Dịch giả - B.G. Nguyễn Nhật Tâm
Tháng 9 năm 1945

Hôm nàng đến, nhiệt độ lên đến ba mươi hai độ. New York bốc hơi, giống như một con thú bằng bê tông đang giận dữ vì bất ngờ bị chụp trong một cơn nóng trái mùa. Nhưng nàng không bận tâm đến cái nóng và khu hội chợ đầy rác rưởi có tên gọi là Time Square. Nàng vẫn cho rằng New York là thành phố lý thú nhất thế giới.
Cô gái ở sở tìm kiếm việc làm mỉm cười nói:
- À, cô thì chắc sẽ tìm được việc làm thôi, cho dù cô không có kinh nghiệm. Tất cả các thư ký giỏi đều có khả năng vớ được việc làm bảo đảm và có lương cao. Nhưng thành thực mà nói, cô em à, nêu tôi mà có được sắc đẹp như cô, thì tôi sẽ đến gặp thẳng John Powers hoặc Conover.
- Họ là ai vậy? – Anne hỏi.
- Họ quản lý các cơ sở tạo mốt hàng đầu trong thành phố. Đó là những nơi tôi mơ ước được làm việc, nhưng tôi quá thấp và gầy.
- Em thích làm công việc văn phòng hơn.
- Tùy ý cô, nhưng tôi nghĩ cô điên đấy (Cô ta đưa cho Anne một xấp giấy). Đây, trong này có mọi chỉ dẫn rõ ràng, nhưng cô nên đến gặp Henry Bellamy trước. Đó là một luật sư lớn chuyên họat động trong lãnh vực kịch nghệ. Cô thư ký của ông ta vừa kết hôn với John Walsh (khi Anne định phản ứng, cô ta nói tiếp ) Bây giờ thì cô khỏi phải bảo chưa hề bao giờ nghe tới John Walsh. Anh ta vừa đọat ba giải Oscar và tôi vừa đọc trên báo là anh ta vừa mới thuyết phục Garbo rời bỏ nơi ẩn dật để trở về với điện ảnh.
Nụ cười của Anne khiến cô gái tin chắc rằng nàng sẽ không bao giờ quên cái tên John Walsh.
- Bây giờ cô phải có khái niệm về cơ cấu và hạng người mà cô sẽ gặp – cô gái nói tiếp – Bellamy và Bellows là một văn phòng lớn. Họ điều khiển mọi lọai khách hàng quan trọng. Và Myrna, cô gái vừa mới kết hôn với John Walsh, không thể bằng cô về mặt nhan sắc. Cô sẽ vồ được một mạng ngay lập tức.
- một mạng gì?
- Một chàng trai.. có thể còn là một tấm chồng (Cô gái nhìn lại tờ đơn của Anne) – Này, cô bảo cô từ đâu đến? Có thuộc nước Mỹ hay không?
Anne mỉm cười.
- Lawrenceville. Đó là nơi bắt đầu của vùng Cape, cách Boston khỏang 1 giờ đi xe lửa. Và nếu chỉ cần một tấm chồng thì em đã có ngay tại đó. Ở Lawrenceville mọi người đều thành hôn khi vừa rời khỏi ghế nhà trường. Em muốn trước hết hãy làm việc một thời gian.
- Và cô đã rời bỏ một nơi như thể à? Ở đây mọi người đều đi tìm chồng. Kể cả tôi. Có lẽ cô sẽ phái tôi đến Lawrenceville với một thư giới thiệu.
- Chị muốn nói chị sẽ kết hôn với bất cứ người nào sao? – Anne lấy làm lạ.
- Không phải với bất cứ người nào. Chỉ với bất cứ người nào cho tôi áo choàng lông hải ly thật đẹp và ngày ngày để tôi ngủ đến mười hai giờ trưa. Anh chàng mà tôi đang quen biết chẳng những trông mong tôi vẫn đi làm như thường mà đồng thời tôi còn phải có vẻ giống Carole Landis với chiếc áo xuềnh xòang mặc ở nhà trong lúc tôi nấu nhanh một vài món ăn thật ngon (khi Anne bật cười, cô gái lại nói) Thôi được, rồi cô sẽ thấy. Hãy đợi cho đến khi cô dính với một trong những chàng Romeo của thành phố này. Tôi đánh cuộc là cô sẽ phóng lên chuyến tàu nhanh nhất trở về Lawrenceville. Và trên đường tẩu thóat, cô đừng quên ghé lại đây dẫn tôi đi theo.
Nàng sẽ không bao giờ trở lại Lawrenceville. Không phải nàng chỉ rời Lawrenceville, mà đúng hơn, nàng đã chạy trốn. Chạy trốn khỏi cuộc hôn nhân với một gã trai Lawrenceville buồn tẻ, chạy trốn khỏi đời sống Lawrenceville bằng phẳng ngăn nắp mà mẹ nàng đã từng sống. Và cả bà của nàng nữa, trong cùng một lọai gia đình ngăn nắp. Ngôi nhà mà một gia đình New England đứng đắn đã sống từ thế hệ này sang thế hệ khác và những người trong ngôi nhà đó dường như đều ngột ngạt với những cảm xúc ngăn nắp, xa lạ, thuộc lọai cảm xúc bưng bít sau bộ giáp sắt được mệnh danh là “tập quán”.
Bằng cách này hay cách khác, Lawrenceville đã đuổi nàng tới Radcliffe. Ôi, ở đó có nhiều cô gái cười to, tha hô` ngồi lê đôi mách, tận hưởng mọi thứ “cao sang” cũng như “thấp hèn” của cuộc sống. Nhưng họ không bao giờ mời nàng vào thế giới của họ. Cứ như nàng mang một dấu hiệu lớn ghi rõ: “Tránh xa. Kiểu England. Lạnh lùng, dè dặt”. Càng ngày nàng càng ẩn mình vào những cuốn sách, và thậm chí ở đó nàng cũng vẫn tìm thấy một mô hình lập đi, lập lại: dường như thực sự mỗi nhà văn mà nàng gặp phải đều lẩn trốn thành phố nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Hemingway lần lượt đi Châu Âu, Cuba và Bimini. Fitzgerald tài năng nhưng nghèo túng và hoang mang cũng đã sống ở nước ngoài. Và ngay cả Sinclair Lewis có mái tóc đỏ gợn sóng cũng đã phát hiện ra câu chuyện tình lãng mạn và sôi nổi ở Châu Âu.
Nàng đã có quyết định trốn khỏi Lawrenceville vào năm thi tốt nghiệp đại học và đã thông báo cho mẹ nàng với dì Amy trong kỳ nghỉ lễ Phục sinh.
- Mẹ, dì Amy, học xong đại học con sẽ đi New York.
- Nghỉ ngơi ở đó thì chán ngấy lên được.
- Con định sống ở đó.
- Con đã bàn bạc với Willie Henderson chưa?
- Chưa. Nhưng tại sao con lại phải bàn bạc ạ?
- Kìa, các con đã chơi thân với nhau từ khi cả hai mới mười sáu tuổi. Mọi người đương nhiên thừa nhận…
- Đúng thế đấy. Ở cái xứ Lawrenceville này mọi chuyện đều đương nhiên được thừa nhận.
- Anne, con đang cao giọng đấy - mẹ nàng trầm tĩnh nói – Willie Henderson là một chàng trai tốt. Mẹ đã cùng học với bố mẹ cậu ta.
- Nhưng con không yêu anh ấy mẹ à.
- Đàn ông không cần phải được yêu – Dì Amy chợt lên tiếng.
- Thế nhưng hồi trước mẹ có yêu ba không?
Đó không phải là một câu hỏi, mà gần như là một lời buộc tội.
- Lẽ tất nhiên là mẹ đã yêu ba - mẹ nàng trả lời bằng một giọng cáu kỉnh – nhưng điều mà dì Amy muốn nói là..thế đấy…đàn ông thì khác hẳn. Họ không suy nghĩ và phản ứng như đàn bà. Bây giờ ta lấy ba con làm ví dụ. Ông ấy hay bốc đồng và rất thích uống rượu. Nếu cưới phải bất cứ bà vợ nào ngòai mẹ, có lẽ ông ấy đã kết thúc cuộc đời một cách tồi tệ.
- Con chưa hề thấy ba uống rượu – Anne biện hộ.
- Lẽ tất nhiên là không, vì có lệnh cấm dùng rượu mạnh, mẹ không bao giờ cất giữ một giọt trong nhà. Mẹ đã ngăn chặn không để cho ba quen thói, trước khi bị sa đà. Ồ, thời gian đầu, ông ấy đã có nhiều thói phóng túng…Chắc con đã biết bà nội của cha con là người Pháp.
- Người La tinh vẫn luôn luôn hơi điên khùng – dì Amy tán thành.
- Ba không có gì là điên khùng hết!
Đột nhiên Anne muốn biết nhiều hơn về cha nàng. Tưởng như cách đây đã lâu lắm rồi, cái hôm ông lảo đảo về phía trước, ngay tại đây, trong nhà bếp. Hồi đó nàng mới mười hai tuổi. Ông không hề nói một tiếng, chỉ lặng lẽ ngã quỵ xuống và lặng lẽ tắt thở trước khi bác sĩ kịp đến.
- Con nói đúng, Anne. Ba con không có gì là điên khùng hết. Đó là một người đàn ông tốt. Dì Amy, dì chớ quên mẹ ông ấy là một người thuộc dòng họ Bannisten. Bà Ellie Bannisten đã học hết các lớp cùng với mẹ của chúng ta suốt thời trung học.
- Nhưng mẹ ơi, hồi trước mẹ có thật sự yêu ba không? Con muốn nói khi một người đàn ông mà mình yêu ôm mình trong vòng tay và hôn mình, nhất định phải kỳ diệu lắm, đúng không mẹ? Đối với ba, có bao giờ mẹ cảm thấy kỳ diệu như vậy hay không?
- Anne, sao con dám hỏi mẹ một điều như thể? – Dì Amy bảo.
- Bất hạnh thay, hôn không phải là tất cả những gì người đàn ông mong đợi sau cuộc hôn nhân - mẹ nàng bướng bỉnh cãi rồi thận trọng hỏi lại – con đã hôn Willie Henderson rồi chứ?
Anne nhăn mặt.
- Dạ…một vài lần.
- Con có thích thú không? - mẹ nàng hỏi tiếp.
- Con ghét chuyện đó. Đôi môi anh ta ẩm ướt, gần như lầy nhầy, và hơi thở thì lại có mùi chua.
- Con đã từng hôn một người con trai nào khác chưa?
Anne nhún vai.
- Ồ, một vài lần trước khi con và Willie bắt đầu hẹn hò, trong các buổi liên hoan chúng con chơi trò Câu chai. Con đóan chừng con đã chạy quanh để hôn hầu hết bọn con trai trong thành phố, và khi con nhớ lại, cái hôn nào cũng ghê tởm như nhau (nàng mỉm cười ) Mẹ ơi, con không nghĩ trong khắp Lawrenceville có được một người biết hôn cho tao nhã.
Tâm trạng vui vẻ của mẹ nàng chợt trở lại.
- Anne, con đúng là một người phụ nữ đứng đắn. Chính vì vậy cho nên con không thích hôn. Không một người phụ nữ đứng đắn nào lại thích như thể.
- Ôi thưa mẹ, con không biết con thích gì và con là cái gì. Chính vì vậy mà con muốn đi New York.
Mẹ nàng nhún vai.
- Anne, con có năm nghìn dollars. Ba con đã đặc biệt để lại món tiền đó cho con tùy ý sử dụng. Khi mẹ chết rồi, con lại còn có nhiều tiền hơn nữa. Mình không giàu, không được như gia đình Henderson, nhưng mình phong lưu và gia đình mình cũng có hạng ở Lawrenceville. Mẹ muốn con có cảm nghĩ con sẽ trở về nhà và sinh sống trong ngôi nhà này. Bà ngọai con đã ra đời tại đây. Lẽ tất nhiên Willie Henderson có thể muốn xây thêm một cái chái bên cạnh nữa, đất vẫn còn thừa rất nhiều, nhưng chí ít đó cũng là ngôi nhà của mình.
- Con không yêu Willie Henderson, mẹ à!
- Không có thứ tình yêu nào theo cái cách như con nói đến. Con chỉ tìm thấy nó trong phim ảnh và những cuốn tiểu thuyết trữ tình rẻ tiền. Tình yêu là nghĩa bè bạn, có chung bằng hữu và có chung sở thích. Tình dục mang ý nghĩa được người ta đặt lên trên tình yêu, và để mẹ nói cho con biết, nếu chỉ có nó, nó sẽ chết rất nhanh sau hôn nhân, hoặc ngay sau khi người con gái biết tất cả những cái đó là cái gì. Nhưng con cứ đến với New York của con đi. Mẹ sẽ không ngăn cản con đâu. Mẹ tin chắc Willie Henderson sẽ chờ đợi. Nhưng con hãy ghi nhớ lời mẹ. Anne, sau một vài tuần lễ con sẽ chạy về nhà, và sẽ sung sướng vì từ bỏ cái thành phố bẩn thỉu đó.
Hôm nàng đến, cái thành phố đó không những đã bẩn thỉu, lại còn nóng nực và đông đúc. nhiều thủy thủ và quân nhân ngất ngưởng đi dọc theo đại lộ Broadway với những ánh mặt háo hức hiện rõ tâm trạng của kẻ đang được nghỉ phép không có gì phải lo lắng và niềm phấn khởi vì chiến tranh đã kết thúc. Dù hòa mình vào trong khung cảnh bẩn thỉu và xa lạ, Anne vẫn cảm thấy phấn chấn với một ý thức là mình đang sống. Các lề đường đầy rác rưởi và nứt nẻ của New York càng khiến cho cây cối cùng bầu trời trong lành của New England có vẻ lạnh lùng thiếu sinh khí hơn. Người đàn ông không cạo râu dẹp tấm biển “Phòng cho thuê” ra khỏi cửa sổ, sau khi nhận tiền mướn trong một tuần, trông giống như ông Kingston, người đưa thư ở nhà, nhưng nụ cười của ông ta trông ấm áp hơn.
- Căn phòng kể ra cũng không được tươm tất - ông ta thừa nhận – nhưng trần cao và thóang gió, với lại lúc nào tôi cũng loanh quanh ở đây để phục vụ những điều cô cần đến.
Nàng cảm thấy ông ta mến nàng và nàng cũng mến ông ta. Ở New York, thiên hạ thỏa thuận đánh giá nhau không qua bộ mặt, tựa hồ mọi người đều mới sinh ra, không cần biết tới hoặc không cần giấu diếm quá khứ.
Và giờ đây khi đứng trước những khung cửa kính uy nghi khắc mấy chữ Bellamy và Bellows, Anne hy vọng nàng sẽ tìm thấy một sự thỏa thuận tương tự như thế đối với Henry Bellamy.
Henry Bellamy không còn tin vào mắt mình được nữa. Nàng không thể có thực. Có lẽ nàng là một trong những cô gái xinh đẹp nhất mà ông ta đã từng thấy, mà ông ta vốn gặp nhiều cô xinh đẹp. Và thay vì chải kiểu tóc “pompadour” ác liệt cuộn lại phía trên đỉnh đầu và đi đôi giầy cao gót theo mốt đang thịnh hành, cô gái này để tóc xoã xuống vai một cách tự nhiên, và chính cái màu tóc hoe nhạt đó có vẻ là màu thật. Nhưng chính đôi mắt nàng mới thật sự làm ông xao xuyến. Một đôi mắt xanh thật sự, xanh da trời, nhưng lạnh lung.
- Tại sao cô muốn làm công việc này, cô Welles?
Vì một lý do nào đó ông chợt cảm thấy bồn chồn. Ông vốn sinh ra có tính hiếu kỳ.
Nàng mặc y phục bằng vải lanh trơn sẫm màu và không hề có một món nữ trang nào ngoài trừ chiếc đồng hồ đeo tay nhỏ trang nhã, nhưng con người nàng có một vẻ gì đó khiến ta chắc chắn nàng không cần việc làm.
- Tôi muốn sống ở New York, thưa ông Bellamy.
Chỉ có thế. Môt câu trả lời thẳng thắn. Nhưng sao nó lại khiến cho ông thấy mình như đang rình mò? Ông có quyền đặt câu hỏi.Và nếu như ông thực hiện điều đó quá dễ dàng, nàng sẽ phải nhận việc. Không phải là nàng đang ngồi đó hay sao? Nàng đâu có ghé vào đây chỉ để uống trà? Thế thì tại sao ông lại có cảm tưởng tựa hồ ông là người đến xin việc đang cố gắng tạo ra một ấn tượng thuận lợi với nàng?
Ông liếc mắt vào mẩu giấy mà sở tìm kiếm việc làm đã gởi kèm theo.
- Hai mươi tuổi. Cử nhân Anh ngữ à? Ở Radcliffe. Nhưng chưa làm công việc văn phòng. Bây giờ cô hãy nói cho tôi nghe, quá trình học hành kỳ quái này thì có thể làm được cái gì ở đây? Nó có thể giúp tôi điều khiển con mụ nanh ác như Helen Lawson hoặc bắt một kẻ lười biếng say sưa như Bob Wolfe đến đúng giờ để thu âm một kịch bản truyền thanh hàng tuần được không? Hoặc thuyết phục một ca sĩ pêđê nào đó rời khỏi văn phòng của Johnson Harris và để cho tôi điều khiển công việc của ông ta?
- Tôi phải làm được tất cả những việc đó à? – Nàng hỏi.
- Không. Đấy là việc của tôi. Nhưng cô phải giúp đỡ tôi.
- Nhưng…tôi nghĩ ông là một luật sư…
Trông thấy nàng lấy lại đôi găng tay, ông nở một nụ cười dễ chịu.
- Tôi là một luật sư hoạt động trong lãnh vực kịch nghệ. Công việc có phần khác. Tôi thảo các hợp đồng cho khách hàng. Những hợp đồng không có một kẽ hở nào, ngoại trừ để che chở cho họ. Tôi cũng quản lý các khoản thuế của họ, giúp họ đầu tư tiền bạc, kéo họ ra khỏi mọi sự rắc rối, làm trọng tài trong những vấn đề hôn nhân, cách ly các bà vợ và các tình nhân của họ, hành động như cha đỡ đầu hoặc vú em đối với con cái của họ, nhất là khi họ bận một công việc kinh doanh mới.
- Nhưng tôi nghĩ là các diễn viên và nhà văn đều có ông bầu và các người đại lý.
- Phải – ông nói và để ý thấy đôi găng tay được đặt lại trên vạt váy của nàng – nhưng các vị “jumbo” (người thành đạt một cách đặc biệt), hạng người mà tôi quản lý, cũng cần tôi giúp ý kiến cho họ. Chẳng hạn, một người đại lý thường thúc họ trả tiền cho thật cao. Anh ta chỉ thích lãnh mười phần trăm. Nhưng tôi thì lại tính toán việc nào có lợi cho họ nhiều nhất. Tóm lại, một luật sư kịch nghệ phải là một sự phối hợp của người đại lý, bà mẹ và Thượng Đế. Và cô, nếu sẽ làm công việc này, cô phải là thánh bảo hộ của họ.
Anne mỉm cười.
- Tại sao các vị luật sư kịch nghệ không thay thế những người đại lý?
- Có lẽ họ sẽ làm thế nếu có đủ đám Schmuck chuyên nghiệp như tôi. (Ông chợt thấy mình đi quá đà). Xin cô thứ lỗi cho cách ăn nói của tôi. Mỗi lần bị lôi cuốn bởi câu chuyện, tôi lại không nhận thức kịp những lời mình đã thốt ra.
- Cái từ Schmuck đó nghĩa là gì thế? – Nàng hiếu kỳ hỏi lại, phát âm một cách khó khăn khiến ông bật cười.
- Một từ của người Do Thái mà nếu dịch sát nghĩa sẽ khiến cô phải đỏ mặt. Nhưng nó đã thành một tiếng lóng, để chỉ việc lấy tin riêng…Ồ, cô đừng để cho kiểu nói sáo kỳ quái của dòng họ Bellamy làm trò hề cho cô, hoặc ngay cả bộ mặt quái đản theo nhà thờ Tân giáo của tôi. Tôi ra đời tại Birnbaum. Khi tôi còn trẻ, mỗi mùa hè tôi lại làm việc với tư cách là người điều khiển các cuộc vui trong những chuyến đi chơi trên biển. Tôi đã gặp nhiều nhân vật quan trọng trong những chuyến đi đó. Một ca sĩ bảo trợ cho tổ chức du lịch này trở thành khách hàng đầu tiên của tôi. Nhiều người biết đến tôi là Bellamy và tôi bám vào dịp may đó. Nhưng tôi không bao giờ để cho bất kỳ ai quên rằng dưới cái tên Bellamy luôn luôn có cái tên Birnbaum. (Ông mỉm cười). Bây giờ cô đã biết qua toàn bộ vấn đề. Cô nghĩ có thể làm việc được không?
Lần này nụ cười của nàng mới xứng đáng với tên gọi.
- Tôi sẽ cố gắng. Tôi đánh máy được nhưng kém về tốc ký.
Ông phẩy tay.
- Tôi đã có hai cô thư ký thừa sức đoạt giải các cuộc thi tốc ký. Tôi cần một người trên mức nữ thư ký.
Nụ cười trên môi nàng vụt tắt.
- Tôi chưa hiểu hết ý ông.
Ông đâu có ngụ ý bất cứ điều gì như thế. Ông nghiến điếu thuốc lá trong chiếc gạt tàn và đốt điếu thuốc khác. Lạy Chúa, nàng vẫn ngồi thẳng người. Tự nhiên ông cũng ngồi thẳng người trên chiếc ghế của mình.
- Này cô Welles, trên mức một nữ thư ký có nghĩa là không bó buộc vào công việc làm hàng ngày từ chín giờ đến năm giờ. Rất có thể có nhiều ngày cô không cần phải đến đây trước mười hai giờ trưa. Nếu tôi bắt cô làm việc ban đêm, tôi sẽ không yêu cầu cô đến đây. Nhưng mặt khác, nếu có một cơn khủng hoảng nào đó và cho dù cô đã làm việc mãi cho tới bốn giờ sáng, tôi vẫn sẽ yêu cầu cô đến đây trước khi văn phòng mở cửa, bởi vì cô cần có mặt ở đó. Nói cách khác, cô tự lập thời khoá biểu cho chính mình. Nhưng cô cũng còn phải sẵn sàng cho một số buổi tối.
Ông ngừng lại một giây, nhưng thấy nàng không phản ứng, ông vội vã nói tiếp.
- Chẳng hạn tôi sẽ dùng bữa tối tại nhà hàng 21 với một khách hàng tương lai. Nếu tôi đi ăn một bữa thích hợp, và sử dụng những lời nói thích hợp, thì nhất định ông ta sẽ ký kết hợp đồng với tôi. Nhưng có lẽ tôi phải uống sáu bảy ly rượu với ông ta và lắng nghe những lời phàn nàn của ông ta về ban quản trị hiện tại. Cố nhiên tôi sẽ không đem tính mạng của mình để thề sẽ không làm bất cứ điều gì như thế. Tôi sẽ hứa hẹn với ông ta đủ mọi điều. Lúc này tôi không thể đem lại tất cả những điều tôi đã hứa. Không một ai có thể. Nhưng tôi muốn cố gắng một cách trung thực ngăn chặn những lỗi lầm của ban quản trị hiện tại và giữ những lời hứa nào mà tôi có thể giữ. Và sáng hôm sau tôi sẽ không còn nhớ đến một lời quỷ quái nào. Đó chính là lúc cô làm việc. Cô sẽ không có cảm giác bị khó chịu vì suốt buổi tối ly kỳ ấy, cô chỉ uống một ly sherry và cô sẽ nhớ những điều tôi đã nói. Và ngày hôm sau cô sẽ nộp cho tôi một bản ghi chép tất cả những lời tôi đã hứa và tôi có thể nghiên cứu chúng khi nào đầu óc tôi sáng suốt.
Nàng mỉm cười.
- Tôi sẽ là một chiếc máy ghi âm.
- Đúng. Cô nghĩ cô có thể làm được việc đó không?
- Thưa được. Tôi có trí nhớ rất tốt và tôi rất ghét sherry.
Lần này họ cùng bật cười.
- Tốt lắm, Anne. Cô muốn bắt đầu vào ngày mai chứ?
Nàng gật đầu.
- Tôi cũng sẽ làm việc với ông Bellows phải không?
Ông nhìn chằm chằm vào khoảng không, trầm tĩnh.
- Không có ông Bellows nào cả. Ồ, có George, cháu trai của ông ta nhưng George không phải gia đình Bellows trong công ty Bellamy và Bellows. Đó là chú của George, Jim Bellows. Tôi đã trả tiền cho ông ta để ông ta ra khỏi công ty trước khi ông ta ra trận. Tôi đã cố căn ngăn ông ta đừng nhập ngũ, nhưng không được. Ông ta cứ đi đến Washington và bị cuốn đi cùng với bộ đồng phục hải quân và tấm bằng phong cấp sĩ quan. (Ông thở dài). Chiến tranh là để cho bọn trẻ. Jim Bellows đã năm mươi ba tuổi. Quá già đối với chiến tranh, nhưng quá trẻ đối với cái chết.
- Ông ấy đã tử trận ở Châu Âu hay ở Thái Bình Dương?
- Ông ta chết vì một cơn đau tim trong một chiếc tàu ngầm, đúng là một con người ngu xuẩn!
Nhưng vẻ cộc cằn trong giọng nói chỉ nhấn mạnh tình thương mến của ông đối với người đã chết. Rồi với một tâm trạng bất thần thay đổi, ông lại nở nụ cười nồng hậu và nói tiếp.
- Anne, tôi nghĩ chúng ta đã trao đổi khá đủ rồi. Khởi đầu tôi có thể trả cho cô bảy mươi lăm dollars mỗi tuần, cô thấy thế nào?
Như vậy là hơn cả điều nàng mong ước. Tiền thuê phòng của nàng là mười tám dollars mỗi tuần và tiền ăn vào khoảng mười lăm. Nàng liền nói là nàng hoàn toàn đồng ý.