CHƯƠNG 4
YÊU CUNG XẠ NGUYỆT
MŨI TÊN BA KHÚC KHÔNG GÌ CẢN NỐI

     ực đạo bắn ra từ cây nỏ theo một quá trình từ yếu tới mạnh rồi lại từ mạnh tới yếu. Trong trạng thái đầu tiên, chạc sắt gập lại để tích tụ năng lượng; bắt đầu chuyển sang trạng thái thứ hai, chạc sắt lập tức duỗi thẳng, năng lượng tích tụ được giải phóng đột ngột. Trong khoảnh khắc năng lượng được giải phóng, chạc sắt sẽ đuổi kịp mũi tên, đầu chạc sắt mang theo năng lượng và sức bật dữ dội sẽ lao thẳng vào đuôi của mũi tên sắt. Dưới tác dụng của lực đạo này, mũi tên sắt khác nào được bắn đi lần thứ hai, vùn vụt lao lên đuổi kịp thiết lăng, đâm mạnh vào máng lõm hình tròn trên đuôi thiết lăng. Và như vậy, phần lớn lực đạo đều đã được truyền sang thiết lăng. Thiết lăng mang theo một sức công phá khủng khiếp không gì cản nổi, phá tan mọi rào cản chắn đường. Còn mũi tên sắt và chạc sắt dư lực chưa tiêu, tiếp tục hành trình tàn sát.
Chính là “yêu cung xạ nguyệt” trong “Sát khí biệt sách”!

*

Chương 4.1 BÀY SÁT TRẬN

Đến tận khi thế bao vây đã hình thành, Lỗ Nhất Khí mới có một chút cảm giác, dù là chỗ không nhìn thấy phía bên kia rừng cây, hay chỗ phản chiếu ánh trăng thấp thoáng trên đỉnh núi, đều trùng trùng khí sắc, loang loáng hàn quang, khí thế hung hãn như sẵn sàng cắt xương lóc thịt. Nhìn vào cách thức màn nhẫn khí kia đang trập trùng lên xuống, có thể nhận ra những kẻ đang nắm giữ chúng sở hữu sức mạnh hùng hậu vô song và một nội tâm thâm trầm kín kẽ khác thường.
Lỗ Nhất Khí không nhận ra ba đống lửa kia là khảm diện gì, song để bày ra được một trận thế như thế này, vũ khí được dùng hẳn là tên nỏ, kết hợp với đám chim ưng săn mỏ hoa Trường Bạch vừa bay qua, chắc đến tám phần là mũi tên ống sáo không lông vũ.
Lỗ Nhất Khí không quay đầu lại quan sát tình hình trên đỉnh núi, song căn cứ vào phương thức sắp xếp của các luồng nhẫn khí mà cậu cảm giác được, hẳn là đội hình được sắp xếp theo kiểu ba – hai – tám. Nhìn kiểu nhân khảm này, Lỗ Nhất Khí lập tức nghĩ rằng nó được biến hoá từ kiểu “Công tập vi”* trong “Vũ Mục binh pháp”** Có ba người đi đầu tấn công, hai người phía sau tập kích chọc khe, tám người sau cùng xếp thành hình cánh bao vây và đánh bọc sườn. Lỗ Nhất Khí biết cách phá giải khảm diện này, nhưng cũng chính vì biết cách phá giải mà cậu chắc chắn rằng giờ đây đã không thể phá được nữa. Trừ phi tiêu diệt được nhân khảm tại ba đống lửa kia trước, mới có thể quay đầu hợp lực ứng phó với khảm diện Công tập vi.
* Có nghĩa là: tấn công, tập kích, bao vây. (Nd)
** Theo truyền thuyết trong dân gian, đây là cuốn binh pháp do Nhạc Phi biên soạn, song chưa có bằng chứng xác thực. Có ý kiến khác cho rằng đó là tổng kết của người đời sau vể binh pháp của Nhạc Phi. Song cuốn sách này có rất nhiều phiên bản, nội dung của mỗi phiên bản nhìn chung đều không giống nhau, chưa biết được đâu mới là phiên bản chính xác.
Quỷ Nhãn Tam không quay người lại, mà trước tiên bật ngay cây Vũ Kim Cương che chắn quá nửa thân người, sau đó thận trọng quan sát tình hình phía sau ba đống lửa qua mép trên của tán dù. Song hắn không nhìn thấy gì. Con mắt cú đêm của hắn có thể nhìn rõ những thứ tàng ẩn trong đêm tối, song lại không thể nhìn thấy cảnh tượng phía sau đống lửa.
Lỗ Nhất Khí cũng không quay người lại, một tay cầm chắc khẩu pạc hoọc, tay còn lại gỡ khẩu súng trường Mauser trên vai xuống. Khi cây súng trường đã cầm ngang trên tay, cậu liền chuyển khẩu pạc hoọc cho Thuỷ Băng Hoa đang đứng phía sau. Khẩu súng có vẻ hơi quá cỡ so với bàn tay của Thuỷ Băng Hoa, song cô ta rất thông minh, dùng cả hai tay cầm chắc lấy báng súng, chỉ nghe “cạch” một tiếng, chốt an toàn đã mở.
Tiếng bật mở của chốt an toàn khiến Lỗ Nhất Khí giật mình kinh ngạc, cậu nhận ra người phụ nữ kia quả thực không hề đơn giản, cô ta biết sử dụng súng! Cô ta cũng giống như Phó Lợi Khai, đều là kiểu người ẩn thân không lộ.
Song hiện tại không phải là lúc suy xét chuyện này, Lỗ Nhất Khí kéo chốt khoá của cây súng trường, đứng ở bên trái Quỷ Nhãn Tam, hơi lui về sau một chút, để Vũ Kim Cương che chắn cho một phần cơ thể.
Gã lái gỗ thở hắt ra một tiếng rõ to, có phần khoa trương thái quá, không rõ là tiếng thở dài hay đang vận khí. Sau đó, gã quả quyết sải lên vài bước, vượt qua lão mù, đứng ở bên phải Quỷ Nhãn Tam, dựng đứng lưỡi cưa phía trước, tay phải rút ra một cây loan đao với phần lưỡi uốn vào trong, tập trung toàn lực nhìn chằm chằm về phía trước.
Lão mù cũng hành động nhưng trái ngược với Phó Lợi Khai, lão không bước lên phía trước, mà quay người lại đi về phía sau với vẻ mặt vô cùng khổ sở, đứng ở vị trí sau cùng, tay cầm hờ cây gậy, dường như đang nghe ngóng điều gì, cũng giống như đang chờ đợi điều gì. Tùng Đắc Kim đứng cạnh lão mù, hai tay giữ chặt cán rìu, tư thế quyết liệt và tràn đầy sức lực, song đáng tiếc lại không phải chiêu thức tiêu chuẩn của người học võ; nửa như chuẩn bị tấn công, lại nửa như muốn tránh né.
Trong bọn, chỉ có Nhậm Hoả Cuồng là bận rộn. Ông đặt quang gánh xuống, cởi tấm áo khoác da thú ra khỏi một bên vai, chọc mũi dùi sắt vào lò lửa cho than cháy bùng lên, rồi trút hết những món đồ sắt đã hoàn thiện và chưa hoàn thiện từ trong sọt vào lò lửa.
Lò rèn đã cháy bùng lên. Bếp lò tuy bé nhỏ, song không ngờ ngọn lửa bốc lên lại không hề kém thế hơn ba đống lửa phía trước. Một tay ông cầm chiếc kìm gắp than tay còn lại cầm búa rèn sắt, chốc chốc lại nện lên chiếc đe sắt bên cạnh bếp lò.
Tiếng búa rời rạc nện trên đe sắt đã khiến rừng đêm vốn âm u lại càng thêm tĩnh mịch, ngay cả tiếng gió luồn qua ngọn cây cũng bị át đi bởi những tiếng choang choang vang vọng. Củi than trong đống lửa thi thoảng lai nổ bùng lên thành đám khiến cả bọn thót tim.
Lò lửa nhỏ bé của Nhậm Hoả Cuồng càng cháy càng mạnh, tiếng búa nện đe liên tục không dừng, tất cả dường như đang muốn truyền đi một thông tin gì đó.
Không ai hành động. Không ai dám hành động. Không chỉ những người bị bao vây, mà nút sống của khảm diện cũng đều không dám hành động.
Lò lửa đã bùng cháy rất đúng lúc, đối thủ cũng giống như họ, đều không nhìn rõ những người ở phía sau ngọn lửa đang làm gì. Khảm diện Công tập vi chỉ nhìn thấy lão mù và Tùng Đắc Kim, nên không dám hành động. Khảm diện ba đống lửa chỉ nhìn thấy vài người quanh Lỗ Nhất Khí, mà không nhìn thấy những người phía sau ngọn lửa, hơn nữa đằng sau tán dù ẩn giấu thứ gì, họ cũng không nhìn rõ, bởi vậy càng không dám hành động. Lò lửa rừng rực cháy còn có một lợi ích khác, đó là ánh lửa khiến chim ưng trên trời không dám lao xuống tập kích, đồng thời xua tan cảm giác lạnh lẽo, khiến những người đang cận kề cái chết kia thân thủ được hoạt bát hơn.
Trong phong thuỷ học có phái hai mươi tư sơn đầu, nguyên lý của phái phong thuỷ này lấy núi làm gốc, sau đó phân tích kỹ lưỡng từ hình núi, hình sườn dốc, cho tới từng viên đá, gốc cây. Theo lý thuyết của phái này, thì giờ đây đám Lỗ Nhất Khí đang ở vào thế tiến thoái lưỡng nan, gió thổi nước chảy, không tụ tài, nền móng khó vững chãi. Địa hình này còn được gọi là “nền khổ bại”.
Nếu nói theo binh pháp, địa hình này là nơi lưỡng bại “xông lên như lũ, đánh xuống như thành”. Bước lên một bước chỉ được ba phần, lùi bước về sau không chỗ đặt chân. Ở vào địa hình như vậy, nếu gặp kẻ địch, tốt nhất nên tĩnh lặng chờ đợi đối phương hành động trước, tức là để đối phương đến tấn công mình, đợi đối phương tiến vào phạm vi công kích hiệu quả của mình, sau đó tìm ra kẽ hở để ra đòn quyết định.
Lỗ Nhất Khí đã rất sáng suốt khi quyết định trì hoãn bất động, hy vọng rằng đối thủ sẽ chủ động tấn công trước. Kỳ thực đây cũng là cách vạn bất đắc dĩ trong tình cảnh không còn phương pháp nào khả thi.
Đối thủ cũng rất thông minh, cả hai khảm diện cũng đều bất động. Tình thế trì hoãn kéo dài đã hơn nửa canh giờ mà cả hai bên vẫn không hề có vẻ gì manh động nôn nóng.
Hai bàn chân Lỗ Nhất Khí đã bắt đầu lạnh đến tê dại. Đúng vậy, sức nóng từ lò lửa không thể sưởi ấm được hai bàn chân lún sâu trong tuyết, song cậu hiểu rằng mình buộc phải kiên trì. Không còn cách nào khác để giải quyết được khảm sống trước mặt, chỉ còn cách thi gan cùng đám nút lẫy trong khảm diện, xem cuối cùng ai kiên nhẫn hơn ai, ai để lộ sơ hở trước. Tình hình hiện tại của đối thủ chưa hẳn đã dễ chịu hơn mình, hơn nữa Thuỷ Băng Hoa là phụ nữ còn chưa ca thán lấy nửa lời thì kẻ nam nhi như cậu bất luận thế nào cũng phải trụ vững.
Nửa canh giờ. Một canh giờ. Hai canh giờ. Lẽ nào họ sẽ phải đứng trơ trơ thủ thế như vậy cho đến hết đêm?
- Không thể tiếp tục trì hoãn, phải nghĩ cách thoát thân! Đối phương rất có thể có quân chi viện, nhưng chúng ta thì không! – Thuỷ Băng Hoa chợt lên tiếng, chỉ ra một sự thực rất đỗi hiển nhiên.
Câu nói này khác nào một luồng khí lạnh xuyên thẳng vào não bộ tất cả mọi người. Thuỷ Băng Hoa rất có lý, tình thế đối đầu kéo dài sẽ rất bất lợi cho bọn họ, nhất thiết phải tìm biện pháp để thoát thân.
Lúc này, nội tâm của Lỗ Nhất Khí đang giằng xé dữ dội. Cảm giác! cần phải tìm ra cảm giác! Hai khảm diện trước sau vây ráp đã khiến cậu toàn thân căng thẳng, không thể trở về trạng thái điềm nhiên vô ngã, bởi vậy cậu chỉ cảm nhận được những luồng khí sắc bén lạnh người, mà không thể cảm nhận dược những làn khí khác.
Thuỷ Băng Hoa khẽ tựa bờ vai vào sau lưng Lỗ Nhât Khí. Một niềm dịu dàng ấm áp như tình mẫu tử tan toả dọc sống lưng cậu, tan chảy vào cơ thể, tựa như vòng tay của người mẹ trong mơ, yên ổn và nồng ấm làm sao. Những bó cơ đang căng cứng tựa dây dàn bỗng nhiên chùng xuống, thư thái vô cùng; tinh thần nhanh chóng ngưng tụ, toàn bộ thân thể thanh thản như chan hoà cùng tự nhiên. Lỗ Nhất Khí đã chìm trong trạng thái vô ngã, cậu mơ hồ thấy mình đang bay lên, đang tan chảy vào trong tuyết, vào rừng cây, vào từng viên đá ngọn cỏ, đang hoà mình vào mọi ngóc ngách vi tế của núi rừng. Và đương nhiên, cậu đã nhận ra những gì đang được ẩn giấu phía sau ba đống lửa kia.
Ở đó có ba cây nỏ lớn, được gác lên những thanh gỗ chống trên mặt đất. Song những kẻ đang giữ nỏ có vẻ đang bấn loạn, dường như chúng đang bồn chồn bất an vì một điều gì đó.
Những nút sống của khảm diện Công tập vi trên đỉnh núi vẫn không hề biến đổi, chúng vẫn đang nấp kín trong tuyết, rình đợi thời cơ sẵn sàng xung trận. Tuy nhiên, Lỗ Nhất Khí vẫn cảm thấy lưỡi đao trong tay chúng có một tơ hào run rẩy, khiến cho khí thế của toàn bộ khảm diện không thực bình ổn vững vàng.
Lỗ Nhất Khí từ từ thu cảm giác lại, trong quá trình này cậu đã nảy ra một phương pháp để biến đổi cục diện hiện tại: tất cả cùng chậm rãi tiến về phía trước để bức bách ba tay nỏ, khiến chúng hoặc là phải ra tay trước, hoặc là sẽ phải rút lui. Do hơi thở của chúng không ổn định, nên chắc hẳn ở đây phải có thứ gì khiến chúng kiêng dè.
Song cảm giác còn chưa kịp thu về hoàn toàn, thì từ mé trái của sườn đồi, lại xuất hiện một luồng khí xộc thẳng vào thần kinh của cậu. Đó là một luồng sát khí, tuy không quá hung tàn, song rất mực thâm trầm vững chãi hệt như núi cao, rừng rậm.
Cảm giác của Lỗ Nhất Khí thậm chí không dám tiến sang phía đó, luồng sát khí đã khiến cậu hoảng sợ. Trong khoảnh khắc, cậu cảm thấy mình đang bị người khác bóp nghẹt trong lòng bàn tay.
Quân chi viện của đối phương đã tới!
Một tiếng sói tru rợn óc xé toang rừng đêm tịch mịch. Lại tiếng tru thứ hai, thứ ba… Từ sườn đồi bên trái, loé lên hơn hai chục đốm sáng xanh lục lạnh lẽo.
- Sói! – Tùng Đắc Kim hét toáng lên, giọng điệu tràn đầy khiếp đảm.
- Là sói! Một bầy sói! – Thuỷ Băng Hoa cũng kêu lên, tuy cũng kinh hãi song xem ra ít hơn nhiều so với gã trai cao to lực lưỡng kia.
Nhậm Hoả Cuồng đã dừng gõ búa, nhanh chóng móc từ trong ngực áo ra một chiếc túi da hươu, tháo miệng túi, đổ ra một thứ hình thù kỳ quặc, ném tọt vào bếp lò. Ngọn lửa lập tức bùng lên, bốc cao cả trượng, rồi cứ thế thẳng đứng ở đó, không lay động lấy một ly, tựa như một cột ánh sáng xanh vàng. Lò lửa rừng rực đã nung toàn bộ những món đồ sắt mà ông vừa ném vào thành những khối sắt cháy đỏ. Ông ta dùng kìm gắp ngay ra khỏi lò, đặt lên đe sắt, vung cao búa rèn nện xuống choang choảng, tiết tấu phân minh, lên xuống nhịp nhàng.
Thủ pháp rèn sắt rất đa dạng, thường có nện gõ đập, tán, quăng, kéo, thủ pháp khác nhau sẽ phát ra âm thanh khác nhau. Chỉ nhìn thấy chiếc búa rèn vùn vút như bay múa, tiếng gõ đập bổng trầm như tấu nhạc. Trong tiếng nhạc gấp gáp, những khối sắt đỏ nhanh chóng thành hình, rồi lại bị ném vào trong lò lửa,
Lỗ Nhất Khí không hề cử động, cậu vẫn đứng đó thanh thản điềm nhiên, song cảm giác của cậu đã dịch chuyển tới bên bếp lò. Khác với mọi người, Lỗ Nhất Khí đã nhìn thấy trong cột lửa bất động kia có một khí thế hoạt bát đang nhảy nhót, toả ra những tia sáng vàng đen khác hẳn với ánh lửa. Thứ mà Nhậm Hoả Cuồng vừa cho vào lò liên tục phun ra những hoa lửa li ti chói vàng rực rỡ, phủ đầy trên khối sắt cháy đỏ, khảm lên trên nó một lớp vàng kim lóng lánh.
Đây chính là thiên thạch Kim Cang! Lỗ Nhất Khí đã mau chóng nhớ ra tên gọi của nó.
Trong “Dị vật chí” có chép rằng: “Trên trời rơi xuống đá lạ, khiến núi vỡ sông tràn. Độ cứng của nó không gì sánh nổi, cho vào lửa, lửa bùng dữ dội, phun ánh vàng không dứt, thứ luyện cùng cũng trở nên cứng rắn siêu phàm”.
Lỗ Nhât Khí quả quyêt loại đá lạ này cũng chính là thiên thạch mà cậu đã được học trong trường Tây học, có điều thành phần chất liệu của loại thiên thạch này đặc biệt hơn nhiều.
Nhậm Hoả Cuồng đã ngừng gõ đập, bởi lẽ những khối sắt đỏ trong lò đều đã thành hình, vẻ mặt ông ta trở nên trịnh trọng khác thường, ông gắp thiên thạch Kim Cang khỏi lò, rồi cắn vào ngón giữa bên tay phải. Đầu ngón tay ứa ra một giọt máu lớn đỏ tươi. Ông búng mạnh ngón tay, giọt máu kéo thành một chuỗi hạt đỏ rực, lao vào trong lò.
Không còn thiên thạch Kim Cang, ngọn lửa trong lò mau chóng thu nhỏ lại. Khi chuỗi máu tươi bắn vào trong lò, ngọn lửa lập tức chuyển từ xanh lam sang đỏ rực rỡ. Ánh lửa phản chiếu lên những người đứng đó, khiến toàn thân họ như thể tưới đẫm máu tươi.
- A… a… a…
Nhậm Hoả Cuồng gầm lên một tiếng vang động khắp núi rừng.
- U… u… u…
Bầy sói cũng tru lên một lượt, tiếng tru hoà lẫn vào tiếng gầm của Nhậm Hoả Cuồng, vang vọng không dứt.
Trận trận âm thanh đã phá vỡ hoàn toàn bầu không khí tĩnh lặng của núi rừng. Ngay cả mảnh trăng lưỡi liềm lơ lửng giữa trời cũng như chấn động mà run rẩy.
Người đã hành động, nhanh như chớp xẹt.
Lão mù hành động trước tiên. Lão lao vụt tới một bên của khảm diện Công tập vi, mục tiêu là nhắm vào đầu mút của hàng “vây” tám người. Đây là một vị trí rất thích hợp, nếu “công” và “tập” muốn lao tới cản lão lại, thì mé bên kia của nút “vây” sẽ trực tiếp dối mặt với Tùng Đắc Kim. Như vậy toàn bộ khảm diện sẽ bị kéo giãn, khảm tướng cũng trở nên tán loạn, đặc biệt là uy lực của “công” và “tập” không thể phát huy triệt để.
Kỳ thực lão mù không hề biết cách phá giải Công tập vi. Song năm xưa lão từng là thủ lĩnh băng mã tặc. Khi đội ngựa giao chiến, kỵ nhất là tấn công vào giữa đội ngựa của đối phương, mà thông thường sẽ tấn công vào một đầu của đội ngựa. Góc độ tấn công như thế có thể tiến lui dễ dàng, đánh được thì đánh, không đánh được vẫn có thể nhanh chóng tẩu thoát trước khi bị bao vây.
Khảm diện không hề phản ứng, chúng không thèm đếm xỉa tới lão mù đã bắt đầu hành động, lại càng không để mắt tới Tùng Đắc Kim đang không biết phải hành động ra sao. Thứ khiến chúng sợ hãi chính là người ở phía sau ánh lửa. Không chỉ vì ánh lửa quá đỗi kỳ dị, cũng không chỉ vì tiếng gầm quá đỗi hung hãn, mà là vì khí thế! Ở đó đang bừng bừng một luồng khí thế, khiến chúng bất giác cảm thấy bản thân trở nên nhỏ bé và yếu ớt.
Những nút sống trên đỉnh núi đều là cao thủ kinh qua trăm trận, song trong thời gian gần đây, tâm tư của chúng đã có phần rối loạn. Viện trong viện ở Bắc Bình bị phá, chúng đã tiếp nhận mệnh lệnh truy sát người của Lỗ gia, cướp lại bảo bối đã mất. Song mới có hơn một ngày, nhiệm vụ của chúng đã trở thành theo dõi sát sao người của Lỗ gia. Sau khi tới cánh rừng này, chúng không những phải bám sát đối phương, mà còn phải tìm cách doạ dẫm quấy rối, ngăn cản đối phương tiến bước.
Nhưng đến chiều hôm qua, chúng lại nhận được chỉ thị mới nhất là phải bắt sống toàn bộ. Mệnh lệnh liên tục thay đổi đã khiến chúng cảm thấy mệt mỏi, khó mà thích ứng. Đúng trong lúc hoang mang không biết phải làm gì, thì ba tay nỏ lại mang đến một chỉ thị mới: nếu không bắt sống được, phải tìm cách cầm chân, càng lâu càng tốt, để những đồng môn kịp vượt lên trước có đủ thời gian bố trí khảm diện, và những cao thủ sừng sỏ trong bản phái vượt lên trước dò la. Ý đồ đã rất rõ ràng, trước hết xem phe mình có đủ sức tìm ra ám cấu, khai quật bảo vật hay không. Nếu thực sự hết cách, sẽ thả đám người bên Lỗ gia ra cho họ đi tìm bảo vật, rồi cướp đoạt sau.
Bởi vậy khi nãy chúng chỉ bao vây, không có ý hành động. Công bằng mà nói, giữ chân đơn giản hơn rất nhiều so với bắt sống. Thế nhưng tình hình trước mắt đã trở nên phức tạp, bầy sói đột ngột xuất hiện, đối thủ lại chủ động tấn công, bởi vậy chúng chỉ còn biết thuận thế đánh trả, thực hiện mệnh lệnh bắt sống.
Nhậm Hoả Cuồng đột ngột quăng cả bếp lò về phía đỉnh núi, một lò than cháy và sắt nóng đỏ bay ra tung toé, phủ kín một vùng rộng lớn. Phạm vi đã được tính toán rất kỹ lưỡng, vừa hay chắn ngang con đường bắt buộc phải qua khi khảm diện Công tập vi đánh thẳng từ trên xuống. Than cháy và sắt nóng rừng rực rơi đầy xuống tuyết, hơi nước lập tức bốc lên mù mịt như sương. Than và sắt nóng gặp tuyết tuy giảm bớt nhiệt, song những bàn chân đi giày vẫn không thể trực tiếp giẫm lên, bởi vậy khảm diện muốn bao vây công kích, buộc phải đi vòng, như vậy hình khảm cũng sẽ tan rã.
Khảm diện trên đỉnh núi vừa động, ba cây nỏ lớn trong rừng cũng động theo. Mũi tên cuốn gió lao đi khiến đống lửa dạt sang một phía.
Lỗ Nhất Khí đã cảm nhận được hành động từ hai bên, mà không, còn có thêm một vị trí khác, đó là sát khí từ bầy sói cũng đã động, từ trạng thái thâm trầm bỗng chốc trở nên hoạt bát, vùn vụt lao thẳng tới.
Không hề xuất hiện tiếng gầm rít rền vang của mũi tên ông sáo không lông vũ như dự liệu của Quỷ Nhãn Tam và Lỗ Nhất Khí, mà thay vào đó là một tiếng súng nổ giòn tan, kết thúc bằng một tiếng va chạm và cọ xát đinh tai nhức óc, tựa như đã bắn trúng thứ gì.
Lỗ Nhất Khí vẫn chưa nổ súng, cậu vẫn đang đứng ung dung ở đó, tay nâng cây súng trường một cách thảnh thơi. Bởi vậy cậu đã nhận ra, phát súng được bắn ra từ một lùm cây bên cạnh bầy sói. Phát súng sát khí ngút trời, nhưng không hướng về phía họ, cũng không lao về đống lửa, mà chỉ bắn trúng một thứ đang bay vụt trên không.
Ngay sau đó là phát súng thứ hai. Dư âm chói tai của nó chấm dứt ở vị trí cách Quỷ Nhãn Tam không xa.
Tiếng súng thứ ba càng gần hơn nữa, vì nó phát ra từ tay Lỗ Nhất Khí, đón đường thứ đang vụt đến trong không trung. Cùng lúc đó, Vũ Kim Cương trong tay Quỷ Nhãn Tam bật lên một tiếng “choang” nhức óc, như thể đánh vào chiêng lớn, dội thẳng vào lỗ tai những người xung quanh khiến màng nhĩ long lên như muốn rách.
Sau cú va đập chấn động, lại thêm hai tiếng va chạm khác yếu hơn dội trên tán dù. Quỷ Nhãn Tam đã ngăn cản thành công ba cú tấn công liên tiếp. Lực đạo của ba cú tấn công không quá mạnh, không hề tương xứng với luồng khí vừa thổi dạt cả ba đống lửa.
Rơi phía trước Vũ Kim Cương có ba vật. Vật thứ nhất là một khối thiết lăng* góc cạnh sắc bén, hai bên có hai lưỡi dao sắc nhọn như đuôi én, phía sau rất dày, chính giữa đuôi có một cái máng lõm hình tròn. Trên thiết lăng có hai điểm bị va đập: một lưỡi dao đã mẻ, và trên đỉnh nhọn của phần đuôi én có một vệt lõm. Lỗ Nhất Khí vừa nhìn đã biết hai vết tích này là do đạn bắn vào.
* Thiết lăng tức một khối sắt có nhiều góc cạnh sắc nhọn chĩa ra như củ ấu, thường dùng làm ám khí rải trên đường hoặc bắn, ném đi gây tổn thương cho địch thủ” (Nd)
Lỗ Nhất Khí đã hiểu ra, quân chi viện của đối thủ chưa tới, trong khi phe mình đã bất ngờ gặp được trợ thủ. Luồng sát khí thâm trầm phía bầy sói chính là tới để giúp đỡ họ, thảo nào hơi thở của ba tay nỏ cao thủ có phần rối loạn. Thế nhưng nhân vật phía sau bầy sói kia rốt cục là ai? Tại sao lại muốn giúp đỡ họ?
Vật thứ hai là một mũi tên sắt. Đầu tên, thân tên và đuôi tên đều được chế tạo từ thép ròng. Vật thứ ba còn kỳ quái hơn, là một thanh sắt hơi cong, trên đầu chẽ ra thành hai nhánh nhọn hoắt, giống như một cây đinh ba đơn giản, còn phần đuôi lại được gắn một sợi lông rất đẹp và đúng kiểu.
Đây là thứ gì?
Lỗ Nhất Khí còn chưa kịp quan sát kỹ, ba đống lửa đã bắt đầu một đợt tấn công mới. Mục tiêu nhằm vào phía lùm cây bên sườn đồi. Ba cây nỏ cùng tấn công với tốc độ cực kỳ chóng vánh. Khoảng cách giữa hai đợt tấn công rất ngắn, chỉ đủ cho Lỗ Nhất Khí kịp liếc qua thứ vũ khí kỳ quái rơi trên mặt đất và lên đạn vào nòng súng.

*

Chương 4.2 GIẪM THÀNH ĐƯỜNG

Tiếng súng lại vang lên. Tiếng súng từ hai phía gần như nổ cùng một lúc. Lỗ Nhất Khí cũng đã khai hoả trợ giúp cho tay súng phía sau bầy sói. Súng vừa nổ, Lỗ Nhất Khí lại nghe thấy một tiếng súng khác, vẫn là vọng ra từ mé bên sườn núi. Phát súng thứ hai được bắn nhanh đến thế, có lẽ là súng liên thanh chăng? Không phải, nghe tiếng súng, có thể đoán rằng hẳn cũng là một loại súng trường, không thể bắn liên tiếp. Vậy thì… lẽ nào họ có hai người?
Phát súng thứ hai vừa nổ, lập tức kèm theo tiếng sói tru thê thảm. Trong cảm giác của Lỗ Nhất Khí lập tức vụt lên cảnh tượng máu thịt tan tành…
Ba tay nỏ đều đã bắn trúng, song đám máu thịt tả tơi trên sườn núi lại không phải là của người bắn súng.
Chính vào lúc hung khí bắn ra từ cây nỏ sắp lao vào lùm cây, từ bên cạnh đột nhiên nhảy vọt lên vài con sói dữ. Khối thiết lăng cạnh góc lởm chởm lao trúng vào con sói bờm nâu lao lên đầu tiên, con sói lập tức toàn thân tan nát thành một đống máu thịt bầy nhầy. Mũi tên sắt bay sát phía sau xuyên suốt qua mình một con sói cổ trắng, nhưng dư lực chưa tiêu, tiếp tục cứa toạc sống lưng của một con sói nữa. Chạc sắt uốn cong lao đến sau cùng đâm xuyên qua đầu một con sói đuôi xám, rồi xẻ thành một rãnh sâu đẫm máu trên mông của một con sói khác.
Nhìn vào đợt tấn công này, Lỗ Nhất Khí đã biết ba cây nỏ quái dị kia đã kết hợp với nhau như thế nào.
Khối thiết lăng tua tủa gai nhọn được bắn ra đầu tiên, song do trọng lượng nặng nề, hình dạng lại không thích hợp để bay ở trên không, bởi vậy tốc độ chậm chạp nhất. Mũi tên sắt tuy bắn ra chậm hơn một chút, song tốc độ nhanh hơn thiết lăng rất nhiều. Chạc sắt cán cong bắn ra sau cùng, song trọng lượng nhẹ nhất, tốc độ nhanh nhất, lại thêm lực bắn cực mạnh nên sau khi vọt đi, đã bị uốn cong.
Lực đạo bắn ra từ cây nỏ theo một quá trình từ yếu tới mạnh rồi lại từ mạnh tới yếu. Trong trạng thái đầu tiên, chạc sắt gập lại để tích tụ năng lượng; bắt đầu chuyển sang trạng thái thứ hai, chạc sắt lập tức duỗi thẳng, năng lượng tích tụ được giải phóng đột ngột.
Trong khoảnh khắc năng lượng được giải phóng, chạc sắt sẽ đuổi kịp mũi tên, đầu chạc sắt mang theo năng lượng và sức bật dữ dội sẽ lao thẳng vào đuôi của mũi tên sắt. Dưới tác dụng của lực đạo này, mũi tên sắt khác nào được bắn đi lần thứ hai, vùn vụt lao lên đuổi kịp thiết lăng, đâm mạnh vào máng lõm hình tròn trên đuoi thiết lăng. Và như vậy, phần lớn lực đạo đều đã được truyền sang thiết lăng. Thiết lăng mang theo một sức công phá khủng khiếp không gì cản nổi, phá tan mọi rào cản chắn đường. Còn mũi tên sắt và chạc sắt dư lực chưa tiêu, tiếp tục hành trình tàn sát.
Chính là Yêu cung xạ nguyệt trong “Sát khí biệt sách“! Cái tên vừa bật ra trong đầu Lỗ Nhất Khí, cậu lập tức thở ra làn khí đục nén trong lồng ngực, ngưng thần núi thở, nâng ngang súng trường, đưa cảm giác thuận theo họng súng vươn đến phía sau đống lửa, lùng sục tìm kiếm. Cậu đã hiểu ra, trong lần tấn công vừa rồi, viên đạn mà cậu bắn ra thuận theo quỹ đạo bay của thiết lăng đã hoàn toàn vô hiệu! Bây giờ, nhất thiết phải tiêu diệt bằng được một nút sống trong khảm diện trước khi nó tiếp tục hoạt động, như vậy mới có thể giảm bớt uy lực tấn công khi ba cây nỏ liên hợp lại.
Tiếng súng từ phía bầy sói lại vang lên, vẫn là hai tiếng liền nhau. Tay súng bí ẩn kia nãy giờ chỉ bắn vào một điểm duy nhất mà không hề thay đổi vị trí. Đối với một tay súng đang ẩn nấp, điểm bắn đầu tiên thường là điểm công kích tốt nhất, hơn nữa sau vài lần bắn, sẽ càng quen thuộc với đặc trưng của đường đạn tại vị trí đó, nên càng bắn càng chuẩn. Lại thêm mỗi lần bắn đều là hai phát đạn liên tiếp, cho dù nhân khảm đang sử nỏ có khả năng né tránh trong chớp mắt như gã cao thủ hộ pháp trong tứ hợp viện Bắc Bình, cũng khó bề tránh đươc một trong hai viên đạn. Đương nhiên, cứ đứng nguyên một chỗ mà khai hoả, trước hết phải đảm bảo bản thân không bị đối thủ bắn trúng.
Thế là Lỗ Nhất Khí cũng nhập cuộc, nhằm thẳng họng súng vào tay nỏ bắn mũi tên sắt. Cậu hy vọng tay súng bên kia cũng có cùng suy nghĩ với mình, như vậy ba phát súng sẽ cùng tập trung vào một nhân khảm, tỉ lệ thành công sẽ tăng lên gấp đôi. Mặt khác, phá được mũi tên sắt, chạc sắt và thiết lăng sẽ mất di một nhịp cầu truyền lực, khiến uy lực của Yêu cung xạ nguyệt suy giảm đáng kể.
Lỗ Nhất Khí không ngắm vào cơ thể của nhân khảm, mà nhằm vào một vị trí bên ngoài cơ thể hắn chừng nửa bước. Cuối cùng, hắn đã tự lao đầu vào đường đạn. Nhân khảm không phải là kẻ ngốc, song hắn cũng không còn cách nào khác; muốn tránh né hai viên đạn bắn ra liên tiếp, chỉ còn cách lao vào đường đạn bắn ra từ một phía khác.
Viên đạn xuyên qua lườn trái của nhân khảm, cảm giác của Lỗ Nhất Khí cũng lao theo viên đạn, xuyên qua thân thể của hắn, rồi vụt ra ngoài cùng một làn hoa máu.
Đòn công kích từ bên sườn núi không hề dừng lại. Tay súng kia lại bắn thêm hai phát, liền sát nhau như một tổ hợp thống nhất.
Nhân khảm bắn mũi tên sắt lại dính thêm một phát đạn nữa vào bả vai, thiếu một chút nữa là đã xuyên qua yết hầu. Xem ra tay súng kia đã quyết tâm tận diệt.
Hai nhân khảm còn lại đột ngột lao vụt lên, bộ pháp cực nhẹ nhàng mà thần tốc. Nhân khảm bắn thiết lăng lao về mé bên sườn núi, nhân khấu bắn chạc sắt phi thẳng đến chỗ Lỗ Nhất Khí.
Khảm diện tan rã, nút lẫy rời khỏi khảm diện truy sát đối thủ, đây là bước biến hoá cuối cùng của tất cả mọi loại nhân khảm. Cũng có nghĩa là khảm diện đã không thể trụ vững, thà chia nhau tấn công trước còn hơn đợi đối phương tới tiêu diệt. Như vậy vừa có cơ hội cùng liều một chết với đối phương, vừa có thể yểm trợ cho những nhân khảm khác rút lui an toàn.
Nhân khảm lao tới cuốn theo sát khí ngất trời, một sát khí nãy giờ ẩn kín chưa hề bộc lộ khi ba kẻ còn kết hợp với nhau. Dường như bọn chúng đã nhìn thấu từng đường xương thớ mạch của đối phương, thậm chí đã nhẩm sẵn trong đầu sẽ đâm vũ khí vào điểm nào trên người đối thủ.
Luồng sát khí bên cạnh bầy sói càng bùng lên dữ dội, tình thế lúc này đã không còn có thể ngăn cản hay lùi bước, mà chỉ có thể đối đầu, lấy cứng chọi cứng. Hai luồng sát khí chạm nhau kịch liệt, bầy sói lại tru lên thống thiết.
Lỗ Nhất Khí vẫn đứng yên tại chỗ, tư thái điềm nhiên, như vậy cậu sẽ càng có thể quan sát rõ hơn từng chi tiết tinh vi trong mỗi nhịp chuyển động của đối thủ.
Đối thủ đang lao thẳng tới với một tư thế gần như cuồng dại, dường như toàn bộ ý nghĩa cuộc đời hắn đã dồn vào một cú tấn công này. Trước luồng sát khí hung hãn ập đến như thác đổ, Quỷ Nhãn Tam choáng váng, phó Lợi Khai và Thuỷ Băng Hoa cũng choáng váng.
Quỷ Nhãn Tam lao lên vài bước, không phải để né tránh, mà là xông thẳng vào luồng sát khí. Hắn biết hắn càng tiến gần tới gần nhân khảm, góc độ ngăn trở của Vũ Kim Cương đối với cú tấn công của cây nỏ sẽ càng lớn, phạm vi bảo vệ Lỗ Nhất Khí cũng được mở rộng.
Phó Lợi Khai và Thuỷ Băng Hoa cũng đã hành động, cả hai người cùng quay người chạy về phía sau. Không phải là né tránh nhân khảm, mà vì họ đã nghe thấy tiếng binh khí va chạm chát chúa và tiếng hô giết từ phía lão mù đằng sau đã ở rất gần, điều đó sẽ ảnh hưởng tới Lỗ Nhất Khí đang ngưng thần tĩnh khí để đối phó với tay nỏ. Bởi vậy, họ phải ngăn cản khảm diện Công tập vi đang ập đến sau lưng.
Những tiếng sói tru đột nhiên lặng phắc. Từ mé bên sườn núi, tiếng súng lại dội lên, kèm theo một luồng hàn quang lạnh lẽo từ khối thiết lăng hình trăng khuyết. Trong nháy mắt, hai luồng sát khí vô hình như hai đám mây vần vũ lao thẳng vào nhau, không gian xung quanh chợt như đông cứng.
Một cú va chạm khủng khiếp, sát khí ngùn ngụt tuôn trào, khiến cho đám Nhậm Hoả Cuồng và bọn nhân khảm Công tập vi rùng mình ớn lạnh, hành động bất giác cũng có phần trì trệ.
Chỉ có ba người không hề bị ảnh hưởng. Quỷ Nhãn Tam xoay tít cây Vũ Kim Cương, những mong có thể gây nhiễu loạn thị giác và tinh thần của nhân khẩu, mặt khác cũng do lo sợ bản thân không chống đỡ nổi lực đao bắn ra từ cây nỏ, nên phải dùng lực xoay để tiết bớt ít nhiều sức công kích.
Tay nỏ muốn một đòn trúng đích không phải dễ dàng, bởi Vũ Kim Cương đã ở rất gần, hắn chỉ nhìn thấy cẳng chân và chỏm đầu của Lỗ Nhất Khí. Muốn bắn trúng, chỉ còn cách di chuyển bước chân ra khỏi tầm chắn của Vũ Kim Cương.
Tay nỏ vừa di chuyển, Quỷ Nhãn Tam đã lập tức phát hiện ra ý đồ, nên cũng di chuyển theo. Tuy tốc độ của Quỷ Nhãn Tam không nhanh bằng gã, song bán kính di chuyển lại ngắn hơn, bởi vậy gã vẫn không thể di chuyển ra ngoài tầm chắn của Vũ Kim Cương.
Lỗ Nhất Khí ung dung xoay người theo, cậu không cần phải dịch chuyển bước chân, bởi lẽ cậu chính là điểm trung tâm.
Đối thủ vô cùng nguy hiểm, sát khí đã bức bách đến nơi. Song đối mặt với tình thế đó, bên khoé miệng Lỗ Nhất Khí vẫn thoáng một nụ cười, “tâm tính theo tự nhiên, núi đổ tựa vô hình, vực sâu ngàn trượng lở, vẫn giữ một hơi thở”.
Súng đã nổ. Cao thủ bắn nỏ đang di chuyển một cách thần tốc sững sờ không hiểu tại sao viên đạn lại có thể tìm được đúng ấn dường của hắn. Quỷ Nhãn Tam cũng kinh ngạc không kém. Vũ Kim Cương trong tay hắn chặn đứng đường tấn công của tay nỏ, song cũng chắn luôn tầm nhìn của Lỗ Nhất Khí. Nhưng hắn đã quên mất rằng trên tán Vũ Kim Cương có một lỗ thủng do bị cúc ma thiên hoả nung chảy trong Mắt cá dương tại tứ hợp viên Bắc Bình, nhờ vậy mà với cảm nhận siêu phàm, Lỗ Nhất Khí đã bắn xuyên qua lỗ thủng, viên đạn lạnh lùng lao thẳng vào giữa trán cao thủ không chút lưu tình.
Khảm diện Công tập vi sát khí mãnh liệt dị thường, dù Nhậm Hoả Cuồng đã rắc than nóng và sắt nung nóng bỏng chặn đường tấn công của chúng, khiến chúng phải vòng qua hai bên, nhưng vẫn cao thấp nhịp nhàng, tầng bậc tuần tự. Hơn nữa, khảm diện này còn có một pháp bảo tất thắng, chính là những thanh đao trong tay chúng, những thanh đao sắc bén vô song, chém sắt cắt vàng chỉ trong chớp mắt.
Lão mù vừa giao thủ, đã bị đánh đến rối loạn chân tay. Nguyên nhân chủ yếu là lão đã nghe thấy tiếng gió rít từ lưỡi đao rất mực dị thường. Năm xưa khi lão mới bị mù dưới địa cung Hàm Dương, một tiếng gió rít sắc lạnh bất thường y như vậy đã nhẹ nhàng cắt dứt cây mã tấu của lão thành ba đoạn.
Tùng Đắc Kim còn thê thảm hơn, vừa mới xông lên, lưỡi rìu đã bị phạt bay mất một góc. Có lẽ do lưỡi rìu quá dày nặng, đối thủ lại quá yêu quý lưỡi đao, bởi vậy sau vài chiêu nữa đã chớp được cơ hội chặt đứt phăng cán rìu của Tùng Đắc Kim. Trong tay Tùng Đắc Kim chỉ còn lại một thanh gỗ cứng, nhưng cũng chỉ một lát sau, thanh gỗ dài ba thước cũng chỉ còn chưa đầy gang tay.
Khảm diện Công tập vi chỉ chấp hành mệnh lệnh bắt sống, bởi vậy tuy khảm diện đã mở, song không hề xuống tay chém giết. Nếu không, Tùng Đắc Kim sớm đã tay chân đứt cụt.
Nhậm Hoả Cuồng đột ngột tung bước vụt lên, ông ta không vòng sang hai bên, mà lao thẳng vào khu vực la liệt than bỏng và sắt nóng. Bỗng một cây dùi nhọn màu vàng kim long lanh một đường đỏ chói đột ngột vụt lên từ mặt tuyết tựa như một con quái xà, lao thẳng về phía khảm diện.
Rõ ràng ông ta không hề sợ đám than sắt nóng bỏng! Hai bàn tay trần của ông sục vào trong tuyết nắm lấy cây dùi sắt dài nhấc bổng lên, đây là điều không ai có thể ngờ tới.
Mục tiêu của cây dùi sắt chính là đao thủ phía trước lão mù, vị trí tấn công là sau lưng gã. Đao thủ là tay giang hồ lão luyện, tuy bị đột kích bất ngờ, song không hề hoảng loạn, lập tức lùi bước về sau, đưa lưng đón lấy mũi dùi, đồng thời tay phải vung lên, lưỡi đao trong tay quét một cung tròn, chém thẳng vào mũi dùi sắt nóng.
Chỉ thấy da thịt rách toang,
Chỉ thấy vết thương lập tức khép miệng,
Chỉ thấy vết thương vừa khép miệng lại tiếp tục nứt toác…
Gã đao thủ vừa vung đao đã từ nút sống biến thành nút chết một cách hết sức tự nhiên. Lưỡi đao sắc bén dị thường không thể nhẹ nhàng chém đứt thanh sắt chỉ to bằng ngón cái như đao thủ đã tưởng tượng. Cảm giác đau đớn và bỏng rát lập tức xuyên suốt cơ thể, tiếng rú thê thảm bật lên cùng lúc với tiếng thịt cháy xèo xèo.
Dùi sắt nóng bỏng đã nướng cháy và hàn kín miệng vết đâm. Song khi mũi dùi rút khỏi cơ thể, vết thương lai vỡ ra, nhưng máu chảy không nhiều, bởi lẽ nhiệt độ cực cao đã thiêu đốt da thịt thành than đen bịt kín, mùi thịt cháy khét lan toả quá nửa sườn đồi.
Đao thủ trúng đòn còn chưa kịp ngã xuống, phía sau đã có hai đao thủ vụt tới điền vào chỗ trống. Nhậm Hoả Cuồng không đếm xỉa tới chúng, mà lập tức xoay người, vung dùi sắt đâm tới một đao thủ khác đang vây tới từ bên cạnh.
Mùi thịt da cháy khét đã thức tỉnh toàn bộ đao thủ trong khảm diện, bọn sát thủ dày dạn kinh nghiệm sẽ không dễ dàng cho ông thợ rèn có thêm cơ hội ra tay. Hai lưỡi đao sắc bén kỳ dị không dám tiến vào trong vòng tròn đang mịt mù toả khói, cũng không thể chặt đứt cây dùi sắt vàng long lanh sắc đỏ, song chúng dư sức ngăn chặn đường tấn công của Nhậm Hoả Cuồng.
Mới đâm được hai chiêu, Nhậm Hoả Cuồng đã biết võ nghệ của mình còn lâu mới địch nổi hai gã đao thủ đang cản đường, trong cuộc chiến này, ông không hề có lấy một chút hy vọng.
Tùng Đắc Kim quãng vụt khúc gỗ chưa đầy gang tay về phía đám đao thủ đang lao tới, những mong tạm thời ngăn cản thế tấn công của chúng, để bản thân có thể lùi lại phía saư vài bước. Đương nhiên chiêu này là hoàn toàn vô dụng đối với đám đao thủ chinh chiến dạn dày. Còn Tùng Đắc Kim do lui bước quá vội vàng mà vấp chân ngã ngửa, bèn thuận thế lăn vội về phía sau đến bảy tám bước như một khối tuyết, né được vô số trận đao phong tối tăm mặt mũi.
Tùng Đắc Kim vừa thoái lui, đao thủ lập tức áp sát đến sau lưng Lỗ Nhất Khí, khoảng cách chỉ còn vài bước.
Phó Lợi Khai và Thuỷ Băng Hoa lập tức xoay người lao lên.
Phó Lợi Khai không kịp suy nghĩ đã quăng ngay thanh loan đao về phía trước. Đó là thanh loan đao cong vút có lưỡi ở mặt trong, chuyên dùng để róc vỏ cây nhận biết sắc gỗ, song nếu dùng làm vũ khí lại giống như phi tiêu tam giác ném đi rồi lại bay về. Cây loan đao xé gió vụt đi đã khiến đám đao thủ phải dừng bước, rạp người né tránh. Loan đao chém hụt, vạch thành một đường vòng cung trong không gian rồi quay về tay Phó Lợi Khai.
Thuỷ Băng Hoa cũng thẳng tay siết cò, song lại chẳng bắn trúng được mấy người. Ngoại trừ phát súng đầu tiên khiến một đao thủ ôm bụng ngã nhào, còn những phát sau đó đều chỉ cày xới vào tuyết hoặc mất hút trong không trung, do súng giật quá mạnh, cô ta không thể kiểm soát nổi.
Phó Lợi Khai lại tiếp tục quăng loan đao đi, song đường bay đã hạ thấp hơn. Gã hy vọng dù không lấy được mạng đối thủ, chí ít cũng có thể đả thương vài tên.
Đao thủ tấn công hay phòng ngự đều vô cùng nghiêm mật. Loan đao vừa bay ra, chúng biết lần này không né được, nên một đao thủ từ trong khảm diện tung người vụt ra, thanh đao trong tay huơ lên chém thẳng vào loan đao.
Loan đao lập tức đứt ngang thành hai đoạn, song hướng bay của hai khúc loan đao càng trở nên quái dị. Mũi đao đứt đoạn lập tức xoay lại xuyên ngang vào một bên cổ của đao thủ. Đao thủ chỉ kịp vung tay chụp lấy mẩu lưỡi dao còn lòi ra, hai mắt trợn ngược, đổ phịch xuống tuyết. Máu nóng phun ra thành vòi, đổ vào đầy tràn một dấu chân đã cứng trên nền tuyết.
Thuỷ Băng Hoa liên tục nổ súng, vừa bắn vừa cố gắng kiểm soát khẩu súng. Cuối cùng phải đến phát đạn thứ mười lăm mới bắn trúng cánh tay của một đao thủ.
Tùng Đắc Kim đang lăn tròn như khối tuyết trên mặt đất đột ngột hét lên như vỡ giọng, tay không lao thẳng về phía đao thủ. Đúng là người đến đường cùng không còn lý trí, huống hồ Tùng Đắc Kim thường ngày đầu óc đã chẳng mấy linh hoạt. Gã tay không lao bổ về phía dịch, không những bản thân nguy hiểm, mà còn cản mất đường đạn của Thuỷ Băng Hoa, khiến Thuỷ Băng Hoa vừa ngắm được mục tiêu đã phải dừng tay không dám bóp cò.
- Đón lấy! Nắm cán!
Nhậm Hoả Cuồng nhìn thấy Tùng Đắc Kim lao lên bèn gọi lớn, rồi chọc dùi sắt vào trong tuyết, hất lên một thứ đỏ vàng lấp lánh y hệt cây dùi, bay hướng về phía Tùng Đắc Kim.
Tùng Đắc Kim vô cùng quen thuộc với những thứ có hình dạng này, bèn vội vàng đưa tay chụp ngay lấy phần cán dài của vật đó.

*

Chương 4.3 ĐỌ SẮC BÉN

Đó là một cây rìu, chính là cục sắt nóng vừa được Nhậm Hoả Cuồng rèn xong. Cây rìu kích thước tương đương với lưỡi rìu sắt của Tùng Đắc Kim, khác chăng là phần cán cũng rèn từ sắt, sờ vào không bỏng, chỉ cảm thấy âm ấm ở tay. Trong khi phần lưỡi rìu giống hệt cây dùi sắt trong tay Nhậm Hoả Cuồng, toả màu vàng sẫm lấp loáng một vệt đỏ như máu, toả nhiệt phừng phừng.
Một đao thủ nhào tới, định ngăn cản đường bay của lưỡi rìu, song đã muộn. Thế là gã thuận đà đưa lưỡi đao đang vung giữa không trung chém về phía đỉnh đầu Tùng Đắc Kim. Tùng Đắc Kim chỉ còn biết cuống cuồng vung rìu lên đỡ. Đao rìu chạm nhau, kêu lên chát chúa. Đao thủ rớt xuống đất, suýt nữa thì ngã nhào, thanh đao cũng sém bật khỏi tay. Trong khi lưỡi rìu không hề suy suyển, đòn lấy cứng chọi cứng vừa rồi đã bộc lộ rõ rệt ưu thế về sức mạnh của Tùng Đắc Kim.
Lưỡi rìu vẫn chưa chịu dừng lại, mà xoay trên đầu Tùng Đắc Kim một vòng nhỏ, rồi chém về phía đao thủ. Đao thủ vừa khó khăn lắm mới đứng vững được, nên khi lưỡi rìu bổ tới, có muốn thoái lui cũng không kịp nữa. Huống chi địa hình nơi đây dốc tuột, khó mà lùi bước lên trên. Đao thủ chỉ còn biết vung tay trái lên đỡ theo phản xạ, lập tức một cẳng tay rơi phịch xuống nền tuyết trắng. Vết chém chỉ hơi rỉ máu do lưỡi rìu nóng bỏng đã hàn kín vết thương. Máu dính trên lưỡi rìu bốc cháy xèo xèo, khói bốc mù mịt, mùi máu tanh lợm.
Vết cắt để lại trên cánh tay bị đứt đã khiến bọn đao thủ kinh tâm động phách. Bọn chúng đều đã nhận ra, lưỡi rìu kia sắc bén bội phần so với lưỡi đao trong tay chúng. Nếu là một loại binh khí nào khác thì không có gì ngạc nhiên, song đây chỉ là một lưỡi rìu mới được rèn xong, tôi trong tuyết lạnh, chưa từng mài lưỡi.
Khảm diện Công tập vi đã thoái lui, song trong khi lùi vẫn giữ đúng chiêu pháp, không hề rối loạn. Chúng vừa lùi vừa tung chân đá tuyết, khiến tuyết bay mù mịt thành một bức tường trắng xoá che chắn cho thân hình cũng một màu trắng của chúng. Trước khi rút đi, chúng không quên tặng cho tên đồng bọn trúng đạn ở bụng đang nằm thoi thóp trên sườn núi một phi tiêu tròn hình cánh mai.
Tay súng và bầy sói ở mé bên sườn núi không biết đã lặng lẽ rút lui tự lúc nào. Ngoài vài xác sói to lớn nằm ngổn ngang trên tuyết, không hề lưu lại bất cứ một vết tích nào có khả năng hé lộ thân phận. Song quan sát dấu vết tại nơi ẩn phục, có thể khẳng định rằng chỉ có một người. Điều này khiến Lỗ Nhất Khí vừa cảm kích lai vừa khâm phục, người này có thể liền lúc bắn hai phát súng, cho thấy tốc độ đã đạt tới mức xuất thần nhập hoá. Song vẫn còn một điều rất khó lý giải, không hiểu tay súng kia đã lắp đạn như thế nào, bởi lẽ trong toàn bộ quá trình, người đó đã bắn liền mười phát súng rnà không hề có lúc nào ngừng ngắt để nạp đạn. Hẳn là người này sử dụng hai khẩu súng liền một lúc, hoặc là khẩu súng có cấu tạo đặc biệt.
Tay nỏ nằm gục trên tuyết, một bên cánh nỏ gãy rời, dây nỏ bằng sắt siết sâu vào cổ họng.
Nhậm Hoả Cuồng cúi xuống nhặt thanh đao bên cạnh một xác chết lên, đưa cho lão mù. Lão mù hiểu ý, đưa ngón tay vuốt nhẹ lên thân đao, sau đó nói chắc như đinh đóng cột:
- Không phải là đao này! Lưỡi đao này nhọn và hẹp hơn. Lưỡi đao đâm chết bà nhà ông rộng hơn lưỡi đao này hai ngón tay, và ngắn hơn một chút.
- Loại này là đao bạt phong*, nếu rộng hơn hai ngón tay và ngắn hơn một chút, có lẽ chỉ có thể là hai loại đao lang nha và đao kích ca** không có vòng che tay. Đao không đúng, chứng tỏ vẫn còn kẻ bám theo chưa xuất đầu lộ diện! – Kết luận của Nhậm Hoả Cuồng khiến mọi người có phần căng thẳng. Khảm diện của đối phương chỉ vừa mới mở, người trong bóng tối còn chưa thấy mặt, mà cả bọn đã phải chống đỡ giao tranh đến hồn kinh phách tán.
* Hình đao thân rộng mũi nhọn, lưỡi đao hơi uốn cong, có thể chém, đâm với tốc độ cực nhanh. Đặc biệt là khi xuất đao thình lình rất khó phát giác, tựa như luồng gió vụt đến, bởi vậy có tên là đao bạt phong (gió thổi).
** Một loại đao của người Hung Nô, cán đao và thân đao liền thành một khối, tạo hình khá đơn giản sơ sài. Cũng chính vi tạo hình đơn giản, nên khi gõ đập vào nó sẽ phát ra âm thanh trong vang, người Hung Nô thường dùng nó để gõ nhịp ca hát, nên mới có tên là đao kích ca.
Phó Lợi Khai có vẻ tiếc rẻ khi nhặt lấy thanh loan đao đã bị chém đứt thành hai đoạn đang nằm trong tuyết. Gã xem xét kỹ lưỡng đường cắt một lúc, rồi lẩm bẩm một mình:
- Đao bạt phong của lũ đồ tể này quả nhiên lợi hại, đám đai sắt ở Kim gia trại có phải bị thứ này cứa đứt không nhỉ?
Lỗ Nhất Khí nghe vậy, không hề cảm thấy ngạc nhiên. Đúng như cậu đã dự đoán, lỗ hổng trên hàng rào của Kim gia trại là do đối thủ mở ra. Mở sẵn một lối ra thênh thang như thế, còn mục đích nào khác là dụ bọn họ đi đúng theo lộ trình mà bọn chúng đang mong đợi.
Nhậm Hoả Cuồng lần mò trong tuyết, nhặt lên vài món đồ ông vừa rèn thành khi nãy, đưa cho Phó Lợi Khai một thanh loan đao với phần lưỡi ở bên trong, rồi đưa cho Quỷ Nhãn Tam một cây xẻng lưỡi cày. Cũng giống như lưỡi rìu trong tay Tùng Đắc Kim, chúng hoàn toàn được rèn từ sắt, loé lên sắc vàng trầm bóng bẩy, Xen kẽ vài tia đỏ tươi như máu.
- Tôi vừa rèn theo những món đồ lề trong tay mọi người. Thiết nghĩ con cháu họ Nghê làm sao có thể thiếu được lưỡi xẻng, nên tiện tay đánh luôn một cái. Tôi đã cho thiên thạch pha trộn vào trong chất liệu, nên sau khi chế thành, không thể mài phần lưỡi được. Bởi vậy tôi đã khống chế độ lửa ở mức ba lớp xanh, trực tiếp rèn ra phần lưỡi đao, sau đó lợi dụng tuyết lạnh để tôi, như vậy thành phẩm không những cứng rắn sắc bén tuyệt luân, mà còn bền vững rất mực. Đám quang gánh kia tôi chẳng muốn quẩy theo nữa, nên thứ này cho cậu, không chừng về sau hữu dụng cũng nên! – Nhậm Hoả Cuồng nói xong, nét mặt bình thản, trao lại miếng thiên thạch Kim Cang cho Lỗ Nhất Khí, khiến cậu không khỏi ngại ngần. Bảo bối vừa đặt trong tay, Lỗ Nhất Khí lập tức cảm nhận thấy làn khí tướng trầm vàng lóng lánh bừng bừng lan toả, xoay tròn như một hình xoáy ốc rực rỡ giữa lòng bàn tay.
Lỗ Nhất Khí cũng không khách sáo chối từ, cẩn thận cho viên thiên thạch vào trong túi da hươu mà Nhậm Hoả Cuồng đưa cho, cất vào trong ngực áo, rồi nói:
- Cảm ơn chú, chú Nhậm! Tôi sẽ giữ tạm, lúc nào chú cần dùng, tôi sẽ trả lại cho chú!
Nhậm Hoả Cuồng chỉ cười, khẽ lắc đầu một cải, rồi quay đi thu dọn đồ đạc. Ông ta không quẩy gánh rèn theo nữa, nên chỉ nhặt nhạnh búa rèn, kìm lửa và cây đao bạt phong mà đối thủ để lại, cho tất vào sọt, rồi xiên dùi sắt qua miệng sọt, gác lên vai, đi thẳng xuống sườn núi.
Cuộc giằng co kéo dài vừa qua đã khiến mọi người thân tâm rệu rã, song không ai đề nghị nghỉ ngơi, bởi lẽ họ đều ý thức được mức độ nguy hiểm của chốn này.
Đi tới bên rìa rừng sam đỏ, ba đống lửa gần như đã lụi tàn. Đáng lẽ còn có một tay nỏ bị bắn trọng thương tai chỗ, song cao thủ đạt đến tầm cỡ này, chỉ cần chưa chết chắc chắn sẽ không chịu ở nguyên một chỗ chờ người tới bắt.
- Bọn người này có thể vây bọc chúng ta từ hai phía, chứng tỏ đối phương đã vượt lên trước chúng ta! – Thuỷ Băng Hoa lên tiếng. Điều này thì tất cả mọi người đều đã nghĩ tới.
- Nếu lần ra được vết tích của thằng khốn kia rồi bám theo sau, sẽ dễ dàng đến được đúng nơi, tiết kiệm bao nhiêu sức lực! – Phó Lợi Khai vừa nói vừa láo liên đôi mắt bên to bên bé quan sát xung quanh.
Quỷ Nhãn Tam cầm lấy chiếc xẻng lưỡi cày, ngồi thụp xuống thận trọng gạt nhẹ lớp tuyết từng chút một, mong tìm được dấu vết nào đó dưới lớp tuyết dày.
Nhậm Hoả Cuồng quét mắt sục sạo về phía cánh rừng xa hơn, rồi nói chắc như đinh đóng cột:
- Đi theo tôi! Thằng khốn kia chắc chắn đã chạy theo lối đó!
Lần này Tùng Đắc Kim xách rìu đi ngay phía sau Nhậm Hoả Cuồng. Giờ đây đối thủ đã xuất đầu lộ diện, nên không cần thiết phải kéo chạc cây xoá dấu chân trên tuyết nữa.
Quỷ Nhãn Tam tụt lại sau cùng, đi trước hắn là Lỗ Nhất Khí và lão mù. Hai người vừa đi vừa thậm thà thậm thụt.
- Chú Hạ! Ông Nhậm kia quả thực không phải tầm thường! – Lỗ Nhất Khí nói.
- Đương nhiên rồi! Còn nhớ năm xưa hắn một đêm đánh ba sợi xích trăm mắt bằng thép cứng, phong trấn quái thú bốn vây tại cảng Cổ Mã; nung chảy nước đồng đỏ bí mật của Đạo gia, phá vỡ khoá Lung linh phong hồn; chế tác chuỳ lá vàng móc ngược, mở lọng kinh trụ thẳng khung xương… Nhờ vào một tay kỹ nghệ, giành được biệt danh “Thiết thủ kỳ công” trong chốn giang hồ!
- Giọng nói của lão mù tràn đầy niềm khâm phục.
“Trông ông ta chẳng khác gì một thợ rèn bình thường, thật không ngờ bản lĩnh lại cao siêu đến vậy!” – Lỗ Nhât Khí thầm nghĩ trong lòng.
- Hắn vốn là người Quan Nội, giang hồ đồn đại lúc hắn mới sinh ra là một quái thai, lòng bàn tay lòng bàn chân phủ lớp sừng dày, từ nhỏ đã có thể chọc tay vào lửa, giẫm chân lên than. Chính vì điểm đó nên sau này đã được một cao nhân nhận làm đồ đệ, dạy cho nghề rèn mà trở thành một thợ sắt kỳ tài. Nhưng về sau không hiểu tại sao lại đột nhiên chạy tới Quan Đông, mai danh ẩn tích chốn núi rừng, danh tiếng lẫy lừng trong giang hồ cũng dần dần mai một.
- Ồ! Lòng bàn tay và bàn chân ông ta có lớp sừng dày ư? Sao tôi không nhìn thấy nhỉ? – Lỗ Nhất Khí rất đỗi ngạc nhiên.
- Không còn nữa rồi! Nghe nói theo nghề rèn lâu năm nên lớp sừng đã bị mài mòn, song tay chân hắn chịu nóng rất tài, không rõ là do rèn luyện hay là bẩm sinh đã thế.
- Sắt nóng đỏ còn không sợ, vậy tay ông ta khác gì tay thần! – Lỗ Nhất Khí càng nghe càng cảm thấy tò mò.
- Không đến mức thế đâu! Lời đồn đại trong giang hồ thường thổi phồng thái quá. Hắn là bạn của cha cậu, có lần ta đã nhờ người nhà cậu xin hắn rèn giúp một món binh khí cổ quái, bác cậu đã kể thực cho ta hay. Hắn giỏi chịu nóng là có thật, nhưng cũng chỉ có giới hạn, song sức chịu nóng của hắn cao hơn gấp nhiều lần so với người bình thường. Kỹ nghệ rèn của hắn quả thực cao siêu đến dị thường, cùng một khối nguyên liệu nhưng mỗi bộ phận lại có thể tôi rèn ở những nhiệt độ khác nhau, nhiệt độ tại vị trí mà hắn nắm vào sẽ được khống chế trong phạm vi mà hắn có thể chịu đựng.
- Chú Hạ! Trước kia chú đã từng gặp mặt ông ta chưa? – Lỗ Nhất Khí đột nhiên đưa ra câu hỏi.
- Biết nói thế nào nhỉ, khi gặp hắn thì ta đã mù rồi. Hơn nữa lúc đó khi ta nói ra yêu cầu chế tác, hắn chỉ nghe mà không nói một lời, cầm nguyên liệu rồi đi ngay. Bởi vậy có gặp cũng như chưa gặp.
- Vậy thì chí ít ông ta cũng biết mặt chú! Mà chú Hạ, sau khi gặp lại, ông ta có chào hỏi chú tiếng nào không?
- Không! Có lẽ số người nhờ hắn rèn đồ quá nhiều, hắn đã quên ta rồi. Mà kể cũng lạ, thứ ta nhờ hắn rèn cho có lẽ trên đời này chỉ có một không hai, đáng lẽ hắn phải nhớ mới phải chứ! – Lão mù cũng cảm thấy có chút ngạc nhiên, song lời nói của lão càng khiến Lỗ Nhất Khí kinh ngạc hơn nữa. Tạm chưa nói đến thứ lão mù nhờ rèn quái dị đến dâu, chỉ riêng diện mạo bất thường và biệt danh Tây Bắc tặc vương của lão, dù thời gian đã qua vài chục năm hẳn vẫn phải nhận ra mới đúng, ở đây chắc hẳn có gì đó bất thường.
- Cậu cả, cậu đang nghi ngờ thân phận của hắn đúng không? Nhưng ngay cả thiên thạch hắn cũng mang tặng cậu rồi! – Nhìn vào nét mặt của lão mù, có thể thấy lão không muốn tin vào điều này.
Quỷ Nhãn Tam đang theo sát phía sau bỗng chen vào một câu:
- Đáng ngờ! Đến thiên thạch cũng cho, kỳ công Quan Ngoại mà không xem trọng món này? Hoang đường! Nghĩ xem, làm như vậy có ích gì? Xoá bỏ nghi ngờ của người khác!
Lời nói của Quỷ Nhãn Tam khiến Lỗ Nhất Khí và lão mù cũng cảm thấy có lý.
Một canh giờ nữa lại trôi qua, bầu trời bắt đầu lờ mờ sắc trắng, mảnh trăng lưỡi liềm nhoà nhạt chênh chếch phía trời tây.
Phó Lợi Khai từ đầu chí cuối luôn bám sát phía sau Thuỷ Băng Hoa. Lúc này tư thế bước đi của gã cũng thiếu tự nhiên hệt như vẻ mặt gã, người cúi gập về phía trước, mặt ghé sát vào chỗ eo thắt mông nhô của Thuỷ Băng Hoa, thi thoảng lại đưa tay vịn vào hông eo cô ta. Trông thì có vẻ rất quan tâm đến Thuỷ Băng Hoa, sợ cô ta trượt ngã, song những người đi sau đều biết gã ta đang lợi dụng để sờ soạng. Thuỷ Băng Hoa dường như đã quá quen với việc bị đàn ông cố tình đụng chạm, nên cũng chẳng có phản ứng gì.
Song có người lại cảm thấy Phó Lợi Khai có ý đồ khác, bởi lẽ những hành động đó có thể kéo gần khoảng cách giữa khuôn mặt gã và bộ mông của Thuỷ Băng Hoa. Trên mông của Thuỷ Băng Hoa có một mảnh da, một mảnh da mà Quỷ Nhãn Tam đã để ý từ trước đó. Bởi vậy, đương nhiên Quỷ Nhãn Tam cũng nghĩ rằng gã lái gỗ kia hẳn đang tò mò với mảnh da trên mông cô ta.
- Đường mòn Sam Đỏ!
Nhậm Hoả Cuồng đột ngột bật kêu lên. Đúng vậy, sau vượt qua một ngọn núi nhỏ, con đường mòn phủ dày tuyết trắng len lỏi qua rừng sâu đã hiện ra trước mặt họ. Con đường rất hẹp, chỉ đủ cho một người một ngựa băng qua. Đây là con đường tắt do những đoàn ngựa buôn chở hàng lên phía bắc buôn bán với bọn Nga La Tư giẫm đạp lâu ngày mà thành.
- Thằng khốn què mẻ kia đã chạy theo lối này, xem ra đối thủ quả thực đã đi trước ta một bước! – Giọng nói của Nhậm Hoả Cuồng đầy vẻ lo lắng.
- Ông thợ rèn, sao ông biết? – Tùng Đắc Kim đúng là một gã ngờ nghệch, chẳng biết thế nào là kỵ huý giang hồ, mở miệng hỏi thẳng.
Nhậm Hoả Cuồng không trả lời, làm như không hề nghe thấy câu hỏi của gã, chỉ lẳng lặng đi về phía đường mòn. Thái độ của ông ta càng dễ gợi lên trong lòng người khác một mối hoài nghi.
Đường mòn Sam Đỏ không phải là một con đường thẳng, mà quanh co lên xuống men theo các rừng cây sườn núi. Sau khi vòng qua một khúc ngoặt gấp, tầm mắt bỗng nhiên mở rộng thênh thang, bởi lẽ phía trước mặt họ là một vùng thấp bằng phẳng, phóng mắt nhìn ra, thấy núi non trùng điệp chạy dài, rừng cây bạt ngàn ngút mắt.
Quang cảnh trước mắt khiến Lỗ Nhất Khí đột nhiên khựng lại, ánh mắt chợt trở nên mông lung lơ đãng, dõi theo con đường quanh co uốn lượn kéo dài đến tận phương nào, trong miệng lẩm bẩm điều gì không rõ.
Phó Lợi Khai nhìn thấy ánh mắt kinh ngạc của Thuỷ Băng Hoa phía trước, mới quay đầu lại nhìn bộ dạng của Lỗ Nhất Khí. Gã bèn lùi lại hai bước, ghé sát vào Lỗ Nhất Khí, không nói câu nào, chỉ chăm chú nghe xem Lỗ Nhất Khí đang lẩm bẩm điều gì.
- Mả mẹ! Mả mẹ!
Phó Lợi Khai ngạc nhiên, không ngờ từ miệng Lỗ Nhất Khí có thể thốt ra những lời bất nhã đến vậy.
Đột nhiên, Lỗ Nhất Khí nhãn thần ngưng tụ, nhãn quang rạng ngời chiếu bừng tứ phía, khiến Phó Lợi Khai giật bắn cả người.
- Ở đây! Tôi cảm giác đã gần đến đích rồi! – Không chỉ ánh mắt mà giọng nói của cậu cũng hưng phấn khác thường. Cảm giác mách bảo cậu rằng, vùng “đất mẹ” ghi trên thẻ ngọc đang ẩn sau những đỉnh núi nhấp nhô cách đó không xa.
Suy đoán rất chính xác, quyết định cũng sáng suốt. Theo lời Thuỷ Băng Hoa, tay thợ sâm có tấm bản đồ trước khi chết luôn miệng lảm nhảm “Mả mẹ! Mả mẹ!”. Nghe cô ta kể lại, Lỗ Nhất Khí đã cảm thấy có chút bất thường. Có câu “con người sắp chết, lời nói thiện lành”, nên gã thợ sâm lúc gần tắt thở không thể lại lôi mẹ ra chửi, mà hẳn đang nhớ đến thứ đã khiến gã lưu luyến khó quên không nỡ từ bỏ nhất. “Mả mẹ” liệu có phải là “đất mẹ” không? Mà đất mẹ chẳng phải chính là “đất mẫu tính” hay sao?
- Tiếp tục đi về phía trước hẳn sẽ gặp một địa danh liên quan tới mẹ! – Lỗ Nhất Khí quay sang Nhậm Hoả Cuồng mà nói. Ông ta là người dẫn đường, đương nhiên sẽ phải thông thạo nơi này.
Vẻ mặt Nhậm Hoả Cuồng lộ rõ sự ngỡ ngàng. Quỷ Nhãn Tam đã nhận ra, ông ta dẫn dường không phải vì thông thạo vùng này, mà dường như đang lần theo một dấu hiệu nào đó, dường như phía trước có người chỉ đường dẫn lối cho ông ta.
- Ở đây có một truyền thuyết kể rằng, có một thiếu nữ xinh đẹp sau khi xuống sông tắm, về nhà bỗng mang thai, tròn mười tháng sau sinh ra một con rồng đen. Cô gái khó sinh, sau khi sinh hạ rồng con thì qua đời, hoá thành một dãy núi trùng điệp. Rồng đen không có mẹ dạy dỗ, nên tác oai tác quái thổi gió phun mưa. Cho tới một ngày kia, người mẹ hoá thành núi bỗng hồi sinh, cảm hoá được con rồng, khiến nó ẩn mình dưới dòng sông cả nghìn năm. Theo như tôi biết, dãy núi mà người mẹ hoá thành trong truyền thuyết ở cách đây không xa, nhưng cụ thể là nơi nào thì tôi không rõ! – Thuỷ Băng Hoa khi ở Kim gia trại đã nghe được rất nhiều truyền thuyết và sự tích, nên những hiểu biết của cô ta về vùng núi Đại Hưng An rất phong phú song cũng có phần quái đản. Lỗ Nhất Khí vừa khơi ra một câu, cô ta đã thao thao bất tuyệt hàng tràng.
Một nụ cười nhăn nhở khiến khuôn mặt vẹo vọ của Phó Lợi Khai càng thêm phần khả ố, bên mép còn nhễu cả bọt trắng:
- Gần đây có một dãy núi gọi là núi Hai Gối, kỳ thực gồm hai ngọn núi là núi Gối Trái và núi Gối Phải. Từ núi Hai Gối đi tiếp về phía trước, sẽ đến núi Hai Vú, một dãy hai đỉnh, giống hệt như ngực đàn bà. Từ xa nhìn lại, mấy dãy núi trông chẳng khác gì một người đàn bà loã thể nằm ngửa gập gối dạng chân, vừa giống như đang sinh con, vừa giống như đang chờ đợi…  Nói chưa dứt câu, gã lái gỗ đã bật cười khùng khục.
Không những có “mẫu tính”, mà còn có “hắc long”, Lỗ Nhất Khí vô cùng phấn chấn, đưa ánh mắt khẩn thiết nhìn Thuỷ Băng Hoa. Đúng vậy, giờ đây họ cần đi theo con đường mà Thuỷ Băng Hoa biết, nên đã đến lúc cô ta phải chỉ đường cho họ.