Mẹo thám tử tư

Truyện ngắn Úc.
Trung úy cảnh sát của thành phố Sydney bên nước Úc bữa nay rất hài lòng: anh vừa hoàn tất rất nhanh lẹ một cuộc điều tra khó khăn.
Cách đây hơn ba hôm, ngày 6 tháng Hai năm 1960 trong phường anh xảy ra một vụ án mạng. Bà Peggy Marshall năm mươi lăm tuổi, vợ ông chủ ngân hàng Nick Marshall bị chết ngạt dưới chiếc gối bông, ngay trong gian phòng lộng lẫy của bà tại số 1136 đường Hoàng Hậu. Nửa đêm đó, ông chồng đi làm về thì phát hiện sự việc. Hơn nữa, chính ông đã chạm trán hung thủ. Lúc ông bước vào vườn nhà, bất chợt một gã đàn ông xô vào ông rồi bỏ chạy. Vào được trong phòng bà vợ thì ôi thôi, mọi sự đã rồi. Bà đã tắt thở. Toàn bộ nữ trang để trong tráp gỗ đặt trên mặt bàn ngủ đã không cánh mà bay. Không tới ba ngày sau hung thủ đã bị bắt giữ. Người chủ tiệm kim hoàn thấy anh ta gạ bán nhiều nữ trang quý giá đã tố giác. Cảnh sát chỉ việc tới lôi đi…
Bước vào văn phòng trung úy Clark là Francis Barber khoảng hăm lăm, tóc hung bốc lửa, hai tay đeo còng. Anh ta cười gằn hỏi sĩ quan cảnh sát:
- Lão chủ tiệm đồ vàng cũ tố giác, hử?
Trung úy Clark nhún vai:
- Ông ta không muốn dính dấp vào án mạng.
Thái độ Francis đột ngột thay đổi hẳn:
- Án mạng nào? Chuyện gì kỳ cục vậy?
Trung úy hơi gắt:
- Vụ giết bà Peggy Marshall chứ còn vụ nào nữa…
Nghe chưa dứt lời, da mặt Francis đã xám ngoét:
- Không đúng! Tôi không giết!
Viên cảnh sát nhìn gã, vẻ ranh mãnh:
- Tất nhiên, hẳn là thế… Tự bà ta chết ngạt vì chúi đầu vào cái gối trong lúc anh mải chôm nữ trang của bà… Tắt cái trò gạt gẫm trẻ con đó đi, Francis. Chính anh lấy những nữ trang đó, lát nữa chồng nạn nhân sẽ tới nhận mặt anh… Tốt hơn hết là hãy thú nhận ngay…
Francis Barber nhảy bật trên ghế:
- Xin thề độc, tôi không giết người. Để tôi kể ông nghe. Biết nhà Marshall giầu có, tôi lập kế hoạch lẻn vào. Tưởng bữa đó nhà vắng người, dè đâu khi vào lại thấy bà ta nằm ngủ trên giường. Tráp nữ trang đặt tên bàn đầu giường. Tôi lẹ tay lấy hết không làm bà ta tỉnh giấc…
Đúng lúc có tiếng xe hơi vừa dừng ngoài cổng. Ông chồng đi làm về. Tôi vội chạy ra. Tông phải ông ta ngoài vườn… Thưa trung úy, xin thề sự việc đúng như vậy.
Trung úy Clark không đáp. Nhân viên vào báo ông Nick vừa tới. Trung úy ra lệnh mời vào ngay. Vừa trông thấy Francis, chủ ngân hàng reo to:
- Nó đấy!
Đúng nó. Tóc hung hung đỏ. Không lẫn vào đâu được!
Trung úy quay sang nhìn Francis:
- Thế nào? Còn chối nữa không?
Chàng trai giẫy nẩy:
- Tôi cũng nhận ra ngay ông Marshall. Tôi chạy vội nên tông phải ông ngoài vườn. Tôi có chối đâu! Không chối tội ăn trộm. Nhưng tôi không giết vợ ông này. Thề có Chúa chứng giám!
Tháng Mười một năm 1980, đứng trước tòa Francis vẫn một mực thề mình vô tội. Trộm cắp thì có, giết người thì không đời nào. Nhưng bằng chứng buộc tội lại rất xác đáng: đồ nữ trang, lời khai của Nick Marshall thừa nhận đúng là gã…
Ngay luật sư bào chữa cho Francis cũng tránh né không nói nhiều về nội vụ. Ông nhấn mạnh tới tuổi niên thiếu bất hạnh của thân chủ. Bố bỏ đi khi còn rất nhỏ. Mẹ nuôi dạy trong những điểu kiện khốn khó. Hơn nữa, hồi bé đã bị chấn thương sợ não nặng vì té ngã… Vì vậy, đáng được tòa khoan hồng…
Quả nhiên tòa kết luận Francis phạm tội nhưng do quá khứ như vậy nên được hưởng những tình tiết giảm nhẹ. Do đó, chỉ bị phạt mười lăm năm tù giam. Trước khi bị giải đi, Francis kêu lần chót:
- Tôi vô tội! Tôi không giết bà Marshall!
Trong phòng xử, một bà mới trạc tuổi ngũ tuần nhưng trông già trước tuổi quay sang người ngồi kế bên:
- Tôi biết tính thằng nhỏ. Nó la lên vậy là nó bị oan thật… Trong những việc quan trọng, không bao giờ nó nói dối. Tôi tự tôi sẽ chứng minh nó vô tội!
Kite Barber, mẹ của Francis rời công thự Tòa án Sydney. Bước chân vẫn vững vàng không mảy may run rẩy. Bản án giáng lên đầu thằng con không làm bà gục ngã. Trái lại, bà cảm thấy mình có một sức mạnh không ngờ. Và biết rõ cần phải làm gì…
Vài ngày sau bà Kite Barber, vào ngồi trên chiếc ghế trong phòng đợi của nhà thám tử tư trứ danh. Lúc này bà mới hơi run run. Trong chiếc xắc tay đặt trên đùi có 1.000 đôla, tiền vừa bán chiếc trâm hồng ngọc của mẹ bà để lại. Vật quý duy nhất bà có được và thề không bao giờ rời xa. Mới đây, đọc báo bà được biết nhà thám tử George vừa giải quyết rất tài tình một vụ tranh chấp thừa kế rất phức tạp. Bà đặt hết hy vọng vào ông này. Vài phút sau, ngồi trong văn phòng bề thế trang bị cực kỳ hiện đại của thám tử, bà Kite rụt rè trình bày vụ việc.
- Tôi hiểu rõ con tôi. Từ hồi 17 tuổi nó đã bắt đầu chôm chỉa vì không sao kiểm nổi việc làm… Mà tôi thì làm sao chạy cho đủ mà nuôi con. Đâu phải lúc nào cũng có người thuê mướn giúp việc nhà cho họ… Quả tình cháu nó có bị bắt giữ nhiều lần, có ngồi tù một ít thật, nhưng nó không bao giờ giết người…
Kite Barber thò tay vào xắc lấy xấp 1.000 đô:
- Tôi van ông, ông thám tử, xin ông tìm ra thủ phạm cho! Tôi chỉ có bấy nhiêu, nếu chưa đủ, tôi sẽ làm việc đến hơi thở cuối cùng để trả tiền cho ông…
George Higgins phác một cử chỉ tỏ ý không nhận.
- Bà Kite Barber, mong bà giữ số tiền này. Nó có ích cho bà hơn cho tôi. Tôi sẽ làm việc giúp Ngao cảm ơn, gọi điện về bệnh viện. Một đồng nghiệp chuyên lo về căn cước vừa tới đó.
- Cậu thu được giấy tờ chưa?
- Rồi… Một giấy phép lái xe, mấy bì thư đề tên anh ta.
- Nhà ở đâu?
- Cùng vợ kinh doanh một tiệm may nhỏ ở số 20 đường Bắc. Có ba con.
Chó Ngao quyết định tới báo tin dữ cho vợ nạn nhân. Xe dừng trước tiệm may tiều tuỵ, tủ kính dơ bẩn, nằm dưới tầng trệt ngôi nhà nhỏ xây gạch đỏ có hai tầng lầu. Không thấy chuông, Chó Ngao đập cửa. Một lúc lâu mới có ánh đèn phía sâu trong tiệm: Một thiếu phụ trẻ khoác áo ngủ, tóc nâu, người hơi đẫy đà, ra bằng cổng sau, đi vòng bên cạnh nhà tới gặp thanh tra. Chó Ngao thận trọng lựa từng lời báo tin về người chồng. Thiếu phụ choáng váng phải dựa người vào tường một lúc lâu mới thốt nên lời giữa hai tiếng nấc:
- Tại sao... tại sao tôi lại để anh ấy về một mình?
Chị ta giải thích: hai vợ chồng đi coi phim ở bãi drive-in, tức là bãi chiếu phim ngoài trời, người xem cứ ngồi nguyên trong xe. Lúc hai mươi ba giờ thì ra về. Nhưng về tới nhà, chỉ một mình chị ta xuống xe. Chồng chị lại nổ máy có chút việc cần đi. Chị nói tiếp, khuôn mặt đầm đìa nước mắt.
- Tất nhiên tôi biết đó là việc gì. Đêm nào anh ấy cũng chơi bài, chơi poke hoặc thứ gì khác... bữa đó có hai trăm đô trong túi.
- Bỏ trong bóp?
- Vâng, trong bóp.
Theo lệ, Chó Ngao hỏi chị vợ Ross: trong những người thân quen hoặc bạn cờ bạc của chồng chị có người nào cao lớn, trạc ba mươi để ria rậm. Vợ Ross không thấy có ai như vậy, Chó Ngao cáo từ về ngủ một giấc: đã năm giờ sáng rồi.
Anh trở lại tiệm may lúc chín giờ, rùng mình ớn lạnh vì ngủ chưa đẫy giấc. Đẩy mạnh cánh cửa gắn kính, bước vào, anh thấy ngay trước mặt một anh chàng rất đẹp trai, còn trẻ măng, có đôi mắt của siêu sao điện ảnh, đôi môi đỏ tươi, tóc hớt ngắn.
- Ông cần gì?
- Cảnh sát đây! Anh là nhân viên bán hàng?
- Dạ phải.
- Tên gì?
- Arthur Feru.
- Bao nhiêu tuổi?
- Mười tám.
- Làm ở đây được bao lâu?
- Tôi làm cho ông bà Ross tám tháng nay. Hai ông bà coi tôi như người nhà. Tối qua họ đi coi drive-in, tôi trông ba đứa nhỏ.
- Tôi cần gặp bà Ross ngay bây giờ, được chứ?
- Không được, thưa ông thanh tra. Bà Ross đang nằm nghỉ. Vụ này quá kinh khủng, bà chủ nhà tôi chịu hết nổi.
Lẽ dĩ nhiên, Chó Ngao tranh thủ hỏi chàng trai có tin gì cung cấp cho nhà chức trách không... Chẳng hạn, có thấy gì khác lạ, lúc đó nếu có người cao lớn để ria, chắc chắn cậu ta đã phát hiện ra. Và khi Jack Ross quay xe đi tiếp, đường phố vắng ngắt không một bóng người.
Trở về cơ quan ngồi chưa ấm chỗ, Chó Ngao được báo cáo: vừa tìm thấy xe của Jack Ross, đỗ trái luật trên đại lộ Mississippi. Anh tới nơi, đi một vòng quanh chiếc xe: cửa xe bên trái, phía người lái, vẫn mở hé, trên sàn và phía trong cánh cửa đọng nhiều vệt máu khô. Chứng tở Jack bị đâm khi còn ngồi sau tay lái. Trên mặt đường cũng có vài vệt máu cho thấy nạn nhân thoát khỏi xe ở chỗ này, hung thủ không đuổi theo mà bỏ đi ngay sau khi gây án. Jack bị đâm chí mạng mà vẫn chạy được gần một cây số theo các con đường vắng vẻ để cầu cứu, quả là kỳ diệu. Chắc anh ta phải gắng gượng hết mình. Các chuyên viên lấy dấu tay vừa tới kiểm tra chiếc xe.
Các vết vân tay đều của hai vợ chồng Ross. Chó Ngao lại về cơ quan. Các đồng nghiệp sửng sốt nghe anh tuyên bố: cuộc điều tra đã thu được vài kết quả bước đầu. Vì anh đã thấy vụ này không do một bàn tay chuyên nghiệp thực thi. Tên sát nhân già đời sẽ không để người bị hại ra khỏi xe chạy đi cầu cứu. Nó không bao giờ quên kiểm tra xem nạn nhân đã chết hẳn chưa. Vậy thì hung thủ có thể là một tên ăn sương non tay nghề, động cơ gây án là cướp của. Nhưng viên cảnh sát khám Ross trong bệnh viện đã bác ngay suy luận này: trong túi nạn nhân có hai mươi lăm đô la. Theo vợ nạn nhân đã cho biết, Ross có bỏ hết tiền trong bóp, tổng cộng là hai trăm đô la. Không lẽ tên cướp chỉ lấy đi một trăm bảy lăm đô, bỏ lại trong bóp hai mươi lăm đô? Vậy thì.. phải đưa ra giả thuyết khác: tối đó Ross thua bạc một trăm bảy lăm đô. Nhưng thua về trò cờ bạc gì? Chơi với ai? Ở đâu? Chó Ngao thấy cần phải kiểm tra bằng chứng ngoại phạm của chị vợ và anh chàng Arthur... Đứa con đầu của hai vợ chồng mắc chứng khó ngủ, khai đêm đó lúc đã rất khuya nó có nghe tiếng mẹ nó trong nhà. Và lại, bàn tay đàn bà khó có thể làm chuyện này. Còn chàng Arthur do lây nhiễm tật xấu của ông chủ thân thương, tối đó đi chơi bài poke từ hai mươi ba giờ đến hai giờ sáng hôm sau.

Xem Tiếp: ----