Chương 6

Sáng hôm đó được coi là sáng cuối cùng tôi lưu lại nhà Patimkin; tuy nhiên, khi tôi bắt đầu nhét đồ vào túi lúc cuối ngày, Brenda lại bảo tôi có thể bỏ đồ ra – bằng cách nào đó nàng đã xoay xở thuyết phục bố mẹ nàng đồng ý một tuần nữa, và tôi có thể ở luôn đến Lễ Lao động, khi Ron làm đám cưới xong; rồi, sáng hôm sau đó Brenda sẽ trở lại trường đại học còn tôi đi làm tiếp. Vậy là chúng tôi sẽ ở bên nhau cho đến phút cuối cùng của mùa hè.
Điều này lẽ ra phải khiến tôi vui mừng quá đỗi, nhưng khi Brenda chạy xuống cầu thang để cùng cả nhà ra phi trường – họ đi đón Harriet – tôi lại không thấy vui mà chỉ thấy rầu thúi ruột, vì tôi có ý nghĩ ngày càng rõ rằng khi Brenda trở lại Radcliffe, đó sẽ là dấu chấm hết cho tôi. Tôi thấy chắc rằng ngay cả cái đôn của bà Winney cũng không đủ cao cho tôi nhìn thấu tới Boston. Tuy nhiên, tôi vẫn móc đồ ra vất vào các ngăn kéo và sau cùng, đã có thể tự nhủ rằng Brenda chưa hề có dấu hiệu gì tỏ vẻ kết thúc chuyện của hai đứa, và mọi cảm giác nghi ngờ, mọi khó chịu tôi có, chỉ sinh sôi trong con tim bất định của tôi. Rồi tôi vào phòng Ron để gọi điện cho bà dì.
“Alô?” bà lên tiếng.
“Dì Gladys,” tôi nói, “dì khoẻ không?”
“Mày bệnh à.”
“Không, con đang vui cực kỳ. Con muốn cho dì hay con sẽ ở chơi thêm một tuần nữa.”
“Sao vậy?”
“Con nói rồi. Con đang vui cực kỳ. Bà Patimkin bảo con ở chơi đến Lễ Lao động.”
“Mày có đủ đồ lót sạch không?”
“Con giặt mỗi tối. Ổn thôi mà, dì Gladys.”
“Giặt tay không sạch được đâu.”
“Sạch được mà. Kìa, dì Gladys, con đang vui cực kỳ mà.”
“Thằng ngốc đi ăn nhờ ở đậu mà bảo tôi đừng lo.”
“Chú Max thế nào?” tôi hỏi.
“Ông ấy phải thế nào nữa? Chú Max vẫn là chú Max. Mày. Tao không thích cái giọng mày nói.”
“Sao? Bộ giọng con nghe cứ như đang mặc đồ lót dơ hả?”
“Mày lanh dữ. Rồi mày sẽ biết.”
“Cái gì ạ?”
“Mày nói cái gì nghĩa là sao? Mày sẽ hiểu ra. Mày ở đó lâu thì sẽ là quá tốt cho vợ chồng tao.”
“Không đời nào, dì yêu,” tôi nói.
“Có thấy thì tao mới tin.”
“Ở Newark mát không, dì Gladys?”
“Trời đang có tuyết,” bà ấy nói.
“Cả tuần không mát chút nào sao?”
“Mày ngồi không cả ngày thì thấy mát. Còn với tao thì bây giờ đâu phải tháng Hai, tin tao đi.”
“Được rồi, dì Gladys. Cho con gửi lời chào mọi người.”
“Mày có thư của mẹ mày đấy.”
“Hay quá. Chừng nào về con sẽ đọc.”
“Mày không chạy xe về mà đọc được sao?”
“Đâu có gì gấp. Con sẽ gửi thư cho bố mẹ con. Dì đừng cáu mà,” tôi nói.
“Còn vớ mày thì sao?”
“Con đi chân không. Tạm biệt, dì thân yêu.” Và tôi gác máy.
Ở dưới bếp Carlota đã chuẩn bị xong bữa tối. Tôi luôn ngạc nhiên vì công việc của Carlota hình như không bao giờ ảnh hưởng tới cuộc sống của cô. Cô khiến công việc nội trợ nhàm chán thành những hoạt động minh họa cho bất cứ điều gì cô đang hát, thậm chí, như lúc này, với bài “I Get a Kick out of You.” (Có anh em thích quá). Cô ta đi từ lò sang máy rửa chén bát – cô nhấn các nút, xoay mặt số, dòm qua cửa kính của lò nướng, và thỉnh thoảng lại ngắt một trái nho đen từ một chùm đặt trong bồn rửa. Cô ta nhai liên tục, vừa nhai vừa hát âm ư, và rồi, theo một cách cẩu thả có tính toán, cô phun bắn vỏ và hạt vào giỏ đựng rác. Tôi chào cô khi theo cửa sau ra ngoài, và tuy cô không chào lại, tôi vẫn cảm thấy một sự gần gũi với một người, giống như tôi, đã ít nhiều bị mê hoặc và chinh phục bởi trái cây nhà Patimkin.
Ra ngoài sân cỏ tôi ném bóng rổ một hồi; rồi tôi nhặt một cây gậy golf và quất một trái banh golf bay khật khừ vào không gian đầy nắng; rồi tôi đá một trái banh về phía cây sồi; rồi tôi lại thử ném rổ phạt đền. Chẳng gì khiến tôi bận trí được – tôi cảm thấy bụng dạ trống hoác, cứ như tôi không ăn gì suốt mấy tháng vậy, và dù tôi trở vào nhà và trở ra với một nắm nho, cảm giác ấy vẫn tiếp tục, và tôi biết rằng nó chẳng liên quan gì tới lượng thức ăn tôi đưa vào cơ thể; nó chỉ là một lan truyền của sự trống rỗng vẫn xuất hiện khi Brenda vắng mặt. Dĩ nhiên, ý nghĩ về sự ra đi của nàng đã có trong tôi từ lâu, nhưng đột nhiên nó khoác màu sắc u ám hơn. Một cách kỳ lạ, sự u ám ấy lại ít nhiều dính dáng đến Harriet, vợ sắp cưới của Ron, và có lúc tôi đã nghĩ chẳng qua là sự xuất hiện của Harriet đã trầm trọng hóa chuyện thời gian đang qua: chúng tôi đã đề cập chuyện đó và đột nhiên nó đến gần kề – giờ lên đường của Brenda té ra đã tới trước khi chúng tôi kịp nhận ra.
Nhưng còn hơn thế nữa: việc Harriet kết hợp với Ron nhắc tôi nhớ rằng sự chia cách không nhất thiết là tình trạng miên viễn. Người ta có thể cưới nhau, cho dù họ trẻ! Và tuy Brenda với tôi chưa từng đề cập chuyện hôn nhân, có lẽ ngoại trừ đêm đó ở hồ bơi khi nàng nói, “Khi anh yêu em, mọi chuyện sẽ ổn.” Phải, tôi yêu nàng, và nàng yêu tôi, nhưng mọi chuyện coi bộ không ổn gì cả. Hay là tại tôi bịa ra những rắc rối? Tôi nghĩ lẽ ra mình phải thấy số phận mình được cải thiện rất nhiều; tuy nhiên, trên bãi cỏ này, trời tháng Tám trông quá đẹp và mau qua đến chịu không nổi, và tôi muốn Brenda lấy tôi. Nhưng kết hôn không phải là điều tôi đề nghị với nàng khi nàng lái xe tới trước nhà, một mình, độ mười lăm phút sau đó. Lời đề nghị nói là nền tảng, cho cuộc đời chúng ta. Chúng ta sẽ chọn chồng chọn vợ, chúng ta sẽ chọn nghề nghiệp và mái ấm, chúng ta sẽ có con có cháu, nhưng chúng ta sẽ không quên ngươi, bang Ohio. Trong bao năm sắp tới chúng ta sẽ luôn mang theo những kỷ niệm về ngươi, bang Ohio ơi…”
Chậm rãi, dịu dàng, dàn đồng ca Đại học bang Ohio cất lên bài hành khúc của trường rồi chuông vang báo giờ khắc cuối cùng ấy. Dịu, rất dịu, vì đó là mùa xuân.
Đôi tay nổi rõ gân máu của Ron mọc gai ốc khi giọng nói tiếp tục. “Chúng tôi hiến thân mình cho ngươi, rồi cho cả thế giới, và tìm về ngươi để tìm lẽ sống. Và với ngươi, bang Ohio, với ngươi Columbus, chúng tôi xin nói lời cảm ơn, cảm ơn và tạm biệt. Chúng tôi sẽ rất nhớ ngươi, vào mùa thu, mùa đông, mùa xuân, nhưng một ngày nào đó chúng tôi sẽ trở lại. Còn từ giờ cho đến ngày đó, xin tạm biệt, bang Ohio, chia tay thôi, màu trắng đỏ, chia tay thôi, Columbus… Chia tay thôi, Columbus… chia tay thôi…”
Cặp mắt Ron nhắm lại. Ban nhạc tuôn ra đoạn nhạc hoài niệm cuối cùng, và tôi rón rén ra khỏi phòng, cùng nhịp chân bước với 2163 sinh viên của khóa 1957 ấy.
Tôi đóng cửa phòng lại, nhưng rồi lại mở ra và nhìn qua phòng Ron: anh ta vẫn còn âm ư trên giường. Ôi trời! Tôi thầm nghĩ, ông anh vợ của tôi!

*

Đám cưới.
Cho tôi bắt đầu với đám họ hàng.
Có gia đình bên bà Patimkin: gồm bà em là Molly, một mụ béo tốt vú to đùng có cổ chân phì đại phủ xuống đôi giày, và là kẻ sẽ nhớ mãi đám cưới của Ron chẳng vì lý do nào khác ngoài chuyện bà ta phải hy sinh bàn chân mình trong đôi giày gót cao cả tấc, rồi có ông chồng mập lù của bà Molly là Harry Grossbart, một kẻ đã làm giàu nhờ lúa mạch với bắp ngô để nấu rượu trong thời kỳ cấm rượu.[1] Bây giờ ông ta hoạt động tích cực trong Đền thờ và lúc nào gặp Brenda ông ta cũng vỗ vào mông nàng; tôi đoán đó là một cung cách của dân buôn rượu lậu đã được coi là cách bày tỏ tình cảm gia đình. Lại còn có Marty Kreiger, ông anh của bà Patimkin nữa. Đó là ông vua ngành sản xuất thức ăn nhanh Kosher,[2] một ông to tướng có mấy lớp cằm thì cũng có bấy nhiêu lớp bụng, và lúc này, ở tuổi năm mươi lăm, ông ta đã có số lần tai biến tim mạch bằng số lớp cằm và lớp bụng cộng lại. Ông ta vừa mới đi nghỉ dưỡng ở Catskills về, ông ta nói ở đó ông chẳng ăn gì khác ngoài món All-Bran và chơi bài gin rummy thắng được 1.500 đô. Khi anh thợ chụp ảnh tới hành nghề, Marty đặt tay lên bộ ngực xẹp lép của bà vợ và nói, “Ê, chụp vầy coi đã chưa!” Sylvia, bà vợ, là một phụ nữ ốm yếu còm nhom với khung xương mảnh mai như xương chim. Bà ta khóc suốt lễ cưới, và thực tình đã nức nở tồ tồ khi giáo sĩ tuyên bố Ron và Harriet là “vợ chồng trước mặt Thượng Đế và Bang New Jersey.” Sau đó, trong bữa tiệc, bà ta đã cứng cỏi trở lại đủ để đập vào tay chồng khi ông này tính nhón lấy một điếu xì gà. Tuy nhiên, khi ông ta quàng vai để đặt tay lên ngực bà, bà chỉ trông hơi hoảng hốt thôi và chẳng phản đối gì cả.
Kế đến là hai bà chị sinh đôi của ông Patimkin, Rose và Pearl, cả hai có tóc bạch kim, y như màu chiếc Lincoln mui trần, và có giọng mũi, họ có hai ông chồng đi theo nhưng chỉ nói chuyện với nhau, cứ như bà chị lấy cô em còn hai ông chồng kia lấy nhau. Hai ông này tên là Earl Klein và Manny Kartzman, ngồi cạnh nhau lúc làm phép cưới, rồi ở bàn tiệc, có một lần, khi ban nhạc chơi trong khi chờ dọn món kế tiếp, họ đã đứng dậy, cả Klein và Kartman, cứ như để khiêu vũ, nhưng họ lại đi về cuối đại sảnh rồi cùng nhau đếm bước theo chiều rộng của đại sảnh. Sau này tôi mới biết Earl buôn bán thảm, và rõ ràng ông ta đang cố tính ra mình sẽ kiếm được bao nhiêu nếu Khách sạn Prince làm phước mua thảm của ông ta.
Về phía họ nhà ông Patimkin thì chỉ có mỗi Leopold, anh em ghẻ của ông. Leopold cưới một bà tên là Bea, người mà coi bộ chẳng có ai nói chuyện. Bà Bea cứ chạy tới chạy lui trong bữa tiệc và ghé lại bàn của lũ trẻ để xem Sharon, con gái bà ta, có được chăm sóc tử tế không. “Tôi đã bảo bà ấy đừng dẫn con theo. Mướn một cô giữ trẻ đi, tôi bảo vậy.” Leopold kể lể với tôi trong khi Brenda khiêu vũ với anh phù rể Ferrari. “Bà ấy nói ông nghĩ mình là ai, triệu phú chắc? Không, lạy Chúa, nhưng ông anh tôi lấy vợ cho con, tôi có thể ăn mừng chút đỉnh chứ. Không, mình sẽ mang đứa bé theo. Aah, để có chuyện cho bà ấy làm!…” Ông ta nhìn quanh đại sảnh. Trên sân khấu Harry Winters (tên thật là Weinberg) đang chỉ huy ban nhạc chơi một liên khúc từ các bài trong phim My Fair Lady; dưới sàn nhảy, đủ lứa tuổi, kích cỡ, kiểu dáng, đang khiêu vũ. Ông Patimkin nhảy với Julie, váy của con bé đã tuột khỏi vai làm lộ ra khoảng lưng nhỏ mềm mại, và cái cổ dài, giống như cổ Brenda. Ông ta nhảy trong những ô nhỏ và rất cố gắng để đừng dẫm vào ngón chân Julie. Harriet, như mọi người nói, là một cô dâu xinh đẹp, đang khiêu vũ với cha ruột. Ron nhảy với mẹ vợ, Brenda với Ferrari, và tôi đã ngồi một hồi lâu trên một ghế trống cạnh Leopold để tránh bị lôi vào chuyện khiêu vũ với bà Patimkin vốn là đích nhắm của mọi vật thể chuyển động.
“Anh là bạn của Brenda, hử?” Leopold hỏi.
Tôi gật đầu – từ đầu hôm tôi đã thôi cái trò đưa ra những giải thích sặc mùi bẽn lẽn. “Ngon ăn đó, cậu trai,” Leopold nói, “đừng làm hỏng chuyện.”
“Cô ấy rất đẹp,” tôi nói.
Leopold tự rót một ly sâm banh, và chờ đợi cứ như ông ta mong có một cái đầu sẽ mọc lên ở đó; khi chẳng có cái nào mọc ra, ông rót tràn tới miệng ly.
“Đẹp, không đẹp, có khác gì đâu. Tôi là người thực tế. Tôi đang ở tuốt dưới đáy, nên tôi phải vậy. Nếu anh là Aly Khan thì anh mới lo nghĩ chuyện cưới ngôi sao màn bạc. Tôi rành chuyện đó quá mà… Anh biết hồi lấy vợ tôi bao nhiêu tuổi không? Ba mươi lăm. Tôi không hiểu mình lúc đó đang vội vã cái quái qủi gì.” Ông ta cạn ly và lại rót đầy. “Để tôi kể anh nghe, một chuyện tốt đẹp xảy đến với tôi trong cả một đời. Có thể là hai điều. Trước khi từ nước ngoài trở về tôi nhận được thư của vợ – lúc đó cô ấy chưa là vợ tôi đâu. Mẹ vợ tôi kiếm được một căn hộ ở Queens cho tụi tôi. Sáu mươi hai đô rưỡi một tháng. Đó là chuyện tốt đẹp sau cùng từng đến với tôi.”
“Còn chuyện thứ nhất?”
“Thứ nhất nào?”
“Thì ông nói có hai chuyện.”
“Tôi không nhớ. Tôi nói có hai bởi vì vợ tôi cứ nói tôi là đứa chua cay và hoài nghi. Kiểu như vậy có lẽ bà ấy không hề nghĩ tôi khôn ngoan cỡ nào.”
Tôi thấy Brenda và Ferrari tách ra, nên cáo lỗi và cất bước về phía nàng, nhưng ngay lúc đó ông Patimkin rời Julie và trông cứ như hai tay đó sắp đổi bạn nhảy cho nhau. Nhưng té ra cả bốn cứ đứng trên sàn nhảy và khi tôi đến gần thì họ đang cười và Julie thốt lên, “Mắc cười thiệt!” Ferrari nói “Chào” với tôi và kéo Julie đi, làm con bé này bật lên cười khanh khách.
Ông Patimkin đặt một tay lên lưng Brenda và đột nhiên tay kia đặt lên lưng tôi. “Hai đứa vui chơi thoải mái không?” ông hỏi.
Chúng tôi hơi đong đưa thân hình, cả ba người, theo bài hát “Get Me to the Church on Time.”
Brenda hôn bố nàng. “Dạ,” nàng nói. “Con say đến độ cái đầu không cần đến cổ nữa.”
“Đám cưới quá tuyệt, bác Patimkin ạ.”
“Có cần gì cứ nói với tôi…” ông bảo, chính ông cũng ngà ngà. “Hai đứa tốt lắm… Con thấy thích chuyện anh mình lập gia đình không?… Hử?… Kia là con gái hay đây là con gái?”
Brenda mỉm cười, và tuy rõ ràng nàng nghĩ bố nói về mình, nhưng tôi tin chắc ông đang nói tới Harriet.
“Bố thích đám cưới không, bố?” Brenda hỏi.
“Bố thích đám cưới của con bố…” Ông ta vỗ vào lưng tôi. “Hai đứa, có cần gì không? Cứ vui chơi thoải mái nhé. Nhớ nghe,” ông nói với Brenda, “Con là con gái cưng của bố…” Rồi ông ta nhìn qua tôi. “Bất cứ gì con gái tôi muốn thì cũng tốt đẹp cho tôi hết. Không có chuyện làm ăn nào quá lớn đến độ không thể xài thêm một cái đầu nữa.”
Tôi mỉm cười, tuy không hẳn là cười với ông ta, và đàng xa tôi còn thấy được Leopold đang cạn ly sâm banh và nhìn ba người chúng tôi; khi gặp ánh mắt tôi ông ta đưa tay ra dấu với ngón cái và ngón trỏ làm thành một vòng tròn, ngụ ý, “Nó đó, nó đó!”
Sau khi ông Patimkin bỏ đi, tôi với Brenda ôm nhau khiêu vũ, và chúng tôi chỉ ngồi xuống khi các anh bồi bàn bắt đầu đi vòng vòng mời món chính. Bàn tiệc chính rất ồn, nhất là ở đầu bàn phía chúng tôi nơi bọn thanh niên hầu hết là đồng đội của Ron, ở môn thể thao này hoặc môn nọ; bọn họ ăn cả đống bánh kếp cuộn. Tank Feldman, bạn cùng phòng của Ron, từ Teledo bay về dự đám cưới, cứ bắt anh bồi đi lấy thêm bánh cuộn, cải, ô liu, và lúc nào cũng làm hài lòng Gloria Feldman, vợ hắn ta, một con mụ thiếu dinh dưỡng, nhộn nhạo, lúc nào cũng nhìn xuống ngực cứ như bên dưới lớp áo ấy đang tiến hành một công trình xây dựng nào đó. Gloria và Tank, thực ra, có vẻ là chỉ huy tự phong ở đầu bàn này. Họ hô hào uống mừng, ồ ồ lên hát, và cứ liên tục gọi tôi với Brenda là “đôi uyên ương.” Brenda nhe nanh cười trước kiểu nói đùa này và tôi moi được một vẻ mặt hào hứng từ cái tâm nhĩ lừa đảo nào đó của con tim tôi.
Và đêm cứ tiếp tục: chúng tôi ăn, chúng tôi uống, chúng tôi nhảy – Rose và Pearl nhảy điệu Charleston với nhau (trong khi hai ông chồng của họ đi nghiên cứu đồ gỗ và các chùm đèn), và rồi đến tôi nhảy Charleston với chẳng ai khác hơn mụ Gloria Feldman, mụ này trong lúc nhảy cứ bày ra với tôi một bộ mặt thẹn thùng bẽn lẽn thấy phát ớn. Lúc gần tàn cuộc, Brenda, nãy giờ đã uống sâm banh y như ông chú Leopold, biểu diễn sô lô một màn tango theo kiểu Rita Hayworth, còn Julie đã ngủ gục trên một mớ dương sỉ nó gom từ bàn tiệc chính và rải thành một lớp nệm ở cuối đại sảnh. Tôi thấy một cảm giác tê cứng lan tới vòm miệng, và đến ba giờ sáng thì người ta mặc cả áo khoác để khiêu vũ, những qúi bà chân không giày đang gói những miếng bánh cưới vào khăn ăn để dành làm bữa trưa mai cho lũ trẻ, và sau cùng Gloria Feldman đi lại cuối bàn chỗ chúng tôi và hỏi, một cách tươi tỉnh, “Nào, cô sinh viên Radcliffe thông minh của tôi, suốt mùa hè cô làm gì nè?”
“Nuôi một con ‘cu’.”
Gloria mỉm cười và biến đi mau lẹ như khi xuất hiện vậy, còn Brenda không nói thêm một lời khật khưỡng đi về phía phòng vệ sinh nữ để nhận phần thưởng cho việc quá chén. Nàng vừa đi khỏi là Leopold đến bên tôi liền, một tay cầm ly, tay kia là một chai sâm banh mới nguyên.
“Không thấy cô dâu chú rể đâu hết hả?” ông ta nói, nháy nháy mắt. Đến lúc này ông ta hết phát âm nổi những phụ âm và đang cố hết sức với những nguyên âm dài, ướt nhẹp. “Được rồi, kế tiếp là anh, nhóc ạ, tôi thấy điều đó qua những quân bài… Anh đâu phải thứ dễ qua mặt…” và ông ta thúc cổ chai vào hông tôi, làm đổ cả sâm banh ra chiếc áo vest đi thuê của tôi. Ông ta đứng thẳng dậy, rót thêm một mớ nữa ra ly và bàn tay, nhưng đột nhiên ông ta ngưng lại. Ông ta nhìn chằm chằm vào những bóng đèn được giấu bên dưới một tràng hoa dài trang trí phía trước bàn. Ông ta lắc lắc cái chai như để làm nó sủi bọt lên. “Cái thằng chó đẻ chế ra đèn huỳnh quang chết tươi đi cho rồi!” Ông ta đặt chai xuống và uống.
Trên sân khấu Harry Winters cho nhạc công nghỉ. Tay đánh trống đứng dậy, vươn vai, và cả bọn bắt đầu mở hộp cất nhạc cụ đi. Dưới sàn nhảy, bà con, bạn bè, đồng sự, bá vai quàng hông nhau, và những đứa bé đeo vào chân bố mẹ chúng. Có vài đứa chạy ra chạy vào, gào la chơi rượt bắt, cho đến khi một đứa bị người lớn nắm lại và đét mấy phát ra trò vào đít. Nó bật khóc, rồi từng cặp rời sàn nhảy. Cái bàn của chúng tôi là một đống hỗn độn đủ thứ: khăn ăn, trái cây, hoa; có cả những chai whisky đã cạn, những cành lá héo rũ, và mấy cái dĩa lầy nhầy món kem dâu ăn bỏ dở, đã trở nên nhơn nhớt. Ở cuối bàn ông Patimkin ngồi cạnh vợ, cầm tay bà ta. Đối diện họ, trên hai ghế kéo lại cạnh nhau, là ông bà Ehrlich. Họ nói chuyện lặng lẽ và đều đều, cứ như họ đã biết nhau qua vô số năm. Lúc này mọi sự đã chậm lại, và thỉnh thoảng lại có người đến bên ông bà Patimkin và Ehrlich để chúc mừng họ, rồi kéo bầy cả gia đình bước ra ngoài bầu trời đêm tháng Chín, có ai đó nhận xét trời mát và nhiều gió, khiến tôi nhớ ra chẳng bao lâu nữa là tới mùa đông và tuyết giá.
“Nó chẳng bao giờ hư, mấy thứ đó, anh biết mà,” Leopold trỏ những đèn huỳnh quang sáng sau đám hoa lá. “Nó xài được tới mấy năm. Tụi nó làm được cả một chiếc xe hơi như thế nếu muốn, thứ không bao giờ hư. Nó cứ cháy bất chấp mưa mùa hè hay tuyết mùa đông. Nhưng tụi nó không làm thế, mấy cha trùm đó là vậy… Còn tôi nè,” Leopold nói, làm văng sâm banh ra ngực áo, “Tôi bán một bóng đèn tốt. Anh không kiếm ra loại bóng đèn tôi bán trong một tiệm tạp phẩm đâu. Đó là bóng đèn chất lượng. Nhưng tôi là thứ tép riu. Chẳng có được một cái xe nữa. Đi đâu cũng bằng xe lửa. Tôi là thằng duy nhất mỗi mùa đông đi mòn ba đôi ủng cao su. Hầu hết người ta mua cái mới khi mất cái cũ. Còn tôi thì đi tới mòn luôn. Coi đó,” ông ta nói, chồm về phía tôi, “Tôi có thể bán thứ bóng đèn dổm, đâu hại gì cho tôi. Nhưng làm ăn như thế không bền.”
Vợ chồng nhà Ehrlichs và Patimkin cùng đẩy ghế ra và bỏ đi, ngoại trừ ông Patimkin bước về phía tôi với Leopold.
Ông ta vỗ vào lưng Leopold. “Sao, khoẻ không, bợm?”
“Khỏe thôi, Ben. Khoẻ thôi…”
“Đã đời chưa?”
“Anh được một chuyện vui đấy, Ben, chắc cũng tốn bộn tiền, tôi nói thiệt…”
Ông Patimkin bật cười. “Mỗi khi khai thuế lợi tức là tôi đi kiếm Leopold. Nó biết rõ tôi xài bao nhiêu tiền… Muốn quá giang về không?” ông ta hỏi tôi.
“Không, cám ơn bác. Cháu chờ Brenda. Cháu có xe mà.”
“Chúc ngủ ngon,” ông Patimkin nói.
Tôi nhìn theo ông ta bước khỏi bục kê bàn tiệc chính, và đi về phía lối ra. Bây giờ trong sảnh – một gian sảnh tan hoang – chỉ còn tôi, Leopold, bà vợ ông ta cùng đứa nhỏ đang ngủ, cả hai, gối đầu lên tấm khăn bàn cuộn tròn lại ở một cái bàn trước mặt chúng tôi. Brenda vẫn chẳng thấy đâu.
“Khi anh giành được nó,” Leopold nói, chà những ngón tay vào nhau, “anh có thể ăn nói như một tay tai to mặt lớn. Ai còn cần đến thằng như tôi nữa. Dân chào hàng, anh cứ nhổ vào bọn họ. Anh cứ tới siêu thị là mua được đủ thứ. Ở chỗ bà xã tôi đi mua sắm anh còn mua được cả vải trải giường với áo gối nữa. Tưởng tượng đi, chỉ là một cửa hàng tạp phẩm! Còn tôi, tôi bán hàng cho trạm xăng, nhà máy, doanh nghiệp nhỏ, lên xuống khắp bờ biển phía đông. Đương nhiên, anh có thể bán cho một thằng cha nọ ở trạm xăng một bóng đèn vớ vẩn xài một tuần là bứt. Vì trong các trụ bơm xăng mà tôi đang nói đó, nó cần một loại bóng đèn nào đó. Một bóng đèn thông dụng. Được thôi, nên anh bán cho y một bóng đèn dổm, và một tuần sau y gắn cái mới, và trong khi gắn y vẫn nhớ tên anh. Tôi thì không như thế. Tôi bán một bóng đèn chất lượng. Nó cháy được một tháng, năm tuần, thì mới bắt đầu bị nhấp nháy, rồi nó còn sáng cho anh thêm vài ba ngày nữa, có thể hơi mờ, nhưng cũng đỡ cho anh khỏi phải lần mò. Nó cầm cự được, đó là thứ bóng đèn chất lượng. Trước khi nó đứt bóng anh sẽ nhận thấy nó yếu dần, nên anh kịp mua cái mới. Cái mà người ta không ưa là mới sáng trưng đó lát sau đã tối hù. Phải cho nó tờ mờ vài ngày và họ đỡ cảm thấy khó chịu. Chưa có ai vất bóng đèn của tôi đi… họ cứ nghĩ có thể để dành được, có thể lúc kẹt lấy ra xài đỡ. Có khi tôi hỏi một thằng cha, ông có bao giờ vất đi một bóng đèn mua của Leopold Patimkin chưa? Mình phải xài tâm lý. Bởi thế nên tôi mới cho con học đại học. Thời buổi này mà không biết chút đỉnh tâm lý là tiêu…”
Ông ta giơ một tay lên chỉ về bà vợ rồi ông ta ngồi thụp xuống ghế. “Aaach!” ông ta kêu rồi làm một hơi hết nửa ly sâm banh. “Để tôi nói cho anh nghe, tôi đi đến tận New London, Connecticut. Tôi sẽ đi xa cỡ đó, và khi đêm xuống trở về nhà đầu tiên là tôi ghé lại làm vài ly. Rượu Martini đấy. Tôi làm hai ly, có khi ba. Vậy là vừa, phải không? Nhưng với bà ấy thì một hớp hay cả một bồn tắm thì cũng bốc mùi như nhau. Bà ấy bảo nếu tôi về nhà sặc sụa hơi men thì không tốt cho con cái. Nó còn nhỏ xíu, lạy Chúa tôi, bà ấy nghĩ tôi là phải có mùi như vậy. Một thằng bốn mươi tám tuổi với một đứa nhỏ ba tuổi! Với con bé ấy bà ta làm tôi bị nghẽn mạch máu mất. Mụ vợ tôi, bà ấy muốn tôi về nhà sớm và chơi với con trước khi nó đi ngủ. Bà ấy bảo cứ về nhà rồi tôi làm cho ông một ly. Hàa! Tôi phải cả ngày hít hơi xăng, lom khom dưới mui xe ở New London, cố mà gắn một bóng đèn phải gió vào ổ gắn… Tôi sẽ tự tay vặn nó vào, tôi bảo họ vậy… vậy mà bà ấy nghĩ tôi muốn về nhà và uống một miếng martini bằng cái ly nhựa vớ vẩn gì đó hả! Bà ấy nói ông định ngồi trong quán rượu bao lâu. Cho đến khi một cô Do Thái thành Hoa Hậu Rhinegold chắc!”
“Vậy đó,” ông ta nói tiếp sau khi cạn một ly nữa, “Tôi yêu con mình giống như Ben yêu Brenda của hắn vậy. Không phải là tôi không muốn chơi với nó. Nhưng nếu tôi chơi với con và tối lên giường ngủ với vợ, thế thì bà ta đừng mong có được điều bất ngờ gì ở tôi. Được cái này thì mất cái kia. Tôi đâu phải ngôi sao điện ảnh.”
Leopold nhìn cái ly đã cạn của mình và đặt nó lên bàn; ông ta dốc ngược chai và uống sâm banh cứ như nước sôđa. “Anh nghĩ mỗi tuần tôi kiếm được bao nhiêu?” ông ta hỏi.
“Tôi không biết.”
“Đoán thử coi.”
“Một trăm đô.”
“Chắc cú, và ngày mai người ta sẽ thả sư tử khỏi mấy cái chuồng ở Công viên Central. Anh nghĩ tôi kiếm được bao nhiêu?”
“Không đoán được.”
“Một thằng tài xế taxi còn kiếm được nhiều hơn tôi. Thực vậy đó. Thằng em vợ tôi là tài xế taxi, nó sống ở Kew Gardens. Và hắn không kiếm ăn vớ vẩn đâu, không thưa ngài, không phải đám tài xế taxi đó đâu. Tuần rồi có một tối trời mưa và tôi bảo mẹ kiếp nó, mình sẽ vẫy một cái taxi. Tôi đã ở suốt ngày tại Newton, Massachusetts. Tôi thường không đi xa thế, nhưng buổi sáng ngồi trên xe lửa tôi tự nhủ, cố lên, hãy đi xa hơn, nó sẽ có một thay đổi. Và lúc đó tôi vẫn biết mình đang tự đùa cợt mình. Tôi thậm chí sẽ không kiếm được gì bù cho khoản lộ phí tăng thêm này. Nhưng tôi cứ kiên trì. Và đến tối tôi còn ế tới mấy hộp, nên khi thằng cha đó đậu xe trước Grand Central, có gì giống như thần thánh trong tôi bảo tôi hãy lên xe. Tôi thậm chí liệng đại thùng bóng đèn vào xe, chẳng cần biết chúng có vỡ hay không. Và cha tài xế nói, Tính làm gì vậy cha nội, làm rách mặt da hả? Tôi mới bọc lại nệm ghế đó. Đâu có, tôi nói. Chúa ơi, y nói, một số tay thổ tả. Tôi chui vào và cho hắn một địa chỉ ở Queens để y câm miệng đi, nhưng không, suốt dọc đường y cứ Chúa ơi với tôi mãi. Trong xe thì nóng, nên tôi mở một cửa sổ và thế là y quay lại nói, Tính làm gì đó cha nội, cho tôi lạnh gáy hả? Tôi vừa hết một đợt cảm cúm mặc dịch xong…” Leopold nhìn tôi, cặp mắt lờ đờ. “Thành phố này điên hết rồi! Nếu có chút tiền là tôi biến khỏi đây liền. Tôi sẽ đi California. Ở đó trời đất sáng sủa người ta không cần bóng đèn. Tôi đã từ San Francisco đi New Guinea hồi thế chiến. Chà chà,” ông ta thốt lên, “có một chuyện tốt đẹp nữa xảy đến với tôi, đêm đó ở San Francisco với Hannah Schreiber. Tức là cả hai vợ chồng nó, anh hỏi thì tôi sẽ nói – căn hộ mà mẹ vợ kiếm cho tụi tôi, và Hannah Schreiber này. Chỉ một đêm thôi. Tôi dự một buổi khiêu vũ B’nai Brith cho lính dưới tầng hầm một đền thờ lớn nọ, và tôi gặp cô ấy. Lúc đó tôi chưa lập gia đình, nên đừng có nhíu mày như vậy.”
“Tôi thì không đâu.”
“Cô ấy có một căn phòng nho nhỏ xinh xinh. Cô ấy sẽ đi học làm cô giáo. Tôi biết có điều gì đó đang xảy ra vì lúc ở trong taxi cô ấy cho tôi sờ bên trong quần lót. Nghe tôi này, tôi ăn nói cứ như lúc nào cũng đi taxi. Có lẽ trong đời tôi chỉ được hai lần khác nữa thôi. Nói thật tôi cũng không khoái gì chuyện đó. Lúc nào ngồi xe tôi cũng nhìn đồng hồ tính tiền. Ngay cả những lạc thú tôi cũng không hưởng được!”
“Còn Hannah Schreiber thì sao?”
Ông ta mỉm cười, lộ răng vàng lấp lánh. “Anh thấy thích cái tên đó không? Cô ấy chỉ là một thiếu nữ, nhưng lại có cái tên của một qúi bà. Trong phòng cô ấy nói với tôi là cô tin ở chuyện yêu nhau bằng mồm. Tôi chả hiểu cô ấy muốn nói cái quái qủi gì. Tôi mường tượng cô ấy thuộc hội Những nhà khoa học Thiên chúa giáo hay giáo phái gì đó đại loại như thế. Nên tôi nói, thế còn những người lính, bọn trai trẻ bị đưa ra nước ngoài và có thể bị giết, cầu Chúa thương họ.” Ông ta nhún vai. “Tôi chẳng phải thằng thông minh nhất trên đời. Nhưng hồi đó mới gần hai mươi, tôi còn ngu ngơ lắm. Nói thật với anh, thỉnh thoảng vợ tôi – anh biết đó, cũng làm cho tôi chuyện y hệt Hannah Schreiber đã làm. Tôi không thích bắt buộc bà ấy, bà ấy làm rất cực. Chuyện đó với bà ấy cũng như cái taxi với tôi vậy. Tôi sẽ không ép buộc bà ấy. Tôi còn nhớ rõ từng lần một. Thật đó. Một lần sau ngày kỷ niệm Xuất Hành,[3] mẹ tôi vẫn còn sống, cầu mong bà được yên nghỉ. Vợ tôi lên đây cùng với Mogen David. Sự thực là có tới hai lần sau lễ Xuất Hành. Aachhh! Những chuyện tốt đẹp trong đời tôi chỉ đếm được trên đầu ngón tay! Cầu chúa thương đừng khiến ai để lại cho tôi một triệu đôla, tôi sẽ thậm chí không cởi giầy ra nữa. Tôi có cả một bàn tay nữa mà.”
Ông ta cầm cái chai sâm banh gần cạn chỉ những ngọn đèn huỳnh quang. “Anh bảo đó là ngọn đèn hả? Đó là đèn để đọc sách hả? Thật báng bổ, lạy Chúa tôi! Một nửa số người mù trên thế giới này đã tự hại mình bằng những thứ khốn kiếp đó. Anh biết ai sau lưng nó không? Bọn bán kính thuốc đó! Để tôi nói cho anh nghe, nếu có ai trả tôi vài trăm cho toàn bộ số hàng và địa giới kinh doanh của tôi, thì mai tôi bán liền. Đúng thế, Leopold A. Patimkin, một học kỳ kế toán, lớp đêm Đại học City, sẽ bán hết thiết bị, địa giới kinh doanh, uy tín. Tôi sẽ cho đăng năm phân quảng cáo trên tờ Times. Địa giới kinh doanh là từ đây cho đến bất kỳ đâu. Tôi muốn đi đâu là đi, mình làm chủ mình, chẳng có thằng nào dạy bảo tôi phải làm gì. Anh biết Kinh Thánh chứ? Chúa phán, ‘Hãy có ánh sáng… và hãy có Leopold Patimkin!’ Đó là nhãn hiệu của tôi, tôi cũng bán luôn. Tôi bảo cho họ câu khẩu hiệu đó, họ nghĩ tôi đã đặt ra nó. Thông minh thì ích gì trừ phi anh còn cơ may thăng tiến. Trong ngón út của tôi còn có nhiều chất xám hơn nguyên một cái đầu của Ben. Vậy mà hắn lên tới đỉnh còn tôi thì ở dưới đáy! Ôi trời! Tin tôi đi, nếu anh sinh ra may mắn, thì anh sẽ may mắn!” Thế rồi ông ta ngồi im như thóc.
Tôi có cảm giác rằng ông ta sắp khóc, nên tôi nghiêng người qua thì thầm với ông ta, “Ông nên về đi.” Ông ta đồng ý, nhưng tôi phải đỡ ông ta đứng dậy và kè tay dìu ông ta tới chỗ bà vợ với con gái. Không đánh thức đứa con gái dậy được nên Leopold với Bea nhờ tôi trông chừng cô bé một lát để họ ra hành lang lấy áo khoác. Khi họ trở lại, Leopold coi bộ đã ngoi được trở lại mức giao tiếp bình thường. Ông ta bắt tay tôi với tình cảm thực sự. Tôi cũng rất cảm động.
“Anh sẽ tiến xa,” ông ta nói với tôi. “Anh là đứa thông minh, anh sẽ chơi an toàn được. Đừng làm hỏng mọi chuyện.”
“Không làm hỏng đâu.”
“Lần sau gặp lại mong sẽ là đám cưới của anh.” Rồi ông ta nháy mắt với tôi. Bea đứng gần đó, cứ lầm bầm tạm biệt trong khi ông ta nói chuyện. Ông ta lại bắt tay tôi rồi bế đứa con đang nằm trên ghế lên và họ đi ra cửa. Nhìn từ đàng sau, vai rũ, nặng nề, bế con cái, trông họ cứ như những người đang trốn chạy khỏi một thành phố bị chiếm đóng.
Tôi tìm thấy Brenda ngủ gục trên một trường kỷ ngoài tiền sảnh. Lúc đó đã gần bốn giờ sáng và chỉ hai đứa tôi với nhân viên tiếp tân là còn có mặt trong tiền sảnh khách sạn. Ban đầu tôi không đánh thức Brenda, vì trông nàng nhợt nhạt và mệt mỏi và tôi biết nàng đã bệnh. Tôi ngồi cạnh nàng, vuốt mái tóc của nàng ra sau tai. Tôi tự hỏi làm sao mà mình quen biết nàng, vì khi nàng ngủ tôi cảm thấy mình chẳng biết gì về nàng hơn những gì tôi có thể thấy trong một bức ảnh chụp. Tôi nhẹ nhàng lay nàng dậy và trong cơn ngái ngủ nàng bước cùng tôi ra xe.
Khi ra khỏi đường hầm Lincoln phía Jersey thì trời đã gần sáng. Tôi hạ đèn từ pha xuống cốt và chạy vào đường cao tốc, và ngoài kia trước mắt tôi là những đồng cỏ xâm xấp nước trải dài hết dặm này sang dặm khác, đẫm nước, loang lổ cỏ, nồng hương, như một chốn bị Thượng Đế bỏ quên. Tôi nghĩ đến một điều bị bỏ quên khác, Leopold Patimkin, ông em ghẻ của Ben. Trong mấy giờ nữa ông ta hẳn đã ở trên một chuyến xe lửa lên phương bắc, và khi đi qua những cánh đồng White và Scarsdale ông ta sẽ ợ hơi và thấy lại vị sâm banh và sẽ để mùi đó lưu lại ít lâu trong miệng. Trên ghế bên cạnh ông ta, như những hành khách khác, sẽ là những thùng bóng đèn. Ông ta có thể rời tàu ở New London, hoặc có thể, hứng chí vì hình ảnh ông anh ghẻ, ông ta sẽ đi tiếp, hy vọng tìm được cơ may mới ở miệt cực bắc. Vì địa giới kinh doanh của Leopold là cả thế giới, mọi thành phố, mọi đầm lầy, mọi con đường và xa lộ. Ông ta có thể đi tiếp đến Newfoundland nếu muốn, hay Vịnh Hudson, rồi lên tuốt Thule, và thả dốc qua mé bên kia địa cầu và gõ vào những khung cửa sổ đầy băng tuyết trên những thảo nguyên nước Nga, nếu ông ta muốn. Nhưng ông ta sẽ không muốn đâu. Leopold đã bốn mươi tám và ông ta đã hiểu ra. Ông cứ theo đuổi nỗi buồn và cảnh thiếu tiện nghi, được thôi, nhưng nếu bạn có đầy tâm sự khi tới New London, thì bạn còn mong tìm kiếm thảm cảnh nào nữa ở tận Vladivostok?
Ngày hôm sau gió đưa mùa thu về và những cành liễu rũ đã chạm xuống tận bãi cỏ trước nhà Patimkin. Buổi trưa tôi lái xe đưa Brenda ra xe lửa, và nàng chia tay tôi.
_________________________
[1]Thời kỳ cấm rượu: Giai đoạn 1920-33 luật Liên bang Mỹ cấm sản xuất, chuyên chở và bán đồ uống có cồn, cũng là cơ hội làm giàu của giới buôn rượu lậu.
[2]kosher: loại thức ăn làm theo luật của dân Do Thái.
[3]Xuất hành (exodus): cuộc di cư của người Do Thái ra khỏi đất Ai Cập.