Chương bốn (tt)

Ngô tỉnh dậy và thấy mình nằm trong một vòm hang hẹp. Dưới lưng anh lá khô được lùa thành một lớp dày như đệm. Bên phải, ngang người anh là bếp lửa đang cháy. Chao ôi, gần mười ngày ở chốn hoang dã nay mới được nhìn thấy bếp lửa.
Cách xa chỗ Ngô nằm một đoạn, một người đàn bà đang ngồi cho con bú. Thoáng nhìn anh cứ tưởng người đàn bà hôm nọ ở đám ma. Nhưng nhìn kỹ thì không phải. Chị này có vẻ trẻ hơn. Ngô khẽ cựa mình muốn co chân ngồi dậy. Nhưng cơn đau đột ngột xói lên làm mặt anh nhăn nhúm lại. Mình làm sao thế này? Ngô khẽ nhấc hai cánh tay rồi áp bàn tay vào người sờ dần từng chỗ. Không...không sao cả. Anh lại định ngồi lên. Cơn đau lại buốt óc. Bình tâm một chút anh khẽ động đậy hai chân. Ôi!..Cái chân trái làm sao thế này? Không còn có cảm giác gì cả. Chỉ thấy đau buốt.
Thấy anh tỉnh, người đàn bà ngước lên hỏi:
- Khi lung áp tả, hi?
Ngô lắc đầu. Anh biết trong tình cảnh này không nói thật thì khốn nạn. Người đàn bà vẫn tròn mắt nhìn anh. Ngô băn khoăn không biết chị ta có biết tiếng xuôi không? Anh nói lưỡng lự:
- Tôi người xuôi...
- Ô, người xuôi.
Chị ta kêu lên vẻ sửng sốt. Một lúc sau lại hỏi:
- Lên đây làm chi?
 Ngô buột miệng:
- Tìm trầm.
- Ô, tìm trầm - Chị kêu lên rồi lại bất ngờ toét miệng cười - Vì răng trông thấy lũ ta lại chạy?
Đã lỡ nói dối, Ngô cứ phải theo đà huyên thuyên:
- Tôi sợ
- Ô, sợ lũ ta. Nhưng đi tìm trầm răng lại đi một mình?
- Tôi bị lạc.
- Ô, lạc, trách chi!
Chị lại bế con lên tay, nhấc người lại gần bếp. Một tay đun lửa, một tay ẵm con. Có vẻ chị thích hỏi chuyện.
- ở xuôi có xa đây không?
- Xa lắm.
- Phía nào?
- Phía đông.
- Phía đông là phía nào?
- Phía mặt trời mọc.
- Ô... mặt trời mọc là biển.
Ngô kinh ngạc mở tròn hai mắt. Tại sao chị ta lại biết biển?
- Chị thấy biển rồi à?
- Chưa.
- Răng biết?
- Nghe cha kể.
- Tức là cha chị đã thấy biển?
- ồ, chưa đâu. Nhưng cha nghe ông kể...
Bất giác Ngô thầm nghĩ, hình như người dân ở đây thích kể chuyện, và hình như bất kỳ chuyện gì của tổ tông cũng được truyền kể lại cho đời sau, không bỏ sót chuyện nào!
Thấy người đàn bà vừa hiền hậu lại vừa vui tính, Ngô hỏi thăm dò:
- Ai dạy tiếng xuôi cho chị?
- Cha dạy.
- Rứa các em chị có biết tiếng xuôi không?
- Biết hết chớ. Biết nói là được dạy. Dạy cả tiếng Rạc lẫn tiếng xuôi.
- Vì răng phải dạy tiếng xuôi.
- Không biết. Cha ta bảo là phải dạy cho con. Ta không biết.
Ngần ngại một lúc Ngô lại hỏi:
- Vậy, cha có kể chuyện  tượng đồng đen một chân không?
Người đàn bà chợt nhíu lông mày lại nhìn Ngô chằm chằm. Anh hoảng hốt tự trách mình ngu dốt, vạ miệng.
- Có chớ. Đó là thuỷ tổ của bọn ta. Nhưng mi cũng biết à?
- Tôi lên trên này mới nghe kể.
Người đàn bà đẩy thêm mấy que củi nữa vào bếp. Ngọn lửa bốc cao hơn, khói tuôn ra phía cửa hang. Chị nhìn theo làn khói, ánh mắt vẫn trở nên xa xăm.
- Cha ta nói trên đời này, có cái sinh ra để mà ăn, có cái sinh ra để mà thờ. vật ăn mà đem thờ thì không thiêng, vật thờ mà đưa ra ăn thì loạn. Tượng Mẹ Đất là vật thờ tổ, thế mà bọn xấu cứ cố giành nhau để ăn. Thế nên sinh loạn. Người với người mà cứ đâm chém nhau. Khi nào tượng Mẹ Đất được đặt lên để thờ thì người ta mới thương nhau được...
Ngô không hiểu hết những điều người đàn bà vừa nói. Nhưng anh cũng mang máng thấy rằng có lẽ chị nói đúng. Ngày nay người ta tham ăn quá mới sinh ra hư.
- Ồ, ta quên, chồng ta dặn khi mô mi tỉnh thì lấy xôi cho mi ăn. Cứ nhìn cái bụng lép kẹp kia là biết mi đói...
Người đàn bà đặt đứa con đã ngủ lên trên một đống lá khô rồi với tay keó một chiếc nồi đất lại gần. Chị cho tay vào trong nồi vắt xôi đưa cho Ngô. Một lần nữa Ngô định chồm dậy.
- ồ, đừng dậy. Cái chân mi gẵy mất rồi.
Ngô sững người, hốt hoảng hỏi:
- Gãy à? Chết cha tôi rồi...
- Chồng ta dặn phải bắt mi nằm im. Chồng ta đi tìm thầy thuốc.
Ngô hốt hoảng hơn:
- Tìm thầy mo à?
- ừ
- Không.
- ồ, phải chữa. Thầy mo nhiều phép tài lắm. Chữa khỏi liền.
Biết làm thế nào. Giá mình đừng ngất đi thì hay biết bao. Bây giờ cái người chồng tốt bụng ấy đã đi rồi, lát nữa chắc chắn thầy mo sẽ đến. Cứ nhớ lại những khuôn mặt dữ tợn ấy là Ngô cảm thấy lạnh người. Chao, cũng là những người ấy, sao cái nhà chị này lại hiền dịu và tốt bụng đến thế, mà những lão mo thì gớm ghiếc làm vậy?
Vừa lúc ấy có tiếng rầm rì ngoài cửa hang. Ngô đoán chắc là thầy mo đã đến. Người anh hâm hấp như lên cơn sốt. Lạy trời, mong sao cái thằng này đừng hung dữ như những cái thằng mà anh đã gặp.
Một người đàn ông bước vào. Ngô nhìn thấy và đoán ngay là chủ nhà tốt bụng. Vì nét mặt anh coi bộ hiền lắm. Nhìn thấy Ngô tỉnh táo anh toác miệng cười
Một người nữa khom khom bước tới. Hắn ngẩng lên. Ngô bỗng há miệng ra, tắc nghẹn cổ không kêu thành tiếng được: Thằng Phu Sẩu!
Phu Sẩu bước thẳng tới đứng sát vào mặt Ngô. Hắn có vẻ không lấy chi làm ngạc nhiên cho lắm. Phu Sẩu cúi xuống, giọng khàn khàn.
- Nghe Cà Tiềng kể, tau đoán ra là Tệ Ngô. Vì răng mà mi lạc về đây?
Không còn cách nào khác, Ngô phải trổ tài nói dối.
- Tôi tưởng Phu Sẩu đã chết, sợ quá bỏ chạy.
Phu Sẩu đột ngột phá lên cười.
- Định phản phải không?
- Không không! Ngô hoảng hốt kêu lên - Nếu phản răng tôi lại tìm vô bản?
- Hừ, chết được ta khó lắm. Ta bị độc của hắn, nhưng đã có thuốc kháng trong người. Chỉ cần ta luyện độ năm ngày nữa là thoát hết.
Nghe hai người nói chuyện với nhau, cặp vợ chồng người chủ nhà cứ tròn mắt mà nhìn. Một lúc Phu Sẩu quay lại phía họ nói một tràng dài bằng thứ tiếng riêng. Thế là đột ngột, ánh mắt người đàn bà bỗng trở lên lạ lẫm, còn người chồng thì quay ra ngoài hang. Từ đó đến tối không thấy anh ta về nữa.
Phu Sẩu thụt lùi lại một bước và ngồi xuống bên chiếc chân gãy của Ngô. Hắn đưa tay nắn nắn. Cơn đau nhói lên nhưng Ngô cắn răng lại không dám kêu. Phu Sẩu lôi từ trong lưng quần ra một tý vỏ cây bỏ vào mồm nhai, rồi hắn rút trong túi áo ra một be rượu nhỏ. Hắn tợp một ngụm rượu sau đó cúi mặt xuống chân gãy của Ngô và bắt đầu thổi phù phù.
Ngô sởn cả gai ốc. Trong phút chốc anh nhớ lại cái cây bị héo chết bên bờ suối, nhớ lại toàn cảnh sát phạt nhau ở đám ma. Những tiếng phù phù chết người kia như bóng tử thần lởn vởn quanh anh.
Nhưng cả cơ thể anh bắt đầu biến chuyển. Trước hết là một cảm giác mát lạnh. Sự mát lạnh cứ râm ran chuyển động từ cẳng chân truyền lên da bụng truyền lên ngực, lên cổ, rồi lên mặt, ra tận từng chân tóc. Dẫu sao cũng thấy dễ chịu. Nhưng chỉ được một lúc, thay cho sự mát lạnh là một cơn nóng hâm hấp, cũng từ cẳng chân truyền đi. Cả cơ thể anh phút chốc nóng bừng lên như một cục than hồng. Thế rồi bắt đầu đau. Đau buốt, đau nhức nhối, đau như có ai cầm lấy cái chân mà vặn. Không thể chịu đựng được nữa, Ngô kêu lên. Thoạt đầu là tiếng kêu khe khẽ, sau đó là kêu to, la oai oái, kêu như bị cắt cổ.
Phu Sẩu đã ngừng thổi nhưng cơn đau vẫn chưa ngừng. Mồ hôi vã ra đầy trán Ngô. Phu Sẩu uống nốt chỗ rượu còn lại, nói với người đàn bà một câu gì đó bằng tiếng riêng rồi hắn bước ra. Ngô vẵn nửa tỉnh, nửa mê trong cơn đau như muốn đứt ruột.
Đến quá trưa thì cơn đau đã dịu lại. Da thịt anh mát dần. Anh cố với bàn tay xuống dưới sờ vào bắp đùi. Vẫn sưng to, nhưng cảm giác có vẻ nhẹ nhõm hơn.
Nhưng lại có một sự nặng nề phía khác. Đấy là đôi mắt bỗng trở nên xa lạ và sẩm tối của chủ nhà. Ngô đã hiểu ra nguyên nhân. Anh suy từ những câu nói của người đàn bà ở chỗ đám ma để hiểu. Tất cả những người dân lương thiện đều không có thiện cảm với bọn thầy mo. Chắc thằng Phu Sẩu ấy đã giới thiệu mình là anh em.
Có nên nói thật ra không? Nhưng cái chân gãy còn cần đến hắn. Dù sao cũng phải lành chân đã. Còn nằm dài ở đây thì mạng sống vẫn còn trong tay hắn. Suy đi tính lại, Ngô dành thở dài nằm im.
Phu Sẩu lui tới năm lần. Cái chân của Ngô đã không còn sưng nữa. Rồi cái đau cũng hết. Anh có thể ngồi dậy sau lần thổi thứ năm, Phu Sẩu dặn.
- Từ mai ta không làm thuốc nữa. Nhưng mi phải tập đứng dậy, tập đi. Nhớ đừng để ngã lại. Khi nào khỏi hẳn ta sẽ đón về.
Hắn đi ra được vài bước thì chợt dừng lại, quay lui nới:
- Đừng có phản ta. Dù mi có về đến tận nhà mi ta chỉ cần cắm một nhành cây xuống dấu chân mi thì mi lăn đùng ra chết liền, nhớ nghe!
Một viễn cảnh u tối bao trùm lấy trí não Ngô. Nếu quả thật hắn có phép thư ấy thì coi như cuộc đời từ nay hoàn toàn nằm trong tay hắn rồi!
Sự tuyệt vọng đè bẹp Ngô nằm dài trên đống lá. Đã qua thêm một ngày nữa mà anh không hề trở mình, không hề đứng dậy. Suốt cả thời gian đó, vợ chồng chủ nhà cũng không hề nói với anh một câu. Đến bữa ăn, có vẻ như bắt buộc, họ kéo nồi xôi sát lại mặt anh để anh tự bốc lấy. Ngô chán nản không muốn động tay. Thêm một ngày nữa, Ngô vẫn năm im. Có lẽ quá sốt ruột người chồng buộc miệng hỏi:
- Mi không tập đi à?
- Không.
- Thì mi sẽ không khi nào đi được nữa.
Ngô thở dài:
- Đi được mà làm chi!
- ồ... Hoá ra mi không ưng đi à? Mi cứ ưng nằm vậy à?
Nước mắt Ngô bất ngờ ùa ra.
- Tao muốn đi, muốn chạy trốn khỏi tay hắn. Nhưng chừ tau chịu rồi. Hắn bảo, dù tao có về đến nhà hắn thư vẫn chết.
Người chồng nhíu mày lại;
- Nhà mi ở đâu?
- Xa lắm.
- Vì răng mi lại lên đây? Vì răng lại Phu Tệ với mo Sẩu?
Ngô lật hẳn người lại, nhìn người đàn ông chủ nhà đầy căm tức:
- Tao mà anh em với cái thứ phù thuỷ ấy à? Tao đang ở nhà với vợ con tao. Tao cũng có vợ, có con trai, còn lớn hơn cả con đầu của mày đó! Tao nào có quen biết chi hắn, nào có thù oán chi hắn. Rứa mà bỗng dưng hắn tới giở phép ra bắt tao theo, giam tao gần nửa tháng rồi. Cái lũ người rừng chúng bay sao lại ác thế. Tao căm thù chúng bay!
Cả hai vợ chồng người chủ nhà quay lại nhìn nhau. Rồi bất ngờ người vợ thở dài, chị ngước nhìn Ngô đầy vẻ thương cảm:
- Bọn ta không biết ác đâu. Bọn ta cũng không ưa loại người như Phu Sẩu!
Người chồng ngồi sát lại bên Ngô, cầm tay anh lắc lắc:
- Nếu đúng như vậy thì ta giúp mi tập đi. Cứ tập đi đã. Khi nào đi vững, chạy mau, ta sẽ tính cách.
- Cách chi? Có chạy về được cũng chết mà!
Người chồng đột ngột đứng lên:
- Không, nếu có được thuốc kháng độc thì không chết.
- Nhưng mi có thuốc ấy không?
- Ta không có, nhưng ta sẽ nghĩ cách kiếm cho mi.
Chưa dám tin hẳn vào điều hứa hẹn ấy, nhưng dù sao Ngô cũng thấy chan chứa hy vọng, Và bỗng dưng anh ứa nước mắt. Run rủỉ làm sao trời lại cho anh gặp được cặp vợ chồng tốt bụng đến mức này!
°
°
Ngô ở lại nhà vợ chồng Cà Tiềng thêm nửa tháng nữa. Cà Tiềng đã giúp anh đứng lên và tập đi. Trong thời gian ấy Phu Sẩu không hề đến.
Cho đến một đêm Cà Tiềng bàn với Ngô cách trốn. Sau đó Cà Tiềng tìm lên già bản Linh Linh xin thuốc. Cà Tiềng dẫn Ngô tranh thủ ngủ một giấc cho thật no để lấy sức mai đi xa. Cà Tiềng vừa ra khỏi nhà một lúc thì bất ngờ Phu Sẩu đến.
- Mi phải theo ta về chừ.
Ngô sợ hãi kêu lên:
- Chân tôi đi chưa mạnh. Mà đi ban đêm thì sợ lắm...
Phu Sẩu cười
- Chân chưa mạnh thì ta cõng. Còn đi ban đêm là để cho mi không nhớ được đường. Nào, đứng lên! Đừng có dại mà cãi ta.
Ngô ngước mắt nhìn vợ Cà Tiềng. Người đàn bà cũng nhìn anh thương cảm. Họ đều là những kẻ bất lực trước thầy mo.
Ngô chậm rãi bước ra khỏi hang. Trăng lờ mờ sáng. Rừng dày sương và lạnh buốt. Bất giác Ngô rùng mình. Anh có cảm giác mình đang đi vào cõi chết.
Họ đi chậm. Ngô lấy cớ chân còn đau, anh đi thất thểu từng bước. Phu Sẩu kiên nhẫn chờ đợi. Hắn cố tình ba hoa cho Ngô khuây khoả nỗi buồn.
- Mi thấy thuốc ta có tài không?
- Tài.
- Cả một cái chân gãy như rứa mà ta chỉ thổi có năm lần. Nếu mi không phải là Phu Tệ với ta thì phải cúng đó. Mỗi lần ta chữa thuốc xong, người được chữa phải cúng gà một con, rượu một chai, xôi một chõ. Nếu không cúng ta làm cho đau lại.
Ngô sởn tóc gáy. Anh rủa thầm sao hôm nọ hắn không trúng độc thằng Mu Thoòng mà chết rấp đi luôn. Bất giác anh gợi chuyện:
- Phu Sẩu đã giải hết độc Mu Thoòng chưa?
- Rồi, vì phải đi chữa cho mi nên ta phải luyện tới bảy ngày.
- Thế còn... những mo khác? Họ có chết không?
- Thằng Kình chết. Cái thằng có lông mày rất rậm ấy. Nó là đứa cao phép hơn bọn kia nhưng không có thuốc kháng được độc Mu Thoòng. Còn bọn mo bị độc của ta với của thằng Kình thì đều được già Linh Linh giải cho hết.
Ngô dừng hẳn lại, hỏi:
- Thầy Linh Linh có phải ông già ngồi trên đá sát chỗ các thầy mo ngồi không?
- Phải!
- Vì răng khi đó ông già lại lắc lắc cái lục lạc và dân bản bỏ chạy?
- à, đó là hiệu lệnh để cho dân bản chạy đi để già làng làm phép giải độc. Thuốc độc của thầy Linh Linh là một thứ bột rất mịn bay được trong gió. Người đang bị độc của ta ngửi vào thì giải độc, nhưng kẻ đang bình thường ngửi vào thì rụng hết tóc; sau đó phát điên. Gia Linh Linh luyện phép đó nên già cũng rụng hết tóc. Già không dạy cho ta, cũng không dạy cho ai thuốc đó cả.
Những câu chuyện lạ lùng của Phu Sẩu quả thật đã làm cho Ngô quên mất tình cảnh bi đát của mình. Họ vượt qua hai vùng rẫy, lội một con suối. Sau đó đi ngược dốc một đoạn dài. Ngô mệt quá, thở hổn hển. Cuối cùng hai người cùng bước xuống một khe sâu dày đặc đá. Họ lội ngược chiều nước chảy. Đi thêm một đoạn dài nữa thì Ngô đã nhìn thấy lèn đá! Trăng và sương đang nhuộm lên đỉnh lèn một màu sáng quái dị. Phu Sẩu dắt tay Ngô leo lên mấy bậc đá cao. Chừ thì Ngô đã có thể nhận ra chỗ cũ, chỗ luyện phép của Phu Sẩu và cũng là nơi đã giam hãm anh gần mười ngày.
Khác với lần trước, lần này Phu Sẩu tự nhóm lửa. Những gốc củi to và khô được đưa vào lèn từ lúc nào. Bếp lửa cháy rần rật hắt sáng lên hai vách núi đá. Hơi ấm phả ra. Ngô cảm thấy bình tĩnh trở lại. Hai người ngồi xa nhau và cũng xa bếp lửa.
Sau một hồi im lặng khá lâu, Phu Sẩu bắt đầu nói:
- Chừ thì mi phải nói thiệt Tệ Ngô ạ. Mi phải nói cho ta về pho tượng Mẹ Đất. Hiện tại mi cất giữ nó ở đâu? Còn nguyên vẹn không? Mi nói thật thì mi được sống. Còn không thì chẳng bao giờ mi nhìn thấy lại được mặt vợ con mi cả.
- Nếu mi chết thì pho tượng ấy có ích chi cho mi nữa? Một pho tượng dù là đồng đen hay vàng mười thì nó cũng chỉ có ích cho người sống thôi, còn khi mi đã thành ma thì dù có đến mười pho cũng chẳng để làm chi. Nếu ta là mi, ta chẳng dại chi đem mạng sống của mình để đổi cái cục đồng đen ấy cả. Nó có thiêng đến mấy cũng không thiêng bằng cái sống của mình... Đó, ta nói hết bụng rồi, mi cứ nghĩ đi. Dù sao ta với mi cũng đã thề độc nhau. Ta không muốn hại đến người anh em mình, Tệ Ngô ạ!
Ngô vẫn ngồi im, nhưng thực ra trong lòng đã lay chuyển. Mà quả thật, pho tượng ấy với anh chỉ là một huyền thoại, nào đã được nhìn thấy tận mắt đâu. Mà cho dù nó có thật thì anh cũng chẳng được chấm mút tí gì. Anh bây giờ đã trở thành kẻ tha phương. Toàn bộ cuộc sống của anh, cơ nghiệp của con cái anh chỉ cậy nhờ vào những con rối. Đã vậy thì việc gì phải dấu, việc gì phải lấy mạng sống của mình để đánh đổi! Tình thế này xem ra không còn hy vọng bỏ trốn được nữa. Thôi thì hãy kể đi, biết sao kể vậy, may ra có thể thoát khỏi chỗ này!
Thế là Ngô kể. Anh kể tất cả những gì mà anh được nghe qua lời kể của mẹ La thủa còn bé. Rồi anh kể về cái gia đình đặc biệt của anh. Cái gia đình mà cũng vì pho tượng đồng đen kia nên bảy chị em phải lấy chung một chồng. Câu chuyện mang lại cho anh một nỗi buồn da diết.
Nhưng Phu Sẩu đã không để cho anh kịp ngấm nỗi buồn, hắn hỏi trong hơi thở gấp gáp:
- Từ đó đến ni mi không về lại nhà?
- Không.
- Mi có dám chắc rằng pho tượng vẫn còn chôn không?
- Chắc.
- Lỡ bố mi đã bán?
- Không thể bán được. Thời trước nếu đem ra thì sẽ bị cướp giật ngay. Còn thời này, chắc Nhà nước sẽ trưng mua chứ chẳng ai để cho mình tự do buôn bán thứ ấy. Vì rứa, ta tin bố ta sẽ không dám đưa ra.
Phu Sẩu lặng im, gật gật đầu. Rồi bất ngờ hắn phá lên cười, tiếng cười đột ngột trong đêm khiến những con chim đang ngủ trong lá hoảng hốt bay loạn lên. Ngô ngơ ngác và sợ hãi nhìn Phu Sẩu. Hắn cười chán chê rồi đột ngột bá lấy cổ Ngô, lắc lắc:
- Ta với mi sắp giàu to rồi. Ta là anh sẽ lấy từ háng Đất Mẹ trở lên. Mi là em, ta cho nốt cái chân còn lại của Mẹ. Được không?
Ngô nhăn mặt:
- Nhưng làm răng lấy được?
- Với ta không khó. Nhưng ta không về dưới ấy được. Ta là người Rạc, về đó họ nghi liền. Hơn nữa, ta không biết mặt bố mi. Nếu bố mi chết rồi, thì chắc chắn sẽ có một đứa vợ hay đứa con nào đó cất giữ. Muốn biết đứa nào giữ thì phải ở lâu, hỏi dò đã mới biết. Mà ta không ở lâu nơi đó được. Vì rứa mà ta sẽ cho mi về. Chỉ có mi mới làm được việc đó.
- Nhưng lỡ bố không nói?
- Phải bắt nó nói. Ta sẽ dạy cho mi một phép thư bắt người tỉnh phải nói mê. Phép này chỉ cần học một tuần là được. Ngày mai ta bắt đầu dạy. Bảy ngaỳ nữa là mi được về nhà, ưng không?
°
°
Hai người cùng ngồi chung trên một phiến đá, chân xếp bằng, tay đặt lên đầu gối, mắt nhìn thẳng về phía trước cửa lèn. Ngô thì hồi hộp, còn Phu Sẩu lại vẻ như đang mơ màng. Hắn bắt đầu nói, giọng lầm rầm như dân đạo cầu kinh, Ngô cứ lắng tai nghe. Đây là bài học vỡ lòng đầu tiên của nghề thầy mo.
- Tệ Ngô hãy nhớ, phép thư của ta hay của bất cứ thầy mo nào là phép đánh người bằng thuốc độc. Thuốc độc thì có nhiều loại. Nhưng không phải hễ ai có thuốc là dùng được. Muốn sử dụng được loại thuốc độc nào, trước hết tự mình phải kháng được chất độc đó. Phải cho chất độc nhiễm vào xác thịt mình rồi sau đó mình sẽ phun cái độc đó ra để hại kẻ khác! Như vậy, phép thư là phép biến chính mình thành một thứ thuốc độc!
- Tệ Ngô hãy nhớ, trong xác thịt mình cái có lợi nhất để cho mình giàu có và đồng loại đến được với mình, gần gũi với mình chính là hai bàn tay và lỗ miệng. Nhưng cũng chính hai thứ đó, bàn tay với lỗ miệng cũng chính là nơi phát độc mạnh nhất, là thứ giết đồng loại mình dễ nhất. Cho nên phép thư của ta chủ yếu là phép luyện độc ở hai bàn tay và thổi hơi từ trong miệng. Ta chữa bệnh cũng bằng phép ấy. Lỗ miệng với bàn tay là phương tiện sống của thầy mo, là vũ khí của thầy mo, là thiện ác của một con người.
Tệ Ngô hãy nhớ, thuỷ tổ mình sinh ra từ trong bọt nước và cây cỏ, đó là những thứ đẻ ra đất trời và con người. Người ta sống không ai không nhờ đến nước và cây. Nhưng cái thứ nuôi sống được người thì lúc nào cũng có đủ sức mạnh giết chết con người. Vì vậy, thuốc độc mạnh nhất cũng là thuốc độc lấy từ trong nước và cây cỏ mà ra. Từ nay về sau, khi đã có phép thư trong người, dù đi đâu, ở đâu Tệ Ngô cũng phải nhìn cây cỏ, sông nước bằng hai con mắt. Một con thấy đó là thức ăn, một con thấy đó là thuốc độc. Có vậy mới đủ sức làm cho mình có ăn và kẻ khác thì không có ăn.
Tệ Ngô hãy nhớ, con người ta có cái đầu và cái bụng thường hay nghĩ ngợi lung tung lắm thứ. Nghĩ ác, nghĩ thiện, nghĩ lành, nghĩ dữ, nghĩ mình và nghĩ tới người khác. Cái sự nghĩ ngợi lung tung ấy làm cho con người vừa khôn ngoan lên vừa ngu dốt đi, vừa dũng cảm lên lại vừa hèn nhát, đôi khi vừa muốn đứng lên lại vừa muốn cúi xuống, vừa đi tới lại vừa thụt lùi. Vì thế phép luyện thư của ta trước hết phải ngồi im, tập trung, nghĩ về một điểm. Chỉ được nghĩ một điểm mà thôi. Phải gạt hết trong đầu, trong bụng những sự nghĩ lui nghĩ tới, phải tâm tâm niệm niệm rằng tất cả là mịt mù, tối đen bịt kín chỉ có một điểm trước mắt, chỉ có một mục đích phải tới. Ví dụ khi luyện, Tệ Ngô có thể nghĩ tới pho tượng Đất Mẹ. Chỉ chằm hăm vào cái tượng ấy thôi, trên trời dưới đất không còn thứ chi khác, trên tất thảy cuộc đời này không có thứ chi nữa hết, chỉ có pho tượng cụt chân ấy, không có nó là trái đất này tan biến thành cát bụi. Phải nghĩ như vậy mới đủ sinh khí để phát độc ra.
Những lý lẽ ghê gớm ấy được phun ra từ miệng Phu Sẩu cũng có tác dụng gần như phun thuốc độc khiến Ngô cảm thấy choáng váng. Phu Sẩu ngừng lại uống liền hai hớp rượu. Còn Ngô thì cố định thần để nhẩm lại những điều cao cả vừa được nghe.
Sau đó, Phu Sẩu rút trong lưng quần ra một đoạn rễ cây. Hắn cấu một tý bằng mẩu tăm bảo Ngô cho vào miệng nhai, còn lại nhét vào cạp quần Ngô. Hắn dặn:
- Mỗi ngày, sau khi ngồi yên, tập trung nghĩ về một điểm thì nhai một tý rễ. Nhớ không được nhai nhiều mà độc. Còn lại phải luôn nhớ nhét ở thắt lưng trong cạp quần. Sau năm ngày, chất độc ngấm được vào da thịt, ta sẽ dạy cho cách phun ra mồm.
Ngô vẫn còn hoang mạng lo sợ, anh nhìn Phu Sẩu dè dặt hỏi:
- Nhưng mà... liệu xác thịt ta có chịu được thuốc độc này không? Lỡ ra...
Phu Sẩu phá lên cười
- Đừng lo. Trong hang có hàng trăm thứ thuốc độc của ta, đây là loại nhẹ nhất. Cứ làm đúng lời ta dặn thì không việc chi đáng sợ cả.
Ngô bắt buộc phải bỏ mẩu rễ cây vào mồm. Có vị đắng làm anh lợm cổ. Ngô định nhổ ra nhưng vì Phu Sẩu vẫn ngồi sát bên cạnh nên anh không dám. Chợt nhớ đến lời dạy cao siêu của Phu Sẩu, Ngô quyết định tập trung nghĩ về pho tượng đồng đen một chân, may ra có thể làm cho vị đắng trong cổ không còn gây nên sự buồn nôn nữa.
"Nào, pho tượng đồng đen một chân! Pho tượng đồng đen một chân! Mi là cái chi? Mi ở đâu? Mi to hay nhỏ? Mi hãy hiện ra, hiện ra trước mặt ta để ta tập trung nhìn vào mi..
Nào pho tượng cụt chân kia, mi là cái thứ để ăn hay thứ để thờ mà người ta lại khao khát mi đến vậy. Cả đời tao khao khát, đời bố tao khao khát. Cả đời mẹ tao, cả các dì tao, cả ông bà tao nữa tất cả đều bu vào mày. Rồi thằng Phu Sẩu, thằng Mu Thoòng, với hết thảy đám người rừng ở đây ai cũng hau háu chực ôm lấy mi. Mi là nguồn hy vọng không tắt của sự sống, mi cũng là vực sâu của hận thù và tội lỗi. Mi là thức ăn mà cũng là chất độc. Tội của mi to lắm. Nếu lôi cổ được mi ra thì tao không chỉ chặt nốt cái chân mi ra thôi đâu, mà tao sẽ vặn cổ mi. Tội mi đáng vặn cổ. Bố tao nếu còn sống sẽ xẻo tai mi. Các em tao chắc chắn sẽ bẻ quặp tay mi. Rồi cái lũ người rừng sẽ băm xác mi ra. Phải trừng trị mi như thế mới hả dạ. Nhưng tất nhiên sau khi đã tùng xẻo mi ra từng mảnh rồi thì lũ người ấy, kể cả tao nữa, không ai dại gì mà chôn những mẩu ấy xuống đất. Chúng tao sẽ dành nhau từng cái đốt ngón tay, từng vùng tai, lỗ mũi của mi. Ô hô, lúc ấy chắc sẽ vui lắm. Lũ người tha hồ thả cửa chửi mắng nhau, xô ập vào nhau mà cắn xé, sẽ phun thuốc độc vào nhau, vác cuốc xẻng mà phang lên đầu nhau. Thế là sau khi băm được xác mi ra, lũ tao sẽ băm vằm nhau cũng tả tơi không kém gì xác mi, nhưng sau đó nữa thì có ai giành nhau để nhặt xác chúng tao không? Có thể có lũ chó, lũ quạ!... Và có thể cái lũ súc sinh ấy cũng sẵn sàng xé xác nhau ra...".
°
°
Sau năm ngày luyện phép, nhờ ngồi yên trên đá chăm chăm nghĩ về pho tượng đồng đen một chân và mồm ngậm thuốc độc cho nên Ngô đã có được một da thịt khác thường, một da thịt đầy chất độc. Nhưng điều đó chưa thật quan trọng. Chất độc không phải chỉ ngấm vào phần xác mà ngầm cả vào phần hồn. Hơn nữa với cái cách luyện tâm chỉ nhìn vào một điểm, nghĩ một đường ấy mà ý nghĩ của Ngô trở nên khô khốc và nhọn hoắt như một mũi kim. Anh không còn cảm thấy sợ hãi như những hôm đầu, không còn hoang mang lo lắng, không tính ngược, nghĩ xuôi, hết cả những trăn trở day dứt. Thế mới biết phép thuật của mo Sẩu cao cường biết nhường bao!
Bây giờ thì có thể gọi là mo Ngô. Sau khi luyện được phép, Phu Sẩu bảo Ngô thử xem kết quả thế nào bằng cách ngậm một hớp rượu phun vào những lá cây non và thật mềm. Mi chưa đủ sức làm chết cây cứng, lá già đâu! Điều cần nhớ là, khi phun vào ngọn lá mi vẫn phải tập trung nghĩ một điểm y như khi nhai thuốc độc. Nếu nghĩ lung tung sẽ không có tác dụng đâu.
Ngô ghi nhớ như in điều đó. Anh ngậm vào mồm một ngụm rượu, bước nhanh tới một cây non bên bờ suối, tìm được máy đọt lá non, anh vừa phun vừa kêu lên trong đầu "Nào pho tượng đồng đen một chân!". Thực kỳ lạ như một trò ảo thuật. Những phiến lá nõn nà đột ngột xìu lại, héo quắt và gục xuống. Ngô sướng quá hét toáng lên. Phía sau lưng anh, Phu Sẩu kẽ mỉm cười. Ngô hứng chí xách bình rượu trong tay lội ào ào theo dọc con suối. Gặp bất kỳ một cành lá non nào Ngô cũng tợp rượu phun phì phì và thầm kêu tên pho tượng đồng đen một chân. Những chồi non thay phiên nhau gục đổ. Ngô càng hăng máu bước nhanh hơn và tên pho tượng Mẹ Đất lại liên tục được réo gọi trong đầu. Lá héo, lá héo và lá héo. Tượng đồng đen, tượng đồng đen, tượng đồng đen! Tất cả đều đồng thời với lòng hân hoan của tên thầy mo vừa thụ học. Lá rừng hôm đó và dòng họ hắn sau này có ai ngờ tai hoạ lại được bắt đầu như thế!
Chiều hôm đó Phu Sẩu đã khao Tệ Ngô một đùi nai nướng sém. Tất nhiên lần này ngồi đối diện với Phu Sẩu, Ngô đã ăn uống đầy sung sướng. Đêm đó, Ngô ngủ lại trên phiếm đá  một đêm cuối cùng. Sáng hôm sau, Phu Sẩu dẫn Ngô đi dọc theo lòng suối, đến một chỗ suối tách đôi, hai người bước lên bờ, lần theo lối mòn đâm xuyên qua một khu rừng rậm. Gần trưa thì họ bước ra được một quãng đất rộng đầy cỏ tranh, Phu Sẩu dừng lại chỉ tay về phía đông:
- Chừ mi đi một mình được rồi. Cứ theo lối mòn này mà đi, qua khỏi bãi tranh này thì gặp một quãng rừng khác. Vượt khỏi rừng đó, có con suối chắn ngang. Về bên kia suối, sẽ có đường to hơn, và có nhiều người Vân Kiều ở. Nếu đói thì vô họ mà xin ăn cơm. Mi đi bộ ba ngày là đến nhà.
Ngô nhìn theo tay tên Phu Sẩu chỉ thấy hun hút mờ xa toàn là cây rừng. Hắn có vẻ ái ngại. Phu Sẩu vổ vào vai:
Đi đường cứ tập trung nghĩ một điểm là hết sợ. Phép ta thiêng vậy đó. Còn về dưới xuôi khi nào tìm được cái tượng ấy phải lên báo ta ngay. Nếu mi phản ta chỉ cần cắm một cành cây vào dấu chân mi ở trên này là dưới đó mi chết liền.
Ngô hoảng hốt kêu to:
- Đừng cắm! Đừng cắm! Ta không bao giờ phản Phu Sẩu đâu.
Phu Sâu cười, xô vào vai Ngô một cái. Thế rồi hai đứa quay đi hai đường.
°
°
Dù đã được tôi luyện bằng phép định tâm để cho ý nghĩ chỉ còn như một chiếc rìu sắt, nhưng vào cái giây phút này, cái giây phút tháo cũi sổ lồng của một con chim sau mấy tháng trời bị giam hãm, tâm trạng Ngô không sao tránh khỏi sự xáo động nôn nao. Anh co giò lên bước nước sải, đôi lúc gần như chạy, nhưng vẫn cảm thấy chậm. Anh ước chi có phép phi thân bay vù một cái để được thấy căn nhà ấm cúng có vợ và đứa con trai duy nhất của mình.
Chợt Ngô dừng bước lại. Sao mình lại nghĩ lung tung thế?  Sao lại để gan ruột nôn nao thế? Thế này thì phép thư sẽ hỏng mất. Vợ con là cái thá chi? Ngôi nhà tranh vách nứa ấy là cái của khỉ chi? Không. Không. Chỉ có tượng mẹ đất thôi. Nào, hãy hiện ra đi cái hình hài cụt chân! Hiện ra đi để ta tập trung nghĩ vào mi! Nào...
Ngô lôi be rượu trong túi áo ra tợp một hớp, liếc mắt tìm một lá cây non, nghiêng mình phun phù một cái. Trong đầu Ngô lại réo lên " Tượng cụt chân!". Cứ mỗi lần cái tượng ấy được réo lên là một đọt cây non mởn mà gục xuống héo. Ngô vui thích với cái trò giải trí kỳ ảo này. Bước chân hắn chậm dần lại, lang thang như đứa trẻ đang vật vờ theo ong bướm.
Lại qua hết một quãng rừng nữa, đã nghe tiếng nước xối ồ ồ. Đường mòn dưới chân đang xuống dốc. Ngô bước nhanh hơn. Đã trông thấy bờ suối. Có lẽ đây là con suối lớn nhất mà Ngô gặp kể từ hôm bị bắt lên rừng cho đến nay. Lòng suối có lẽ sâu, nước chảy xiết và nhiều đá. Nhưng lúc này Ngô không thèm nghĩ ngợi đắn đo chi hết " Tượng đồng đen một chân!" Trơn quá. Mấy lần xuýt trượt chân. Ngô lại kêu lên:  tượng..tượng.. Đừng sợ chi hết. Cái chi mà đáng sợ. Ngô tự nhủ  lòng như vậy. Nước đã ngang rốn. Ngô cố hình dung ra pho tượng cụt chân đang đứng trước mặt. Nó đó...nó đang đứng đi...ồ, không phải, cụt chân thì không thể đi được. Nó ngồi. Đúng nó ngồi, ngồi bên bờ suối. Kia kìa...Ngô chợt đứng sững lại, suýt nữa ngã nhào. Cũng may Ngô đã vượt qua được quá nửa con suối.
Đúng là nó đang ngồi bên bờ suối, đầu cúi vục xuống nước. Bất ngờ nó ngẩng lên. Cái mặt trắng dã, mớ tóc to xù như tổ quạ, cái áo xẻ bốn thân hở hang cả da thịt, bộ ria lởm chởm phủ kín môi trên. Một tiếng kêu thầm buốt xé trong ngực Ngô: Mu Thoòng!
Chính hắn! Cái kẻ mà cả bao người Rạc phải khiếp sợ. Cả thầy Linh Linh lẫn Phu Sẩu đều bất lực. Hắn đang ngồi đó nhìn chằm chằm vào Ngô.
Cơn khiếp đảm trào lên rồi lắng xuống. Ngôi tự nhủ thầm, dù sao hắn cũng chưa biết mình là ai. Cần phải bình tĩnh. Pho tượng...pho tuợng...pho tượng...!
- Xi lảo pi?
Mu Thoòng hỏi bằng tiếng Rạc. Ngô nhớ đến lời kể của Phu Sẩu, anh nghĩ ngay đến kế thoát thân:
Không hiểu...ta là người xuôi.
Người xuôi à? Mu Thoòng kêu to lên và chợt cười.
Ngô gật đầu lia lịa, mồm liến thoắng:
Người xuôi, ta ở đồng bằng. Ta không hiểu mi nói chi hết.
Mu Thoòng cũng gật đầu. Rồi hắn lại cúi xuống nước nói gọn lỏn:
Đi đi!
Hoá ra hắn cũng hiền. Ngô thầm nghĩ như vậy và cố lội nhanh qua khỏi suối nước. Hắn hiền thế mà cả bọn người Rạc phải kiếp đảm vì hắn. Ghê gớm thật. ừ, hắn người xuôi như mình, không biết học ở đâu mà có được những phép thư cao cường đến thế? Giá như mình cũng học được như hắn, ừ, ước chi...! Mình mà có được phép như hắn thí sợ chi Phu Sầu nữa...Chao ôi, Phu Sẩu, Phu Sẩu! Biết đến lúc nào ta mới thoát khỏi tay hắn. Không, không thể thoát được. Chỉ cần hắn cắm một cái cành cây lên dấu chân ta là cuộc đời ta chấm dứt. Một cảm giác u tối đột ngột phủ trùm lên trí não Ngô...Số phận đã định rồi, có cách nào gỡ thoát không?
Bất chợt Ngô dừng chân lại. Hay là...hay là ta tìm cách học phép thằng Mu Thoòng. Phép có cao hơn thằng Phu Sẩu? Nhưng đời nào nó tin ta? Đời nào nó truyền phép cho người khác? Làm cách nào đây, cách nào hè...
ý nghĩ của Ngô bắt đầu lung tung, nháo nhác. Nhớ đến lời dặn của Phu Sẩu. Ngô cố áp mọi suy nghĩ vào pho tượng. Chao ôi, làm cách nào để thằng Mu Thoòng dạy phép cho ta...pho tượng...làm cách nào để cái thằng phù thuỷ kia tin được ta...pho tượng...
ồ, phải rồi, thật là huyền diệu. Phép nghĩ một điểm của Phu Sẩu mới tài tình làm sao! Đúng rồi, pho tượng sẽ giúp ta. Tất cả chỉ có pho tượng cụt chân đó mà thôi...
Ngô dừng lại hẳn, quay lui. Lúc này anh đã lên đến nửa dốc. Dưới bờ suối, Mu Thoòng vẫn cúi vục xuống nước. Có lẽ hắn đang luyện phép. Nhưng sao hắn không phun phì phì mà cứ gục xuống nước như vậy? à...trong nước cũng có thuốc độc. Lời Phu Sẩu mới hay làm sao!
- Này ơi!...Ngô cất tiếng gọi và thấy run cả người.
Mu Thoòng ngẩng lên, hắn có vẻ ngạc nhiên khi thấy Ngô cả gan dám gọi hắn.
- Chi?
- Cho ta hỏi một câu - Ngô bước lại gần - Đi theo đường to này thì về tới đâu?
Mu thoòng không trả lời mà hỏi ngược lại:
- Mi ở xuôi lên sao không biết đường?
- Ta bị bắt.
- Ai bắt?
- Một người Rạc tên là mo Sẩu.
Mu Thoòng đứng bật dậy. Nguời hắn rất cao. Hai tay khẽ động đậy.
- Mi vừa ở chổ ke mo Sầu ra à?
- ừ!
- Vì sao hắn lại thả mi ra?
- Hắn sai ta về xuôi tìm pho tượng đồng đen một chân.
Mu Thoòng vội vã lao chồm tới
- Mi... mi biết cái tượng đó à?
- Ta chỉ nghe kể thôi.
- Ai kể?
- Một người hàng xóm.
- Hiện chừ người ấy ở đâu?
Ngô thoáng nghĩ không thể nói rõ xóm Linh Linh, vì thằng này là dân xuôi có thể về lần tìm được.
- Ta gặp một người quen ở giữa bến xe. Người quen kể cho ta nghe là đang có một pho tượng đồng đen cực to, hai tay chống nạnh nhưng chỉ có một chân. Ta nghe vui tai quá. Sau đó người quen ấy chào ta đi. Ta mang chuyện đó đi kể lung tung vì nó lạ tai mà. Không ngờ một lần đang kể thì ta bị một người dân tộc bán thuốc bắt cóc.
Mu Thoòng chăm chú nghe. Thấy Ngô ngừng kể, hắn lại hỏi:
-  Nhưng mi phải biết chỗ ở của người quen ấy chứ?
- Trước đây thì biết. Nhưng từ ngày có loạn, cả làng mình phải bỏ chạy lung tung. Chính cái lúc chạy loạn ấy thì người kia mới nhặt được tượng. Chẳng biết hắn ở chổ nào...?
- Khi gặp mi ở bến xe hắn có nói đi đâu không?
- Đi hỏi ai mua đồng đen thì bán. Hắn hỏi cả ta nữa. Ta ôm bụng cười, tiền mua gạo còn chả có nữa là đồng đen...
Mu Thoòng cắn cắn vành môi một lúc rồi lại hỏi:
- Mo Sẩu bảo mày làm thế nào?
- Hắn bảo ta về lại phố, cứ cố công đi tìm, nếu gặp được cái thằng bán tượng ấy thì hỏi mua ngay. Sau đó dẫn nó lên gặp Sẩu.
Mu Thoòng chợt cười:
- Thế thì, nếu gặp được, mi dẫn hắn lên cho ta!
Ngô giả vờ kêu to lên:
-Chết, chết, mo Sẩu giết ta mất.
- Mi ở dưới đó nó giết sao được?
- Nó bảo...nó có phép cắm cành cây vào dấu chân ta...
- à...
Mu Thoòng chợt ngửa cổ lên trời cười ha hả. Rồi hắn bước lại sát Ngô, vỗ tay lên vai anh đầy quả quyết.
- Đó là phép Khui tỉ của bọn Rạc đấy!
- Khui tỉ là chi?
- Dưới xuôi mình người ta gọi là thôi miên. Mi đừng sợ, ta có phép trị được thứ đó.
- ôi lạy phật, vậy thì giúp ta với!
Mu Thoòng cầm lấy tay Ngô dắt ngược lên dốc:
- Về nhà tao đã.
°
°
  Nhà Mu Thoòng là nhà sàn theo kiểu nhà của người miền ngược. Kiểu nhà này và cung cách ăn ở của gia đình Mu Thoòng đối với Ngô không có gì xa lạ. Anh đã quen với hàng chục gia đình vùng A lưới.
Mu Thoòng có một người vợ khá trẻ và đẹp, một đứa con gái chừng mười hai tuổi, cũng khá đẹp. Cả hai cùng mặc áo váy Vân Kiều. Khi Ngô theo chân Mu Thoòng lên sàn, người đàn bà trẻ đã gật đầu chào một cách khá lịch thiệp. Chị rót nước vào chiếc cốc nhựa, bê hai tay lại trước mặt Ngô, mời bằng tiếng Vân Kiều:
- Ngoái đơ!
Mu Thoòng phá lên cười. Người vợ ngơ ngác nhìn chồng. Mu Thoòng nói to:
- Hắn người xuôi đó!
Người vợ trẻ nhoẻm miệng cười rất tươi:
- Rứa thì... mời anh uống nước.
Cái giọng nói đầy chất Huế, không hề pha tạp chút nào khiến Ngô ngớ cả người ra nhìn.
Mu Thoòng đưa hai tay lên chụp vào mái tóc rối như tổ quạ, hắn lật nhanh một cái, cả mái tóc tuột ra. Ngô tròn mắt nhìn. Hoá ra là tóc giả. Rồi Mu Thoòng bứơc khuất vào phía sau tấm phên bằng nứa. Một lúc sau hắn bước ra. Ngô ngơ ngác không thể nào tin ở mắt mình nữa. Như có một phép màu huyền diệu. Trước mắt Ngô là một Mu Thoòng khác hẳn. Cao lớn, đẹp trai, tóc cắt vừa phải, áo sơ mi màu xám, quần dài bằng vải pho. Chỉ còn có bộ ria dài ở mép trên là nét duy nhất để nhận ra Mu Thoòng. Thấy Ngô còn ngơ ngác, Mu Thoòng đã ngồi xuống một bên, đặt ra chai rượu và hai cái chén. Hắn vừa rót rượu vừa nói.
- Mày thấy lạ hả? Tao cũng là người xuôi, dân đầm phá đây. Còn vợ tao dân Huế...Hà, ở dưới mình người ta vẫn thường có câu. "đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy!" Mày hiểu câu đó không?
Chừ thì Ngô đã hiểu. Không biết có phải vì đã quá lâu ngày mới có dịp cùng ngồi với một người xuôi, hay vì thấy rằng mưu kế mình đã thành công mà Ngô cảm thấy vui vui trong lòng. Anh uống liền một lúc ba chén rượu. Ngô giả đò khề khà như kẻ say, gợi chuyện:
- Tao lạ quá. Mi ở dưới đó...vợ đẹp con ngoan, vì sao lại lên đây, ăn ở như thế này?
 Mu Thoòng nuốt ực một ngụm rượu, thở khà một cái. ánh mắt hắn đỏ ngầu lên:
- Mày tưởng tao vui thú với cảnh này lắm sao? Không, tao chán lắm! Nhiều lúc tao muốn bỏ về. Vợ tao nó còn muốn hơn thế nữa. Nhưng không thể được. Cái nghiệp nó buộc rồi.
- Cái chi buộc được mày?
- ồ, sao lại không. ở đời, mỗi một con người sinh ra đều có một giây trói buộc. Mỗi một số phận đều có một sợi giây níu kéo. Nếu không thế con người ta đã đua nhau trổ trời mà lên! Nói ví dụ như mày, khi mày biết được có cái tượng đồng đen ấy thì mày sắp thành triệu phú rồi đó. Nhưng mày lại bị thằng Mo Sẩu nó cắm nhành cây vào dấu chân. Mày không thể thành triệu phú được. Nhưng rồi thằng Mo Sẩu khốn nạn ấy cũng đừng hòng vơ được kho báu đó vì mày đã gặp tao. Thế đó...Rồi đây câu chuyện sẽ thế này. Mày về xuôi, tìm cách bắt thằng hàng xóm. Sau đó Mo Sẩu tìm cách bắt mày. Tao sẽ bắt Mo Sẩu...Cứ vậy, cũng chẳng biết có đứa chó chết nào bắt tao không, nhưng nghiệp đời là thế.
Đêm hôm đó, sau mấy chục đêm ngủ trên đá và lá khô, Ngô được nằm trên sàn gỗ có trải chiếu. Nói chung nếu không nhìn thấy tận mặt Mu Thoòng  xoã tóc làm phép thì khó mà tưởng tượng được chàng thanh niên đẹp trai, ăn ở lịch sự này lại là một thầy mo gớm ghiếc. Mu Thoòng nói chuyện say sưa, thậm chí còn tỏ ra yêu mến Ngô nữa. Có lẽ bởi vì cái pho tượng cụt chân đã lù lù hiện ra trước mặt, mà cũng có thể là vì đã lâu chưa được dốc bầu tâm sự với một người xuôi. Cái tình đồng hương là thứ dễ hiểu nhất của mọi loài người.
Sáng hôm sau Mu Thoòng dẫn Ngô ra rẫy. Vùng rẫy của hắn khá rộng. Mu Thoòng bận quần áo Vân Kiều, tay cầm rựa, gặp ai hắn cũng chào, cũng hua cây rựa lên phía trước và nói: "Tả xa rai!". Giữa một cái rẫy lớn, có chiếc chòi nhỏ khá chắc chắn. Mu Thoòng leo lên trước. Ngô theo sau. Chòi cũng được lát sạp chắc chắn. Ngô tự hiểu đây là chỗ luyện phép thường xuyên của Mu Thoòng.
Mu Thoòng ngồi xuống trước, Ngô ngồi theo bên cạnh. Hai đứa nhìn thẳng ra cửa chòi. Mu Thoòng bắt đầu nói. Đây là bài học thứ hai của Ngô:
- Ngô ơi mày cần nhớ, con người ta sống trên đời chỉ duy nhất có một thứ của cải là của riêng. Đó là ý nghĩ. Cơm ăn của người này giống người khác, áo mặc anh nọ y như anh kia, thậm chí cả đàn bà vợ con nữa, ít người giữ riêng được. Nhưng ý nghĩ thì chẳng ai giống ai. Thế nhưng, cái áo của mày có thể cất kín trong hòm, nồi cơm của mày cũng có thể dấu kín được vào bếp. Còn ý nghĩ của con người, cái riêng duy nhất ấy thì không có cách nào dấu được. Mày đã lỡ có một ý nghĩ thì sớm muộn người ta cũng sẽ nhìn thấy. Đừng có hy vọng dấu diếm ý nghĩ của mình.
Ngô ạ, mày cần nhớ, con người ta sống trên đời này không một ai là không ăn trộm. Người ăn trộm trâu bò, kẻ ăn trộm dao rựa.Có khi ăn trộm mồ hôi, có khi ăn trộm nước mắt. Có đứa ăn trộm lén lút ban đêm, có kẻ ăn trộm ngang nhiên ban ngày. Trẻ con thường ăn trộm kẹo bánh hoa quả, thanh niên ăn trộm tình ái, yêu đương, người già ăn trộm kinh nghiệm, đạo lý. Trong ngàn vạn thứ ăn trộm ấy, có kẻ đã học được cách ăn trộm ý nghĩ. Đó là phép khui lỉ.
Hơn nữa mày cần nhớ, con người ta sống được là nhờ trăm thứ thức ăn, người ta chết vì trăm thứ bệnh. Trong trăm thứ bệnh đó, cái bệnh làm người mau chết nhất là bệnh sợ hãi. Mỗi một con người có đến hàng trăm thứ sợ. Mới sinh ra thì sợ mất mẹ, lớn lên một chút thì sợ nạt nộ, đòn roi. Lúc trưởng thành, sợ chèn ép. Lúc đau ốm sợ oan hồn. Tuổi về già sợ con cháu bội bạc. Không thể kể hết được đâu, bởi xung quanh ta có biết bao điều đáng sợ. Ban đêm sợ bóng tối, ban ngày sợ nắng lửa, nằm ngủ sợ mê, thức dậy sợ phải làm... Con người có thể tránh được thú dữ, tránh được cả đạn tên, nhưng không tránh mặt được cái sợ. Nó là mụ vợ dữ dằn mà tạo hoá ép gả cho ta, không có cách chi li dị được, là loại tầm gửi gặm mòn da thịt xương cốt ta mà không sao bóc gỡ ra khỏi cuộc đời. Phép khui lỉ không đánh người bằng thuốc độc mà đánh bằng nỗi sợ hãi. Cái vật đáng sợ thì ở ngoài ta, còn nỗi sợ lại ở trong mình. Hai cái đó như hai đầu của một con đỉa. Phép khui lỉ là thân con đỉa đó. Phép ấy không có chi khác là mang cái sợ bên ngoài vào bên trong. Tự bản thân phép khui lỉ không giết mày, mà mày chết là vì nỗi sợ hãi của chính mày thôi!
Còn một điều cuối cùng nữa mà mày cần biết, con người là cái thứ do tạo hoá sinh ra, tạo hoá đắp bồi. Đã là đắp bôì thì có khi vứt bỏ cái này, thêm thắt cái khác. Con chim phải vứt cái vỏ trứng mới hiện được hình, vứt cái lông tơ mà chắp lông cánh vào thì mới bay được. Con người thì vứt răng sữa để mọc răng xương. Vứt lông má để râu được tốt, vứt cái ngây ngô để có thêm khôn khéo, vứt cái bầy đàn để được cô đơn, vứt thiện lấy ác, vứt bà con họ hàng để làm chồng làm vợ với người dưng. Cho nên, mày ngồi ở đây nhưng nên nhớ rằng mày không phải chỉ ở đây. Đâu đó trên cõi đời này đều có dấu vết của mày đang sống. Nó sống hẳn hoi, mặc dù mày đã quên nó đi, nhưng như một đứa con đẻ rơi bị vứt bỏ, nó vẫn hướng về tổ tông của nó. Thế nên chừ mày ngồi đấy, giả sử vợ mày ở nhà bị ốm, mày sẽ hắt hơi, nhà mày bị cháy mày sẽ nóng ruột. Bởi vì vợ mày ốm thì phần người của mày đang vứt lại ở vợ cũng ốm, nhà mày cháy thì cũng có cái chi đó của mày đang cháy. Mày muốn trốn chạy khỏi cuộc đời này không được đâu. Phép khui tỉ là phép đánh vào cái phần của con người mày ở chỗ khác. Cái phần đó bị đánh thì mày sẽ đau. Rồi cái phần ấy nó sẽ đánh thức nỗi sợ hãi trong con người mày. Mày chết là vì như vậy!
Mặc dù đã được một phần làm quen với cách giảng phép nhưng hai tai Ngô vẫn ù đặc không sao nghe lọt hết được những điều vô cùng rắc rối và phức tạp ấy. Vừa ngồi Ngô vừa nhẩm gọi  tên pho tượng đồng đen để cho trí não khỏi bị náo loạn.
Sau khi rao giảng một mạch lý lẽ của phép khui tỉ, Mu Thoòng mới bắt đầu nói đến cách chống:
- Người xuôi mình thường nói lấy độc trị độc. Muốn chống lại phép thư bằng thuốc độc thì tự mình phải nhai thuốc độc. Muốn  chống lại phép Khui tỉ thì phải biết tự đánh vào mình, nghĩa là đánh vào một đầu của  của đỉa. Chừ mày hãy vòng hai tay qua ngực, khép chặt lại, hai bàn tay vươn qua hai nách ra đằng sau lưng. Vừa nói Mu Thoòng vừa hướng dẫn cho Ngô - Như thế, như thế... Mày dùng hai ngón tay trỏ ấn vào khe hở của hai xương sườn này. Chỗ này này, mày ấn mạnh đầu ngón tay coi có đau không? Có hả? Đó chính là hai huyệt quan trọng trong các huyệt bối du. Lúc nào tự nhiên mày thấy ruột gan cồn cào, đầu óc choáng váng, hai vành tai nóng bừng và tâm thần bất định, có nghĩa là mày đã bị thằng Mo Sẩu đánh phép khui tỉ?. Lúc ấy, mày hãy ngồi xuống như thế này, vòng hai tay qua nách và ấn vào hai huyệt ấy. Cứ ấn thật mạnh, và đầu mày lúc đó hãy tập trung nghĩ về một cái chi đó thật cụ thể, chỉ nghĩ một cái thôi, không được hoang mang, hốt hoảng. Cứ như vậy mày sẽ thoát khỏi phép tà.
Thì ra mọi phép thư đều bắt người ta nghĩ chằm hăm vào một điểm. Ngô tiếp thu nhanh nhất là điều đó. Cũng may anh đã tập được cách nghĩ ấy mấy ngày nay rồi.
Hoá ra lý lẽ thì dài dòng mà thực hành lại chỉ có mấy động tác đơn giản. Ngô ngồi yên và tự tập một buổi đã thấy thành công.
Chừ thì phải kiếm ra một lý do chi nữa để Mu Thoòng có thể dạy cho mình thêm vài phép khác? Ngô nghĩ nhanh ra một kế.
- Mu Thoòng ơi, ta ơn mày đã dạy cho ta phép chống được khui tỉ. Nhưng nếu bất ngờ thằng Mo Sẩu mò xuống tận nơi xáp mặt ta thì sao? Lúc đó hắn thấy ta chưa chết, chắc chắn hắn sẽ nổi cơn điên lên đánh ta trực tiếp để cướp pho tượng. Biết làm cách chi thoát được?
Mu Thoòng yên lặng gật gật đầu một lúc rồi nói:
- Thằng Mo Sẩu nhiều phép cao lắm. Ngoài ta ra ít ai chịu nổi độc của hắn. Tuy vậy, chỉ có gặp các thầy mo hắn mới giở các thuốc độc cao cường ra, còn gặp mày, biết mày chẳng có phép tắc gì, chắc hắn cũng chỉ thư bằng thứ thuốc nhẹ. Thôi được, để ta dạy cho thêm một phép kháng độc nữa. Ngày mai bắt đầu hí?
°
°
Vốn là một người đàn ông thực thà, đôi lúc còn khờ khạo nữa, không hiểu từ lúc nào Ngô đã lột xác trở thành con người khôn ngoan ma mãnh. Hay là từ hôm có thuốc độc ngấm vào người?
Bằng cách khêu gợi, van xin, giả bộ lo lắng sợ hãi, Ngô đã moi được ở Mu Thoòng ba phép thư khá đặc biệt nhằm để chống Phu Sẩu. Ba phép học gần một tháng. Nhưng thời gian lúc này còn có ý nghĩa chi đối với Ngô. Hắn không hề nhớ thương, không hề sốt ruột, không lo lắng, băn khoăn. Hắn say sưa háo hức trở thành một thầy mo cao thủ. Chừ nhớ lại cái cảnh sát phạt nhau hôm ở đám ma người Rạc, không những Ngô không còn thấy ghê rợn hãi hùng mà ngược lại càng thêm kích thích lòng ham muốn. Phải trở thành một thầy mo cao thủ! Phải chiến thắng trong những cuộc đọ phép kia! Đó là ý chí duy nhất của đứa con cả ông Ngang, người đã từng chiến thắng bảy đàn bà. Ngô đang định tìm cách học thêm vài phép nữa thì một hôm bất ngờ Mu Thoòng tuyên bố:
- Thôi, mai mày phải về. Ta không thể dạy thêm cho mày được nữa. Nếu mày học thêm sẽ thành thù của ta mất. Hãy làm bạn của ta!
Bất đắc dĩ Ngô phải gật đầu. Sáng hôm sau, Mu Thoòng dẫn Ngô trở ra đến bờ suối hôm nọ, sau khi chỉ đường cặn kẽ cho Ngô xong, Mu  Thoòng nghiêm sắc mặt lại:
- Mày phải tìm pho tượng đó cho ta. Hãy nhớ là kông được phản bội. Mày nên biết rằng phép thư của ta cao hơn của thằng Phu Sẩu nhiều. Chỉ cần ta thổi vào lòng bàn tay ta mấy cái là mày phát điên ngay tức khắc.
Ngô kinh hãi trợn tròn mắt lên. Nhưng nhờ có luyện được vài phép trong người nên hắn nhanh chóng vượt qua được cơn hoảng  sợ ấy. Ngô thì thào hỏi lại:
- Tao không phản mày đâu, nhưng... nếu quả thật mày có phép ấy, sao không thổi một cái cho thằng Phu Sẩu chết đi, tao khỏi lo.
- ồ, mày không biết. Phép ấy chỉ đánh được kẻ nào đã cho ta bắt tay nó một lần. Ta đã cầm tay mày mấy lần rồi. Còn tay thằng Phu Sẩu thì ta chưa nắm được.
Ngô thấy choáng váng cả mặt mày. Hắn đâu có ngờ mấy cái bắt tay ra vẻ thân tình hôm trước lại là cạm bẫy sau này.
Hãy khắc cốt xương lấy bài học đau đớn này, đừng dại dột đưa bàn tay ra với ai cả!
Mu Thoòng đã quay lưng đi một mạch về nhà nhưng Ngô vẫn đứng như bị thôi miên bên bờ suối. Không ngờ tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa, thoát khỏi nỗi đe doạ của phép khui tỉ  thì lại quàng vào đầu cái tai hoạ kinh khủng khác. Chịu chết ư? Tại sao lại chịu chết... Phải làm chi để chống đỡ được phép của thằng này? Pho tượng...pho tượng..pho tượng!
Linh thiêng như một câu thần chú, pho tượng đồng đen một chân lại hiện ra trước mặt Ngô và mách bảo: Hãy học thêm phép thầy Linh Linh để chống lại Mu Thoòng. Ngô tự hỏi: "Làm cách nào để cái lão gầy nhom đó có thể dạy phép cho ta" Pho tượng nói: "Hãy bán ta đi như đã từng đặt giá với Phu Sẩu và Mu Thoòng!" Ngô reo lên: " Hay, tạ ơn Mẹ Đất!".
Ngô liếc nhìn lên lối mòn nơi vừa khuất bóng Mu Thoòng rồi sau khi lẩm nhẩm vài lần gọi tên pho tượng để tập trung suy nghĩ hắn đã lội ngược trở lại bên kia suối, nhằm theo con đường ngược dốc mà cắm đầu bước về bản những người rừng.
°
°
Vĩ lẽ ấy mà đằng đẵng hơn một năm sau Ngô mới về đến vùng A Lưới. Hơn một năm hắn chui rúc, ẩn náu trong nhà hàng chục thầy mo khác nhau. Với ai hắn cũng đưa câu chuyện tượng cụt chân ra để ngả  giá. Nhờ vào cái vía pho tượng ấy mà Ngô đã học được gần năm chục loại thuốc độc khác nhau. Hắn trở thành một thầy mo vô cùng cao thủ.
Khi về đến A Lưới, không một ai còn có thể nhận ra dáng hình của Ngô. Mái tóc dài trùm gần kín mặt, phủ dài ra quá bờ vai. Da mặt đen màu cỏ thối, hai gò má nhô cao, mắt trắng dã. Giọng nói cứng hẳn lại vì lưỡi đã ngấm quá nhiều chất độc. Cả con người hắn, từ xác thịt lẫn linh hồn đều bầm tím thuốc độc. Cả tiếng cười cũng vậy. Tiếng cười hoang dại như một con ma.
Hắn mò về vườn cũ. Ngôi nhà tranh của hắn vẫn còn, thậm chí còn có vẻ sạch sẽ ngăn nắp hơn. Nhưng chủ nhân ngôi nhà lúc này là vợ chồng một gia đình dưới xuôi lên xây dựng kinh tế mới. Chị chủ nhà kể cho hắn nghe chuyện người đã bán nhà này cho chị, hiện đang lấy một ông chủ thầu thợ xây, đã về xuôi theo ông ta mấy tháng rồi. Ngô im lặng nghe, không xúc động, không căm tức, không hề có một biểu hiện gì cả. Rồi hắn cũng không chào hỏi ai, lùi lũi quay ra. Đi ngang cây mai đầu ngõ, cây mai chính tay hắn trồng hồi mới vưới vợ và lập vườn, Ngô hơi dừng lại một tý. Rồi bất ngờ hắn đưa vụt bàn tay ra, nghiêng mồm thổi phù một  cái. Sau đó hắn bước thẳng. Sau lưng hắn, chị chủ nhà chưa hết kinh ngạc vì cái dáng người quái dị của khách lại đã hết hồn nhìn thấy một cành mai đột ngột héo lá y như vừa có ngọn lửa trùm lên.