Chương 18
Quyển II - Đoạn kết

Nãy giờ Quí ngồi xem ông thầy cũ tỉ mỉ lo cái bình trà, coi bộ ông rất tiêu diêu với cái thú, sách tối, trà trưa, chúm chím cười hoài. Đợi thầy uống thấm giọng rồi Quí mới hỏi:
- Bẩm thầy, thầy hưu trí rồi, thầy không có lương tháng nữa. Thấy lãnh tiền hưu bổng chắc không được bao nhiêu. Vậy thì làm sao đủ cho thầy sống thong thả được?
- Ối! Ở đời biết bao nhiêu là đủ, bao nhiêu là thiếu em. Hễ mình nói đủ thì bao nhiêu cũng đủ, còn mình than thiếu, thì bao nhiêu cũng thiếu. Thầy đã có tiền hưu trí, nếu thầy còn thiếu, thì vô số người, không có tiền hưu trí như thầy, họ mới nói làm sao? Phần của thầy vì thầy biết tự túc, nên thầy được từ lạc. Vậy em khỏi lo. Bây giờ thầy muốn biết coi từ ngày em đi với ông La-Co rồi, em trôi nổi đến đâu mà em bặt tin, không trở về làng, mà cũng không gởi thơ, đến ông Bồi mất em cũng không về cư tăng báo hiếu. Thầy nói thiệt, thầy có nghĩ em chết, nên thầy lo, vì ngày trước em có hỏi ý kiến thầy, khi em đi theo ông La-Co. Thầy không dám xúi, nhưng thầy không cản thì cũng như chịu để cho em đi. Ngày nay thầy thấy em về thì thầy mừng quá, mừng em con sống, thầy khỏi hối hận. Mà em ra đi, em quyết chí lập thân, nhưng mạng em không giúp cho em toại nguyện, em phải gặp nhiều nơi gian truân lắm hay sao, nên ngày nay trở về, thấy bộ em lang thang dữ vậy?
Quí cười mà đáp:
- Bẩm thầy, thầy thấy lớp ngoài của em đây là lớp giả. Lớp thiệt của em khác, chớ không phải như vậy.
- Hứ! Có lớp giả, còn có lớp thiệt nữa! Chi vậy?
- Bẩm, em muốn thu nhơn tính nên em mang lớp giả mà về làng. Sớm mơi nầy, em phải mang lớp giả mà đi Trà Vinh với người ta, xuống tới đây em nhớ thầy quá, không thể không thăm thầy được, nên em mang luôn cái lớp giả mà đi tìm thầy. Tại như vậy, nên thành ra như em cố ý muốn giả dối luôn với thầy. Kỳ thiệt em kính trọng thầy như người cha thứ nhì của em, em đâu dám loè mắt thầy, xin thầy tha lỗi cho em.
- Nếu em có cái lớp thiệt, khá hơn thì thầy mừng cho em. Từ ngày em đi với ông La-Co đến nay là mấy năm?
- Bẩm 12 năm.
- 12 năm! Lâu quá! Em theo luôn ông hay là tách đi làm việc khác?
- Bẩm, em theo luôn cho đến ngày ông chết.
- Ổng chết rồi?
- Bẩm, chết đã 3 năm, rồi để em thuật rõ đời sống của em trong 12 năm nay cho thầy nghe. Em trở về Càng Long gần hai tháng rồi. Em cứ mang cái lớp giả, em không nói chuyện của em cho một người nào biết, chị em trong nhà em cũng dấu. Nay gặp thầy, em không dám dấu thầy. Trái lại em còn phải bẩm thiệt đặng còn nhờ thầy dìu dắt nữa.
- Ừ, uống nước đi em, uống rồi nói cho thầy nghe.
- Em đi theo ông La-Co lên Sài Gòn ở mấy tháng, em lo phận sự làm bồi cho ông vuông tròn. Vì ham học, nên em mua sách, rồi ban đêm rảnh rang em mở mà học thêm. Ông La-Co gặp em học như vậy vài lần. Ông không nói gì, mà ông lại kiếm sách mua đưa cho em và chỉ cách cho em học. Nhiều đêm ông khỏe, ông ngồi dạy em học đến 11, 12 giờ, rồi ông mới nghỉ.
- Hồi trước thầy đã có nói với em, ông tử tế lắm.
- Bẩm, em nhớ. Thấy ông tử tế, em càng nỗ lực mà học, em quyết lấy chí háo học mà làm kế lập thân.
- Hay đa! Thầy khen em, bị bít đường, em biết ruồng mà đi. Muốn nên phải làm như vậy mới được chớ.
- Em học được mấy tháng, kế ông La-Co được giấy xuống Rạch Giá đo đất. Tự nhiên em đi theo. Ở trong vùng Long Mỹ hai năm, em vẫn tiếp tục học hoài. Ông Kinh Lý có rảnh thì vẫn chỉ cho em học. Hễ có dịp đi Sài Gòn thì ông mua sách thêm cho em. Ðo đất vùng Long Mỹ xong, ông than mệt, bởi vì ông đã lớn tuổi, làm lâu năm, lại qua xứ mình. Lần sau đó ông ở luôn đến bốn năm, nên sức khỏe của ông giảm nhiều. Ông mới xin nghỉ sáu tháng đặng về Pháp dưỡng sức lại. Chừng đó ông mới nói thiệt với em rằng, em ở với ông hơn ba năm, ông thấy rõ tánh tình của em, trung thành, ngay thẳng, ham học, hiền lành, bởi vậy ông thương em, muốn giúp cho em ăn học, đặng lập thân như người. Ông hỏi em như chịu theo ông qua Pháp, thì ông sẽ cho em vào trường mà học, ông chịu áo quần, cơm nước, bánh hàng cho hết thảy.
- Sướng quá! Em gặp tiên cứu rồi! Chắc em chịu liền hả?
- Dạ. Em chịu liền. Khi ấy em muốn gởi thơ cho thầy và cho cha em hay. Mà rồi em nghĩ ông Kính lý nói như vậy, song biết ông làm y như vậy hay không. Huống chi em mới thấy có mòi học thêm được, chớ chưa chắc học được hay không, nếu vội cho thầy với cha em hay trước, rủi sau em không được thành công, té ra em ở bồi mà bày chuyện nói dóc.
- Tánh em khiêm tốn lại cẩn thận quá. Được tánh nết như vậy, thầy chịu lắm.
- Ông Kinh lý về bển, ông kiếm mua một cái nhà ở ngoại ô Paris, có một miếng đất hơn một mẫu. Em phụ với ông mua đồ dọn nhà ở yên rồi, ông dắt em vào một trường trung học ở gần đó mà xin cho em học. Em đã 19 tuổi rồi, theo phép em phải học lớp nhứt, lớp nhì mới được. Ông Kinh lý nói em là người ngoại quốc,vì thấy em ham học Pháp-văn nên ông nuôi làm con, đặng cho em ăn học, để phổ thông văn hóa của nước Pháp. Có trường hợp như vậy, nên hiệu trưởng mới chịu nhận cho em học, song để em ngồi học lớp thứ tư. Ông kinh lý có mướn một chị nấu ăn với một chú làm vườn nên ông để em đi học, không cho làm việc nhà. Ông cho ăn cơm chung và ngủ phòng kế phòng ông, đặng ban đêm ông dạy em học. Em nỗ lực học đêm học ngày, đặng theo kịp chúng bạn nhỏ tuổi hơn em.
- Thiệt lớn mà học lớp nhỏ khó chịu lắm.
- Ông Kinh Lý nghỉ đủ sáu tháng rồi, ông viện lẽ bịnh, xin nghỉ thêm sáu tháng nữa. Em sợ ông mãn phép rồi ông trở qua bên mình, ông bỏ em bơ vơ. Té ra ông nghỉ đủ một năm rồ,i ông hưu trí ở luôn bên Pháp. Em qua mặt chúng bạn hết thảy. Ðến năm 24 tuổi, em đậu đủ hai bằng tú tài, mà tú tài của em về khoa toán pháp. Em học được thành công em mừng hết sức.
- Năm trước nếu ông Bồi có tiền cho em qua Cần Thơ mà học đi nữa, chưa chắc sau em có bằng tú tài.
- Bẩm thiệt vậy, mà ông Kinh Lý giúp cho em thành công, ông đắc chí hơn em nữa. Năm đó nghỉ hè ông dắt em ra mé biển nghỉ mát với ông một tháng. Ông buộc em phải kêu ông bằng “Papa”, không cho kêu “ Monsieur” nữa. Ông tính cho em học cao hơn nữa. Ông nói xứ mình là xứ mới, sẽ có công việc kiến trúc nhiều -- tu cầu, đắp lộ, cất nhà, đào kinh. Muốn dễ bề làm ăn phải học theo ngành đó. Ông khuyên em nên vào trường Công Chánh mà học thêm ít năm đặng lấy bằng Kỹ sư.
- Ông Kinh Lý tính hay lắm. Đời nay học nghề chuyên môn mà làm kỹ thuật gia quý hơn. Chắc em nghe lời ổng hả?
- Dạ, em nghe lời nên học trường Công chánh ba năm em lấy bằng kỹ sư.
- Suớng quá! Đi ở bồi, mà nhờ có chí ham học, đặng lập thân, nên lần lên Tú Tài, rồi thẳng tới kỹ sư Công chánh. Ít ai có được vậy. Trong hai người, một người phải có chí cương quyết lập thân như em, còn một người phải có lòng thành nhơn, chí mỹ như ông La-Co mới gây ra được một chuyện kỳ quái như vầy. Tiếc vì thanh niên Việt Nam ít có bồi Phan Văn Quí, mà nguời Pháp cũng chưa nhiều kinh lý La-Co, bởi vậy chuyện kỳ quái như vầy, thầy để ý ao ước từ lúc thầy còn ôm sách vở đi học, mà đến ngày nay thầy già rồi thầy mới thấy được thực hiện. Tuy thấy trễ song thấy được, vậy cũng đủ cho thầy vui lòng. Có lẽ chừng thiên hạ hay cách em lập thân đây, sợ có người nói em nhờ mạng số tốt, hoặc nhờ kiếp trước tu dầy công, nên em mới được hưởng phước. Thầy không muốn tin mạng số, mà cũng không muốn tin kiếp tu, thầy đoán chắc em làm nên, là nhờ em biết cương quyết lập thân, và nhờ em khéo tu dưỡng tâm tánh, nên nguyện vọng của em mới được thỏa mãn. Lời của ông La-Co nói đúng lắm -- ông nói ông thấy em trung thành, ngay thẳng, ham học, hiền lành, ông thương nên ông muốn nuôi em ăn học đặng em lập thân. Ấy vậy ở đời, em muốn tu tâm dưỡng tánh, cư xử cho đúng đắn đàng hoàng, phải nuôi thiện chí, phải ráng kiên nhẫn,đừng gian xảo, đừng tham lam, chịu thanh cao, ghét hèn hạ, ăn ở như vậy, tự nhiên thiên hạ phải thương yêu, quý trọng, dầu không có nguời nầy, thì sẽ có người khác nâng đỡ giúp dùm, không sớm thì muộn, thế nào mình cũng nên danh, khỏi dua bợ ai hết.
- Em nhờ thầy dạy dỗ nhiều, nên em mới biết ăn ở cho người ta thương mà giúp em.
- Em biết như vậy thì càng làm cho thầy vui hơn nữa. Thầy có một đứa con, thầy ráng tập cho nó nên người, tuy nó làm giáo sư không cao sang chi lắm, song nó không để hổ với chức nghiệp của nó. Thầy rất hài lòng. Nay thầy được nghe một học trò cũ của thầy, nói nhờ làm theo lời thầy dạy dỗ, nên được thành công, thì thầy thêm nở mày nở mặt với thiên hạ nữa. Hồi nãy em nói ông La-Co chết đã ba năm rồi. Em đã có bằng Kỹ sư, lại ông La-Co chết nữa. Vậy em còn ở bên Pháp làm chi mà tới bây giờ em mới về?
- Bẩm thầy, tại có chuyện khác nữa. Khi em có bằng Kỹ sư rồi, em muốn kiếm chỗ đi làm cũng như tập cho quen. Ông cha nuôi của em không cho. Ông nói ông già, lại hay có bịnh, nên ông biểu em ở nhà hủ hỉ với ông cho đỡ buồn, vì ông không có vợ con chi hết. Vì em thọ ơn của ông quá nhiều, nên em không dám trái ý ông. Thiệt năm đó ông thường có bịnh, em phải chăm nom các việc trong nhà, nhứt là thuốc men ăn uống cho ông. Tuy ông đãi em như con, song em không hề dám vượt khỏi bổn phận tôi tớ. Từ khi được qua Pháp, em cứ chăm chú lo học, em không muốn tìm hiểu việc nhà của ông. Mà việc nhà của ông thì ông lo, không bao giờ ông nói cho em biết. Năm đó ông hay bịnh nên sức giảm nhiều. Ông viết thơ mời Nô- Te đến nhà đặng ông lặp tờ chúc ngôn. Em không dám dự việc đó, em biết ông không có vợ con, còn trong thân tộc ông có một người em gái kêu ba ông bằng cậu, người ấy có chồng giàu ở dưới Marseilles. Em tưởng ông có tiền bạc gởi băng với nhà đất ông ở đó mà thôi, ông làm di chúc sẽ để hết cho người em gái đó hưởng. Bịnh ông càng ngày càng tăng thêm chớ không bớt. Nhưng tinh thần ông vẫn còn đầy đủ hoài. Một buổi tối, em ngồi bên giường đọc sách cho ông nghe một hồi, ông biểu thôi, để ông nói hết việc nhà của ông cho em hiểu. Ông nói rằng ông qua Nam Việt Nam Kinh lý hai mươi lăm năm, ông có gây ra một sự nghiệp lớn, có ruộng, có vườn và với huê lợi ruộng vườn đó ông có hùn với vài hãng công nghệ thịnh vượng. Ông cũng có tiền gởi băng cũng nhiều. Ông không có vợ con, chỉ có một đứa em gái nó đã có chồng giàu, lại vợ chồng nó mắc lo buôn bán lớn bên Pháp, không thể qua ở bên Nam Việt được. Vậy ông đã rước Nô-Te lập chúc ngôn rành rẽ rồi. Người em gái của ông không cần ông giúp. Nhưng vì tình cậu em nên trong chúc ngôn ông chỉ để cho cô một triệu quan đặng ngày sau cô làm của hồi môn cho đứa con gái của cô. Chị bếp nấu ăn với chú làm vuờn mấy năm nay giúp công cho ông, nên ông cho mỗi người năm mươi ngàn quan. Còn lại các tài sản là ruộng vườn, nhà cửa, phần hùn trong mấy hãng với số tiền bạc còn dư để trong băng thì ông giao hết cho em.
- Uý! Cha chả! Nếu vậy thì ông thương em đến nhận em làm con, đặng kế nghiệp cho ông hay sao?
- Bẩm phải. Nhưng giao tất cả sự nghiệp cho em, ông có buộc ít điều kiện, chớ không phải giao cho em làm chủ đặng lên mặt nhà giàu ăn xài thoả thuê.
- Ông buộc điều kiện gì? Sự nghiệp của ông đáng chừng bao nhiêu? Thiệt việc nầy ngoài trí tưởng tượng của thầy. Đã nuôi em ăn học thành tài, rồi còn để gia tài sự sản cho em hưởng nữa! Hồi trước thầy biết ông La-Co tử tế, nhưng thầy không dè ông tử tế đến bực nầy.
- Khi em nghe ông nói tới việc đó, em cũng ngạc nhiên như thầy bây giờ. Ông Kinh lý thấy em cảm động, bối rối, ông nói thêm rằng tờ di chúc với các bằng khoán và giấy tờ về tài sản của ông, thì ông giao hết cho NôTe lãnh giữ. Tài sản đó có một ngàn mẫu ruộng tại Kinh Thị Đôi trong tỉnh Rạch Giá, một sở vườn cao su tám trăm mẩu trong tỉnh Biên Hoà, một sở vườn cà phê năm trăm mẩu trên Ban Mê Thuột,cổ phần hùng ba trăm ngàn trong một hãng xe hơi và ba trăm ngàn trong một hãng thuốc điếu tại Sài Gòn. Còn số bạc gởi tại ngân hàng chia cho em ông rồi, thì còn hơn vài triệu.
- Quá xá? Ông La-Co giàu như vậy mà thầy không hay chớ!
- Em cũng không dè. Hồi ở bên mình thấy ổng đi do đất nắng mưa mệt nhọc. Chừng về Pháp thấy ông mua nhà tầm thường với miếng đất nhỏ mà ở, em biết ổng có tiền, nhưng có dè ổng là một triệu phú đâu.
- Em thấy tâm trí của người ngoại quốc hay chưa? Giàu đến bạc triệu phú, mà người ta không se sua, không lãng phí, cứ lui cui làm việc luôn luôn, chớ không phải như người mình, hễ trong nhà có dư dược chút đỉnh thì lên mặt nhà giàu, cất nhà tốt, sắm xe hơi, áo quần loè loẹt, chơi bời liên miên, bài bạc rượu trà, không làm việc gì hết. Phải ông La-Co ở luôn bên nầy đặng làm guơng cho người mình thấy mà bắt chước.
- Đối với em, ông tử tế chừng nào, ông càng làm cho em thêm lo sợ chừng ấy. Khi ấy em ứa nước mắt mà nói với ông, ông nuôi em ăn học thành tài, em chưa đền đáp cho ông nữa. Ông mới nói ông để gia tài của ông lại cho em là vì ông muốn cậy em thay thế cho ông mà làm hết một đại nghĩa, chớ không phải để gia tài cho em xài phí thỏa thuê. Số là ông nhờ đất nước Việt Nam mà làm giàu. Bây giờ già rồi, ông không có vợ con, mà lại của nhiều. Ông tính rải của ấy để giáo hoá cho con nhà nghèo. Gần em trót mười năm, ông nhận thấy em là người biết ơn nghĩa trọng danh giá, ham học chớ không ham chơi, sợ tội chớ không sợ chết. Ông thấy em là người đáng mang danh tánh La-Co đặng thế cho ông mà giáo hóa con nhà nghèo Nam Việt, có trí thông minh, có chí ham học, nhưng vì bần hàn nên cha mẹ không đủ sức cho học, đặng hấp thụ văn hoá Âu Mỹ. Ấy vậy trong tờ chúc ngôn, ông nhìn nhận em là con của ông, ông tự quyết giao hết gia tài sự nghiệp của ông cho em thừa hưởng. Ngày nào ông chết rồi thì Nô Te sẽ mời em, người em gái của ông với hai người gia dịch đến đặng đọc tờ chúc ngôn cho biết rồi giao tiền bạc cho ba người kia. Còn phận em, thì em làm tờ chịu nhận ông là cha và chịu lãnh gia tài, rồi giao tờ ấy cho NôTe đem đến toà với di chúc mà xin toà thị chứng. Việc xong rồi thì em mang tên họ là La-Co và hưởng tất cả sự nghiệp của ông.
- Vậy thì bây giờ em theo quốc tịch Pháp chớ không phải người Việt nữa. Tên em là La-Co, chớ không phải Phan Văn Quí. Phải vậy hay không?
- Bẩm thầy, phải… Chính việc đó làm cho em bối rối hết sức, không biết nên chịu hay là không nên chịu.
- Thầy hiểu tại sao em bối rối.
- Việc quan hệ quá, quan hệ về mặt quốc gia và tông tộc. Em không có ai sáng suốt ở gần mà hỏi ý kiến. Em tính viết thơ hỏi thầy, ngặt viết thơ thì lâu quá, lại không biết thầy còn ở trường Càng Long hay là đổi đi đâu. Em xin với ông Kinh lý cho phép suy nghĩ ít tuần rồi em sẽ trả lời. Ông nói việc ông cậy em đây là việc làm nghĩa, ông giao bạc tiền cho em nhơn danh ông mà làm nghĩa, có chi khó đâu mà phải suy nghĩ. Ông biết em giàu lòng tín nghĩa nên ông mới cậy em. Ông là người Pháp, vì thương người Việt nghèo không học được, nên ông xuất hết gia tài để giúp những kẻ xấu phước ấy hấp thụ văn minh. Em là người Việt có sẵn của, chỉ tốn công mà thôi lẽ nào em không chịu lãnh nghĩa vụ giúp cho đồng bào nghèo của em được tiến hoá cũng như đồng bào giàu vậy.
- Ông tính đúng quá. Thầy kính phục ổng rồi. Ổng có gia tài lớn mà không có vợ con. Ông tính dùng gia tài đó mà làm luôn hai việc nghĩa một lượt -- giúp cho người Việt nghèo hấp thụ được văn hoá Pháp và yêu mến nước Pháp; đồng thời cũng giúp cho nước Pháp là tổ quốc của ông, gieo rắc văn hoá vào trí não nhiều người Việt nghèo, để gây mối cảm tình thân yêu Việt-Pháp.
- Chánh đó là ý ông. Nhưng ông thấy em dụ dự ông có nói rõ như vầy -- để gia tài cho em không phải ông buộc em phải để hết mà làm nghĩa, không được xài riêng. Không phải vậy. Em thừa hưởng gia tài em có trọn quyền làm chủ. Em muốn xuất phát làm việc gì tuỳ ý. Ông còn dạy em khi về xứ sở, em phải lựa mua một sở đất giống rộng lớn, gần tỉnh lỵ Trà Vinh để cất một cái đền cho thiệt đẹp đặng em ở, cho thiên hạ gọi “đền của ông La-Co” mà nêu danh ông.
- Sau cái đền ấy phải lập một cô nhi viện để nuôi trẻ mồ côi trai và gái, có trường cho chúng nó học chữ, học nghề; lựa những đứa thông minh gởi chúng nó đi học trường lớn hơn, rồi nếu coi học phát đạt, thì cho đi luôn qua Pháp để học tiếp. Cũng phải đến mấy trường trung học lựa những con nhà nghèo mà học giỏi, thì cấp học bổng cho chúng nó qua Pháp đặng vào mấy trường Cao Đẳng. Mà cho sinh viên qua Pháp, đừng cho học về khoa hành chánh, nên un đúc kỹ thuật gia tốt hơn, nhứt là nên cho nó học bá nghề như nông phố, thủy lâm, thú y, công chánh thương mãi, cơ khí, công nghệ, hàng hải,…
- Ông không muốn người mình làm quan thấy hôn?
- Bẩm phải, ổng muốn quảng khai kinh tế trước hết. Phải có tài chính dồi dào rồi muốn làm việc chi mới được, chớ kinh tế eo hẹp tự nhiên bị ngoại bang yểm chế.
- Ông già nầy sáng suốt lắm. Ổng lo xa cho nước mình nữa kìa.
- Ông lại nói các sở vườn và ruộng ổng có đặt sẵn người cai quản. Em chỉ đi kiểm soát, thâu huê lợi gởi vào băng, rồi dùng huê lợi ấy mà làm nghĩa là – Thứ nhất, giúp cho con nhà nghèo học, thứ hai, cứu những người bị tai nạn. Ông nhận thấy em là người biết giữ thanh cao, biết trọng danh dự, ham làm việc công ích, dám chết với nghĩa vụ, nên ông phú thác tất cả tánh danh cùng tài sản của ông cho em khai hóa và giúp đỡ đồng bào nghèo khổ của em. Em đã nhờ ông mới vượt khỏi vùng lầy. Em không được phép co tay, để cho đồng bào nghèo của em cứ làm trâu cho họ cày, làm ngựa cho họ cỡi.
- Nghe em nói thầy cảm quá. Ông La-Co là người Pháp mà ông dám đem hết tài sản ra làm nghĩa với đồng bào mình. Em là người Việt, lại em nhờ ông mà được thành danh, có lẽ nào em từ chối không chịu đáp nghĩa với ân nhân, không chịu ra tay cứu gíup đồng chưởng.
- Em dụ dự là vì nếu em lãnh nhiệm vụ ông phú thác thì em mất quốc tịch, mất tánh danh. Một bên là ơn dầy với nghĩa vụ, còn một là tổ quốc với tông môn, em phải theo bên nào, phụ bên nào?
- Thiệt, người biết quý trọng danh dự bối rối cũng phải. Khó xử quá! Hai bên đều có cái phải, với cái không phải, đồng nhau. Vậy theo ý thầy thì em đứng bên nào cũng được, có cái phải nó bù trừ cái quấy, nên người ta khó mà trách em ham tiền bạc, quên ông cha, hay là vì đạo nhà mà bỏ nghĩa lớn.
- Em bối rối mà không có thầy cho em hỏi, để ơn nghĩa tràn ngập lòng em, rồi em xuôi xị, hiến cả thân danh cho ân nhân xử dụng. Cách vài tháng sau ông Kinh lý mất, Nô Te mời hết mấy người được hưởng gia tài của ông đến mà đọc tờ chúc ngôn. Nô Te biểu em ký tờ chịu nhìn ông Kinh lý là cha và chịu lãnh gia tài. Người em gái của ông bất mãn, nên mướn luật sư kiện xin huỷ tờ chúc hôn đặng cô hưởng trọn gia tài. Em phải ở lại bên Pháp mà hầu kiện. Trong lúc chờ đợi toà phân xử, em buồn nên em viết thư ký tên La-Co, gởi cho quan Tham biện Trà Vinh cậy ngài hỏi dọ rồi cho em biết – 1. Tin tức về cha em coi còn sống hay đã chết, về ăn ở bây giờ thể nào,vợ con nên hay hư. 2. Tin tức về thầy, coi còn ở trường Càng Long hay không. Như đổi đi thì cho biết địa chỉ mới. 3. Tin tức về vợ chồng Ba Thới với người con gái tên Hường, bán quán tại ngã ba Suối Cạn. Cách vài tháng sau, quan Tham biện Trà Vinh gởi tờ phúc trình của quan chủ quận Càng Long cho em biết rõ các tin tức. Nhờ vậy em mới được biết -- Cha em mất, ruộng đất tiêu hết, chỉ còn nhà thờ với ruộng hương hoả. Mẹ ghẻ em cứ mê bài bạc. Chị em rách rưới cực khổ. Em em không học hành cứ du hí hằng ngày. Thầy đã hưu trí về ở Trà Vinh. Chồng Ba Thới chết. Vợ con tiếp tục bán quán đủ ăn. Cô Hường còn ở với mẹ, chưa lấy chồng.’
Em ở bên Pháp đợi tới năm ngoái Toà mới xử xong vụ kiện đó, toà bác đơn của tiên cáo, lên án nhận em là con của ông La-Co đủ quyền thừa hưởng gia tài của ông theo tờ di chúc. Em về bên xứ đặng lo thi hành ý định của ông cha nuôi em.
- Toà xử xong từ năm ngoái, sao em để tới bây giờ mới về.
- Bẩm thầy, em về từ năm ngoái, nhưng em ở trên Sài Gòn. Em chưa ra mặt là vì em mắc lo ba việc này: 1. Mua đất, cất nhà và lập cô nhi viện theo ý ông cha nuôi em dạy. 2. Sắp đặt lại gia đình của em lại cho đàng hoàng, làm cho người chị em hết cực khổ, và đem bà mẹ ghẻ với thằng em em trở lại người ngay. 3. Dọ coi cô Hường, con gái của Ba Thới có phải cô vì nặng tình với em nên cô ở vậy mà chờ em hay không. Nếu thiệt như vậy thì em phải cưới cô và đáp tình trả nghĩa. Hôm nay cả ba việc đều gần xong. Nhà cửa cất gần rồi. Hôm tháng trước em giả dạng nghèo hèn, ăn bận như vầy về ở Càng Long, chưa nói cho ai biết về việc riêng của em. Em đã cải thiện đạo nhà của em được rồi. Chị em hết khổ. Mẹ ghẻ với em em hết dám bài bạc chơi bời. Em lại nhận thấy thiệt quả cô Hường vì nặng tình với em, nên mười hai năm nay cứ chờ em, không chịu lấy chồng. Nay em trở về quần áo lang thang bạc tiền không có, nhưng cô không chê, cũng vẫn nặng tình như cũ.
- Nếu vậy thì cuộc nhà kinh dinh đương cất bên ngoài đường châu thành, chỗ cây dầu một đó, là cuộc của em tổ chức phải hôn?
- Bẩm, phải. Năm ngoái về tới Sài Gòn em cậy người xuống đây kiếm đất. Em có xuống, em coi rồi em mua. Em vẽ bảng đồ, mượn người coi cất nhà và sửa soạn cho thiệt đẹp.
- Đẹp quá lại lớn quá. Hôm đầu tháng thầy nghe người đồn, thầy có đến coi chơi. Cất theo kiểu đền đài bên Pháp, nên xem hùng vĩ quá. Phía sau còn đất trống lớn dữ.
- Bẩm chỗ đó sẽ cất cô nhi viện để nuôi trẻ mồ côi.
- Làm tốn tiền nhiều quá.
- Phải làm theo ý ông cha nuôi em, cho nên em bỏ ra một triệu mà tạo thành cuộc ở với cô nhi viện. Hôm nay em đến đây, trước thăm thầy và tỏ lời cảm ơn thầy dạy dỗ em, nên em biết đường mà đi, sau nữa em yêu cầu thầy với thím về ở nhà mới đó với em, đặng thầy trò ta hiệp lực đồng tâm mà giáo hoá và nâng đỡ hạng người nghèo khổ. Thầy tuy già, song sức còn khoẻ. Em cất nhà em có kềm hai bên hai cái lầu ba từng. Thầy thím muốn ở bên nào tuỳ ý. Được vậy, thì em có người cố vấn sáng suốt dạy biểu em và quản xuất ở trong, em rảnh rang chạy bận ở ngoài. Thầy đã có cảm tình với ông La-Co. Thầy lại cho sáng kiến của ông ấy là cao quý. Vậy thầy hiệp với em mà tác thành cuộc đại nghĩa theo ý ông, có lẽ ông ở dưới Cửu tuyền, ông sẽ vui thấy người bạn cũ không phụ tình ông tuy là dị chủng.
Thầy nhứt Vĩnh ngồi tư lự một chút rồi nói:
- Thầy già rồi nên tính trồng hường mà chơi vậy thôi. Nhưng gặp đại nghĩa mà làm lơ, té ra ích kỷ. Vậy để thầy suy nghĩ lại coi.
Quí thấy thầy không từ hẳn thì mừng nên nói:
- Nếu em được thầy đứng sau lưng chỉ huy, thì chỗ ấy hoạt động mạnh lắm vậy. Em còn xin hỏi ý kiến thầy về việc trăm năm của em. Em với cô Hường con của dì Ba Thới, bán quán tại ngã ba Suối Cạn, từ thơ bé đã trìu mến nhau. Em đi 12 năm, cô ở nhà chờ em, không lấy chồng. Em thấy rõ có một dây ái tình buộc chặt cô với em. Xin thầy nghĩ thử coi vợ chồng học thức bất đồng, nhưng tình với nghĩa nặng dầy,có thể kết chặt tóc tơ trăm năm bền vững hay không?
Thầy nhứt Vĩnh cười mà đáp:
- Đó là một vấn đề thắc mắc khó giải. Em với cô Hường đã yêu nhau từ nhỏ, nếu bây giờ thầy nói nếu không nên phối hợp vợ chồng, té ra thầy phá đám làm tan rẽ ái tình của hai trẻ. Còn như thầy nói nên phối hiệp, rủi ngày sau vì tâm chí bất đồng, vợ chồng không hòa thuận, thì thầy mang tiếng xúi bậy.
- Tình với nghĩa có thể bổ khuyết cho học thức được hay không?
- Nếu tình thiệt nồng, nghĩa thiệt nặng, hai đàng biết chăm chế cho nhau thì được, được về mặt gia đình, nghĩa là ăn ở với nhau trong nhà có thể hòa thuận. Ngặt em mang một nghĩa vụ lớn lao, em phải sống với xã hội nhiều hơn là sống với gia đình. Một vị Kỹ sư với một gái thôn quê, tâm chí khác nhau một trời, một vực. Cái của em hay cô nọ không biết quý, cái của cô nọ hay em không có chỗ dùng. Thầy sợ tâm chí bất đồng, vợ chồng không hiểu biết nhau, không giúp đỡ nhau, mỗi người đi một đường riết rồi lợt lạt làm cho phai cả tình nghĩa. Vậy việc đó em phải suy nghĩ cho kỹ rồi sẽ quyết định. Nếu hai đàng tuy học thức và tâm chí bất đồng, song người vợ biết chuyên lo bề nội trợ, để cho chồng khoẻ trí mà lo việc xã hội, chia trách nhiệm ra làm hai, vợ lo trong, chồng lo ngoài, được vậy thì cũng êm. Thầy nói êm chớ không nói êm ấm, bởi vì ai lo phận nấy, có chia buồn chung vui gì đâu mà nói êm ấm, khỏi sanh rầy rà đó là may. Cái cảnh vợ chồng nó tâm tâm mù mù, nó hay biến đổi trăm hình ngàn tướng không có gì rõ ràng, chắc chắn hết em ôi. Không có vợ thì buồn, mà có vợ cũng không chắc gì vui. Chỉ có người say sưa mê mệt với gia đình, không để ý đến những điều gai mắt, trái tai lặt vặt, thì mới vui được. Vậy em tự liệu, em hỏi em coi thiệt em thích có vợ, có con chàng rang chộn rộn chung quanh em hay không. Như em thích cái cảnh đó, lại em gặp người yêu em, mà em cũng yêu người, thì em cưới đi. Còn như em thích cảnh đời thanh vắng để trí yên tịnh mà lo việc xã hội, nhắm đường tương lai thì thầy khuyên em nên ở một mình thì tốt hơn là cưới vợ, rồi sau chán nản lạnh lùng mà để bỏ.
Quí ngồi nghe ông thầy cũ nói nhiều quá, mà ông cứ nói phân hai, không chịu kêu phải cưới cô Hường mà cũng không cản trở, thì chàng lơ lửng ở ngã ba đường, không biết bước chưn vào ngã nào. Chàng đứng dậy lấy cái nón ôm trong mình mà nói:
- Bẩm thầy em xa cách thầy 12 năm, bây giờ được gần thầy, được nhờ thầy rọi đuốc vào cái nẻo đường cho em thấy, đâu là phải, đâu là quấy đặng em liệu mà đi. Em thành thiệt cảm ơn thầy. Về việc vợ chồng để em suy nghĩ lại rồi em sẽ quyết định. Còn về việc em yêu cầu thầy ra công chỉ bảo cho em khai hoang đồng bào mà đáp nghĩa cho ông La-Co, em xin thầy vui long nhận lời em cho em vững bụng mà tiến mạnh trong đường đại nghĩa.
Thầy Nhứt Vĩnh đứng dậy nắm tay Quí mà nói:
- Hay em thành thân một cách rực rỡ phi thường, thầy mừng lắm. Việc em nói đó để thầy suy nghĩ ít bữa. Chúng ta còn gặp nhau nữa rồi sẽ bàn thêm.
Thầy đưa Quí ra tới sau, Quí đứng lại xin thầy đừng tiết lộ công việc của Quí cho ai biết trước, rồi mới từ biệt mà về.