Vài lời dông dài

Người ta bảo trong đôi chân bó nhỏ xíu ẩn giấu cả một pho lịch sử Trung Quốc, câu ấy thật sâu sắc! Bàn chân nhỏ dài chừng ba tấc, [1] chỉ dài hơn điếu thuốc lá một tẹo, mà quanh năm, suốt đời vải bó kín mít, ngoài cái mùi bốc lên, phỏng còn có gì trong đó nữa?
Lịch sử trải qua từng chặng từng chặng một. Triều này hưng thịnh, triều khác suy vong. Hưng hưng suy suy làm cho dân chúng sống không yên, trở ngại việc ăn uống, trở ngại cả việc mặc áo quán, cư trú, nhưng không trở ngại đến việc bó chân. Từ Lí Hậu chủ đến ngài Tuyên Thống, [2] sự bó chân của đàn bà đã được một ngàn năm, giữa chừng thay đổi biết bao triều đại, thay đổi biết bao niên hiệu, chân chẳng cứ bó mãi đó sao? Lịch sử can thiệp đến nó mà làm gì? Trên từ thái hậu, cung phi, dưới đến gái quê, nhà chài, văn như Lí Thanh Chiếu, [3] võ như Lương Hồng Ngọc, [4] ai chẳng bó? Chỉ có khỉ là không bó, tôi tin vậy. Khi người Mãn Thanh tràn qua biên ải, họ ra một đạo lệnh bắt người tộc Mãn không được bó chân, lại còn bắt người Hán phải cởi chân đã̃ bó ra. Cái đận ấy nhà Thanh làm dữ lắm, nhưng dù dữ cũng dữ không nổi với chân bó. Vả lại, dữ hay không, không thể chỉ nhìn vào một lúc. Rốt cuộc, người tộc Hán vẫn bó theo lệ rồi con gái tộc Mãn cũng giấu cha giấu mẹ, lẳng lặng lấy vải bó chân thành "lát dưa". Như vậy là trong bàn chân bó hẳn phải có phép ma nào đó.
Ma hay không, khoan hãy nói. Chỉ riêng bàn về quy củ, tài nghệ, độ tinh xảo mức công phu, kiểu cách, biện pháp, kĩ xảo, bí mật của cái trò đó, ít ra cũng phải nói vài ba ngày trời. Đó là cả một môn học vấn. Tôi không hề muốn giấu một vị nào, trong những chương sau đây đều có chép cả. Nếu vị nào chưa hề nghiên cứu, ngàn lần xin đừng góp chuyện bừa. Vị bảo bó chân thật khổ, nhưng bó rồi cũng thật đẹp đấy! Vị chửi chân bó xấu, hừm, chân bó lại mắng vị mới xấu kia! Nếu triều Thanh không đổ, làm sao có khóc có cười, muốn sống muốn chết, bó rồi cởi, cởi rồi bó, lại bó lại cởi, lại cởi lại bó? Người thời bấy giờ thật sự coi chân bó hơn cả đầu óc. Nhưng các vị chớ có tưởng bây giờ tiệt nòi chân bó thì vạn sự đại cát. Không bó chân thì có thể bó tay, bó mắt, bó tai, bó óc, bó lưỡi, rồi cũng lại có khóc, có cười, muốn sống, muốn chết, bó bó cởi cởi, cởi cởi bó bó, cởi bó bó cỏ, bó cởi cởi bó. Chuyện này mà tiếp tục nói thì còn kéo đi xa nữa. Ở đây chỉ kể một câu chuyện về bó chân thôi. Câu chuyện vốn kèm theo bốn câu sau đây:
Bảo giả toàn là giả,
Bảo thật, thật cả thôi.
Đọc tới khi hứng thú,
Thật giả chẳng đôi hồi.
Các vị cứ việc pha một ấm trà nhài, cùng với kẹo vừng làm bằng đường củ cải đỏ vừa ăn vừa uống, giở một chương, đọc một chương coi như trò vui vậy. Nếu bỗng nhiên vị nào vỗ trán, tự cho giác ngộ một điều gì, thì chớ vội nói bừa, không chừng vì bốc máu lên đầu, nghĩ lầm đấy!
°
Hôm ấy, vệ Thiên Tân như bị ma làm.
Vào ngày ấy, tất cả những việc lạ lùng bình nhật không được thấy, không được nghe đều đua nhau xảy ra, chẳng ai ngăn cản được. Trời vừa mới rạng còn chưa sáng hẳn, không mưa không gió, thế mà góc thành phía Đông Nam đang yên lành bỗng ầm ầm lở một mảng lớn như bị đại bác bắn trúng vậy.
Chuyện lạ lùng cứ từng việc từng việc nối tiếp nhau.
Trước hết, bậc đại thiện họ Lí xã Bị Tế, am Địa Tạng ở Hà Đông, đầu bỗng bốc hỏa, sai nấu một trăm nồi cháo hoa bố thí cho người tàn tật khắp thiên hạ. Lời vừa nói ra, tiếng chưa tan hết, hầu như tất tật người nghèo túng trong toàn thành, nào mù, điếc, câm, thọt, bại liệt, dở hơi, cho chí rụng tóc, rách môi, chột, gù, sẹo mắt, nói lắp, vẹo cổ, chân vòng kiềng, tay sáu ngón, rỗ trắng, rỗ đen đều kéo đến. Cả đau mắt đỏ, má sưng cũng chen vào, như rừng hoa vây chặt lấy nhà nấu cháo của họ Lí, chẳng khác gì lũ quỷ trong bức tranh người chết cạn, kẻ chết đuối kéo nhau ùn ra. Cả một vùng khiếp vía chẳng ai dám ra đường, trẻ con nín khóc, chó không dám sủa, gà chẳng đậu bờ tường, mèo chẳng lên nhà trên. Vệ Thiên Tân chưa bao giờ có cảnh lạ lùng như thế.
Cùng ngày, tại nhà ông lớn họ Viên, lí trưởng cửa Bắc có chân trong Ty vận chuyển muối cũng xảy ra một việc lạ lùng. Bà cả ăn táo răng ngựa bị hột táo chẹn ngang họng, nuốt bánh, chiêu nước, uống dấm, khạc khan, vừa nhẩy lò cò vừa xách một tai đều chẳng ăn thua. May nhờ một người bán thuốc ê cho con rắn nhỏ dài chừng hơn một gang chui vào cổ đẩy hột táo rơi xuống bụng. Ông lớn họ Viên thưởng cho năm chục lạng bạc. Nào ngờ chẳng bao lâu chú rắn giở trò trong bụng bà lớn, đau đến nỗi bà lớn lăn từ trên giường xuống dưới đất, rồi đấm bụng, đập đầu vào tường. Tìm đến người bán thuốc ê thì gã đã mất hút. Một bà già hiểu biết nhiều chuyện vội vàng bảo người mang kiệu khiêng bà lớn đến Ngũ Tiên đường ở tận đầu phía Tây. Ngũ Tiên đường thờ năm vị đại tiên là Hồ, Hoàng Bạch, Liễu, Xám. Hồ là hồ li, Hoàng là chồn vàng, Bạch là nhím, Xám là chuột, Liễu là rắn. Bà lớn vừa chổng mông rập đầu được ba cái, bỗng thấy hậu môn ngưa ngứa, rồi loạt xoạt con rắn tuồn tuột chui ra. Thế có lạ lùng không? Nghe đâu chỉ vì bà lớn sớm ngày hôm ấy dẫm chết một con rắn nhỏ bên bờ giếng và người bán thuốc ê chính là vị đại tiên, tinh loài rắn biến ra.
Chuyện lạ lùng không chỉ có hai việc trên. Ngày hôm ấy, có người ăn món cua bể ở nhà hàng Tụ Hợp thành phố Bắc Cũng, khi lật mai cua nóng hôi hổi ra, bên trong thấy ngay một hạt ngọc, tròn chằn chặn, sáng chói mắt. Từ xưa tới nay, ngọc chỉ có trong trai, chứ ai nghe ngọc có trong mai cua bao giờ? Hạt ngọc ấy không biết béo bở cho con cái nhà nào, chỉ biết nhà hàng buôn may bán lớn. Người kéo đến ăn cua nhiều hơn cả cua. Việc ấy lạ nhưng chưa phải là nhất. Việc lạ hơn còn ở đằng sau. Có người kể thấy một con cá chúa, mình bạc mắt vàng dài một trượng hai (có người nói dài ba trượng sáu) men theo sông đào ở phía Nam để xuôi về Nam, trưa ngày hôm ấy sẽ bơi qua ngã ba sông, vào sông Bạch Hà để ra biển Đông. Tới giữa trưa đã có mấy nghìn người đứng trên đê chờ cá chúa. Người đông, sức nặng đê chịu không nổi, ầm một tiếng sạt một mảng; hơn trăm người rơi xuống sông như thả bánh trôi. Một đứa bé bị sóng cuốn đi, chưa ai kịp nhảy xuống cứu đã không thấy chỏm đầu đâu nữa, hẳn là chết đuối. Không ngờ, một ông chài quăng lưới đánh cá trước cửa cũng Đức Bà, lưới vừa kéo lên thấy cái gì trăng trắng hồng hồng, ngỡ là cá chép bự, hóa ra thằng bé vẫn còn thở, xóc vài ba cái đã chớp mắt đứng dậy được rồi. Những ai có mặt đều ngẩn người ra, chuyện này lạ hết mực rồi còn gì nữa?
Ngờ đâu đến trưa chuyện lạ lùng không những không giảm mà còn tăng thêm, xảy ra ngay tại phủ đường.
Số là bọn cân quấy ở góc thành Đông Bắc và ở phố Hà Bắc đánh nhau, thuận tay phá tan bốn mươi tám cửa hàng buôn bán ở phố Hàng Nồi, làm kinh động đến ngài Quan sát trưởng đạo binh bị. Ngài bèn cử những người giỏi trong đội săn bắt tóm ngay hai thằng đấu sỏ là tên Phùng Xuân Hoa và tên Đinh Lạc Nhiên giam trong cui đứng, đặt ở cửa công đường, hai bên tả hữu mỗi bên một đứa. Lập tức bốn năm trăm thằng lỏi càn quấy kéo đến, đứa nào cũng cầm một bản Bài ca sám hối của lũ càn quấy. Bài ca này do ngài Quan sát trưởng phát cho mỗi thằng càn quấy ở trong thành một bản vào dịp ngài đến Thiên Tân nhậm chức ngày hai mươi lăm tháng Mười năm ngoái, để cho đứa nào cũng thuộc lòng mà bỏ ác theo thiện. Hôm ấy, chúng kéo đến quỳ đen đặc cả cổng nha môn, cầm giấy đồng thanh đọc:
Bọn càn quấy, đến phủ quan, nhờ ơn giáo huấn,
Bọn càn quấy, nay về sau, sửa loại đổi mình.
Nghĩ kĩ rồi, việc trước đây, nhiều điều ngang ngạnh,
Đánh đập người, sống hay chết, chẳng thèm ngó ngàng.
Dù ngẫu nhiên, trốn pháp luật, may mắn một lúc,
Sẽ có ngày, bị tróc nã, trói đến cửa quan.
Bị đóng gông, bị xiềng xích, cực hình chịu đủ,
Ngàn lần khổ, trăm thứ tội, chống đỡ khó đành.
Đọc đến đây, mấy trăm thằng lỏi đổi sắc mặt, gân xanh trên trán nổi lên, mắt bắn ra những tia dữ tợn, răng nghiến kèn kẹt chẳng khác gì bốn năm trăm con chuột cùng gặm đồ. Ngài Quan sát trưởng ngồi ở nhà sau nghe thấy tiếng đó thì run từ trong lòng run ra, khắp người nổi da gà. Quan vốn là người to gan lớn mật nhưng chống không nổi âm thanh ghê rợn đó, đến nỗi run lẩy bẩy như phát sốt phát rét. Ba chén rượu mạnh xuống đến dạ dầy cũng không át nổi nỗi sợ, quan đành gọi người ra tháo cũi mở lồng. Bọn càn quấy vừa tản ra về, da gà trên mình quan cũng lập tức lặn hết.
Lại nói, nha môn trên huyện có việc còn lạ lùng hơn nữa. Mười bảy nhân vật vốn có máu mặt, có tên tuổi, bình nhật cũng là những kẻ hiếu sự, hôm ấy liên danh làm đơn tố cáo những việc làm bậy bạ của bọn hút thuốc lá ở chợ đằng Tây. Bao thuốc vẽ toàn những con đầm hở tay, hở cổ, hở nửa đùi, câu khách thanh niên du đãng. Bọn này ngỏng cổ trợn mắt lên nhìn như chỉ muốn đâm đầu vào bao thuốc lá. Lời lẽ trong tờ trình rất hùng hồn, nói rằng đó là do bọn Tây cố ý làm hư hỏng dân Trung Quốc chúng ta, "làm bẩn mắt ta là làm bẩn lòng ta; hại đến lòng ta tức là làm mất nước ta vậy." Lại còn nói: "Độc hại của thuốc lá còn hơn thuốc phiện, không nghiêm ngặt cấm tiệt là không xong!" Lệ xưa nay, võ biền gây sự bên ngoài, văn nhân gây rối bên trong! Cho nên văn nhân gây rối lại càng dữ, mà lần này là gây với người nước ngoài. Chuyện lạ lùng dính cả với Tây. Vệ Thiên Tân có câu tục ngữ:
Ai mà động đến người Tây,
"Trò vui" ắt có mai này cho coi.
Rồi xem, vạ lớn đến nơi rồi!
Quả nhiên, ngay ngày hôm ấy có người từ tô giới đến báo rằng việc lớn bất lợi to rồi. Các phố ở tô giới đều dán tờ Lệ cấm ở tô giới gồm tám khoản sau đây: 1. Cấm gái điếm. 2. Cấm ăn mày. 3. Cấm tụ tập đánh bạc, uống rượu, ẩu đả nhau. 4. Cấm đổ rác, đồ bỏ, đất bẩn ra đường. 5. Cấm đái ven đường. 6. Cấm trèo cây bắt chim. 7. Cấm lừa, ngựa, xe, kiệu tùy tiện đỗ lại. 8. Cấm cưỡi ngựa phi, phóng, hoành hành đuổi bắt, đua nhau trên đường.
Ai cũng bảo tám điểu cấm trên đây là do tờ trình kia gây ra. Anh cấm một, họ cấm tám, xem ai ngang? Trong nửa ngày, các ông lớn ở phủ, huyện đã gặp nhau ba lần, nghĩ cách tránh thế đương hăng của người nước ngoài. Đồ chừng họ sẽ cử sứ giả đến tận nơi chơi ngang, nên trời cực nóng mà quan huyện vẫn đóng áo bào, áo phủ ngoài, sửa soạn trà nước, đồ điểm tâm, lại chuẩn bị sẵn những câu mềm mỏng dễ nghe mà thưa gửi. Nhưng quan đợi mãi đến lúc mặt trời xuống khỏi bức tường thành phía Tây cũng chẳng thấy người nước ngoài nào đến. Trống ngực quan lúc này càng đánh khỏe. Người Tây không đến, mười phần chắc có chiêu gì ghê gớm hơn nữa đây.
Một đống những việc lạ lùng đó quấy đảo khiến lòng người ngả nghiêng như thuyền ở giữa sông, không vào được bờ. Một số người khéo suy, suy đi ngẫm lại rồi ngẫm đến bản thân mình. A, thì ra hôm nay bản thân mình ít nhiều cũng có điều không hay. Chẳng hạn đánh vỡ bát đĩa, mất của mất tiền, va chạm với kẻ tiểu nhân, chạy mỏi rời chân đến đâu cũng không được tiếp, tháo dạ, đổ máu cam v.v... Ai nấy sợ ngấm sợ ngầm, chỉ sợ mình cũng gặp chuyện xúi quẩy. Có người giở lịch ta, bấy giờ mới tìm ra căn nguyên. Thì ra hôm nay lập thu, là một ngày trong "tứ suy". Trong lịch ta, dưới chữ "kiêng" rõ ràng viết hai chữ "tất cả". Ấy là không nên làm bất kì việc gì, bao gồm động thổ, xuất hành, thăm bệnh, an táng, hôn lễ, lợp nhà, di chuyển, vào ở nhà mới, xây bếp, đi thuyền, trồng trọt, sửa mộ, đặt giường, cạo đầu, giao dịch, thả con giống cầu phúc, mở hàng, lập khoán ước, lắp cửa, nhổ răng, mua thuốc, mua trà, mua dấm, mua bút, mua củi, mua nến, mua giầy, mua thuốc lá ngửi, mua long não, mã chưởng, câu kỷ, mua giấy vệ sinh v.v..., tất cả đều không nên làm. Ngày ấy nếu làm việc gì đó ắt hối hận, ắt đáng kiếp.
Nhưng lại có người bảo việc lạ lùng ngày hôm nay lớn quá, không bình thường, trong lịch ta không có viết. Những việc này vốn có điềm báo trước - một cụ già nhà ở đằng sau trung dinh nói sáng tinh mơ hôm nay, chuông trên lầu treo trống đánh thừa một tiếng, những một trăm lẻ chín tiếng. Lẽ ra chỉ có một trăm lẻ tám tiếng, như người ta nói "nhanh trăm lẻ tám, chậm trăm lẻ tám, không nhanh không chậm vẫn trăm lẻ tám." Cụ già sống chín mươi chín năm, lần đầu tiên gặp lúc chuông đánh thừa một tiếng. Người khác, ngày nào cũng nghe chuông đánh, ngày nào cũng một trăm lẻ tám tiếng, ai còn đếm? Lời nói của cụ già chẳng ai không tin. Một tiếng đánh thừa ra chính là tín hiệu báo trước những chuyện lạ lùng hôm nay. Ngư dân vốn ngu, chẳng qua không để tâm đấy thôi. Thì ra, tất cả những việc lạ lùng ngày hôm nay đều có nguyên do. Trong nguyên do lại có nguyên do, nhưng chẳng ai truy xét làm gì. Việc đời xưa nay rõ được bảy tám phán là đủ; rõ quá thì lại càng khó hiểu.
Những việc lạ lùng, những câu chuyện lạ lùng ấy truyền đi truyền lại khắp thành. Con người ta lệch mồm lệch miệng thường nhiều hơn ngay mồm ngay mép nên càng truyền càng thêm quái đản. Nhưng khi truyền đến nhà họ Qua bên bờ ao cạnh lò gốm của nhà họ Kim ở Hà Bắc thì lập tức câu chuyện bị chặn lại. Nhà này có một bà già thông tỏ việc đời, bà nghe xong là nhe bộ răng vàng khè ra cười:
- Sao dám bảo ma làm? Hôm nay mới thật là ngày đại cát đại tường chứ! Thử nói xem, trong bấy nhiêu việc, việc nào là quái lạ? Đám quỷ đói được bữa cháo hoa chẳng phúc lắm sao? Bà lớn họ Viên xúc phạm đại tiên mà ngài không gây họa, chỉ từ cổ chui vào rồi từ hậu môn chui ra, như thế gọi là gặp hung mà hóa cát! Đạo binh bị xưa nay dữ dằn lắm, thế mà hôm nay cũng phải tháo cũi mở lồng! Mai cua bể trong nhà hàng có viên ngọc lớn, thử hỏi đó là cát hay hung? Cái thằng bé lẽ ra chết trong bụng cá bỗng đâu được lưới vớt lên. Sông lớn ngần kia, sao lại khéo đến thế? Ấy là Đức Bà hiển linh đó, không hiểu à? May đã khó gặp, rủi mà hóa may càng khó gặp hơn nữa. Mấy ông văn nhân đệ đơn gây chuyện, trở ngại gì đến bát cơm nhà chị? Nếu họ không gây chuyện, chẳng có việc gì làm thì lấy gì mà ăn? Từ khi lập tô giới, người Trung Quốc mình đã ai dám cưỡi ngựa chạy lồng trong tô giới? Đấy là - bọn Tây đặt quy củ cho nhau, việc quái gì mình lại tròng vào thân coi bọn Tây là mèo, mình là chuột, tự dọa mà chơi? Tôi nói không phải à? Lại nói trống chuông trên lầu gõ thừa một tiếng, thừa bao giờ chả hơn thiếu, đỡ cho bọn lười nhác cứ ngủ mãi không chịu trở dậy. Còn mảnh tường sụt ở góc thành phía Đông Nam, thì bị cái gì nó tông vào? Tà khí à? Không phải đâu, khí may mắn đấy? Chẳng thế sao lại nói "khí may từ Đông đến"? Các chị nói xem nào!
Mọi người nghe xong, lập tức bình tâm lại. Tà ma cái gì? Không phải rủi, mà là đại cát, đại lợi, đại hỉ, đại phúc! Người khắp thành tức khắc truyền nhau những lời nói đó của bà già, trước khi kể bao giờ cũng thêm một câu "Bà già họ Qua bảo rằng...", dù họ chưa từng gặp mặt bà già.
Bà già suốt ngày bận bịu với công việc. Bà có đứa cháu gái vừa đến tuổi bó chân. Từ sáng bà đã hấp xong hai cái bánh bột nhân đậu đỏ, một cái cúng ông Táo, một cái cho cháu ăn. Nghe nói ăn bánh bột nhào, xương chân mềm ra như đất sét, muốn bó thành kiểu nào cũng được.
Bà phải nhân ngày đại cát đại lợi ngàn năm có một này đề hoàn tất đôi chân nhỏ cho cháu gái, cũng là cởi bỏ nỗi lòng bấy lâu canh cánh trong người. Bà có ngờ đâu ngày hôm ấy, chính bà đã gây ra một loạt những sự việc lạ lùng, quái dị sau này.
_______
[1]Đơn vị đo của Trung Quốc chừng 3 cm. (Chú thích trong truyện đềụ của ngưòi dịch).
[2]Hoàng đế cuối cùng của Trung Quốc.
[3]Nhà thơ nữ nối tiếng đời Tống.
[4]Vợ danh thắng Hàn Thế Trung đời Tống.