái chỗ chôn pho tượng. Nó cất giữ mà tế mẹ nó chứ? Trong lúc con cháu nó lại đói nheo đói nhóc. Thế thì ông xông vào đây làm rể để làm gì? Lại kéo nhau túm tụm về đây ăn chui ở rúc nơi nương hoang vườn rộng này để làm gì? Hay là chúng nó lừa ông, những cái con vợ đười ươi ấy, cái thứ nửa người nửa ngợm ấy có ma mà lấy, cho nên mới rắp tâm mua chuộc ông, bắt ông phải đèo bồng cả lũ?
Nỗi căm hận làm đầu Ngang nóng bừng bừng. Ông lấp nhanh hố huyệt, chỉ lấp ngang bằng mặt đất chứ không cho nhô lên  chút nấm nào. Rồi ông hung hăng vác cuốc đi lấp cả bốn mươi chín chiếc huyệt khác, cũng lấp bằng như vậy. Vừa làm Ngang vừa lầu bầu nguyền rủa: " Cho mất nòi chúng bay đi! Cho tiệt ông tiệt bà chúng bay đi! Đồ vô phúc! Vô ơn! Vô hậu!".
l
Thêm chục năm nữa trôi qua kể từ ngày ngừng cuộc chiến. Lúc này ông Ngang đã gần bảy mươi. Bà La trên sáu mươi. Cô gái út ngày nào khi Ngang mới đến làm khách nhà này còn là đứa bé sáu tuổi nay cũng đã gần đến tuổi năm mươi. Cuộc sống ở xóm Linh Linh có phần nới rộng ra một chút. Trước hết xóm này đã được nối liền với vùng làng cách đó khoảng một buổi đi bộ, được gọi là xã Hưng Thịnh. Chính quyền xã đã tổ chức cho dân khai hoang phục hoá những đồi đất lâu nay bỏ hoang để trồng sắn, khoai hoặc trồng phi lao, bạch đàn chắn cát. Công cuộc mở mang ấy chưa tiến sát vào xóm Linh Linh được vì hai cái căn cứ quân sự cũ dày cộm bê tông và ngổn ngang thép gai, vỏ đạn. Tuy vậy, cái xóm bảy nhà ấy không còn cô độc như trước. Thỉnh thoàng ông Ngang hoặc bà Lanh hay cô út Lục đang còn tuổi lao động vẫn phải băng đồi ra tận ngoài xã để hội họp. Cũng nhờ có mối quan hệ ấy mà con cái họ có nơi để mối mai, lui tới. Trừ có Lào, nay đã ở tuổi bốn ba, trở thành bà cô dữ dằn của cả xóm, còn lại hầu hết đều lấy được chồng. Họ tản ra vùng gần đó theo các chàng trai. Chồng họ có người là thợ xây, có kẻ buôn bán, cũng có người làm cán bộ. Nói chung là như mọi người trên đời không có gì đáng kể.
Trong đám con rể có hai người mà ông Ngang để mắt đến nhất, đồng thời chính hai người ấy cũng là những kẻ lưu tâm đến xóm nhỏ này hơn cả. Người thứ nhất là Vi Hán, chồng của Líp, con gái bà Lanh. Người thứ hai là Hoành, chồng của Lan, cô gái đáo để nhất nhà này đã một thời làm rung chuyển căn cứ quân sự Mỹ. Bà Lương chỉ sinh có  mình Lan. Sau đó bỗng dưng bà to ra, tròn quay như con vịt bầu và hoàn toàn tắc tịt về mặt sinh đẻ.
Vi Hán, nói giọng Quảng Nam, người to con, mặt đen sạm. Hồi trước Vi Hán ra vào vùng này là để buôn sắt vụn, đồng nát. Đấy là một mối buôn bán lợi hại cho gia đình bà Lanh. Vi Hán đã có hai vợ. Nhưng đến khi mê Líp rồi lấy Líp về thì chính sức mạnh của cô gái vùng hoang dã này đã kéo được Vi Hán bật ra khỏi sự ràng buộc của gia đình để sống riêng với Líp. Vi Hán ra Huế, lập một xưởng đúc sắt thủ công. Từ đó Líp trở thành dân thành thị, mặc áo dài, điểm son lên má. Người ở phố gọi Líp là bà. Dân đến làm thuê thì gọi thêm: bà chủ.
Từ ngày thành con rể nhà này, Vi Hán ra vào thường xuyên. Dáng người trông sắt đá nhưng bụng dạ lại rộng rãi. Chẳng riêng gì túp lều bà Lanh ngày một khang trang sáng sủa mà cả xóm cũng được nhờ vào tấm lòng hiếu thảo của người cháu rể. Lúc Vi Hán cưới Líp thì bà Lanh chưa đến tuổi năm mươi.Mà có lẽ Vi Hán cũng gần xấp xỉ tuổi ấy. Sau nhiều lần lui tới, các bà chị bà em bắt đầu xầm xì về mối quan hệ khó coi giữa mẹ vợ với con rể?.. Ngang nghe nhưng bỏ ngoài tai, dù bà Lanh có bỏ nhà mà đi hẳn với Vi Hán thì Ngang cũng mặc kệ. Nói chung ông chán các bà lắm rồi. Điều lo sợ của Ngang trước việc thằng con rể lui tới quá nhiều nhà này là ở chuyện khác.
Còn chuyện tình yêu giữa Lan và Hoành thì ly kỳ hơn. Đây là một trường hợp đặc biệt ngoại lệ, cần kể tỷ mỷ một chút.
Đấy là đêm cuối cùng của toán lính tóc quăn, mắt đục tồn tại trên vùng đất này. Nhưng Lan nào có hay biết điêù đó. Cả một thời cuộc dữ dội đi qua, dưới con mắt của lan chỉ là những đồng tiền hay những gói quà moi móc được của đám người rừng như ông cô vẫn gọi. Nhưng thời cuộc thì vẫn đã đi qua dù Lan không muốn thế. Đêm cuối cùng ấy cô bị tụi lính chuốc la-ve cho say mềm ngay ở quán giải khát trước cổng căn cứ. Rồi cái thân mềm như con sứa ấy được chuyền qua chuyền lại chẳng biết đến mấy tay, cho đến lúc máu tứa ra ướt đẫm cả quần áo. Cô lịm đi, không hay biết lúc ấy từ phía trên rừng lửa bốc cháy dữ dội. Súng nổ ngoài hướng bắc. Xe tăng, xe RMC rú máy chạy náo loạn. Cô vẫn ngủ. Quá nửa đêm thì toàn bộ căn cứ rút sạch. Gần sáng quân Mặt trận mới tràn xuống tới đường cái! Chủ lực ào ào lướt dọc theo trục đường một. Du kích cắm lại từng địa bàn để giải quyết hậu quả. Một anh du kích trẻ tên là Hoành đã bê cô trên tay như bế một nạn nhân chiến tranh. Chủ quán giải khát cũng đã bỏ chạy cùng với lính tóc quăn mắt đục. Chẳng ai hay chuyện gì đã xẩy ra với cô gái tội nghiệp này. Khi chiến sự đã trở lại bình yên thì Lan mới tỉnh. Cô tỉnh và nhận ra xung quanh mình không còn những tên tóc quăn mắt đục nữa, thay vào đó là những người con trai dễ coi hơn nhưng cũng đầy súng ống. Cả một cuộc đổi đời ghê gớm đã xẩy ra, bằng một giấc say của cô. Chẳng có gì quan trọng cho lắm. Có lẽ người ta chỉ thay đổi chỗ ở cho những toán  người. Thế nên sau một buổi nằm hồi sức trong sự chăm sóc của Hoành, Lan đã lấy lại thần sắc. Cô bắt đầu cười duyên với Hoành. Đây là nguyên cớ kỳ diệu mà tạo hoá khéo bày đặt để sau này họ thành vợ thành chồng. Đương nhiên cũng cần phải có thêm một thời gian nữa. Một thời gian cần thiết để chính quyền địa phương tìm hiểu về Lan, con một người nghèo khổ có nhiều vợ, sống cơ cực ở một xóm vắng, không hề dính dáng gì đến kẻ thù. Còn chuyện Lan đã sống như thế nào thì trừ mấy chị em cùng nhà ra không ai trong xã biết được.
Còn Lan, vốn là một người thông minh, lại mang trong mình dòng máu  ranh mãnh của bố cho nên cũng chỉ sau một thời gian ngắn, cô đã ý thức được thế nào là đổi đời, là cách mạng, là chính quyền và vân vân nữa. Cô biết từ nay quyền lực thuộc về những người như Hoành. Thế nên, mặc dầu bị bố can ngăn quyết liệt và đám chị em ra mặt khinh bỉ, cô vẫn ngang nhiên đi lại với Hoành. Ông Ngang đay nghiến con: Mi đúng là con quỷ cái của nhà này! Ai đời lại tằng tựu với đám người rừng!..Mi cười cái mả cha mi à? Việt cộng mới chính tông là người rừng đó. Lan bĩu môi, nguýt mắt không thèm đáp lại lời bố. Cô biết rõ, người yêu mình nay đã là Chủ tịch xã và nghe anh nói có khả năng năm tới sẽ được lên phó chủ tịch huyện.
Thì chuyện đó đã xẩy ra. Hoành được làm phó chủ tịch huyện và cưới vợ cùng một lúc! Đám cưới được tổ chức tại hội trường Uỷ ban. Pháo nổ mù trời. Sau đó có xe riêng đưa hai vợ chồng về xóm! Cả xóm tái mặt. Chẳng ai biết cần phải làm gì. Mọi người cứ chạy qua chạy lại nháo nhác. Sau đó Lan lên trên huyện ở hẳn với chồng. Chuyện đó cũng chẳng sao. Ông Ngang coi như thoát khỏi hoạn nạn. Nhưng thật là tai hại. Chỉ sau một tháng người con rể lại về. Hai vợ chồng ngồi trên xe chạy băng băng giữa đồi pha cát. Chiếc xe chạy một vòng quanh đồi thì dừng lại nhưng cả hai vợ chồng vẫn không ai bước xuống. Họ ngồi trên xe chỉ trỏ, nói cái gì đó với nhau có vẻ say sưa lắm. Ông Ngang nhìn qua cửa hè lầu bầu chưởi. Những bà dì ở các túp lều cũng bậm mặt lại. Họ thầm nguyền rủa cái con đĩ rạc phản tổ tông. Thế rồi sau đó chừng mười ngày, một tốp công nhân được điều động về làm đoạn đường từ quốc lộ vào thẳng xóm Linh Linh. Đường san rộng tám mết, mặt đường đổ đất sỏi đỏ ối. Thế là từ đó xóm Lịnh Linh bị kéo tuột ra giữa mọi mối ràng buộc của cuộc đời.
Tuy đã lên gần tuổi bảy mươi và với cái vóc dáng ngày một còm nhom như người nghiện, nhưng ông Ngang rất siêng năng đi họp. Từ xóm Linh Linh vào đến trụ sở xã phải đi  chừng hai giờ, nhiều đêm mưa gió tối mịt ông phải bước thấp bước cao lò dò đi, cũng nhiều lần vấp ngã sóng xoài trên đất  cát, ông phải ngồi yên một lúc lâu mới lồm cồm đứng dậy bước tiếp. Cán bộ xã khen ông hăng hái. Nhưng cũng có kẻ ác miệng đay nghiến rằng bố vợ phó chủ tịch huyện ắt phải gương mẫu! Ông Ngang bỏ ngoài tai tất cả lời  khen tiếng chê ấy. Ông siêng đi lại vì một lý do chỉ có ông tự biết: Cần phải lắng nghe xem người ta có bàn gì về cái kho báu của vườn nhà ông không?
Nhưng không ai bàn tán gì cả. Có lẽ chẳng ái biết
Thời gian cứ vậy mà trôi đi. Mỗi một cuộc họp, cán bộ xã lại phổ biến một chủ trương mới của huyện. Đầu năm nói chuyện lập Tập đoàn sản xuất, giữa năm lại tiến lên hợp tác xã. Chủ trương nào ông Ngang cũng đưa tay trước tiên. Không gì cũng mang tiếng là bố vợ Phó Chủ tịch huyện. Rồi kế hoạch làm thuỷ lợi toàn huyện, huy động dân công đi đắp đập Khe ồ. Ông đưa tay ngay. Lại phát động toàn dân khai thác chổi đót xuất khẩu. Ông nhiệt liệt ủng hộ. Chuyện gì cũng hay. Chỉ có điều nhà ông thực chất chẳng có một lao động nào đáng kể. Bảy bà vợ đều đã già. Những đứa con gái lớn đi theo chồng. Những đứa khác thì còn bé bỏng vẫn tiếp tục sự nghiệp đào bới vỏ liều và nhặt sắt vụn. Duy nhất chỉ còn hai người đúng tuổi lao động nhưng chẳng ai thèm đụng đến. Đó là cô Lào đụng đâu chưởi đó và cậu con trai của bà Lục bị mù từ trong bào thai. Năm nay Ngẩu đã đến tuổi mười tám nhưng người như nặn bằng bột, suốt ngày ngồi trước thềm nhà nói một mình như thằng say. Thành thử chẳng có công việc gì của xã mà lại có sự tham gia của xóm Linh Linh. Mà cuộc sống tự nó có sự sàng lọc công minh các mối quan hệ. Người ta bắt đầu chán những cái đưa tay, những lần ủng hộ nhiệt liệt của ông Ngang khi mà không có công việc cụ thể nào của xã lại có sự tham gia của gia đình ông. Rồi người ta chán luôn cả sự có mặt của ông trong các cuộc họp.Bản thân ông Ngang cũng nhận thấy điều đó. Hơn nữa, đã lâu không đánh hơi thấy có ai dò xét xì xào gì đến cái điều bí mật của nhà mình, ông Ngang bắt đầu lơ đễnh việc đi lại. Cuối cùng, mặc dù danh nghĩa vẫn là một khóm nhà thuộc xã Hưng Thịnh, nhưng xóm Linh Linh lại trở về với nếp sống ẩn dật truyền kiếp của nó. Những bãi phi lao, bạch đàn được trồng lên sau chiến tranh đã thay thế cho rừng tràm trước đây ngăn khuất bảy túp lều với con đường quốc lộ. Cái bàu nước rêu đen ngày một sẫm đặc rác rưởi và rền vang tiếng ếch nhái mỗi đếm động trời.
°
°
Điều mà ông Ngang ngờ vực ở hai thằng con rể tinh quái kia cuối cùng đã xảy ra. Trước đó một thời gian Vi Hán ra nhà bố vợ ở lại liền mấy ngày. Dĩ nhiên Líp - vợ hắn- không đi theo vì phải cai quản cả cái xưởng ở trong Huế. Dĩ nhiên Vi Hán mang ra rất nhiều bánh kẹo để phân phát cho tụi trẻ con, lại mang cho cậu em Ngẩu con dì Lục một ống sáo để thổi và tặng bố vợ một chai rượu bổ sâm. Và dĩ nhiên Vi Hán ngủ đêm ở nhà vợ. Những đứa bé con dì Lục, con út dì Lam ranh ma rủ nhau bò vào sát phên liếp nhà dì Lanh để lắng nghe mẹ dì tâm sự. Đèn tắt tối om. Những tiếng thở phì phì như rắn. Tiếng vạc giường cọt kẹt và thỉnh thoảng còn có cả tiếng rên. Tất cả những cái đó ngay lập tức được đám trẻ chạy đi loang báo khắp mọi nhà. Những bà dì lầu bầu nguyền rủa. Riêng cô Lào thì nhảy thách ra giữa sân, chắp tay lên hông, chạng chân ra như thế đứng của tượng Mẹ Đất mà chưởi vang lên giữa trời. " cha tổ sư, cha mẹ nó! đĩ đâu có đĩ cả nhà!" Cũng may tiếng chưởi của cô Lào đã trở thành cơm bữa nên cũng không gây nên sự chấn động nào cả.
Ông Ngang bỏ ngoài tai tất cả. Mỗi lần Vi Hán ra thăm là ông thon thót nỗi lo lắng. Lần này nó ở lại! ở lại để làm gì? Những đứa con gái của ông đều là tuồng lăng loàn cả. Chúng nó chẳng tiếc gì mà không bán cả tổ tông đi. Hơn nữa chuyện con rể với bố vợ là chuyện mà chính đời ông đã trải qua, ngẫm bụng mình ra bụng người, không sao tin được.
Sáng hôm sau ông Ngang cố tỉnh dậy thật sớm. Không ngờ Vi Hán lại dậy sớm hơn. Vừa thò người ra cửa hè ông đã nhìn thấy thằng con rể ngậm điếu thuốc lá ở miệng đi lại thẫn thờ phía mép vườn giáp với rừng phi lao. Hắn tìm chi, nghĩ chi? Ông không thể ngồi yên được. Thế này thì thật quá quắt. Ông Ngang hớt hãi chạy ra:
- Nì... mi nhóm ngó cái chi, hử?
Vi Hán hơi giật mình một tí, nhưng liền đó đã cười tươi.
- Ngắm vườn của bố!
- Có chi mà ngắm?
- Có chứ! Vườn bố rộng quá. Có lẽ phải tới bốn mẫu, có khi còn hơn nữa...
Ông Ngang lầu bầu:
- Hừ... vườn ông cha để lại... Cái chi thì cũng của ông cha để lại...
- Đã đành - Vi Hán rút thêm một điếu thuốc châm nối vào tàn lửa đang hút rồi cao giọng - Bố đã nghe chủ trương mới về ruộng đất chưa? Mỗi hộ chỉ được cấp hai sào thôi...
Ông Ngang nhíu mày:
-Ai cấp?
- Chính quyền chứ ai!
- Nhưng vườn tao là của ông bà để lại...
- Đã đành...
- Hơn nữa nhà tao có những bảy hộ...
- Con biết rồi...
- Biết rồi, biết rồi.. Cái chi mi cũng biết rồi, vậy còn nhòm ngó làm chi nữa?
- Là để con khuyên bố...bố già rồi không ham được đâu.
Ông Ngang đứng sững người. Nó nói vậy nghĩa là thế nào? Có phải là nó đang thách thức ông?
Nhưng Vi Hán đã quay người trở về túp lều bà Lanh. Ông Ngang cay đắng nghĩ đến những tội lỗi không thể dung tha được của con và của vợ. Cần phải trừng trị! Nhưng trừng trị bằng cách gì thì ông chưa nghĩ ra. Vừa lúc ấy tiếng sáo tre ở nhà bà Lục vang lên nghe toe toe như còi thổi. Lũ con trời đánh. Ông Ngang tức tối đến lộn ruột, nghiến răng chạy vào nhà.
Sau đấy không đầy tuần lễ, chiếc xe con quen thuộc của Phó Chủ tịch huyện lao chồm từ ngoài đường sỏi vào chính giữa khu vườn. Hoành bước xuống trước đưa tay vẫy một vòng chào cả nhà. Sau lưng Hoành là Vi Hán, sau Vi Hán là Lan. Họ đứng túm tụm dưới một gốc mít chỉ trỏ về phía bờ phi lao. Thế có điên tiết không chứ. Ông Ngang lại chếnh choáng bước ra.
- Nì... chỉ chỉ cái chi, hử?
- Bố ạ! - Hoành chào trước.
- Bố ạ! - Cả Vi Hán lẫn Lan cùng chào một lúc.
- Bố ạ, bố ạ cái chi. Đây là đất đai tổ tông tao để lại, quyền bính chi bay mà chỉ với trỏ?
Hoành quay hẳn lại cười rất to:
- Bố ơi, đất đai là tài sản chung của Nhà nước. Hơn nữa chúng con làm việc là làm cho toàn dân. Việc gì ích nước lợi dân thì bố phải ủng hộ chứ!
Ông Ngang khoát tay:
- ở đây không có việc chi ích nước lợi dân cả.
Hoành bước sán lại trước mặt ông Ngang, giọng nhẹ nhàng:
- Bố ơi, huyện mình bây giờ phải làm ăn lớn. Phải biết khai thác triệt để mọi thế mạnh có sẵn trong huyện. Sắt vụn, đồng nát và tất cả những phế liệu chiến tranh là một nguồn nguyên liệu rất dồi dào của huyện. Nếu cứ nhặt đem đi chỗ khác bán là vác của đi cho người ta. Vì thế anh Vi Hán có ra bàn với huyện mở một xưởng luyện thép thủ công. Việc này hay lắm. ý định của anh Vi Hán là lấy khu đất chỗ kia để xây dựng xưởng...
Ông Ngang tròn cả hai mắt:
- Ô hay, rứa cả huyện hết đất à?
Vi Hán xoa xoa hai tay trước mặt:
- Bố ơi, đất thì chẳng thiếu, nhưng khu vực này là trung tâm của phế liệu. Đặt xưởng ở đây rất thuận tiện.
-  Thì đặt lên chỗ kia... kia kìa... Hay làm luôn ra ngoài chỗ căn cứ quân sự hồi trước có tiện hơn không?
Lan khó chịu nguẩy đầu một  cái, môi lại chìa ra:
- Bố thì lắm chuyện. Việc của cấp trên, biết chi mà cũng góp vào.
Ông Ngang chồm cả người tới gào lên:
- Tao mà không biết à? Tao mà không biết ư? Tao biết tỏng tòng tong bụng dạ chúng mày rồi... Đồ háu ăn, đồ háu của...
Lan mím môi lại cầm tay áo chồng dặt mạnh:
- Đi anh! Điếc tai lắm...
Hoành khẽ liếc mắt về phía bố vợ vẻ ái ngại. Nhưng Lan đã kéo anh về xe. Ông Ngang vẫn chưa nguôi cơn tức giận:
-  Tao bảo cho mà biết... đừng có vác mặt về đây... đồ vô phúc!
Chiếc xe con quen thuộc lại rú máy, xịt khói chồm chồm ra khỏi khu vườn. Ông Ngang nắm chặt hai bàn tay, nhìn theo đám bụi đỏ sau đít xe mà lòng cuộn trào bao nỗi căm tức. Phải làm một cái chi đây? Phải làm cái chi đây? Ông điên tiết vì không nghĩ ra được mưu kế gì. Đột ngột ông đi như chạy về phía các túp lều.
- Nì, mẹ cái Ngô, họp!
Bà La ngẩng mái đầu lốm đốm tóc bạc lên nhìn chồng ngơ ngác:
- Bố nó nói cái chi?
- Họp
Nói rồi không để cho bà vợ già kịp hiểu ra ý nghĩ của cái từ lạ lẫm đó, ông xồng xộc chạy đến một túp lều khác:
- Nì, mẹ thằng Nghi, lên họp!
- Bà Lu đâu rồi.  Mẹ thằng Ngãi đâu, lên họp!
- Mẹ con Líp nữa, lên họp!
- Lên họp!
- Lên họp!
Trong số bảy bà vợ ở xóm này có quá nửa đã quen với tiếng "họp". Bởi từ ngày có quan hệ với xã Hưng Thịnh họ cũng đã nghe nhiều lần hai tiếng "mời họp". Cũng có bà đã từng đi dự họp hẳn hoi. Nhưng điều quái lạ làm cho tất cả ngơ ngác không sao hiểu nổi là người mời họp lại là ông chồng dở người của họ, mà cũng không giải thích là họp với ai, họp chỗ nào. Họ hoảng hốt như sắp có tai hoạ gì đó tràn đến. Tất cả vội vã chui ra khỏi lều, luống cuống kéo lên gặp chồng cốt để hỏi lại cho rõ. Thấy mọi người hớt hãi tập trung, ông Ngang bỗng thấy hay hay. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến nay, đây là lần đầu tiên ông xuất thần nghĩ ra cái trò quái dị này. Có lẽ đó là kết quả của hàng chục lần hăng hái đi dự họp. Ông Ngang cố nhớ lại xem các cuộc họp thường được bắt đầu thế nào?
- E hèm... mời bà con ngồi... e hèm. Mời chú bác ngồi vào trong này...
Cả bảy bà vợ sững sờ nhìn chồng. Họ tái mặt vì ai cũng nghĩ có lẽ chồng mình đã trở tính. Nhưng ông Ngang thì vẫn hăng hái:
- Nào... mời ngồi!... ô hay, điếc cả à?
Tất cả miễn cường ngồi xuống, nín lặng, mắt lấm lét nhìn nhau.
- E hèm... kính thưa các... mẹ nó. Hôm nay tôi mời tất cả các mẹ nó đến để họp nhằm thảo luận một cái chủ trương...
Ông Ngang mím môi lại. Chà, biết nói cái chi. Không hiểu sao ở các cuộc họp người ta nói được dài đến vậy. Đ.mạ, chẳng ai ngu như mình, ông nuốt ực một cái trong cuống họng, ừ, vì mình ngu cho nên nay phải còng lưng mang bảy con mụ này trên vai, mà cái kho của kia đâu chẳng thấy. Tất cả là do các mụ này. Những đứa con bất hiếu kia cũng từ các mụ này mà ra. ánh mắt của ông đột ngột loé lên những tia nhìn căm hờn:
- Cái chủ trương là... con cái mấy mụ quá hư đốn. Tất cả đều cõng rắn cắn gà nhà... Ngày trước cha mấy mụ lừa tôi, chừ đến lượt con mấy mụ lừa tôi. Tôi là cái gì? Là con trâu còng lưng kéo cày, là con chó ngày đêm gác cửa, là con ngựa è cổ kéo xe...  Từ ngày tôi về đây, có ai nhớ được tôi đã làm những gì. Cái nương cũng tay tôi phát, cây mít cũng tay tôi trồng. Nuôi vợ, rồi nuôi con. Rứa mà chúng nó rình rập nhau phá hết. Một thằng rể bày mưu cướp đất. Một thằng rể khác nghe vợ xúi giục đồng loã với thằng kia.  âm mưu chúng là gì? Thưa các mẹ nó! Thực chất là chúng muốn nhòm ngó thế mạnh của ta. Nhưng thế mạnh của ta ở đâu...? Sư cha nó. Nó chết thì nó mang theo, không hở miệng cho ai biết. Hơn bốn chục năm về sống với cái nhà này tôi nào có nhìn thấy. Toàn là nghe nói. Đầu tiên là mẹ thằng Ngô thầm thì vào tai tôi. Đúng rứa không mụ La? Rồi thì đến lượt mẹ thằng Nghi quyết một quyết hai là có. Rứa mà đến chừ tôi hỏi có ai đã trông thấy cái thế mạnh  ấy chưa? Chưa hí? Đ. mạ, toàn là một phường bịp bợm!... Khi tôi chưa về đây, dù nhỏ dù to tôi cũng có một cái hiệu thuốc trong phố, dù hay dù dở người ta cũng kêu tôi bằng thầy. Rứa mà mấy mụ thay nhau xúi giục tôi, về đi, mau lên. Về mà chiếm lấy khu đất ấy, có cả một kho của cải đủ xây cả một thành phố, về mau đi, bố già sắp chết, rõ đúng là miệng lưỡi rắn độc. Chừ thì bầy con của mấy mụ chắc chắn cũng đang cuống quýt giục mấy thằng chồng nó như vậy. Mau lên, thằng bố sắp chết rồi, mau về mà chiếm lấy cái vườn ấy... Đ.mạ chúng nó! Cứ về đó mà đào mà bới, có cái máu l...
Các bà vợ ngao ngán thờ dài. Thì ra họp là như vậy. Ông ấy kêu lên đủ mặt để chưởi cho sướng miệng. Lâu nay ông ấy vẫn chưởi, nhưng mới chưởi từng người, mới chõ mồm vào từng căn lều. Còn chừ thì ông bắt tập trung lại nghe chưởi tập thể.
Bà La chống gối đứng dậy, dáng điệu run rẩy. Bà vừa tức giận, vừa tủi hổ lại vừa mệt mỏi. Năm nay bà đã trên tuổi sáu mươi. Tất cả những gì thuộc về quá khứ đã hoang lạnh và mờ xa trong ký ức bà. Ngay cả chuyện bà mê muội bỏ nhà trốn đi theo cái thằng thầy lang ấy nay bà cũng không nhớ rõ. Tuổi tác và sự nghèo nàn ê chề đã gặm mòn tất cả những khát vọng ngày trước. Rồi đến bà Lê, bà Lu, bà Lanh cũng thế. Quả thật có một thời hễ nhằm mắt  là các bà nhìn thấy một hình nhân mình đỏ như máu, đứng bằng một chân cứ lù lù hiện ra trước cửa. Đó là những gì nhìn thấy được của mẹ các bà. Nhưng rồi gần trọn một kiếp sống, nỗi cơ cực bần hàn cứ bào xát lên từng bữa ăn, từng mảnh áo khiến cho con người xa dần mọi hy vọng. Những ảo ảnh về  của cải, về sự giàu sang cứ lụi dần rồi tắt hẳn.
May mắn trong số các bà, chỉ có hai người em sau cùng vẫn còn phảng phất chút ảo mộng. Bà Lương, từ ngày con gái biết làm ra tiền bằng chính cái bà đã sinh sản ra, rồi đến khi nó lấy được chồng có quyền có chức thì tấm áo trên người bà có phần sáng sủa ra, bữa cơm hàng ngày cũng có phần mặn đũa. Hơn nữa, ngoài Lan ra bà không sinh đẻ thêm được, cho nên sức lực còn căng mà đồng tiền chi tiêu lại ít, của cải trong nhà đã có phần dôi ra. Và khi đã có thể nhìn thấy đồng tiền dư dật thì người ta lại biết khát khao. Vì lẽ đó, khi Lan thủ thỉ hỏi mẹ chuyện tượng đồng đen một chân, bà Lương đã cố nhớ lại những gì thuở bé mình nghe được rồi bà bắt đầu thêm thắt, thêu dệt nó để kể cho con như kể một câu chuyện cổ tích đầy hấp dẫn. Lan nghe xong suốt đêm không ngủ. Hơi thở cô gấp gáp một cách lạ thường. Nếu phải là con trai có lẽ cô đã vác  cuốc đi đào đất ngay trong đêm ấy.
Còn bà Lục thì ngược lại. Trước hết vì bà là con út, năm nay mới rập rình cái tuổi năm mươi. Ham muốn của con người thường ngược chiều với tuổi tác.  Cái độ tuổi ấy chưa lấy gì già lắm, vẫn còn nuôi dưỡng trong nó khát vọng làm giàu. Hơn nữa thực tế đời sống bà là kẻ bất hạnh trong số những kẻ bất hạnh, là túp lều nghèo nàn nhất của xóm bảy nóc nhà. Bà chỉ đẻ được một đứa con trai thì lại bị mù, vô tài vô tướng, ngày ngày chỉ  biết ngồi trước thềm nhìn ra, hình hài trắng muốt như cục  bột. Sau đó, bà sinh thêm ba gái nữa. Con Loã mới mười sáu tuổi đã lấy thằng thợ nề. Còn hai đưa em lên mười và tám tuổi, ngày phải lang thang đi bới vỏ liều. Lắm đêm bà Lục nằm khóc một mình, nước mắt ướt đẫm chiếu. Khóc chán bà lại ngủ mê, bỗng thấy thằng Ngẩu vươn vai thành một người cao lớn, đôi mắt sáng quắc. Nó lừng lững đi ra vườn, chỉ vào một gốc mít. Thế rồi nó đào, nó xúc, loáng một lúc đã ôm trên tay một cái bọc đỏ loét. Cả xóm nhào nhào chạy theo nó. Nhưng đôi chân cao lớn của nó bước nước sải. Chẳng ai theo kịp. Mẹ nó cũng không theo kịp. Nó quay lại cười vang cả vùng đồi...
Sau một hồi chưởi bới no nê, ông Ngang thấy nỗi ấm ức trong lòng có vợi đi đôi chút. Cho nên ông tuyên bố giải tán. Sáu bà vợ ra về. Bà La đã bỏ vào giường trong nằm từ lúc nào.
Ông Ngang ngồi lại một mình ngẫm nghĩ. Chừ thì ông đã có thể bình tâm mà ngẫm nghĩ. Có lẽ chúng nó sẽ lấy phần đất giáp bờ phi lao ấy thật. Cầu trời pho tượng đừng chôn ở vùng ấy. Mà nếu vậy thì nó được chôn ở đâu? Cái cấp bách nhất hiện nay là phải tìm cho ra chỗ chôn pho tượng... Giả sử tìm được, ôm nó trong tay rồi thì mặc cho chúng bay, muốn chia năm, sẻ bảy hay lấy luôn cả vườn cũng được. Biết làm sao đây?
Ông Ngang cảm thấy ruột gan cồn cào như lửa đốt. Biết làm cách nào? Ông đã từng đào đến năm mươi cái huyệt, mà mỗi huyệt phải bằng ba bốn cái lỗ huyệt thông thường, chẳng lẽ phải đào đến năm mươi nghìn huyệt sao! Khốn nạn thay cái thứ công việc ấy không thể công khai. Không thể mượn nhờ tay người khác, không thể huy động hay thuê mướn nhân công được. Nhưng nếu rồi đây cái thằng mặt sắt kia nó đóng xưởng chỗ ấy, nó nể nang gì mà không đào...Biết đâu nó vớ phải. Thế là toi công cả cuộc đời!
Ông Ngang lồm cồm đứng dậy, hấp tấp đi ra vườn. Ông băng ngang lội dọc thành hình chữ thập rồi sau đó lụi cụi đi một vòng khắp bốn chiều nương. Vừa đi ông vừa để mắt nhìn. Lòng thấp thỏm một hy vọng ngây ngô, biết đâu sẽ phát hiện ra một dấu vết gì đó? Thật là thảm hại. Đã gần một trăm năm rồi. Mảnh vườn đã qua không biết  bao nhiêu lần cuốc xới làm sao lại có thể còn dấu vết. Thế mà ông vẫn đi, mỗi lúc một luống cuống. Ông vấp ngã liên tục, thở lào phào, mặt túa mồ hôi. Cái tuổi già thạt đáng nguyền rủa!
°
°
Giữa những ngày căng thẳng và hoảng loạn như vậy thì đột nhiên vào một buổi chiều có một người cưỡi Hon-đa lao vào sân giữa căn nhà ông Ngang. Bọn trẻ con nhào ra đầu tiên. Chúng reo hò vì được nhìn thấy tận mắt chiếc xe máy. Các bà mẹ cùng lò đầu ra khỏi các túp lều. Ông Ngang giật thót người, nấp sau tấm phiên liếp nhìn ra.
Người khách tuột xuống khỏi xe. Chính anh là người ngạc nhiên hơn ai cả vì sự đón tiếp ngơ ngác và lạnh lẽo ấy. Anh đứng đực giữa sân mồm cười gần như mếu:
- Sao?... Không ai nhận ra tôi nữa à?
Đột ngột bà Lê nhào ra:
- ối trời đất ơi, thằng Nghi!
- Há?
- Hứ?
- Lạy phật!
Chừ thì tất cả mới nhìn thấy rõ. Thằng Nghi con trai bà Lê!  Các bà dì thay nhau đổ xô tới, mếu máo, sụt sịt, người cầm tay, người xoa đầu. Ông Ngang chếch choáng bước ra, nước mắt nhỏ giọt:
- Cha tổ sư mi... con với cái!...
Đã lâu lắm, hay nói cách khác là chưa bao giờ cái xóm nhỏ Linh Linh này lại có được một cuộc chuyện trò nồng nhiệt và cảm động như tối hôm đó. Một nồi khoai luộc bốc hơi nghi ngút. Đằng sau bếp cô Lào giúp dì Lê chặt cổ một con ngan. Cả bảy nhà, hàng chục người xúm xít trong căn lều bà Lê nghe đứa cháu kể chuyện. Giọng nói của Nghi oang oang. Sức vóc của nó cũng cao lớn,  nhìn vào nó mới tin dòng họ này chưa thể tàn phai được.
Nghi kể dạo anh trốn quân địch chạy vô Huế, lang thang mãi mà chẳng kiếm ra cái gì ăn, muốn lảng vảng vào các tiệm nhậu để xin mẩu bánh thừa thì sợ bị tóm cổ. Đói quá, đói đến mức mồ hôi túa ra đầy cả mình. Lúc ấy giá như ăn cướp được, giết người được để có cái cho vào bụng anh sẵn sàng làm. Nhưng phố xá lúc nào cũng kìn kịt người, chém giết đâu phải chuyện dễ. Thế là anh phải gắng gượng đứng lên, run run đi ra phía ngoại thành. Anh đi, cứ đi, vô định hướng..Bỗng anh nhìn thấy một chiếc cổng lớn khép hờ. Bên trong, ở ngay giữa sân nhà có một tốp người đang ngồi quanh chiếc bàn, trên đó bày la liệt các món ăn. Trời đất ơi, thà đừng nhìn thấy nó, còn đã nhìn thấy rồi thì không thể nào bước đi được nữa. Nước chua ói lên cổ. Bao tử kêu réo rắt. Anh như kẻ bị thôi miên, ngất ngưỡng bước vào.
Một lão béo ục ịch, vừa cầm la - ve lên định mở thì trông thấy anh. Hắn có vẻ kinh ngạc, mồm há ra: "Anh hỏi ai? " Dĩ nhiên lúc ấy anh chưa kịp nghĩ ra một lý do gì đó để trả lời. Lão béo ị nhăn mặt " Cái thằng này, mi lạc lối à? ". Cần phải nghĩ ra một lý do ngay lập tức nếu không sẽ được ăn cái bạt tai. Anh cuống cuồng nghĩ. Nhưng lý do chi mới được chứ! Cả tốp người quanh mâm đều đã quay hết lại nhìn anh. Có lẽ lúc đó bọn ấy kinh hãi lắm vì hình hài xơ xác của anh. Trong số những đứa ngồi bên bàn tiệc ấy có một thằng trông rất dị hình. Ngàn lần đội ơn thằng ấy. Nhờ có cái mặt đen thui thủi của hắn mà trong một giây xuất thần anh kịp nghĩ ra. Anh kịp nghĩ ra rồi! Khi cái thằng béo ị kia cầm lăm lăm trong tay chai la - ve lừ lừ tiến sát vào mặt anh, khi cánh tay hắn chưa kịp vung lên để choảng vào trán anh thì anh đã kêu lên: "Tôi muốn bán một pho tượng đồng đen". "Cái chi? Tượng đồng đen à? Mấy cân " Cả bầy nhao nhao hỏi. Anh đáp khủng khỉnh " Hai mươi bảy cân" "Cha mẹ ôi, đ.mạ thiệt chơi mi". "Tôi từ xa đến đây, lang thang mấy ngày rồi! không thể là chuyện chơi được " Thằng mặt đen như tượng bỏ ghế tiến thẳng lại phía anh: " Này, đưa ra đây xem. ở đây toàn người tử tế cả!" Anh cười phì: "Ông nói như là đi bán cái nồi đất không bằng. Tôi chỉ là người dẫn mối thôi!" Cả bọn gật  gù ra vẽ hiểu. Thế rồi tất cả ồ lên, kéo anh vào cuộc. Chừ thì không thể nhớ tỷ mỉ lúc ấy mọi chuyện diễn ra như thế nào. Có điều chắc chắn là anh đã ăn được một bữa no nê tới mức đêm ấy phải đi ngoài hai lần và suốt ngày hôm sau không hề nghĩ tới cơm nước.
Chuyện của Nghi kể chẳng hiểu bịa hay thật nhưng cả nhà được một trận cười đến lộn cả ruột. Riêng ông Ngang không vui, thậm chí còn thấy khó chịu nữa. Cứ cho là chuyện bịa một trăm phần trăm thì vẫn có cái điều rất thật là, ngần ấy năm trôi qua hắn, cái thằng trời đánh này, vẫn không thể quên pho tượng đồng đen một chân, hắn vẫn tâm tâm niệm niệm về cái kho của ấy.
Nghi vẫn say sưa kể. Sau đó, thằng có cái mặt đen sì và cặp môi dày như hai con đỉa vắt ngang ấy đã dắt anh về nhà. Hoá ra hắn là chủ một xưởng đúc gạch hoa. Hắn hỏi anh tỉ mỉ về pho tượng. Dĩ nhiên anh cũng phải kể tỉ mỉ cho hắn nghe. Trí óc anh không đủ khôn ngoan để bịa ra những gì ngoài câu chuyện mà mẹ đã kể cho nghe hồi trước. Hắn nghe và tin lời anh. Dĩ nhiên là hắn hẹn hò. Và dĩ nhiên là anh phải hứa hẹn. Biết làm cách nào khác được. Sau đó hắn nhận anh vào làm việc trong xưởng. Thật là may, chỉ sau một năm thì đại loạn. Giải phóng tràn vào.  Thằng mặt đen phải bỏ chạy vô Đà Nẵng. Sau giải phóng, con trai hắn tiếp tục sự nghiệp của bố, lập lại xưởng gạch hoa. Anh vẫn làm việc, vừa làm vừa học. Nay thì anh đã trở thành một kỹ thuật giỏi. Có thể tự mình lập xưởng được rồi...
Chuyện đến đó thì không còn ai cười nữa. Hết những cái để cười. Hơn nữa người ta bắt đầu thấy ái ngại. Các bà dì khẽ liếc mắt nhìn nhau. Ông Ngang thở hắt ra một cái rõ to rồi đột ngột xẵng giọng:
-Rứa chứ mi về đây làm chi?
- ơ hay - Nghi có vẻ ngạc nhiên, trán nhíu lại - con về thăm bố, mẹ với các dì...
- Hừ...
Ông Ngang gầm gừ trong cổ. Các bà vợ nín lặng. Họ nhanh chóng đọc được ý nghĩ của chồng. Mọi người lặng lẽ đứng lên, vờ đi ra sân rồi lẹ làng rút lui. Không khí đột nhiên tẻ lạnh.
Đêm đó, bà Lê thủ thỉ bên tai con, kể cho Nghi nghe tất cả chuyện nhà chuyện cửa suốt mười mấy năm qua. Vừa kể bà vừa thở dài. Bà khuyên con có về thăm thì đừng nhắc nhở gì đến cái tượng đồng đen quái gỡ ấy cả. Mà thực ra đã chắc gì có cái đó.  Tất cả chỉ là chuyện tầm phào. Bà kể cả việc thằng cháu rể Vi Hán với Hoành bàn định nhau cắt đất làm xưởng đúc sắt. Bà ca thán chuyện con Lan hùa theo chúng nó làm khổ bố!...Nghi ngồi nghe, im lặng như một người câm. Đã quá canh ba, gà trong xóm te te gáy, tất cả bảy túp lều đã tắt đèn, nhưng điếu thuốc trên môi Nghi vẫn lập loè cháy. Có thể nói, suốt một đêm ròng anh không ngủ. Có thánh mới biết Nghi nghĩ ngợi chuyện gì.
Sáng hôm sau Nghi chào cả xóm rồi lên xe phóng đi từ lúc mặt trời chưa mọc. Mọi người cứ đinh ninh là anh trở về Huế. Nhưng vừa ra đến đường quốc lộ anh đã cho xe quẹo phải. Nghi lao thẳng lên huyện.
Loanh quanh mãi gần đến tám giờ Nghi mới tìm ra được nhà riêng của Phó chủ tịch Hoành. Nhìn thấy người đàn bà dáng hình thon thả mặc chiếc áo lót  Thái Lan có viền hoa ở ngực đang đứng chải tóc trước gương lớn gắn ở tủ đứng, Nghi đoán chắc đấy là Lan. Anh bỏ xe ngoài  cổng chạy sầm vào:
- Có phải Lan đó không em?
Tiếng gọi hơi suồng sã khiến Lan quay phắt lại. Có một phút ngớ ra, lúng túng. Nghi phải gào lên cuống quýt:
- Không nhận ra anh à? Anh đây mà, Nghi đây!
- ối, anh Nghi!
Lan lao ra, nhảy chồm lên ôm ghì lấy cổ người anh trai cùng cha khác mẹ. Nghi bế xốc em gái lên, siết chặt vào người quay vù vù hai vòng. Cung cách ấy Lan học được từ thủơ còn đám lính tóc quăn mắt đục. Còn Nghi thì nhìn thấy thiên hạ ôm nhau quay trong các tiệm nhảy.
- Chao ôi, đi đâu mà mất tăm mất tích thế?
- Đi làm ăn chứ đi đâu.
- Khá không?
- Tạm đủ. Đây, quà cho em gái này...
Vừa nói Nghi vừa rút luôn chiếc nhẫn một chỉ trên ngón tay đeo luôn vào tay Lan.  Việc này anh đã tính từ lúc phóng  xe trên đường. Chỉ có ở thời điểm này, thời điểm gặp gỡ đầy cảm động thì móc chỉ vàng ấy vào là ngon nhất. Để muộn chút nữa sẽ rất khó nói.
Quả nhiên Lan sững ra vì cảm động. Rồi ngay lập tức như con bệnh bị bắn trúng huyệt, cô đánh đu lên cổ anh trai hôn đánh chụt một cái. Hai anh em cười híp mắt. Sau đó họ túm tay nhau chạy như những đứa trẻ vào trong nhà.
Lan liến thoắng hỏi chuyện, còn Nghi thì từ tốn kể. Sau cái giấy phút cuống quýt đầy cảm động của buổi hội ngộ, bây giờ anh cần nhất là sự tỉnh táo, tỉnh táo để lái mọi câu chuyện vào đúng trọng tâm.
- Bây giờ thì anh đã thành một thằng thợ giỏi nhất trong đám thợ ở đó. Tất cả các kỹ thuật tân tiến về gạch men đều nằm gọn trong tay anh. Tuy vậy vẫn không sao yên lòng được em ạ. Mình dù có giỏi giang đến mấy cũng chỉ là thằng làm công. Có phải số kiếp mình nó định như vậy không? Không. Chắc chắn là không. Cuộc đời cũng phải dám thử xông ra làm chủ một lần chứ! Nghĩ vậy nên anh quyết định về, giá như mình thành đạt ở quê cha đất tổ thì sung sướng biết mấy. Mà tại sao quê mình cứ phải đi mua gạch hoa chỗ khác? Thật là ngu ngốc. Nếu như chúng ta có được một xưởng gạch hoa...
Lan khẽ mím môi một cái gần như cười. Khó mà đoán được cô ta nghĩ gì. Nghi bỗng thấy chợn chờn. Bất ngờ Lan hỏi:
- Anh định đặt lò gạch ở đâu?
Nghi hơi bị ngớ ra. Lẽ nào cô ta lại nhận ra ý đồ của mình mau lẹ đến vậy?... Anh nói ngập ngừng:
- Thì đang định về bàn với dượng...xem xem ý huyện thế nào?
- Anh Hoành nhà em cả tuần nay bận họp. Anh đã về thăm nhà chưa?
- Đã. Đêm qua anh ngủ lại ở dưới xóm...
Lan cười. Bây giờ thì cười to hẳn hoi. Đôi mắt sắc như lá lúa khẽ liếc người anh một cái tinh quái. Rồi cô đứng lên, với tay kéo chiếc phin cà phê trên tủ, vừa pha cà phê cô vừa tủm tỉm hỏi:
- Chắc ý anh muốn đặt xưởng gạch hoa dưới xóm Linh Linh chứ gì?
Nghi thuộn cả mặt, cười gượng gạo:
- ờ... dưới đó cũng hay. Chỗ đất sát bàu nước rêu đen ấy làm gạch men tốt lắm...Mà cũng gần bố mẹ
- Này, nhưng em nói thật, phải chia nghe chưa?
Nghi nhíu mày lại:
- Chia cái gì? Em cũng định lát lại sàn nhà ư?
Lan quay phắt lại, khuôn mặt đột ngột đổi sắc, hơi tái đi:
-  Thôi đừng vờ nữa. Cứ thẳng tuột ra có hơn không. Người ngoài em còn chịu chơi huống anh em ruột. Nếu tìm thấy phải chia, chịu không?
Đã đến nước ấy thì không còn đường để loanh quanh nữa, Nghi nhếch mép cười nhạt:
- Cô đáo để thật. Trách chi mạ với dì cứ kêu rên mãi.
- Xì...cái môi Lan lại chìa ra - Mấy cái mụ già " cố đỉnh ".
- Thôi được, đã chắc gì có. Nhưng giả sử trời cho thì chia.
- Chia sao?
- Phần em cái chân còn lại.
- Dẹp
- Ô, em có biết một cái chân là mấy lượng không?
- Đ. mạ, rứa anh có biết cả con người là mấy chục cân không?
- Nhưng đã chắc chi có...
- ừ, thì cứ biết vậy. Có điều, ăn cho-buôn so, cái chi cũng phải sòng phẳng từ trước.
Nghi đứng hẳn dậy, dáng điệu dứt khoát như kẻ mua hàng:
-  Vậy ý em sao, nói thẳng anh chiều!
- Từ rốn xuống.
- Rồi, từ rốn xuống!
Nghi chìa tay ra. Lan đập đánh bốp một cái. Họ cùng cười. Nghi bước ra xe. Lan nói với theo:
- Đi đâu vội, ở đây em làm cơm ăn đã.
-Thôi khỏi.
Xe nổ máy xả khói đen sì. Cả người cả xe lao như điên về hướng thành phố.