Dịch giả: Nguyễn Duy Chính
Hồi 50(a)
GIÁO ĐƠN VU CHIẾT TIỄN, LỤC QUÂN TÍCH DỊCH, PHẤN ANH HÙNG NỘ

Tống Liêu thoát khỏi một trường can qua.

Nhân, tình, nghĩa vẹn cả ba,
Thân kia dẫu thác danh đà lưu phương.
°

*

Về đến vương phủ, Gia Luật Hồng Cơ không cho Tiêu Phong gặp mà  chỉ hạ lệnh cho Ngự Doanh Đô Chỉ Huy Sứ đem ông giam lại. Ngờ đâu  Đô Chỉ Huy Sứ lại tưởng Tiêu Phong trời sinh thần lực, những nhà ngục  tầm thường nhốt sao nổi ông ta, bèn sai người đi lấy những loại khóa sắt,  xích sắt to lớn nhất, cùm chân tay Tiêu Phong rồi nhốt vào một cái cũi  lớn. Cái cũi đó ngày xưa A Tử dùng để nhốt sư tử, chấn song cái nào cái  nấy to bằng cánh tay trẻ con.
Bên ngoài cũi lại sai một trăm thân binh, tay cầm giáo dài vây quanh  mấy tầng, nếu Tiêu Phong ở trong cũi có gì khác lạ thì bọn thân binh sẽ  lập tức dùng mâu đâm ngay, dù ông có khỏe đến mấy cũng không thể  trong nháy mắt đã tháo được xích sắt, khóa sắt, phá được cũi chui ra. Bên  ngoài vương phủ lại có thêm một tầng thân binh canh gác nghiêm nhặt.  Những tướng sĩ trước đây ở Nam Kinh đều bị Gia Luật Hồng Cơ điều đi  nơi khác để phòng bọn họ còn trung thành với Tiêu Phong mà nổi loạn  cứu ông ta ra.
Tiêu Phong níu chặt lấy lan can bên trong chiếc cũi, nghiến răng cố  chịu đựng cơn đau, không còn hơi đâu mà suy nghĩ chuyện gì khác. Mãi  tận chiều hôm sau, độc tính của thuốc độc mới dần dần tiêu giải, cơn đau  giảm đi. Tiêu Phong lực khí hơi khôi phục lại rồi nhưng vào tình cảnh này thì làm cách nào mà thoát nổi? Ông nghĩ thầm có buồn rầu cũng chẳng  đến đâu, vả lại trong đời nguy nan kinh lịch cũng nhiều, không lẽ Tiêu  Phong này một đời hào kiệt lại đành chịu chết trong cái chuồng sắt này  hay sao? Cũng may các thân binh kính trọng ông là người anh hùng, canh  gác tuy dám không lơ là nhưng vẫn đem đồ ăn thức uống đến cho ông, đối  xử không kém phần lễ mạo. Tiêu Phong cứ việc uống tì tì, mấy ngày sau  chung quanh đầy những bình không.
Gia Luật Hồng Cơ trước sau không hề đến thăm nhưng lại sai mấy  người khéo mồm khéo miệng đến khuyên  giải, nào là hoàng thượng  khoan hồng đại lượng, còn nghĩ đến tình cũ nghĩa xưa nên không nỡ gia  hình, mong Tiêu đại vương hối hận  xin tha. Tiêu Phong coi bọn thuyết  khách này không bằng nửa con mắt, chỉ tự rót rượu uống một mình.
Cứ như thế đến hơn một tháng, bốn tên thuyết khách đó vẫn chưa chịu  chán, ngày ngày cũng chỉ có bấy nhiêu, nói qua nói lại lèm bèm mãi, nào  là “Hoàng thượng đãi Tiêu đại vương ân đức như núi, chỉ có đường nghe  theo lời của hoàng thượng mới mong sống sót mà thôi”, nào là “Hoàng  thượng thần võ có thể trông thấu  suốt chuyện ngoài vạn dặm, cho đến  một trăm đời sau, thánh thiên tử đã đoán thì không thể nào sai trật, đại  vương nên theo con đường hoàng thượng đã vạch ra là hơn” … Bọn thuyết  khách đó rõ ràng biết rằng không thể nào khuyến dụ được Tiêu Phong,  vậy mà vẫn cứ lải nhải mãi không ngừng.
Đến một ngày kia Tiêu Phong đột nhiên nổi bụng nghi ngờ: “Hoàng  thượng đâu phải người hồ đồ, sao lại cứ phải cho người đến ỉ ôi khuyên  dụ ta? Bên trong hẳn có điều gì khúc mắc”. Ông suy nghĩ một chút, đột  nhiên nghĩ ra: “Đúng rồi, hoàng thượng đã điều binh khiển tướng, cử đại  quân nam chinh nên giả vờ sai mấy tên dấm dớ này đến đây cầm chân ta.  Rõ ràng ta đâu còn phản kháng gì được nữa, y muốn giết lúc nào thì giết,  việc gì còn phải phí công như thế?”.
Tiêu Phong lại suy nghĩ thêm một chút, đã hiểu ngay: “Hoàng thượng  tự cho mình là anh hùng, muốn ta phải tâm phục khẩu phục nên ngự giá  thân chinh bình nam, sau khi thu giang sơn nhà Đại Tống sẽ đòi mình lên  huênh hoang một phen. Y sợ ta nổi máu cương cường, tuyệt thực tự tận  nên mới sai bọn tiểu nhân này đến đây nói trời nói đất”.
Ông vốn đã chẳng còn coi an nguy sinh tử vào đâu nên dẫu bị giam  vào lồng, cũng chẳng thèm tức tối. Tuy không muốn đốc quân nam chinh  nhưng Tiêu Phong đâu phải là hạng lo cái lo trước thiên hạ, nghĩ đến Gia  Luật Hồng Cơ đã phát binh rồi, không thể nào vãn hồi đại kiếp được nữa,  chỉ đành thở dài một tiếng, uống liền tù tì mươi bát rượu cho sướng miệng  rồi gác sang một bên không nghĩ đến nữa.
Chỉ thấy bốn gã thuyết khách kia cứ leo lẻo nói mãi, Tiêu Phong bất  chợt hỏi:
- Đại quân của Khất Đan chúng ta đã qua sông Hoàng Hà chưa vậy?
Bốn tên thuyết khách hết sức ngạc nhiên, chưng hửng nhìn nhau một  hồi, một tên đáp:
- Tiêu đại vương nói thật đúng quá, đại quân của ta đợi ngày sẽ tiến,  tuy chưa qua sông Hoàng Hà nhưng chắc cũng chỉ nay mai.
Tiêu Phong gật đầu:
- Thế ra đại quân chưa xuất phát, không biết đến bao giờ mới là  ngày Hoàng Đạo?
Bốn tên thuyết khách đưa mắt nhìn nhau, một tên nói:
- Bọn chúng tôi chỉ là thứ tiểu lại hạ liêu, không nghe biết gì về  quân tình.
Một gã tiếp lời:
- Chỉ mong Tiêu đại vương hồi tâm chuyển ý, hoàng thượng sẽ đích  thân đến gặp đại vương để bàn chuyện quân quốc đại sự.
Tiêu Phong hừ một tiếng, không hỏi thêm nữa, nghĩ thầm: “Nếu hoàng  thượng tiến quân thế như chẻ tre, chiếm được Đại Tống rồi sẽ giải ta đến  Biện Lương đẩ gặp. Còn như thua trận trở về thì còn mặt mũi nào mà gặp  ta, người đầu tiên phải xử tử ấy chính là mình. Nếu thế thì mình mong y  lấy được Đại Tống, hay mong y bại trận? A ha! Tiêu Phong hỡi Tiêu  Phong, chính ngươi cũng chẳng phải biết nói sao bây giờ!”.
Hôm sau vào lúc chiều tối, bốn tên thuyết khách lại lọt tọt đi vào.  Những thân binh canh gác Tiêu Phong vốn đã nghe mấy tên này nói lèm  bèm phát chán ngấy, vừa trông thấy bọn chúng đã cau mặt, tránh ra mấy bước. Hơn một tháng qua Tiêu Phong không hề có vẻ gì tỏ ra định đào  thoát, nên việc giám thị không còn nghiêm nhặt như lúc đầu. Tên thuyết  khách đi đầu tằng hắng một cái mở màn:
- Tiêu đại vương, hoàng thượng hạ chỉ, xin đại vương nghinh tiếp:  Nếu đại vương cự tuyệt không phụng mệnh, ấy là tội đại ác cực.
Câu này Tiêu Phong nghe đến cả trăm lần rồi, nhưng lần này nghe  giọng có vẻ bất thường như thể bị sưng cổ họng, không khỏi đưa mắt nhìn  y, vừa thoạt trông đã thấy khác lạ. Chỉ thấy tên thuyết khách đó nhướng  mày đảo mắt, vẻ mặt có chiều  quái đản, Tiêu Phong nhìn thêm, thấy  người đó tướng mạo không giống trước, nhìn kỹ hơn nữa không khỏi vừa  ngạc nhiên vừa mừng rỡ, những sợi râu loe hoe của y đều là râu giả gắn  vào, mặt mày bôi nham nhở, lem luốc thật khó coi nhưng bên dưới làn da  vàng ệch là cái miệng anh đào, mũi thon xinh xinh, chính là A Tử. Chỉ  nghe nàng hạ giọng ậm à ậm ừ:
- Hoàng thượng đã nói ắt không thể nào sai, đại vương nếu bằng  lòng tuân theo sẽ có chỗ hay. Đây là thánh dụ của Đại Liêu hoàng đế, đại  vương đọc kỹ vài lần thì biết.
Y nói xong lấy trong tay áo ra một tờ giấy đưa cho Tiêu Phong. Lúc đó  trời đã nhá nhem, đèn đuốc trong sảnh đã được mấy tên thân binh thắp  sáng. Tiêu Phong soi lên ánh đèn thấy trên giấy viết tám chữ: “Đại viện  đến rồi, tối nay thoát hiểm”. Tiêu Phong hừ một tiếng ngao ngán lắc đầu.  A Tử nói:
- Lần này bên ta phát binh, quân mã không phải là ít, sĩ cường mã  tráng, thể nào cũng kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công, đại vương  không phải lo gì cả.
Tiêu Phong đáp:
- Bản ý ta chẳng muốn chết thêm sinh linh nên hoàng thượng mới  giam ta lại.
A Tử nói:  - Nếu muốn thắng trận phải nhờ vào thần cơ diệu toán chứ đâu phải  chỉ giết người mà thôi.
Tiêu Phong lại đưa mắt nhìn vào ba tên thuyết khách còn lại thấy đứa  thì cầm quạt phe phẩy, hoặc đưa tay áo rộng hở hở kín kín, không dám  nhìn thẳng vào người khác, hẳn là những người A Tử gọi đến tiếp tay.  Tiêu Phong thở dài một tiếng nói:
- Hảo ý của các ngươi, Tiêu mỗ cực kỳ cảm kích, có điều kẻ địch thủ  ngự nghiêm mật, công thành chiếm đất, thật chẳng có hi vọng gì …
Còn đang nói, bỗng nghe những tên thân binh thất thanh la hoảng:
- Rắn độc! Rắn độc! Sao rắn ở đâu nhiều thế này?
Chỉ thấy từ cửa cái, cửa sổ vô số rắn bò lổm ngổm, ngóc đầu lè lưỡi,  ngoằn ngoèo tiến vào, trong sảnh lập tức rối loạn cả lên. Tiêu Phong chợt  hiểu: “Xem trận thế của độc xà dường như do anh em Cái Bang đích thân  chỉ huy”.
Các thân binh giơ trường mâu, yêu đao vừa đập vừa chém. Người cai  quản đội thân binh quát lên:
- Những ai đang hầu hạ Tiêu đại vương không được di động một  bước, vi lệnh sẽ bị chém đầu.
Gã quản đội đó cực kỳ bén nhạy, thấy bầy rắn có vẻ khác thường, chỉ  sợ lúc đang lộn xộn, Tiêu Phong sẽ thừa cơ thoát thân.. Những thân binh  vây quanh cái cũi lập tức đứng yên, dùng trường mây chĩa thẳng vào lồng  nhưng vẫn đưa mắt xem chừng những con rắn độc, có con nào bò đến gần  liền dùng giáo đập ngay.
Còn đang hỗn loạn, bỗng nghe phía sau vương phủ có tiếng người la ó:
- Lấy nước ra, mau mau cứu hỏa, mau mau cứu hỏa.
Tên quản đội lại quát:
- Khải Hổ Nhi, mau đi bẩm với Chỉ huy Sứ đại nhân, có di chuyển  Tiêu đại vương đi không?
Khải Hổ Nhi là một bách phu trưởng, đáp lời quay đi, đang định chạy  ra bỗng nghe tiếng người từ sảnh môn hầm hè truyền vào:
- Chớ có trúng phải kế điệu hổ ly sơn của bọn gian tế, nếu có người  cướp ngục thì đâm chết Tiêu Phong trước.
Người đó chính là Chỉ Huy Sứ Ngự Doanh Quân. Y tay cầm trường  đao, uy phong lẫm lẫm đứng chặn ngay trước cửa. Đột nhiên có một bóng  xanh thấp thoáng, ai đó cầm một con rắn xanh ném vào mặt y. Gã chỉ huy  sứ liền giơ đao gạt ra, chỉ nghe vèo vèo liên tiếp, có người bắn ám khí,  bao nhiêu đèn đuốc trong đại sảnh tắt phụp, căn phòng tối đen như mực.  Gã chỉ huy sứ kêu lên một tiếng, trúng phải ám khí, ngã bật ngửa.
A Tử lấy trong tay áo ra một thanh bảo đao thò vào trong cũi, lách  cách mấy tiếng, chặt đứt những sợi dây xích sắt trói Tiêu Phong. Tiêu  Phong nghĩ thầm: “Những song sắt cái chuồng này vừa to vừa cứng, bảo  đao đó chưa chắc đã chặt được”. Vừa lúc đó, sàn dưới chân bỗng sụp  xuống, A Tử ở bên ngoài chiếc cũi sắt nói nhỏ:
- Theo địa đạo chạy ra.
Kế đó một người nào đó từ dưới hố thò tay nắm chân Tiêu Phong kéo  một cái, cả thân hình ông liền rơi tụt vào, thì ra tay thợ lành nghề đào đất  của Đại Lý là Hoa Hách Cấn đã  đến. Y phải mất hơn mười ngày công  phu mới đào được một địa đạo luồn tới cái chuồng đang nhốt Tiêu Phong.
Hoa Hách Cấn nắm được Tiêu Phong rồi liền theo đường hầm bò  ngược trở ra, nhanh chẳng khác gì người ta đi trên mặt đất, trong khoảnh  khắc đã được hơn trăm trượng, lúc đó mới đỡ Tiêu Phong đứng lên, từ  trong hang chui ra.
Chỉ thấy bên ngoài có ba người mặt  mũi tươi tỉnh ùa đến, chính là  Đoàn Dự, Phạm Hoa và Ba Thiên Thạch. Đoàn Dự kêu lên:
- Đại ca!
Vừa nói vừa xông đến ôm chầm lấy Tiêu Phong. Tiêu Phong cười ha  hả nói:
- Đã nghe đến thần kỹ của Hoa tư  đồ từ lâu, hôm nay chính mình  được thử, quả là bội phục.
Hoa Hách Cấn vui vẻ đáp:
- Được kim khẩu của Tiêu đại vương khen một lời, quả là vinh hoa  đệ nhất trong đời tiểu nhân.
Nơi đây cách Nam Viện Đại Vương phủ không xa, bốn bề có tiếng  Liêu binh huyên náo. Bỗng nghe có tiếng tù và, kỵ mã từ ngoài chạy tới  lớn tiếng kêu la:
- Quân địch đánh vào cửa Đông, thân binh ngự doanh ở đâu thì ở đó,  không được di chuyển.
Phạm Hoa nói:
- Tiêu đại vương, mình chạy ra cửa tây.
Tiêu Phong gật đầu:
- Hay lắm, bọn A Tử đã thoát hiểm chưa?
Phạm Hoa chưa kịp trả lời, tiếng của A Tử từ dưới hang đã vọng lên:
- Tỉ phu, thì ra anh vẫn còn nhớ đến em.
Giọng nói đầy vẻ sung sướng. Nghe tiếng loạt soạt, từ dưới hang chui  lên, mặt dán râu, đầu cổ đầy đất cát tro than, cực kỳ dơ dáy, thế nhưng  dưới mắt Tiêu Phong, từ khi biết nàng đến nay, bây giờ là hình ảnh đẹp  hơn cả. Nàng rút bảo đao, định chặt còng cho Tiêu Phong nhưng cái còng  đó dính sát vào tay, nếu chỉ lệch đi một chút thì ắt sẽ bị thương, không  phải dễ cắt. Nàng bèn đưa bảo đao cho Đoàn Dự:
- Ca ca chặt đi.
Đoàn Dự cầm lấy bảo đao, truyền nội lực vào, chặt cái khóa sắt thật  chẳng khác gì gỗ mục. Vừa lúc đó trong hang lại chui ra thêm ba người  nữa, một người là Chung Linh, một người là Mộc Uyển Thanh còn người  thứ ba là một đệ tử tám túi trong Cái Bang. Y là một hảo thủ giỏi nghề sai  khiến rắn, vừa rồi độc xà chạy lung tung trong đại sảnh chính là do y trổ  tài. Gã đó thấy Tiêu Phong không hề hấn gì mừng đến chảy nước mắt ấp  úng:
- Bang chủ, lão nhân gia …
Tiêu Phong đã lâu không nghe ai gọi mình là bang chủ, thấy thần tình  của gã đệ tử Cái Bang, trong lòng hết sức xúc động, nói:
- Thật mất công ngươi quá nhỉ?
Ông khen một câu khiến gã ăn mày lại càng cảm kích, lại vừa vinh dự,  nước mắt ròng ròng. Phạm Hoa nói:
- Nhân mã nước Đại Lý đang động thủ tại cửa đông, mình nên thừa  cơ hỗn loạn chạy đi thôi. Tiêu đại vương tốt hơn hết đừng ra tay để người  ta có thể nhận ra được.
Tiêu Phong đáp:
- Phải lắm.
Chín người lập tức từ cửa lớn xông ra. Tiêu Phong quay đầu lại nhìn,  thì ra đây là một căn nhà gạch đổ nát, bên ngoài trông rất bệ rạc. A Tử  dùng tiếng Khất Đan kêu lớn:
- Lấy nước mau! Lấy nước mau!
Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn cả bọn bắt chước nàng, cũng la lối theo. Ba  Thiên Thạch, Phạm Hoa nhìn quanh quất không thấy tên Liêu binh nào  nên đến đâu châm lửa đến đó, chẳng mấy chốc đã đốt đến bảy tám chỗ.
Chín người chạy về hướng tây. Bọn Đoàn Dự vốn đã thay y phục Khất  Đan rồi, trong thành lại đang đại loạn thành thử chẳng ai chú ý, chỉ khi  nào thấy đại đội binh mã Khất Đan đuổi theo thì mới kiếm những chỗ tối  tăm ẩn náu. Chạy qua khỏi hơn chục con đường đã nghe phương bắc có  tiếng tù và rầm rĩ, tiếng người lao xao, kêu la:
- Chao ôi, quân địch đánh vào cửa bắc, hoàng thượng bị địch bắt rồi.
Tiêu Phong hoảng hốt vội ngừng chân hỏi:
- Liêu đế bị bắt ư? Tam đệ, Liêu đế là anh kết nghĩa của ta, y tuy đối  với ta bất nhân nhưng ta không thể đối với y bất nghĩa, nhất định không  nên giết y …
A Tử cười đáp:
- Tỉ phu yên tâm, đây là ba mươi sáu động động chủ, bảy mươi hai  đảo đảo chủ của cung Linh Thứu. Tiểu muội dạy họ thuộc lòng mấy câu  Khất Đan, bây giờ la lên để phao tin nhảm làm loạn lòng người đấy thôi.  Trong thành Nam Kinh trọng binh trú  đóng, hoàng đế có đến hơn vạn  thân binh bảo hộ, làm sao bắt được?
Tiêu Phong mừng rỡ hỏi:
- Thuộc hạ của nhị đệ cũng đến rồi hay sao?
A Tử đáp:
- Nào chỉ thuộc hạ của tiểu hòa thượng thôi đâu, chính chú tiểu cũng  đến nữa, luôn cả vợ y cũng đi theo.
Tiêu Phong ngạc nhiên:
- Cái gì mà lại vợ chú tiểu?
A Tử cười đáp:
- Tỉ phu không biết đâu, vợ của Hư Trúc Tử chính là công chúa Tây  Hạ, có điều mặt lúc nào cũng lấy khăn che kín mít, trừ một mình tiểu hòa  thượng ra, không một ai thấy cả. Tiểu mưội có hỏi y: “Vợ nhị ca đẹp  không?” thì y chỉ cười không trả lời.
Tiêu Phong khi đó bỏ đi bây giờ lại nghe chuyện lạ lùng thế này, tuy  mừng thầm cho Hư Trúc, nhưng không khỏi đưa mắt dò ý Đoàn Dự. Đoàn  Dự cười nói:
- Đại ca chớ có lo xa, tiểu đệ không để bụng đâu, nhị ca cũng không  phải là thất tín. Chuyện này nói ra  dài dòng, mình sẽ từ từ nói chuyện  sau.
Nói tới đây thì đoàn người đã chạy thêm được một quãng, thấy đằng  trước trên một bãi đất rộng có một cái đài cao, lửa cháy ngút trời, hai cột  cờ lớn trước mặt lửa đang cháy lem lém. Tiêu Phong biết khu đất này là  đại hiệu trường, dùng cho Liêu binh tập luyện, không biết cái đài này  dựng lên từ bao giờ mà mình không hay biết.
Ba Thiên Thạch nói với Đoàn Dự:
- Bệ hạ, điểm tướng đài và soái tự  kỳ của Liêu đế bị đốt thế này,  quả là điềm gở cho quân Liêu, chuyến hành quân phạt Tống của Gia  Luật Hồng Cơ e rằng không xong.
Đoàn Dự gật đầu:
- Quả đúng như thế.
Tiêu Phong nghe y gọi là “bệ hạ” mà Đoàn Dự cũng gật gù, trong  bụng lấy làm lạ hỏi:
- Tam đệ, ngươi … ngươi đã lên ngôi hoàng đế rồi đấy ư?
Đoàn Dự buồn bã đáp:
- Tiên phụ bất hạnh giữa đường băng tồ, hoàng bá phụ lại bỏ ngai  vàng đi tu, xuất gia ở chùa Thiên Long nên ép tiểu đệ tiếp vị. Tiểu đệ  không tài không đức, ở ngôi cao thế này, thực là xấu hổ.
Tiêu Phong kinh hãi:
- Ối trời, bá phụ khứ thế rồi ư? Tam đệ, ngươi là chúa một nước Đại  Lý, sao lại vì ta mà đem thân vào chỗ nguy nan, mạo hiểm thế này? Nếu  bị tổn thương, thì ta … ta… thật không phải với quân dân Đại Lý.
Đoàn Dự cười khì khì nói:
- Đại Lý chỉ là một nước nhỏ ở một góc nam cương, hai chữ “hoàng  đế” kể cũng quá đáng. Tiểu đệ ngờ nghệch, trông chẳng ra vẻ ông vua,  có chút nào giống hoàng đế đâu? Để người ta gọi là “bệ hạ” quả thật xấu  hổ. Anh em ta tình như cốt nhục, đại ca bị nạn, tiểu đệ lẽ nào không chia  xẻ với nhau một chút hay sao?
Phạm Hoa nói:
- Tiêu đại vương lần này hết sức can ngăn Liêu đế, khuyên đừng  phạt Tống, tệ quốc từ trên xuống dưới ai ai cũng thâm cảm đại đức. Liêu  đế nếu lấy được Đại Tống rồi, bước kế tiếp ắt sẽ thu Đại Lý. Tệ quốc  binh ít tướng yếu, làm sao chống chọi được với tinh binh Đại Liêu? Tiêu  đại vương cứu Đại Tống mà cũng là cứu Đại Lý, Đại Lý từ rày hết lòng  hết dạ ra sức vì đại vương thì cũng là chuyện đương nhiên thôi.
Tiêu Phong nói:
- Ta chỉ là một kẻ dũng phu, chỉ vì không đành lòng để hai nước giao  chiến, hại thương bách tính, chứ đâu có công lao gì?
Vừa nói đến đây, bỗng thấy phía nam lửa bốc lên ngút trời, một đoàn  người tay xách nách mang, chen vào  đoàn quân cùng chạy qua, ai nấy  kêu la:
- Các hòa thượng chùa Thiếu Lâm cùng vô số hảo hán đang đánh  vào cửa nam.
Lại có người nói:
- Nam Viện Đại Vương Tiêu Phong làm loạn, hàng nhà Tống rồi, đã  giết mất hoàng đế Đại Liêu.
Lập tức có mấy người Khất Đan nghiến răng trợn mắt nói:
- Gã Tiêu Phong phản quốc hàng địch, bọn ta hận không được lột da  ăn thịt y.
Một người khác liền hoảng hốt hỏi lại:
- Có thực là vạn tuế gia bị tên gian tặc Tiêu Phong sát hại không?
Một người liền đáp:
- Sao lại không thực? Chính mắt ta thấy gã Tiêu Phong cưỡi một con  ngựa trắng, xông đến trước mặt vạn tuế, đâm một giáo từ ngực vạn tuế  gia suốt tận bên kia.
Một ông già nói:
- Tên cẩu tặc Tiêu Phong đó sao vô lương tâm thế? Thế thì quả thực  y là người Khất Đan hay là người Hán?
Một hán tử đáp:
- Nghe nói y là man tử Nam triều giả làm người Khất Đan, tên cẩu  tặc đó thật gian ác, quả không bằng loài cầm thú.
A Tử nghe những người đó nhục mạ Tiêu Phong nổi giận, vung roi  đánh ngựa, tính quật vào gã Khất Đan ở bên cạnh. Tiêu Phong vội giơ tay  gạt ra, lắc đầu nói nhỏ:
- Cứ để cho họ nói gì thì nói.
Ông hỏi thêm:
- Có thực là các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm đã đến rồi chăng?
Gã đệ tử tám túi đáp:
- Xin bẩm với bang chủ: Đoàn cô nương từ Nam Kinh đi ra gặp ngay  Ngô trưởng lão của bản bang, nói là bang chủ vì sinh mạng của bách tính Đại Tống nên nhất định khuyên Liêu đế đừng xuất quân chinh phạt nên  đã bị cầm tù. Ngô trưởng lão không tin, bảo là bang chủ người Liêu, lẽ  nào lại lo cho người Tống? Y bèn lẻn vào Nam Kinh đích thân nghe  ngóng, thấy lời của Đoàn cô nương quả không sai. Ngô trưởng lão lập tức  truyền “Thanh Trúc Lệnh” của bản bang, đem hành vi đại nhân đại nghĩa  của bang chủ truyền khắp anh hùng thiên hạ. Võ lâm Trung Nguyên cảm  kích ân đức nên do các cao tăng Thiếu Lâm thống lãnh tất cả đều đến cứu  viện bang chủ.
Tiêu Phong nghĩ đến năm xưa nơi Tụ Hiền Trang đối địch với quần  hùng Trung Nguyên, giết không ít anh hùng hảo hán, hôm nay họ lại đi  cứu mình, trong lòng không khỏi băn khoăn, lại thêm cảm kích. A Tử nói:
- Tin tức do các bạn ăn mày trong Cái Bang truyền ra thảo nào  nhanh đến thế! Chao ôi, hỏng rồi, tiếc quá, tiếc quá!
Đoàn Dự hỏi lại:
- Tiếc cái gì?
A Tử đáp:  - Cái tòa Thần Mộc Vương Đỉnh của em, đốt hương để trong đại  sảnh để dụ rắn, lập cập quá nên quên mang theo.
Đoàn Dự cười nói:
- Cái thứ bàng môn tả đạo đó, quên thì thôi, mang theo làm gì?
A Tử đáp:
- Hứ, cái gì mà bàng môn tả đạo? Không có món bảo vật đó, làm sao  dụ được nhiều rắn độc đến mau như vậy, để cho tỉ phu có thể dễ dàng  thoát thân?
Còn đang nói chuyện đã nghe tiếng binh khí chạm nhau leng keng  leng keng không dứt, dưới ánh lửa thấy vô số Liêu binh đánh lẫn nhau.  Tiêu Phong lạ lùng:
- Ồ, sao bên mình …
Đoàn Dự đáp:
- Đại ca, người nào cổ có buộc vải trắng là phe ta.
A Tử lấy ra một manh vải trắng đưa cho Tiêu Phong nói:
- Tỉ phu buộc vào đi.
Trong một thoáng, Tiêu Phong biết là Liêu binh không phân biệt ai là  bạn, ai là thù không biết phải giết ai. Đánh nhau một hồi trở thành người  Liêu tàn sát lẫn nhau. Những người cổ có buộc vải trắng chém đao nào,  đâm mũi giáo nào cũng nhằm binh sĩ nước Liêu. Tiêu Phong thấy người  Liêu chết nằm ngổn ngang, máu đầy mặt đất, tay cầm miếng vải mà run  lên bần bật, trong lòng nghe như có  tiếng vang lên: “Ta là người Khất  Đan, không phải người Hán! Ta là người Khất Đan, không phải người  Hán!”. Miếng vải đó ông không làm sao buộc lên cổ mình được.
Ngay lúc đó có tiếng kẹt kẹt vang lên, hai cánh cửa thành nặng nề từ  từ mở. Đoàn Dự và Phạm Hoa kèm Tiêu Phong cùng chạy ra. Ngoài  thành dưới ánh lửa đuốc bập bùng, vô số người của Cái Bang dắt ngựa  chờ sẵn, vừa thấy Tiêu Phong xông ra lập tức reo hò ầm ỹ:
- Kiều bang chủ! Kiều bang chủ!
Lửa sáng rực cả bầu trời, tiếng người vang động mặt đất. Lại thấy hai  con rồng lửa uốn éo ở hai bên, một người cưỡi ngựa từ chính giữa chạy  thẳng đến. Ngồi trên ngựa là một người ăn mày già hai tay cầm cây gậy  đánh chó, tín vật của bang chủ Cái Bang giơ lên khỏi đầu, chính là Ngô  trưởng lão. Y chạy đến trước mặt Tiêu Phong, nhảy xuống ngựa, quì dưới  đất nói:
- Ngô Trường Phong được chúng huynh đệ ủy thác, giao đả cẩu bổng  của bản bang lại cho bang chủ. Chúng tôi quả thực hồ đồ đáng chết, đầu  óc lú lẩn, nghi oan cho người ngay, khiến cho bang chủ phải chịu muôn  vàn khổ sở. Chúng tôi thật không bằng con heo con chó, chỉ mong bang  chủ không chấp nhất lỗi lầm của kẻ tiểu nhân, thương hại bọn chúng tôi  bơ vơ côi cút, không nơi nương tựa mà quay trở lại nhận chức bang chủ.  Chúng tôi bị kẻ gian xúi biểu, bảo bang chủ là Hồ cẩu Khất Đan, quả là  đáng chết. Chúng tôi đã đem tên gian đồ Toàn Quan Thanh loạn đao  phân thi để rửa hờn cho bang chủ rồi.
Nói xong y đưa chiếc gậy đánh chó cho Tiêu Phong. Tiêu Phong trong  lòng chua chát nói:
- Ngô trưởng lão, tại hạ quả thực  là người Khất Đan. Được các vị  trọng nghĩa đối đãi như thế, tại hạ cảm kích không đâu cho hết nhưng  chức vị bang chủ quả vạn lần không dám đảm đương.
Ông vừa nói vừa đưa tay đỡ Ngô trưởng lão lên. Ngô Trường Phong  thần tình hoang mang, vò đầu bứt tai ấp úng:
- Ông … ông cũng bảo ông là người Khất Đan ư? Ông … không nhận  chức bang chủ? Kiều bang chủ, xin ông rộng lượng đừng giận chúng tôi  nữa.
Bỗng nghe phía trong thành tiếng trống nổi lên rồi đại đội Liêu binh  xông ra. Tiêu Phong kêu lên:
- Ngô trưởng lão, chúng mình chạy  đi thôi. Liêu binh dũng mãnh,  nếu kết thành trận thế thì không thể nào chống nổi.
Tiêu Phong biết rằng Cái Bang và quần hùng Trung Nguyên nhất thời  chiếm được thượng phong, chẳng qua là do tấn công bất ngờ khiến đối  phương trở tay không kịp, còn như thực  sự hai bên giao chiến thì một  nghìn, vài trăm nhân vật giang hồ làm sao chống nổi với hàng vạn quân  tinh nhuệ? Huống chi nếu đã hỗn chiến rồi, hai bên tử thương đều nặng  như thế trái với bản ý của mình, bèn nói:
- Ngô trưởng lão, vấn đề bang chủ, để từ từ rồi tính sau cũng chưa  muộn. Ông mau truyền lệnh cho các anh em rút lui về hướng tây.
Ngô Trường Phong đáp:
- Vâng!
Y lập tức truyền lệnh ra, bang chúng Cái Bang hậu đội đổi thành tiền  đội, chạy về hướng tây. Chẳng bao lâu Hư Trúc Tử cũng suất lãnh các  thuộc hạ chư nữ cùng các dị sĩ bảy mươi hai đảo, ba mươi sáu động đánh  rốc qua để cùng nhau hợp lại. Chạy được mấy dặm, các võ sĩ Đại Lý dưới  quyền điều động của Phó Tư Qui, Chu Đan Thần cũng chạy đến. Thế  nhưng quần tăng Thiếu Lâm và quần hào Trung Nguyên thì vẫn không  thấy đâu. Chỉ nghe văng vẳng tiếng chém giết trong thành Nam Kinh  vọng ra.
Tiêu Phong nói:
- Quần hào và phái Thiếu Lâm bị kẹt lại trong thành rồi, mình chịu  khó chờ thêm chút nữa.
Một hồi sau, tiếng la ó trong thành càng thêm rầm rĩ. Đoàn Dự nói:
- Đại ca đợi ở đây để tiểu đệ đi vào tiếp ứng bọn họ chạy ra.
Chàng liền dẫn võ sĩ Đại Lý chạy trở vào thành Nam Kinh. Khi đó trời  đã sáng dần, Tiêu Phong trong lòng lo lắng, không biết quần hào Nam  Kinh có thoát hiểm chăng, lại nghe sát thanh càng lúc càng lớn, các võ sĩ  Đại Lý quay trở vào đã lâu mà không thấy một ai chạy ra được.
Một tên thám tử Cái Bang cưỡi ngựa chạy ra báo:
- Mấy nghìn quân thiết giáp Liêu binh chặn cửa Tây rồi, võ sĩ Đại  Lý không qua nổi, mà quần hào Trung Nguyên cũng không ra được.
Hư Trúc phất tay một cái nói:
- Linh Thứu Cung chúng ta xông vào tiếp ứng.
Y liền dẫn hai nghìn hảo hán các lộ, cùng cửu bộ chư nữ quay trở lại.  Tiêu Phong cưỡi trên mình ngựa, nhìn qua hướng đông, thấy trong thành  Nam Kinh khói bốc khắp nơi, đông một ngọn lửa, tây một ngọn lửa không  biết hỗn loạn như thế nào rồi. Đợi đến hơn nửa giờ, lại thêm một tên  thám tử nữa chạy ra báo:
- Đoàn hoàng gia Đại Lý và Hư Trúc Tử tiên sinh cung Linh Thứu đã  mở một đường máu vào được trong thành rồi.
Trước đây mỗi khi có giao chiến Tiêu Phong bao giờ cũng thân tiên sĩ  tốt, lần này lại phải đứng ở xa xa chỉ biết sốt ruột lo lắng, thật chịu không  nổi, bèn nói:
- Để ta đi xem!
A Tử, Mộc Uyển Thanh, Chung Linh ba người cùng khuyên:
- Người Liêu phải bắt được đại ca mới thôi, nhất định chớ nên mạo  hiểm.
Tiêu Phong đáp:
- Không sao!
Ông giục ngựa chạy lên, các bang chúng Cái Bang liền theo sau. Đến  bên ngoài cửa tây thành Nam Kinh thấy dưới chân thành, trên bờ thành  cùng dưới hào có đến mấy trăm người chết, cả binh tướng nước Liêu lẫn  bộ thuộc của Đoàn Dự và Hư Trúc. Cửa thành còn đang đóng hờ, hai tên  đảo chủ tay cầm đại đao, chặn ngay cửa thành đang đánh nhau với quân  Liêu không cho chúng đóng cửa lại.
Bỗng nghe từ phía nam phía bắc tiếng vó ngựa dồn dập, Tiêu Phong  kinh hãi:
- Không xong rồi, đại đội Liêu binh đang chia hai đường bao vây lại,  chúng mình không nên chịu khốn ở nơi đây.
Ông cầm lấy một cái giáo gẫy nhảy vọt lên, chống mũi giáo vào  tường, mượn sức nhảy thêm lần nữa, liên tiếp mấy lần đã lên được đầu  thành, nhìn vào bên trong, thấy trong khoảng mấy dặm vuông ở mạn tây,  chỗ này một đám, chỗ kia một đám, hào kiệt Trung Nguyên bị quân Liêu  vây đánh, xem ra nơi nào cũng chỉ ở đâu lo đấy. Quần hào tuy võ công  cao cường nhưng mỗi người phải đánh  với bảy tám, có khi mười người  không chừng, một hồi lâu đều lâm vào thế quả bất địch chúng.
Tiêu Phong đứng ở trên đầu thành, nhìn vào trong thành rồi lại nhìn ra  ngoài, thực không biết phải chọn bên nào. Quần hào vì cứu mình mà đến,  không lẽ lại đứng giương mắt trơ trơ nhìn  họ bị Liêu binh giết hại, thế  nhưng nếu nhảy xuống cứu, thì là công khai chống lại nước Liêu, thành  kẻ Liêu gian phản quốc, không những bất hiếu bất mục với tổ tông mà  còn để cho muôn đời sỉ tiếu. Còn như chạy khỏi Nam Kinh bỏ nước tị  nạn, người ngoài chẳng qua chỉ mỉa mai “Tiêu Phong bất trung” chứ nếu  quay giáo chống Liêu thì tội lỗi đối với đất nước trở thành cực kỳ to lớn.
Tiêu Phong hành sự xưa nay hào sảng thẳng thắn, quyết đoán cực  nhanh, bây giờ ở vào thế hai mặt đều là đường cùng, trong một thoáng đã  thấy bên tường thành bảy tám tên võ sĩ Khất Đan vây đánh hai nhà sư  Thiếu Lâm. Một nhà sư múa giới  đao, miệng hộc máu, đủ biết đã bị  thương nặng, Tiêu Phong chăm chú nhìn nhận ra đó là Huyền Minh, còn  nhà sư kia múa thiền trượng hết sức hộ vệ, chính là Huyền Thạch. Hai tên  Liêu binh múa trường đao chém xuống Huyền Minh. Huyền Minh đã bị  trọng thương, không đỡ nổi. Huyền Thạch vội đảo thiền trượng, hất cán lên, đánh giạt hai thanh đao ra. Chỉ nghe Huyền Minh kêu rú lên một  tiếng, vai trái đã trúng đao. Huyền Thạch vội tạt trượng ra đánh tên lính  Liêu xương gân gãy nát. Thế nhưng cũng vì thế mà ngực bị trống, một tên  võ sĩ Khất Đan liền cầm mâu đâm vào, trúng ngay bụng Huyền Thạch.  Thiền trượng Huyền Thạch liền đập xuống, tên lính kia nát đầu nhưng  xem ra y cũng chỉ chết trước ông giây lát. Huyền Minh múa loạn thanh  đao chẳng còn chiêu số gì nữa, nước mắt chảy dài kêu lên:
- Sư đệ! Sư đệ!
Tiêu Phong thấy thế nhiệt huyết dâng tràn, không còn nhịn thêm được  nữa quát lớn:
- Tiêu Phong ở đây, muốn giết thì đến giết ta đi, chớ có hại người vô  tội.
Ông từ trên tường thành nhảy xuống, còn ở trên không đã đá văng hai  tên lính Liêu ra xa, chân vừa chấm đất đã một tay chộp Huyền Minh, tay  kia tiếp lấy thiền trượng của Huyền Thạch, kêu lên:
- Tại hạ cứu viện quá chậm, tội nghiệt quả là thâm trọng.
Ông liền vung thiền trượng hất hai tên võ sĩ Khất Đan ra ngoài mấy  trượng. Huyền Thạch gượng gạo đáp:
- Chúng tôi vu oan cho cư sĩ là người Khất Đan, tội nghiệt còn nặng  hơn, thiện tai, thiện tai! Hôm nay cạn ao bèo …
Hai chữ “xuống đất” chưa nói hết đã hộc máu, đầu ngoẹo qua tắt thở.  Tiêu Phong tay đỡ Huyền Minh, xông qua bên trái vào nơi mấy tên võ sĩ  Đại Lý đang bị vây. Binh tướng nước Liêu thấy Nam Viện Đại Vương  thần uy lẫm lẫm xuất hiện, ai nấy khiếp đảm. Tiêu Phong vũ động thiền  trượng, xa thì đâm, gần thì đánh, tuy không giết người nhưng ai gặp phải  cũng đều bị thương. Lính Liêu vội vàng bỏ chạy, Tiêu Phong tả xung hữu  đột, trong khoảnh khắc đã tụ được hai trăm người lại một chỗ. Ông lớn  tiếng kêu:
- Các vị chớ có tách rời nhau.
Ông cùng hai trăm người đó chạy khắp nơi, thấy dâu có người bị vây  liền xông đến, cứu người ra, chẳng khác gì tuyết lăn, càng lúc càng lớn, đến lúc được trên nghìn người rồi thì Liêu binh không còn ngăn cản được  nữa. Sau đó Tiêu Phong cùng Hư Trúc, Đoàn Dự và Huyền Độ đại sư của  phái Thiếu Lâm dẫn quần hào Trung Nguyên xông ra cửa thành.
Tiêu Phong tay cầm thiền trượng, đứng bên cổng thành, nhường cho  quần hào Đại Lý, Linh Thứu và Trung Nguyên lần lượt đi ra. Binh tướng  nước Liêu chỉ đứng xa xa hò hét, không ai dám xông lên tấn công. Tiêu  Phong đợi cho mọi người ra hết rồi mới ra sau cùng, ra khỏi cửa thành  quay đầu nhìn lại, thấy xác chết khắp nơi, trận chiến này chết không biết  bao nhiêu người, còn thấy hai nữ  tướng cung Linh Thứu nằm gục trong  đống máu rên rỉ quằn quại, ông lại quay vào chộp lưng hai người đó xách  chạy ra.
Bỗng nghe tiếng trống đánh rầm trời, hai đội kỵ binh theo hai bên nam  bắc xông tới. Tiêu Phong trông thấy mà rùng mình, hai đội này mỗi đội  phải trên một vạn người, bên mình đánh đã lâu, người nào không bị  thương thì cũng mỏi mệt lắm rồi  làm sao ngự địch được nữa? Ông bèn  kêu lên:
- Bang chúng Cái Bang đoạn hậu,  nhường ngựa cho các anh em bị  thương chạy trước.
Những người Cái Bang lớn tiếng đáp ứng, lục tục xuống ngựa. Tiêu  Phong lại quát:
- Kết thành Đả Cẩu Đại Trận.
Bang chúng Cái Bang miệng đọc bài “Liên Hoa Lạc”, sắp thành một  bức tường người. Tiêu Phong hô tiếp:
- Huyền Độ đại sư, nhị đệ, tam đệ, mau mau suất lãnh các bằng hữu  rút lui về hướng tây để cho Cái Bang đi sau chặn đường.
Mặt trời lúc ấy vừa mới lên, chiếu vào lưỡi đao mũi giáo quân Liêu  lấp loáng, hàng vạn vó ngựa nhịp trên mặt đất khiến cho núi đồi rung  chuyển. Hư Trúc và Đoàn Dự thấy thế của quân Liêu, biết Đả Cẩu Đại  Trận của Cái Bang không thể nào ngăn chặn nổi, liền đứng hai bên Tiêu  Phong nói:
- Đại ca, anh em mình kết nghĩa, có  nạn cùng chịu, sống chết bên  nhau.
Tiêu Phong đáp:
- Vậy các ngươi mau bản bản bộ nhân mã rút lui trước đi.
Hư Trúc, Đoàn Dự lập tức truyền lệnh. Thế nhưng bộ thuộc Linh Thứu  Cung nhất định không bỏ chủ nhân ở lại, tướng sĩ Đại Lý cũng không chịu  để hoàng đế ở nơi hiểm địa, bỏ chạy lấy mình. Trước mắt thấy quân Liêu  mỗi lúc một gần, tên bắn rơi chỉ còn cách bọn Tiêu Phong chừng mươi  trượng, Huyền Độ vốn dĩ đã dẫn quần hào Trung Nguyên chạy được một  quãng, lúc này thấy tình hình hung hiểm, lại có mấy chục người quay trở  lại trợ chiến.
Tiêu Phong bụng ngầm than khổ, nghĩ thầm: “Những người này ai nấy  võ công cao cường nhưng tụ tập một nơi cũng chỉ là một bầy ô hợp, không  theo binh pháp bố trí thì đánh sao lại quân Liêu? Ta có chết cũng chẳng  hề chi, nhưng tất cả mọi người sẽ  đều chết bên ngoài thành Nam Kinh  này, thế mới … thế mới …”.
Còn đang chưa biết tính sao, đột nhiên trong đại quân Liêu phèng la  rầm rĩ, chính là tiếng chiêng thu quân. Đám quân Liêu đang hùng hổ  phóng tới nghe tiếng phèng la, vội vàng chuyển đầu ngựa, hậu đội biến  thành tiền đội, chia ra hai hướng nam bắc quay trở về. Tiêu Phong ngạc  nhiên không hiểu vì lý do gì, chỉ thấy phía sau đoàn quân tiếng hò reo  rầm rĩ, bụi bay mù mịt, dường như có  quân mã đang tấn công vào hậu  diện, lại càng kỳ quái: “Sao phía sau quân Liêu lại có binh mã, không lẽ  có kẻ nào nổi loạn hay sao? Hoàng thượng trước mặt sau lưng đều thụ  địch, e rằng có chuyện không hay”. Ông thấy quân Liêu bị khốn lập tức  nghĩ đến an nguy của Gia Luật Hồng Cơ.
Tiêu Phong nhảy lên lưng ngựa, nhìn qua trận thế quân Liêu, thấy  khắp nơi cờ trắng phất phới, tên bắn như mưa rào, quân Liêu lả tả rơi  xuống ngựa. Tiêu Phong lập tức hiểu ra: “À, các bằng hữu của bộ tộc Nữ  Chân đã đến rồi đây, không biết vì sao họ lại biết tin?”.
Người Nữ Chân tiễn pháp thật thần kỳ, lại thêm dũng mãnh, cứ một  trăm người thành một tiểu đội, nằm nép qua một bên ngựa, hò hét vang  rân xông vào xung sát, trong chốc lát đã làm loạn thế trận của quân Liêu.  Người Nữ Chân tuy nhân số không đông nhưng dũng mãnh thiện chiến,  lại tấn công bất ngờ nên viên chỉ huy quân Liêu thấy tình hình bất lợi, sợ nhân mã của Tiêu Phong tấn công phía trước vội vàng thu binh rút lui vào  trong thành.
Phạm Hoa là đại tư mã của Đại Lý, tinh thông binh pháp, thấy có thể  khai thác cơ hội vội vàng bẩm với Tiêu Phong:
- Tiêu đại vương, mình nên mau mau xung sát, bây giờ chính là  lương cơ để phá giặc.
Tiêu Phong lắc đầu. Phạm Hoa lại nói:
- Nơi đây còn cách Nhạn Môn Quan rất xa, nếu không thừa cơ phá  tan quân Liêu thì sẽ để lại hậu hoạn. Quân địch đông, quân ta ít thực khó  mà rút lui cho an toàn được.
Tiêu Phong lại lắc đầu. Phạm Hoa không hiểu tại sao, nghĩ thầm:  “Tiêu đại vương không muốn đuổi tận sát tuyệt, không lẽ còn muốn giữ  lại chút tình trước đây với Liêu đế chăng?”.
Trong đám khói bụi mù mịt, một đoàn người Nữ Chân kẻ thì cởi trần  thân trên, kẻ thì khoác da thú, cưỡi ngựa xông tới chém giết, tên nỏ bắn  vèo vèo không để sót một ai. Khoảng hơn một nghìn quân Liêu đi sau  cùng không kịp vào thành đều bị người Nữ Chân bắn chết nằm gục dưới  chân thành.
Người Nữ Chân cạo sạch tóc phía trước trán, đằng sau tết thành đuôi  sam, ai nấy mặt mày dữ tợn, người đầy máu, bắn chết địch thủ rồi liền  vung dao chặt luôn thủ cấp, đeo vào lưng, có người đeo đến hơn chục cái  đầu lâu. Quần hào ở trên giang  hồ từng chứng kiến xung sát đã nhiều  nhưng hung ác tàn nhẫn của những người man rợ này bây giờ mới thấy  lần đầu, không ai là không kinh hãi.
Một gã thợ săn cao lớn đứng trên mình ngựa, lớn tiếng gọi:
- Tiêu đại ca, Tiêu đại ca, Hoàn Nhan A Cốt Đả đến giúp đại ca đây.
Tiêu Phong phóng ngựa chạy vụt lên, hai người bốn bàn tay nắm chặt  lấy nhau. A Cốt Đả vui mừng nói:
- Tiêu đại ca, hôm đó đại ca không từ biệt mà đi mất khiến cho  huynh đệ ngày ngày thương nhớ, về sau nghe thám tử nói Tiêu đại ca làm  quan to bên nước Liêu, cũng yên tâm. Có điều người Liêu giảo hoạt, đại ca làm quan e không được lâu bền. Quả nhiên hôm trước nghe báo: đại ca  bị tên hoàng đế chó má kia giam tại trong ngục, huynh đệ vội đem binh  mã tới cứu, may quá ca ca không chết cũng không bị thương, huynh đệ  vui mừng lắm.
Tiêu Phong đáp:
- Đa tạ người anh em tới cứu.
Nói chưa dứt câu, trên đầu  thành tên bắn xuống như mưa nhưng hai  người đứng khá xa nên tên không thể bắn tới được. A Cốt Đả giận dữ nói:
- Đồ Khất Đan chó má! Ta đang cùng ca ca nói chuyện lại dám phá  đám.
Y giương cung lên, vèo vèo vèo từ chân thành bắn luôn ba mũi tên,  chỉ nghe ba tiếng kêu thảm thiết, ba tên Liêu binh trúng tiễn, từ bên trên  lộn nhào xuống. Liêu binh bắn không tới y trong khi y dùng cung cứng  tên dài bắn được xa hơn, ba phát trúng cả ba. Trên đầu thành lính Liêu  kêu la rầm rĩ, vội vàng lấy cung về đưa khiên ra đỡ. Chỉ nghe trong thành  tiếng trống đánh thùng thùng, thì ra quân Liêu đã tập hợp binh lính, kiểm  điểm tướng sĩ.
A Cốt Đả lớn tiếng nói:
- Bầy sói nghe đây! Bọn chó má Khất Đan đang tính chui ra khỏi cái  lỗ chó đó, mình xông vào giết chúng một mẻ nữa cho sướng tay.
Người Nữ Chân lớn tiếng reo hò  tưởng chừng như hàng vạn con thú  cùng tru lên. Tiêu Phong nghĩ bụng nếu hai bên đánh trận này, tử thương  ắt là rất nặng vội can:
- Huynh đệ, ngươi tới cứu ta, lúc này ta đã thoát hiểm rồi, còn đánh  nữa làm gì? Hai anh em ta lâu ngày không gặp, đi tìm chỗ nào an tĩnh  uống một trận cho túy lúy xem nào.
Hoàn Nhan A Cốt Đả nói:
- Nếu đại ca đã nói thế thì thôi mình đi.
Chỉ thấy cửa thành mở toang, một đội thiết giáp quân Liêu cưỡi ngựa  phóng ra. A Cốt Đả cất tiếng chửi:
- Giết cho sạch bọn Khất Đan chó má.
Y lắp tên giương cung bắn vụt ra, trúng ngay mặt tên đi đầu, lập tức  ngã xuống ngựa. Những người Nữ Chân còn lại cũng bắn ra, bắn phát nào  cũng trúng mặt người Liêu. Những người đó tiễn pháp rất tinh xảo, đầu  mũi tên lại tẩm thuốc độc, người trúng tên không kip hự lên tiếng nào đã  lăn ra chết ngay, chỉ phút chốc ngoài cửa thành đã có đến mấy trăm  người chết, người ngựa khôi giáp chất thành một cái gò nhỏ, chặn mất  cửa thành. Những người Liêu còn lại sợ đến hết hồn vội đóng chặt cửa  thành không dám ra thêm nữa.
Hoàn Nhan A Cốt Đả liền suất lãnh người trong bộ tộc mình dưới chân  thành diệu võ dương uy, to mồm chửi rủa. Tiêu Phong nói:
- Huynh đệ, thôi mình đi.
A Cốt Đả đáp:
- Được!
Y chỉ tay lên thành chửi:
- Bọn chó Khất Đan nghe đây, may cho các ngươi không đụng tới  một sợi lông măng của Tiêu đại ca nên hôm nay tha cho khỏi chết. Nếu  không ta đã phá thành bắt bọn chó chúng bay từng đứa một ra bắn bỏ.
Sau đó y cùng Tiêu Phong cưỡi ngựa song song đi về hướng tây, đi hơn  chục dặm đến một ngọn đồi. A Cốt Đả nhảy xuống ngựa, từ bên yên ngựa  lấy ra một túi rượu đưa cho Tiêu Phong nói:
- Ca ca, uống rượu.
Tiêu Phong cầm lấy, uống ừng ực một hơi hết nửa bình rồi giao lại cho  A Cốt Đả. A Cốt Đả uống sạch chỗ còn lại nói:
- Ca ca, chi bằng ca ca theo huynh đệ đến núi Trường Bạch, săn bắn  uống rượu, tiêu dao khoái hoạt.
Tiêu Phong biết rõ tính khí Gia Luật Hồng Cơ, hôm nay bị A Cốt Đả  đánh thua một trận ở Nam Kinh lại lên tiếng nhục mạ, thật là mất mặt, ắt  sẽ không bỏ qua, thể nào cũng đem binh sang đánh. Người Nữ Chân tuy  dũng mãnh thật nhưng dẫu sao cũng ít  người, thắng bại thực không thể  biết trước chi bằng không đánh nhau là hơn. Ông nghĩ đến hồi trước ở núi Trường Bạch, ngoài việc trị thương cho A Tử ra không phải lo nghĩ gì,  cũng chẳng tranh danh đoạt lợi với ai, nếu từ nay ở với người Nữ Chân thì  sẽ tránh được bao nhiêu phiền nhiễu bèn nói:
- Huynh đệ, những anh hùng hào kiệt từ Trung Nguyên đến đây cũng  đều vì cứu ta mà ra, để ta tiễn họ đến Nhạn Môn Quan rồi sẽ cùng người  anh em gặp lại.
A Cốt Đả mừng rỡ đáp:
- Bọn man tử Trung Nguyên xí xa xí xô phần nhiều không phải người  tốt, ta cũng chẳng muốn gặp họ làm chi.
Nói xong dẫn tất cả tộc nhân chạy về hướng bắc. Quần hào Trung  Nguyên thấy những người Nữ Chân đó đến đi nhanh như gió thoảng, cực  kỳ táo tợn nghĩ thầm: “Bọn người Phiên này còn ghê gớm hơn cả bọ Liêu  cẩu, cũng may họ là bằng hữu của Kiều bang chủ, nếu không thì nguy  to”.
Các lộ nhân mã dần dần tụ lại một chỗ, bàn tán xôn xao về trận ác  chiến dưới thành Nam Kinh mới rồi. Tiêu Phong cúi rạp tận đất nói:
- Đa tạ các vị đại nhân đại nghĩa, không nhớ chuyện ác cũ của Tiêu  mỗ, nghỉn dăm bôn ba đến cứu, ân đức này Tiêu mỗ mãi mãi không thể  nào báo đền nổi.
Huyền Độ nói:
- Kiều bang chủ nói thế là thế nào? Những chuyện ngày trước cũng  đều vì hiểu lầm mà sinh ra cớ sự,  võ lâm đồng đạo gặp nạn tương trợ  cũng là chuyện đương nhiên. Huống chi Kiều bang chủ không nề sinh tử  an nguy, từ bỏ vinh hoa phú quí cũng chỉ vì sinh linh bách tính Trung  Nguyên, nhân đức ấy thấm nhuần thiên hạ, chúng tôi phải cảm ơn Kiều  bang chủ mới phải.
Phạm Hoa lớn tiếng nói:
- Chúng vị anh hùng, tại hạ xem xét binh thế quân Liêu, e rằng họ  chưa chịu thua đâu, thể nào cũng truy kích, không biết các vị có cao kiến  gì không?
Quần hùng đồng thanh đáp ứng:
- Chúng tôi quyết cùng bọn Liêu binh một trận sống mái, há lại sợ  chúng hay sao?
Phạm Hoa nói:
- Bên địch nhiều, bên ta ít, giao phong trên đồng bằng chúng ta quả  thật bất lợi. Theo ý kiến tại hạ chúng mình nên lui về hướng tây, một là  gần với nơi quân Tống trú đóng, có gì tiếp ứng lẫn nhau, hai nữa quân  địch đuổi càng xa nhân số càng giảm đi, chúng ta có thể thừa cơ phản  kích.
Quần hào ai nấy khen phải. Sau đó Hư Trúc dẫn bộ thuộc cung Linh  Thứu đi thành một toán, Đoàn Dự dẫn binh mã Đại Lý đi một toán khác,  còn Huyền Độ dẫn quần hào Trung Nguyên thành toán thứ ba, còn Tiêu  Phong cùng bang chúng Cái Bang đoạn hậu. Bốn lộ nhân mã, mỗi đoàn  cách nhau chừng vài ba dặm, thám tử cưỡi ngựa chạy tới chạy lui truyền  tin, nếu có quân địch sẽ cứu ứng  lẫn nhau. Đi suốt ngày hôm đó, buổi  chiều ở nơi sơn dã nghỉ ngơi, đến tối cũng không thấy quân Liêu đuổi tới  ai nấy mới yên tâm.
Sáng sớm hôm sau mọi người lại lên đường, Tiêu Phong hỏi A Tử:
- Vị Du quân kia có còn ở cung Linh Thứu nữa hay không?
A Tử bĩu môi nói:
- Ai mà biết? Chắc là còn, y mù hai mắt, làm sao xuống núi được?
Nghe giọng nàng dường như chẳng hề quan tâm đến y. Hôm đó cả bọn  đến Bạch Lạc Bảo dưới chân Ngũ Đài Sơn, đào hố nấu cơm. Đi đến đâu  Phạm Hoa cũng cắt đặt người mai phục khắp nơi, chặt cầu ngăn đường,  để kéo dài thì giờ Liêu binh truy kích. Đến ngày thứ ba, bỗng thấy phía  đông khói phân sói1 bay thẳng vút lên, chính là tín hiệu quân Liêu đang  đuổi theo. Quần hào ai nấy giật mình, những hào kiệt trẻ tuổi đã toan  quay lại trợ giúp những tiểu đội mai phục dọc đường, nhưng bị Huyền Độ,  Phạm Hoa ngăn trở.
Đến chiều hôm đó, quần hào nghỉ lại một triền núi. Ngủ đến nửa đêm,  bỗng có người kinh hoàng kêu lên khiến ai nấy tỉnh dậy, thấy phương bắc đỏ rực cả một góc. Tiêu Phong và Phạm Hoa hai người nhìn nhau, trong  bụng thầm biết hẳn là có chuyện chẳng lành. Phạm Hoa nói nhỏ:
- Tiêu đại vương nghĩ có phải quân Liêu đi vòng qua giáp công  chăng?
Tiêu Phong gật đầu. Phạm Hoa nói:
- Lửa lớn thế, không biết đốt mất bao nhiêu nhà của dân chúng?  Than ôi!
Tiêu Phong không muốn kể xấu Gia Luật Hồng Cơ nhưng biết ngay  lần này bị thua dưới tay người Nữ Chân, bao nhiêu tức tối trong lòng trút  lên đầu bách tính, trên đường tiến quân tây chinh, gặp ai giết nấy, nhà  cửa đốt sạch.
Lửa cháy mãi tới khi trời sáng cũng chưa tắt. Đến trưa hôm đó, phương  nam cũng có lửa bốc lên, dưới ánh nắng chang chang không thấy lửa mà  chỉ thấy khói mù mịt bốc lên tận mây. Đoàn của Huyền Độ vốn dĩ đi đầu  thấy phương nam lửa bốc cao như thế liền gò cương đứng lại bên đường  đợi Tiêu Phong tới nơi bèn hỏi:
- Kiều bang chủ, quân Liêu chia ba mặt tấn công, Nhạn Môn Quan  liệu có giữ nổi không? Ta đã liên tiếp sai người chạy đến báo tin nhưng  thống soái giữ ải nhu nhược, không  dám phát binh sợ không chống nổi  thiết kỵ Liêu binh.
Tiêu Phong không biết phải trả lời thế nào, Huyền Độ lại tiếp:
- Xem ra chỉ có người Nữ Chân là có thể chống lại quân Liêu, trong  tương lai nếu như Đại Tống liên thủ với Nữ Chân, nam bắc giáp công thì  may ra sẽ khiến cho thiết kỵ Khất Đan không tiến xuống nam thôi.
Tiêu Phong hiểu ý ông ta muốn mình tìm cách liên lạc với thủ lãnh Nữ  Chân Hoàn Nhan A Cốt Đả nhưng nghĩ mình vốn là người Khất Đan, làm  sao có thể cấu kết ngoại địch đánh lại nước mình. Ông đột nhiên nhớ ra  hỏi lại:
- Huyền Độ đại sư, phụ thân tôi ở quí bảo sát có bình an không?
Huyền Độ ngạc nhiên nói:
- Lệnh tôn qui y tam bảo, thanh tu ở hậu viện chùa Thiếu Lâm, trước  khi đi Nam Kinh chúng tôi không gặp lệnh tôn để khỏi làm động lòng  trần của người.
Tiêu Phong nói:
- Tại hạ quả là muốn gặp gia gia, hỏi ông một câu.
Huyền Độ ồ lên một tiếng. Tiêu Phong nói:
- Tại hạ muốn thỉnh vấn lão nhân gia: Nếu như quân Liêu tiến đánh  chùa Thiếu Lâm, thì phải xử trí thế nào?
Huyền Độ đáp:
- Thì phải hết sức kháng địch, hộ tự vệ pháp, còn gì khác nữa?
Tiêu Phong nói:
- Thế nhưng cha tôi là người Khất Đan làm sao có thể bảo ông ta vì  người Hán mà giết người Khất Đan cho được?
Huyền Độ trầm ngâm rồi nói:
- Thì ra bang chủ quả thực là người Khất Đan. Bỏ chỗ tối ra chỗ  sáng, quả là đáng kính đáng phục.
Tiêu Phong nói:
- Đại sư là người Hán thì nói Hán  là sáng, Khất Đan là tối. Thế  nhưng người Khất Đan chúng tôi thì lại bảo Đại Liêu là sáng, Đại Tống là  tối. Nghĩ đến tổ tông người Liêu chúng tôi bị người Yết2 tàn sát, bị người  Tiên Ti hiếp đáp, chạy đông chạy tây, khổ không kể đâu cho hết. Thời  nhà Đại Đường, võ công người Hán các ông cực thịnh, giết không biết  bao nhiêu dũng sĩ Khất Đan, bắt bao nhiêu đàn bà con gái Khất Đan. Đến  bây giờ người Hán võ công không được như cũ thì người Khất Đan lại  quay trở lại tấn công người Hán. Cứ như thế giết qua giết lại không biết  đến bao giờ mới thôi?
Huyền Độ lặng thinh, qua một lúc mới niệm:
- A Di Đà Phật! A Di Đà Phật!
Đoàn Dự giục ngựa chạy đến, chỉ nghe được phần sau của câu chuyện  giữa hai người bèn ngâm nga:
Lửa hồng kia chửa tắt,
Chinh chiến hẳn chưa nguôi.
Tráng sĩ giờ đây đã thác rồi,
Ngửng đầu tiếng ngựa hí bi ai.
Sĩ tốt phơi thây ngọn cỏ,
Tướng quân trơ trọi một ngươi.
Kên kên rỉa xác nơi đồng nội,
Cành khô vất vưởng ruột tanh hôi.
Than ôi!
Xưa nay binh lửa là hung khí,
Thánh nhân chẳng đặng mới dùng thôi.3
Tiêu Phong khen ngợi:
Xưa nay binh lửa là hung khí,
Thánh nhân chẳng đặng mới dùng thôi.
- Hiền đệ, ngươi làm thơ hay thật.
Đoàn Dự đáp:
- Không phải thơ đệ làm đâu, đó là của đại thi nhân Lý Bạch đời  Đường đó.
Tiêu Phong nói:
- Ta ở đây cũng nghe người trong bộ tộc hát một khúc như vầy.
Nói xong ông cao giọng hát:
Núi Kỳ Liên đã mất rồi,
Trâu bò gia súc mệt nhoài kiếm ăn.
Gò Yên Chi cũng mất tăm,
Đàn bà con gái hom hem gầy mòn.4
Ông trung khí sung túc, tiếng hát vang vang mãi tận xa nhưng giọng  đầy vẻ thê lương. Đoàn Dự gật đầu:
- Đó là điệu hát của người Hung Nô. Năm xưa Hán Võ Đế chinh  phạt Hung Nô, cướp mất một phần  lớn đất đai của họ, người Hung Nô  khốn khổ đáng thương, chắc hẳn tiếng hát vẫn còn truyền đến tận ngày  nay.