Chương 7

Tôi sẽ chẳng bao giờ quên được cái nóng bức và nhớp nháp của buổi chiều đó khi chúng tôi lái xe tới New York. Đó là ngày thứ tư kể từ bữa nàng ghé Margaret Sanger- nàng cứ trì hoãn đi trì hoãn lại, nhưng sau cùng vào hôm thứ Sáu, ba ngày trước lễ cưới của Ron và bốn ngày trước hôm trở lại đại học, chúng tôi đã chạy xe qua đường hầm Lincoln, nó có vẻ dài hơn và nhiều khói hơn bao giờ hết, cứ như một địa ngục lót gạch men vậy. Sau cùng chúng tôi cũng đến New York và lại chết ngộp vì một ngày ngột ngạt. Tôi đảo vòng một anh cảnh sát chỉ mặc sơ mi trần đang điều khiển giao thông và chạy lên phía trụ sở Cục quản lý cảng để đậu xe.
“Em có tiền trả taxi không?” tôi hỏi.
“Anh không đi với em sao?”
“Anh tính ngồi quán chờ em. Ngay đây, tầng dưới.”
“Anh có thể đợi trong công viên Central. Phòng mạch ông ấy ngay bên kia đường.”
“Bren, có khác gì…” nhưng khi thấy ánh mắt của nàng tôi đành từ bỏ quán rượu máy lạnh để cùng nàng đi xuyên thành phố. Trời đột nhiên mưa ra khi taxi của chúng tôi chạy vào trung tâm, và khi mưa tạnh, đường phố ướt át và lấp lóa, và bên dưới lề đường là tiếng rầm rì của xe điện ngầm, và nói chung thì cứ như chúng tôi đang đi vào lỗ tai của một con sư tử.
Phòng mạch bác sĩ nằm trong cao ốc Squibb, đối diện thương xá Bergdorf Goodman và như thế là một chỗ ngon lành cho Brenda sắm thêm quần áo. Vì lý do gì đó chúng tôi chưa từng nghĩ đến chuyện Brenda tới một bác sĩ ở Newark, có lẽ vì như thế là quá gần nhà và có khả năng bị phát hiện. Khi Brenda đến cánh cửa xoay nàng quay lại nhìn tôi; mắt nàng long lanh, cho dù sau lớp kính cũng thấy, và tôi không nói một lời, e rằng một lời, bất kỳ lời nào, cũng có thể gây hậu quả. Tôi hôn tóc nàng và ra hiệu rằng tôi sẽ ở chỗ vòi nước quảng trường ngay bên kia đường, và tôi nhìn theo nàng đi qua cánh cửa xoay. Ở ngoài đường xe cộ di chuyển chậm chạp cứ như cái ẩm ướt đã biến thành một bức tường chặn mọi thứ lại. Ngay cả cái vòi nước hình như cũng đang phun nước sôi lên những người ngồi quanh đó, và trong một thoáng tôi quyết định không băng qua đường mà theo Đại lộ Năm xuôi về phía nam và bắt đầu đi trên lề đường nóng hổi đến nhà thờ St. Patrick. Ở bậc thềm phía bắc nhà thờ một đám đông đã tụ lại; mọi người đang nhìn một cô người mẫu đứng cho chụp hình. Cô nàng mặc một chiếc váy màu vàng chanh với mũi chân chìa ra như một vũ viên ballet, và khi đi vào nhà thờ tôi nghe một bà nói, “Nếu tôi ăn pho mát trắng mỗi ngày mười lần thì tôi không gầy gò thế này.”
Bên trong nhà thờ mát hơn nhiều, có thể sự yên tĩnh và những ngọn nến chập chờn khiến tôi nghĩ thế. Tôi chọn một chỗ tuốt phía sau và do tôi không muốn qùi xuống nên đành chồm tới tựa vào lưng ghế phía trước, rồi chắp hai tay và nhắm mắt lại. Tôi tự hỏi mình trông giống một người Thiên chúa giáo không, và trong nỗi hoang mang tôi bắt đầu một bài diễn văn nho nhỏ với chính mình. Những lời đầy ý thức ấy của tôi có thể gọi là lời cầu nguyện không? Dù gì tôi vẫn gọi người lắng nghe tôi là Thượng Đế. Thưa ngài, tôi nói, con đã hăm ba. Con muốn làm tốt mọi chuyện. Bây giờ bác sĩ sắp gả Brenda cho con, mà con không hoàn toàn chắc chắn rằng đây là điều tốt nhất. Con yêu cái gì vậy, Chúa ơi? Tại sao con lựa chọn? Brenda là ai? Cuộc đua đã đến mức chóng mặt. Con có nên ngừng lại để suy nghĩ không?
Tôi chẳng nhận được câu trả lời nào, nhưng cứ tiếp tục. Nếu chúng con được gặp ngài, Thượng Đế ạ, ấy bởi vì chúng con là người phàm, và tham lam, và do đó có phần của ngài. Con là phàm trần, và con biết ngài chấp thuận, con chỉ biết thế. Nhưng làm sao con thành phàm trần được? Con tham lam. Bây giờ con biết trông vào đâu trong cơn tham lam này? Chúng ta gặp nhau ở đâu? Ngài là phần thưởng gì?
Đó là một cuộc suy ngẫm sáng suốt, nhưng đột nhiên tôi thấy xấu hổ. Tôi đứng dậy và đi ra ngoài, và âm thanh ngoài Đại lộ Năm đem lại cho tôi câu trả lời:
Mày nghĩ phần thưởng nào, thằng ngốc? Dụng cụ ăn bằng bạc, những cái cây dụng cụ thể thao, những quả đào, những bãi hủy rác, những cái mũi sạch mụn, Bồn Patimkin…
Nhưng mẹ kiếp, Thượng Đế ạ, chính là ngài đấy!
Và Thượng Đế chỉ cười, cái thằng hề đó.
Trên những bậc thềm quanh vòi nước tôi ngồi trong một đường cầu vồng nhỏ mà nắng hắt lên qua làn nước phun. Và rồi tôi thấy Brenda bước ra khỏi cao ốc Squibb. Nàng chẳng cầm gì theo, cứ như một phụ nữ chỉ đi ngắm hàng bày sau cửa kính, và trong thoáng chốc tôi thấy vui vì sau cùng nàng đã cưỡng lại ước muốn của tôi.
Tuy nhiên, khi nàng băng qua đường, cảm giác hơi bông lơn đó qua đi và tôi lại là chính mình như cũ.
Nàng bước tới chỗ tôi và nhìn xuống nơi tôi đang ngồi; khi nàng hít vào, nàng căng cả người ra, và rồi nàng thở ra thành tiếng “Phuù!”
“Nó đâu?” tôi hỏi.
Ban đầu, câu trả lời cho tôi chỉ là cái nhìn đắc thắng của nàng, cái nhìn nàng dành cho Simp vào buổi tối nàng đánh bại cô ta, cái nhìn tôi nhận được vào buổi sáng tôi chạy vòng thứ ba một mình. Sau cùng nàng nói, “Em đeo nó rồi.”
“Ồ, Bren.”
“Ông ấy hỏi để tôi gói lại hay cô mang vô luôn?”
“Ôi Brenda, anh yêu em.”

*

Tối hôm đó tụi tôi ngủ với nhau, và hai đứa bồn chồn với món đồ chơi mới tới độ chúng tôi làm ăn cứ như con nít ở nhà trẻ, hoặc (theo ngôn ngữ của xứ đó) giống như một trận đấu bóng thối tha mà chúng tôi là hai kẻ bị đuổi khỏi sân. Và ngày hôm sau hầu như chúng tôi không gặp nhau, vì với đủ chuyện giờ chót của đám cưới cứ loạn cả lên, nào điện báo, la hét, quát tháo, kêu khóc, chạy nháo nhào – tóm lại, điên kh!!!4815_6.htm!!! Đã xem 58357 lần.

Phạm Viêm Phương dịch
Nguồn: Tienve.org
Được bạn: ms đưa lên
vào ngày: 3 tháng 2 năm 2005