Dịch giả: Nguyễn Duy Chính
Hồi 25(a)
Mãng Thương Đạp Tuyết Hành

Vi vu tuyết thổi mịt mùng,

Ngổn ngang tâm sự biết cùng ai đây.

*

Tiêu Phong đi được khoảng trên mười dặm, thấy bên cạnh đường có một cái miếu nhỏ liền đi vào trong điện, ngồi dựa lưng vào tường đánh một giấc đến hơn hai giờ, bao nhiêu mệt mỏi đều tiêu tan, lại tiếp tục đi về hướng bắc. Đi thêm bốn chục dặm nữa đi đến nơi cửa ải quan yếu của miền bắc là Trường Đài quan. Việc đầu tiên là đi kiếm một quán rượu gọi ngay mười cân rượu trắng, hai cân thịt bò, một con gà quay, một mình ngồi ăn uống. Hết mười cân rồi lại gọi thêm năm cân nữa, còn đang uống dở bỗng nghe tiếng bước chân
một người nào đó đi vào, chính là A Tử. Tiêu Phong nghĩ thầm: Con bé này đến làm mình uống rượu mất hết cả hứng thú. Ông quay mặt đi làm như không nhìn thấy. A Tử mỉm cười, đến ngồi ngay trước bàn đối diện với ông, gọi lớn:
- Điếm gia, điếm gia, đem rượu lên đây!
Một tên hầu bàn vội vàng chạy đến cười nói:
- Tiểu cô nương, cô cũng uống rượu sao?
A Tử mắng liền:
- Cô nương là cô nương, hà cớ gì lại phải thêm một chữ tiểu? Ta sao lại không uống rượu được? Mau đem lên cho ta mười cân rượu trắng trước, sau đó lấy thêm năm cân, còn đồ nhắm lấy hai cân thịt bò, một con gà quay, mau, mau!
Tên tửu bảo le lưỡi một hồi, kêu lên:
- ối mẹ ơi! Cô nương nói thật hay nói chơi, còn bé thế này làm gì mà ăn nhiều vậy?
Y vừa nói vừa liếc Tiêu Phong, nghĩ thầm: Cô nương này đang châm chọc ông đó, ông uống gì cô ta uống nấy, ông ăn gì cô ta gọi nấy. A Tử đáp:
- Ai bảo ta còn bé? Bộ ngươi không có mắt hay sao? Hay là ngươi sợ ta ăn uống không tiền trả?
Nói xong lấy một đĩnh bạc trong túi ra, cạch một tiếng vứt ngay lên trên bàn, nói:
- Ta uống không hết, ăn không hết, cho chó ăn không được hay sao? Việc gì đến ngươi mà phải lôi thôi?
Tên hầu bàn cười nịnh đáp:
- Dạ! Dạ!
Y lại liếc Tiêu Phong một cái nghĩ thầm: Cô này quả là định gây chuyện, nói bóng nói gió để chửi ông đó. Chỉ một chốc đồ ăn thức uống đã dọn lên, gã tửu bảo đem một cái bát lớn đặt ngay trước mặt cô gái cười nói:
- Cô nương, để tôi rót rượu cho cô nhé!
A Tử gật đầu nói:
- Hay lắm!
Tên tửu bảo liền rót cho cô gái một bát rượu đầy, trong bụng nghĩ thầm: Cô mà uống hết bát rượu này, không lăn quay ra sàn nhà thì mới là lạ. A Tử hai tay bưng bát rượu lên, để vào môi nhắp một ngụm, nhăn mặt nói:
- Cay quá, cay quá! Liệt tửu này khó uống quá. Trên đời này nếu không có mấy đứa ngu xuẩn chịu uống thì rượu các ngươi bán được cho ai?
Người hầu bàn liếc trộm Tiêu Phong một cái, thấy ông trước sau mặc kệ không lý đến không khỏi cười thầm. A Tử lại xé hai chiếc đùi gà, cắn một miếng nói:
- Xì, thịt gì ươn quá!
Tên tửu bảo liền cãi lại:
- Con gà béo ngậy thơm nức mũi thế này, mới sáng nay còn kêu cục cục, thịt mới nguyên nóng sốt, sao lại ươn được?
A Tử nói:
- Hừ, thế thì chắc người mi hôi, hoặc giả khách khứa trong tửu điếm này hôi.
Khi đó ngoài trời bông tuyết đang rơi, trên đường nào có ai, trong quán rượu này chỉ có Tiêu Phong và cô nàng là hai người khách. Tên tửu bảo vội cười:
- Thân thể tôi hôi hám đó, đương nhiên là người tôi hôi rồi. Cô nương ăn nói nên cẩn thận kẻo vô ý mích lòng người khác.
A Tử đáp:
- Thế thì đã sao? Mích lòng người ta không lẽ một chưởng đánh chết ta chăng?
Nói xong cầm đũa gắp một miếng thịt bò, cắn một miếng, chưa kịp nhai đã nhổ toẹt xuống sàn, kêu lên:
- ối trời, sao thịt bò gì chua thế, cái này đâu phải thịt bò mà là thịt người. Các ngươi bán thịt người, bộ đây là hắc điếm hay sao?
Tên tửu bảo quýnh quáng vội nói:
- Chao ôi, cô nương làm ơn làm phước đừng có la ầm lên thế. Thịt này là thịt bò tươi, sao lại bảo là thịt người? Thịt người làm gì mà thớ to như thế? Làm gì mà đỏ au như thế này?
A Tử nói:
- Giỏi nhỉ, ngươi biết cả màu sắc lẫn thớ thịt người. Ta hỏi ngươi, quán của các ngươi giết bao nhiêu người rồi?
Gã hầu bàn gượng cười đáp:
- Gớm sao cô nương này thích nói bông lơn quá. Trường Đài quan phủ Tín Dương là một thị trấn lớn, chúng tôi mở quán đã trên sáu chục năm, làm gì có chuyện giết người bán thịt bao giờ?
A Tử nói:
- Được rồi, giả tỉ như không phải thịt người thì cũng giống gì hôi rình, chỉ có mấy đứa khùng mới chịu ăn. ối chà, giày ta đi trời tuyết sao dơ quá chừng.
Nói rồi cô ta liền cầm một miếng thịt bò xào đang còn bốc hơi thơm phức, chà lên giày bên trái. Mũi giày vốn đầy những bùn bị cô ta quệt đi, một nửa bên liền sạch bùn đất, mỡ màng xoa lên lập tức bóng lộn. Gã tửu bảo thấy cô gái dùng miếng thịt mà đại sư phụ nơi nhà bếp đã dụng công nấu nướng để chùi giày, tiếc hùi hụi, đứng một bên mà luôn mồm suýt soa. A Tử hỏi:
- Ngươi suýt soa gì thế?
Tên hầu bàn đáp:
- Thịt bò xào của tiểu điếm xưa nay vẫn được coi là một tuyệt phẩm của Trường Đài trấn, chung quanh đây một trăm dặm, ai ai nghe tiếng cũng giơ ngón tay cái lên ca ngợi, nuốt nước miếng ừng ực, vậy mà cô nương lại đem dùng chùi giày, cái đó... cái đó...
A Tử trừng mắt nhìn y hỏi:
- Cái đó làm sao?
Gã tửu bảo đáp:
- Xem chừng coi nhẹ quá.
A Tử nói:
- Ngươi bảo ta coi nhẹ đôi giày ư? Thịt cũng ở con bò mà ra, da đóng giày cũng ở con bò mà ra, có bên nào nhẹ hơn bên nào đâu. Này, quán đây còn món gì ngon đặc biệt nữa? Nói cho ta nghe thử xem nào.
Tên tửu bảo đáp:
- Món đặc biệt thì dĩ nhiên là có. Có điều giá cả không phải rẻ.
A Tử lấy trong túi ra một thỏi bạc, quăng xuống bàn kêu cạnh một tiếng hỏi lại:
- Bây nhiêu đủ không?
Tên hầu bàn thấy đĩnh bạc đó nặng phải đến năm lượng, dẫu đến hai mâm rượu thịt cũng đủ, vội vàng cười nịnh:
- Đủ chứ, đủ chứ, quá đủ là khác! Những món đặc biệt của tiểu điếm, có cá chép nấu rượu, thịt cừu non xắt lát, thịt heo hầm tương...
A Tử cướp lời:
- Được lắm, mỗi thứ làm cho ta ba tô.
Tên tửu bảo nói:
- Cô nương nếu muốn nếm thử, chắc là mỗi thứ gọi một tô cũng đủ...
A Tử mặt sầm xuống nói:
- Ta bảo ba tô là ba tô, việc gì đến ngươi?
Gã hầu bàn vội đáp:
- Dạ, dạ!
Lập tức dài giọng ngân nga kêu xuống:
- Cá chép nấu rượu ba tô! Cừu non xắt lát ba tô...
Tiêu Phong ở bên cạnh thản nhiên ngồi xem, biết tiểu cô nương này gây chuyện làm phiền gã hầu bàn, cốt để cho mình ở ngoài chõ vào can thiệp nên cứ làm như không nghe không thấy, thản nhiên uống rượu thưởng tuyết. Một hồi sau, thịt cừu bốc hơi nghi ngút bưng lên, A Tử nói:
- Để một bát ở đây, một bát đem qua mời vị gia đài ngồi bên còn một bát nữa để nơi bàn kia. Bên đó cũng dọn đũa bát, để sẵn rượu ngon cho ta.
Tên hầu bàn bèn hỏi:
- Bộ có khách sắp đến hay sao?
A Tử trừng mắt nhìn y nói:
- Ngươi sao lắm lời, coi chừng ta cắt lưỡi ngươi đó.
Gã tửu bảo le lưỡi, đùa lại:
- Muốn cắt lưỡi tiểu nhân chỉ e cô nương không đủ bản lãnh.
Tiêu Phong thót ruột, liếc y một cái nghĩ thầm: Bộ ngươi muốn tìm cái chết hay sao? Sao dám ăn nói kiểu đó với con tiểu ma đầu này? Tửu bảo mang thịt cừu lên đặt trên bàn Tiêu Phong, ông chẳng nói chẳng rằng cầm đũa gắp ăn. Lại một lát sau, cá chép nấu rượu, thịt heo kho tương cũng đem lên, mỗi thứ ba tô, một tô đưa cho Tiêu Phong, một tô cho A Tử, còn một tô để riêng một bàn bên cạnh. Tiêu Phong hễ thấy đồ ăn đem tới đều không từ chối, lập tức ăn uống tự nhiên. A Tử mỗi bát chỉ gắp một miếng rồi chê:
- Hôi quá, thịt rữa cả rồi, chỉ đáng cho chó ăn.
Vừa nói vừa cầm thịt cừu, cá chép, thịt heo đem ra chùi giày. Tên hầu bàn tuy sót ruột thật nhưng đành chịu, biết làm sao. Tiêu Phong trông ra ngoài cửa sổ, nghĩ thầm: Con tiểu ma đầu này quả là đáng ghét, để nó lẽo đẽo theo mình thì hậu hoạn không biết đâu lường được. A Châu gửi ta lo cho nó, con này thuộc loại quỉ thành tinh, thị lo cho mình thừa sức, chẳng cần đến mình phải lo. Chi bằng mình tránh trước là hơn, cứ làm như không thấy. Còn đang nghĩ ngợi, bỗng thấy từ xa trên con đường đầy tuyết một người đi tới. Trời đang mùa đông tháng giá vậy mà y chỉ phong phanh một chiếc áo chùng đơn bằng vải gai màu vàng, tưởng chừng không biết lạnh là gì. Chỉ chốc lát đã đến gần, thấy y chừng bốn mươi tuổi, hai tai đeo hai cái vòng lớn bằng vàng sáng choang, mồm rộng mũi to như mũi lân, hình dáng vừa dữ dằn vừa ngụy bí, hiển nhiên không phải người Trung Thổ. Người đó đi tới trước cửa quán, vén màn bước vào chợt thấy A Tử hơi có vẻ ngạc nhiên nhưng lập tức tỏ ra vui mừng, dường như định nói gì lại thôi, rồi ngồi xuống cái bàn bên cạnh. A Tử nói:
- Có rượu thịt, sao không ăn đi?
Người kia thấy một chiếc bàn bỏ không nhưng bày đầy thức ăn liền nói:
- Để dành cho ta đấy ư? Đa tạ sư muội.
Nói xong đi đến bàn đó ngồi xuống, lấy trong túi ra một chiếc dao nhỏ, cán vàng, cắt thịt bò ra, lấy tay nhón ăn, ăn vài miếng lại uống một bát rượu, tửu lượng xem ra không dở. Tiêu Phong nghĩ thầm: Thì ra gã này cũng là học trò của Tinh Tú Lão Quái. Ông vốn không ưa hình mạo cử chỉ của người kia, nhưng thấy y uống rượu cũng khá nên cảm thấy không đến nỗi hoàn toàn đáng ghét. A Tử thấy y uống cạn một hồ rượu rồi, quay sang nói với gã tửu bảo:
- Lấy chỗ rượu này đem qua cho vị gia đài kia.
Nói xong thò hai tay vào trong bát rượu trước mặt, xoa xoa vài cái, rửa sạch dầu mỡ dính trên tay, sau đó đẩy cái bát ra. Gã hầu bàn nghĩ thầm: Rượu này còn uống thế nào được nữa?. A Tử thấy có vẻ ngần ngại không dám bưng bát rượu đi liền giục:
- Mau bưng qua bên kia, người ta đang đợi.
Gã tửu bảo cười:
- Cô nương có nói chơi không chứ rượu này làm sao uống nữa?
A Tử vênh mặt lên nói:
- Ai bảo là không uống được? Ngươi cho là tay ta dơ phải không? Đã vậy, ngươi uống một hớp, ta cho ngươi một đĩnh bạc.
Nói xong thò tay vào túi lấy ra một đĩnh bạc nhỏ chừng một lượng, quẳng xuống bàn. Tên hầu bàn mừng quá nói:
- Uống một hớp được một lượng bạc, thế thì tốt quá. Chẳng nói rượu này cô nương rửa tay qua, mà dẫu có nước rửa chân, tiểu nhân cũng uống.
Nói xong bưng bát rượu lên, nốc ngay một ngụm lớn. Ngờ đâu rượu vào trong mồm thật chẳng khác nào một cục sắt nung đỏ chạm vào lưỡi, gã tửu bảo rát quá chịu không nổi, rống lên một tiếng há hốc mồm, rượu phun tung tóe, hai chân nhảy chồm chồm, kêu toáng lên:
Như vậy hẳn là năm xưa trên những kệ sách này chất đầy đồ phổ, kinh sách của các môn phái nhưng nay đã bị người nào đó khuân đi hết rồi chỉ còn giá không. Thấy thế lòng Đoàn Dự tưởng như trút được tảng đá, vui sướng không để đâu cho hết: “Nếu như không còn võ công điển tịch nữa thì ta không học võ công cũng không thể nói là không tuân hành mệnh lệnh của thần tiên tỉ tỉ”. Thế nhưng trong lòng chàng bỗng cảm thấy hổ thẹn: “Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, ngươi vì không phải tuân hành mệnh lệnh của thần tiên tỉ tỉ mà lấy làm vui thì đã là bất trung với nàng rồi. Ngươi không thấy võ công điển tịch đáng lẽ phải thất vọng mới phải, sao lại lấy làm sung sướng là sao? Thần tiên tỉ tỉ trên trời dưới đất nếu có linh thiêng ắt sẽ không bằng lòng”.
Chàng thấy Lang Hoàn Phúc Địa này không có cửa ra, bèn quay lại gian phòng có pho tượng ngọc, vừa mới nhìn vào đôi mắt người đẹp, tâm hồn lại say mê điên đảo, ngơ ngẩn một hồi mới vái một cái thật sâu nói:
- Thần tiên tỉ tỉ, hôm nay ta có việc quan trọng đành phải tạm biệt, sau khi cứu xong Chung cô nương rồi, sẽ quay lại tụ hội với tỉ tỉ.
Chàng đành cầm chúc đài hăng hái ra khỏi thạch thất, vừa mới toan tìm đường đi thấy bên cạnh có một hàng bậc thang bằng đá chênh chếch đi lên, lúc đầu mắt vẫn còn dán chặt vào pho tượng ngọc nên không để tâm đến những thạch cấp. Mỗi bước đi lại dùng dằng do dự, biết bao nhiêu lần chàng toan quay lại nhìn pho tượng mỹ nhân, nhưng rồi nghiến răng hạ quyết tâm mới khắc chế được nỗi thèm muốn.
Đi được chừng hơn một trăm bước, qua ba khúc quẹo, nghe văng vẳng tiếng rì rầm ỳ ào của nước chảy, lại thêm hai trăm bậc nữa thì ầm ầm điếc cả tai, trước mắt có ánh sáng chiếu vào. Chàng càng đi nhanh hơn đến hết các bậc thang, trước mặt là một cái lỗ hổng chui lọt người, thò đầu ra thăm dò bỗng sợ đến tim đập thình thình.
Chàng vừa nhìn ra thấy bên ngoài sóng nước cuồn cuộn gầm rú, nước chảy rất xiết chính là một con sông lớn. Hai bên bờ sông là vách đá dựng, đứng sừng sững xem tình hình này đã đến bờ sông Lan Thương. Chàng vừa kinh hoàng, vừa vui sướng, từ từ chui ra khỏi động thấy chỗ đang đứng cao hơn mặt nước sông đến mươi trượng, nước sông có dâng lên cũng không thể nào tràn vào được nhưng nếu muốn đến được bờ sông cũng không phải dễ dàng. Chàng bèn dùng cả tay lẫn chân bò men lên, đồng thời đưa mắt nhìn tứ phía ghi nhớ kỹ cảnh vật để khi cứu người xong sẽ quay lại chốn này. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Từ nay mỗi năm ta để vài tháng vào trong hang này làm bạn với thần tiên tỉ tỉ”.
Bờ sông toàn là đá núi, không có đường đi, chập choạng leo lên leo xuống đi được chừng bảy, tám dặm. Chàng trông thấy một cây đào hoang, trên cành đầy trái nên hái ăn thật no, tinh thần phấn chấn đi thêm được mươi dặm nữa mới gặp một con đường mòn nhỏ. Chàng men theo con đường đó mãi đến lúc chiều tối mới gặp một chiếc cầu treo bằng xích sắt ngang qua sông, trên tảng đá bên cạnh cầu có khắc ba chữ lớn “Thiện Nhân Độ”.
Chàng rất mừng, con đường Chung Linh chỉ cho phải qua cầu treo Thiện Nhân Độ, như vậy đường chàng đang đi là đúng rồi. Chàng bèn bám sợi dây xích bước lên trên cầu. Cây cầu đó có cả thảy bốn sợi dây xích, hai sợi bên dưới để lát gỗ để đi qua, còn hai sợi ở hai bên là để vịn. Chàng vừa đặt chân, cây cầu đã đong đưa, đến giữa sông lại càng chao đảo, hé mắt nhìn thấy nước sông cuồn cuộn, sủi lên bao nhiêu là bọt nước, chẳng khác nào một bầy ngựa hoang chạy dưới chân, chỉ lỡ bước một cái là lộn nhào xuống sông dù bơi lội giỏi đến chừng nào cũng không sao thoát chết được.
Chàng không dám nhìn xuống nữa, chăm chăm hướng về phía trước, lập cập niệm tụng: “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật!” từng bước từng bước lần mãi cũng qua được bên kia.
Chàng ngồi nghỉ một lát rồi cứ theo đường Chung Linh chỉ mà đi cho nhanh. Đi chừng hơn nửa giờ thấy trước mặt là một khu rừng rậm biết là đã đến cửa Vạn Kiếp Cốc, nơi Chung Linh ở. Chàng đến gần quả nhiên thấy một hàng chín cây cổ tùng vươn lên cao vút. Chàng đếm từ bên phải đến cây thứ tư, theo đúng lời Chung Linh chỉ điểm, vòng qua phía sau vạch đám cỏ dài, quả nhiên trên cây có một cái hang, nghĩ thầm: “Cái Vạn Kiếp Cốc này quả thật kín đáo, nếu không được Chung cô nương cho hay thì nào ai biết được cửa cốc lại ở ngay một cây tùng”.
Chàng tiến vào cửa hang, một tay vạch cỏ ra tay phải mò thấy một cái vòng sắt lớn, dùng sức kéo lên, mộc bản liền mở bên dưới là một hàng bực thang bằng đá. Chàng đi xuống mấy bậc rồi hai tay lại nâng cánh cửa gỗ để lại chỗ cũ, tiếp tục đi xuống, khoảng chừng ba mươi bước thì đường ngoặt qua phía phải, sau mấy trượng lại trồi trở lên nghĩ thầm: “Ở đây làm bậc đá so với thần tiên tỉ tỉ kiến tạo những nấc thang trong hang thật dễ hơn nhiều”. Chàng đi lên chừng ba mươi bậc thì đến một khoảng đất bằng.
Trước mắt chàng thấy một bãi cỏ rộng, xa xa là những cây tùng. Chàng đi qua cánh đồng thấy một cây tùng lớn trên bạt đi một mảng vỏ dài chừng một trượng, ngang chừng một thước trên sơn trắng viết một hàng chữ lớn: “Ai họ Đoàn vào đây sẽ bị giết không tha”. Những chữ khác đều màu đen, riêng chữ “giết” lại màu đỏ.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Sao cốc chủ lại hận thù họ Đoàn ta đến thế? Dẫu như có người họ Đoàn đắc tội với y nhưng trên đời này người họ Đoàn hàng nghìn, hàng vạn, đâu phải gặp ai cũng giết”. Khi đó trời đã tối, những chữ đó trông như giơ nanh, múa vuốt, chữ giết kia màu đỏ chói trông chẳng khác gì rải đầy máu tươi, trông thật ghê rợn. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Chung cô nương bảo ta đừng xưng mình họ Đoàn thì ra là thế. Cô ta bảo mình gõ vào chữ thứ ba ba lần, tức là phstyle='height:10px;'>
- ối mẹ ơi! Trời ơi là trời! ối mẹ ơi!
Tiêu Phong thấy thần tình y như vậy cũng giật mình kinh hãi, thấy tiếng kêu của y càng lúc càng ú ớ khó nghe hiển nhiên đầu lưỡi đã sưng tấy lên rồi. Trong quán từ chưởng quĩ đến đầu bếp chính, đứa quạt lò, cùng những tên hầu bàn khác nghe tiếng kêu đều chạy ra, hỏi rối rít:
- Cái gì thế? Cái gì thế?
Tên tửu bảo hai tay ôm mặt, không còn nói năng gì được nữa, lè lưỡi ra, thấy sưng to bằng ba lần bình thường, màu đen kịt. Tiêu Phong lại càng hoảng hốt: Đây là y bị trúng độc cực mạnh. Con tiểu ma đầu này chỉ nhúng ngón tay vào trong rượu một chốc mà rượu đã độc đến như thế. Mọi người thấy đầu lưỡi của gã hầu bàn quái lạ như vậy ai cũng kinh hoàng, nhốn nháo cả lên:
- Trúng phải chất độc gì vậy?
- Có phải bị rết cắn không?
- Trời ơi, không thể chần chờ, mau mau đi mời thầy thuốc.
Tên tửu bảo giơ tay chỉ A Tử, đột nhiên chạy đến trước mặt cô ta, quì xuống rập đầu lạy như tế sao. A Tử cười nói:
- ấy chết! Ta không dám nhận, ngươi cầu xin ta chuyện gì?
Người hầu bàn ngẩng lên, chỉ chỉ vào miệng mình, rồi lại tiếp tục khấu đầu. A Tử cười hỏi:
- Muốn ta trị cho ngươi, có phải không?
Tên tửu bảo đau đến toát mồ hôi hột, hai tay cào vào người liên tiếp, lại tiếp tục rập đầu, rồi chắp tay vái. A Tử thò tay vào bọc, lấy ra một chiếc dao nhỏ cán vàng, giống hệt chiếc dao của gã mũi lân, một tay nắm sau gáy tên tửu bảo, tay phải múa kim đao, soẹt một tiếng nhỏ đã cắt đứt một khúc lưỡi của y. Người chung quanh thất thanh kêu la, thấy máu tên hầu bàn phun ra như suối, y kinh hãi nhưng máu chảy ra rồi, độc tính liền giảm hẳn, bao nhiêu đau đớn trên đầu lưỡi đều hết ngay, chỉ trong giây lát vết sưng liền xẹp xuống. A Tử lại lấy trong túi ra một chiếc bình nhỏ, mở nắp ra, dùng móng tay khều một chút bột vàng, búng lên đầu lưỡi tên tửu bảo, máu nơi vết thương liền chảy chậm lại. Tên tửu bảo tuy tức lắm nhưng không dám nổi giận, tạ ơn thì không đành lòng, vẻ mặt cực kỳ ngượng nghịu, chỉ ú ớ:
- Ngươi... ngươi...
Đầu lưỡi y đã bị cắt một khúc, nói năng không còn rõ ràng. A Tử thò tay cầm lại đĩnh bạc, cười nói:
- Ta bảo ngươi uống một hớp rượu sẽ cho ngươi một lượng bạc, nhưng vừa rồi ngươi đã nhổ rượu ra rồi, thành thử không tính, ngươi uống lại đi.
Gã hầu bàn xua tay liên tiếp, ú ớ nói:
- Ta... ta không muốn, ta không uống.
A Tử bỏ đĩnh bạc vào túi, cười nói:
- Thế hồi nãy ngươi bảo sao? Hình như là Muốn cắt lưỡi tiểu nhân ư? Chỉ e cô nương không đủ bản lãnh, có phải không? Thế sao ngươi lại lạy lục ta xin ta cắt lưỡi? Ta hỏi ngươi: Cô nương có đủ bản lãnh không?
Tên tửu bảo bấy giờ mới hiểu ra, tất cả mọi việc chẳng qua chỉ vì mình lỡ lời một câu, trong lòng giận đến cực độ, toan xông lên đánh cho cô nàng một trận nhừ đòn, nhưng hai bàn bên cạnh, bàn nào cũng có một người đàn ông cao to hùng tráng, xem ra cùng bọn với cô ta nên cũng khiếp. A Tử lại tiếp:
- Thế ngươi có chịu uống không?
Gã hầu bàn giận dữ đáp:
- Ông... ông không...
Y toan chửi mấy câu nhưng chợt nghĩ lại e rằng lại làm cho cô ta nổi nóng, vừa giận vừa sợ, quay mình chạy vào nội đường, không dám thò đầu ra nữa. Bọn chưởng quĩ ai nấy xôn xao, hầm hầm nhìn A Tử rồi quay trở về chỗ làm, sai một gã tửu bảo khác ra tiếp khách. Tên này thấy tình cảnh vừa rồi, run như cầy sấy, một câu cũng không dám hở môi. Tiêu Phong cực kỳ tức tối: Tên tửu bảo kia chẳng qua chỉ nói đùa một câu, vậy mà ngươi trừng trị y đến chung thân tàn phế, từ nay không còn nói năng rõ ràng được. Mới tí tuổi đầu, hành sự sao lại độc ác đến thế. Chỉ nghe A Tử nói:
- Tửu bảo, đem bát rượu này qua cho vị gia đài kia uống.
Nói xong giơ tay chỉ vào gã mũi lân. Gã hầu bàn thấy nàng chỉ vào bát rượu, giật nảy mình, đến khi thấy nàng bảo đem qua cho người khác uống, lại càng khiếp vía. A Tử cười nói:
- à, đúng rồi. Ngươi không chịu đem rượu cho khách uống, chắc là muốn tự mình uống chứ gì? Có gì không được, ngươi cứ việc uống đi.
Tên tửu bảo sợ đến mặt xám ngoét, ấp úng:
- Không, không! Tiểu nhân... tiểu nhân không uống!
A Tử nói:
- Vậy thì mau đem đi.
Tên tửu bảo đáp:
- Vâng! Vâng!
Hai tay trịnh trọng bưng bát rượu, lập cập đi qua bàn bên gã mũi lân ngồi, chỉ sợ sóng sánh đổ ra ngoài, tay run rẩy, lúc bát rượu đặt xuống vẫn còn lạch cạch mãi. Gã mũi lân hai tay bưng bát rượu lên, chăm chăm nhìn, còn cách miệng chừng một thước thì ngừng lại không đem tới gần hơn nữa, cũng không để lại trên bàn. A Tử cười nói:
- Nhị sư ca, sao thế? Tiểu muội mời sư ca uống rượu, sao sư ca nể mặt chút nào?
Tiêu Phong nghĩ thầm: Bát rượu này độc ghê gớm, người này đương nhiên không để bị khích mà bỏ mạng lãng nhách. Nội công dù cao cường cách mấy cũng khó mà kháng cự lại được chất độc trong rượu này. Ngờ đâu gã mũi lân vẫn chăm chăm nhìn thêm một lát rồi đưa bát lên môi, ùng ục ùng ục uống vào ruột. Tiêu Phong kinh ngạc, nghĩ thầm: Người này không lẽ có nội lực cực kỳ thâm hậu, có thể hóa giải chất kịch độc đó?. Còn đang kinh nghi đã thấy y uống cạn bát rượu, để bát xuống bàn, tiện tay chùi hai ngón tay cái lên vạt áo. Tiêu Phong hơi suy nghĩ, hiểu ngay: Đúng rồi, trước khi y uống rượu đã thò hai ngón tay vào, cầm chén một hồi chưa uống, chắc là ngón tay có thuốc giải, hóa tán kịch độc trong rượu. A Tử thấy y uống hết chỗ rượu độc rồi vẻ mặt liền hoảng hốt, gượng cười nói:
- Bản lãnh hóa độc của nhị sư ca tiến bộ thật, quả đáng mừng!
Gã mũi lân không đáp, lại hùng hục ăn uống i gõ vào chữ Đoàn. Lúc đó nàng không nói rõ ra, sợ ta nổi giận. Gõ thì đã sao, đánh cũng còn được. Nàng cứu mạng ta chẳng nói chi gõ vào chữ Đoàn ba lần mà có đánh cho Đoàn Dự này ba cái cũng không hề hấn gì”.
Chàng thấy trên cây có đóng một cái đinh, trên đinh treo một cái búa nhỏ, liền lấy xuống gõ vào chữ Đoàn một cái. Cái búa gõ xuống nghe tiếng kim loại vang lên, Đoàn Dự không đề phòng phải giựt nảy người, mới hay bên dưới chữ đoàn là một miếng sắt, phía sau rỗng, chỉ vì bên ngoài sơn trắng nên không nhìn ra. Chàng gõ thêm hai lần nữa rồi treo cái búa lại chỗ cũ.
Qua một lát đằng sau cây tùng có tiếng một thiếu nữ kêu lên:
- Tiểu thư về rồi!
Giọng nói nghe đầy vẻ vui mừng. Đoàn Dự nói:
- Tôi nhận lời ủy thác của Chung cô nương đến xin được gặp cốc chủ.
Cô gái kia “Ồ” một tiếng xem chừng như kinh ngạc lắm, ấp úng:
- Ngươi... ngươi là người ngoài ư? Tiểu thư nhà ta đâu?
Đoàn Dự không nhìn thấy người cô ta, nói:
- Chung cô nương gặp phải hung hiểm tôi tới đây báo tin.
Thiếu nữ kinh hãi hỏi lại:
- Nguy hiểm gì?
Đoàn Dự đáp:
- Chung cô nương bị người ta bắt giữ, e rằng nguy hiểm đến tính mạng.
Thiếu nữ kêu lên:
- Trời ơi! Ngươi... ngươi... ngươi chờ một chút, để ta vào báo cho phu nhân.
Đoàn Dự đáp:
- Thế thì hay lắm.
Chàng nghĩ thầm: “Chung cô nương vốn dĩ muốn mình gặp mẹ nàng trước”. Chàng đứng đó một hồi thì nghe đằng sau cây có tiếng chân người gấp gáp, rồi giọng thiếu nữ hồi nãy nói:
- Phu nhân xin mời.
Cô gái bước ra, trông chừng mười sáu mười bảy, ăn mặc theo lối a hoàn nói:
- Tôn khách... công tử xin đi theo tôi.
Đoàn Dự hỏi:
- Chẳng hay tỉ tỉ tên gọi thế nào?
Cô gái xua tay, ý nói không thể tiết lộ. Đoàn Dự thấy cô gái có vẻ sợ hãi nên không dám hỏi thêm nữa. Người tớ gái đó dẫn Đoàn Dự đi ngang qua một khu rừng cây, theo một con đường mòn đi về hướng trái đến trước một gian nhà ngói. Cô ta đẩy cửa quay sang vẫy Đoàn Dự rồi đứng tránh qua một bên nhường chàng đi trước. Đoàn Dự đi đến bên cửa thấy đó là một gian sảnh nhỏ, trên bàn có để một đôi nến lớn. Sảnh tuy nhỏ nhưng bày biện tinh nhã. Chàng ngồi xuống rồi, người a hoàn kia liền bưng trà lên nói:
- Mời công tử dùng trà, phu nhân sẽ ra gặp ngay.
Đoàn Dự nhấp hai ngụm thấy ở phía đông treo một bộ tứ bình trên vẽ mai lan cúc trúc bốn loại hoa cỏ nhưng thứ tự lại xếp thành lan, trúc, cúc, mai; bên phía tây có bốn bức tranh vẽ xuân hạ thu đông nhưng lại treo thành đông, hạ, xuân, thu nghĩ thầm: “Cha mẹ của Chung cô nương là con nhà võ, không rành thư họa, cũng không có gì lạ”.
Chỉ nghe thấy tiếng vòng leng keng, từ bên trong đi ra một người đàn bà mặc áo dài màu xanh nhạt, tuổi chừng ba mươi sáu, ba mươi bảy, mặt mày thanh tú, rất giống Chung Linh nên biết ngay đó là Chung phu nhân. Đoàn Dự đứng lên vái một cái thật sâu nói:
- Vãn sinh Đoàn Dự, bái kiến bá mẫu.
Chàng vừa nói xong, mặt liền biến sắc, bụng kêu thầm: “Chao ôi! Sao ta lại xưng tên thật của mình thế này? Ta chỉ chăm chăm xem bà ta có giống Chung Linh hay không, quên bẵng đi là mình phải dùng tên giả".
Chung phu nhân ngạc nhiên, kéo vạt áo lên đáp lễ nói:
- Công tử vạn phúc.
Rồi lập tức hỏi lại ngay:
- Cậu... cậu họ Đoàn?
Vẻ mặt có chiều khác lạ. Đoàn Dự đã báo tính danh rồi, có muốn nói láo thì cũng đã muộn, đành nói:
- Vãn sinh họ Đoàn.
Chung phu nhân nói:
- Công tử quê quán ở đâu? Lệnh tôn xưng hô thế nào?
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Hai việc này ta phải nói láo mới được để bà ta khỏi tìm ra thân thế mình”. Chàng bèn nói:
- Vãn sinh người ở phủ Lâm An, đất Giang Nam, gia phụ tên chỉ có một chữ Long.
Mặt Chung phu nhân lộ vẻ hoài nghi nói:
- Thế sao giọng nói của công tử nghe như tiếng người Đại Lý?
Đoàn Dự đáp:
- Vãn sinh đã ở Đại Lý ba năm rồi, học nói khẩu âm bản địa e rằng không được giống lắm, mong phu nhân đừng cười.
Chung phu nhân hừ một tiếng nói:
- Nghe giọng giống lắm, thật chẳng khác gì người chính gốc ở đây đủ biết công tử quả là thông minh. Mời công tử ngồi.
Hai người ngồi xuống rồi, Chung phu nhân nhìn trái nhìn phải chăm chăm đánh giá chàng khiến cho Đoàn Dự đâm ra ngượng nghịu nói:
- Vãn sinh trên đường đi gặp hung hiểm khiến cho áo quần rách rưới, quả thực thất lễ. Lệnh ái đang gặp hiểm nguy vãn sinh vội đến báo tin, việc quá gấp gáp không kịp thay đổi y quan xin phu nhân thứ tội.
Chung phu nhân thần sắc đang hoảng hốt nghe thấy thế như từ một giấc mơ choàng tỉnh dậy, lật đật hỏi:
- Tiểu nữ ra sao?
Đoàn Dự lấy trong túi ra đôi giày hoa của Chung Linh nói:
- Chung cô nương đưa cho vãn sinh vật này để làm tin đến bái kiến phu nhân trước.
Chung phu nhân cầm lấy đôi giày nói:
- Đa tạ công tử, không biết tiểu nữ gặp phải chuyện gì?
Đoàn Dự bèn đem chuyện chàng gặp Chung Linh ở Kiếm Hồ Cung trên núi Vô Lượng như thế nào, mình xen vào việc của Thần Nông Bang ra sao để Chung Linh bị bắt buộc phải sai con thiểm điện điêu ra cắn người rồi nàng phải nhờ mình đi cầu cứu, bị rơi vào hang núi mấy ngày qua nhưng không nhắc đến pho tượng ngọc trong động đá.
Chung phu nhân lặng lẽ ngồi nghe, vẻ mặt mỗi lúc một thêm lo lắng, đợi Đoàn Dự nói xong mới chậm rãi thh ghê gớm cỡ nào, mất vía một phen mà ngoan ngoãn theo mình về, lập tức vươn tay phải ra chộp ngay cổ tay trái Tiêu Phong. Tiêu Phong thấy vai phải của y hơi chuyển động, biết ngay y định xuất thủ đánh mình, cũng chẳng thèm để ý, để cho y chộp cổ tay. Da cổ tay ông vừa chạm vào vào tay y, liền thấy nóng như than, biết ngay lòng bàn tay đối phương có tẩm thuốc độc, vội vàng vận chân khí lên cổ tay, cười nói:
- Cái gì thế? Các hạ muốn uống rượu với ta chăng?
Ông đưa tay rót hai bát rượu nói:
- Xin mời!
Gã mũi lân liên tiếp vận nội lực nhưng thấy Tiêu Phong vẫn như không, làm như không hay biết gì cả, nghĩ thầm: Ngươi đừng đắc ý vội, rồi coi độc chưởng của ta ghê gớm cỡ nào. Y bèn nói:
- Uống thì uống, có gì không dám?
Y cầm bát rượu lên, uống ngay một ngụm lớn. Ngờ đâu rượu vào đến cổ họng, đột nhiên một luồng nội tức từ trong ngực dội ngược trở lên, nhịn không nổi Oa lên một tiếng, bao nhiêu rượu phun ra hết khiền cho vạt áo trước ướt đầm đìa, sau đó ho sặc sụa một hồi lâu. Việc xảy ra khiến y kinh hãi thất sắc, nội tức nghịch lưu rõ ràng là do nội lực của đối phương truyền vào thân thể mình, nếu như muốn lấy mạng mình thật dễ như trở bàn tay. Y kinh hãi vội buông tay Tiêu Phong ra. Ngờ đâu cổ tay Tiêu Phong như có một sức hút thật mạnh, bàn tay y dính chặt vào đó, không cách nào thoát ra được. Gã mũi lân sợ quá, dùng sức dãy dụa, Tiêu Phong ngồi yên không động đậy mà y vẫn chẳng khác gì lay cột đá. Tiêu Phong lại rót bát rượu khác nói:
- Vừa rồi lão huynh chưa uống rượu, vậy uống cạn bát này đi rồi chúng ta sẽ chia tay, được chăng?
Gã mũi lân lại cố gắng giựt tay về nhưng không cách nào thoát được, tay trái liền nhắm ngay mặt Tiêu Phong đánh ra một chưởng. Chưởng lực chưa đến, Tiêu Phong đã ngửi thấy một mùi tanh tưởi thối tha chẳng khác gì một con cá chết sình, tay phải liền nhẹ nhàng vung lên gạt ra. Chưởng đó gã mũi lân sử dụng toàn lực, ngờ đâu thế đánh đi được nửa chừng, bị đẩy xéo đi, không cách gì có thể thu về được, biết ngay đối phương đã mượn sức khiến cánh tay y không thể nào điều khiển được nữa, đẩy tới đánh mạnh vào vai phải của chính mình, chỉ nghe lốp cốp, khớp xương vai đã bị trật ra rồi. A Tử cười nói:
- Sao nhị sư ca tự đánh mình mạnh như thế, chẳng nhân nhượng gì cả? Tiểu thật muội không hiểu có dụng ý gì?
Gã mũi lân tức giận đến cực điểm, khổ nỗi bàn tay phải dính cứng vào cổ tay Tiêu Phong rồi, không sao thoát ra được, tay trái đâu đám đánh tiếp, giãy dụa lần thứ ba không thoát, bèn thúc đẩy nội lực, truyền chất độc súc tích trong lòng bàn tay vào cơ thể đối phương. Ngờ đâu luồng nội lực đó vừa đến cổ tay địch nhân, lập tức bị dội ngược trở về, lại không chỉ ngừng lại tại thủ chưởng, mà vẫn tiếp tục chạy lên khiến gã cực kỳ kinh hãi vội vàng vận nội lực đề kháng. Thế nhưng luồng nội lực chứa đầy chất độc đó thật chẳng khác nào sóng biển tràn vào sông, chỉ khoảnh khắc đã đến khuỷu tay, rồi chạy thẳng lên nách, từ từ đổ vào lồng ngực. Gã mũi lân làm gì chẳng biết chất độc của mình lợi hại là nhường nào, chỉ cần xâm nhập tâm tạng là chết ngay, khiến y sợ đến mồ hôi đổ ra như tắm, nhỏ tong tỏng xuống sàn nhà. A Tử cười nói:
- Nội công nhị sư ca cao cường thật. Trời đông giá rét thế này, vậy mà vẫn mồ hôi mồ kê đầm đìa, tiểu muội thật bội phục hết sức.
Gã mũi lân còn thì giờ đâu mà để ý tới câu nói châm chọc của A Tử, biết mình đường cùng nhưng chẳng lẽ bó tay chịu chết, càng hết sức thúc đẩy nội lực, hi vọng giữ lâu thêm được chút nào hay chút ấy. Tiêu Phong nghĩ thầm: Người này với mình không thù không oán, tuy y ra tay hạ độc thủ với mình trước nhưng cũng chẳng cần giết y làm gì!. Đột nhiên ông thu nội lực về. Gã mũi lân thấy sức hút nơi tay mình không còn nữa, nội lực cùng chất độc đang kề bên tâm tạng lập tức chảy ngược về chưởng tâm, vừa mừng vừa sợ, vội vàng lùi lại hai bước, mặt tái mét không còn giọt máu, thở hồng hộc, nhưng không dám tiến đến gần Tiêu Phong. Y mới rồi chết đi sống lại, thực đúng là đến quỉ môn quan lại quay về. Gã tửu bảo hoàn toàn nào có biết gì, vội đến rót rượu cho y. Gã mũi lân tung ra một chưởng, đánh trúng ngay mặt y, gã hầu bàn chỉ kêu lên được một tiếng, ngã ngửa ra. Tên mũi lân liền chạy vọt ra cửa, chạy thẳng về hướng tây nam, rồi nghe một hồi còi thật mơ hồ, thật sắc nhọn từ xa truyền đến. Tiêu Phong lại coi gã tửu bảo thấy mặt y đen sì, chỉ giây lát đã chết ngay, không khỏi nổi cơn thịnh nộ, quát lên:
- Tên này quả là đáng ghét, ta đã tha mạng cho y, cớ sao lại ra tay giết người?
Ông đẩy bàn toan đuổi theo. A Tử kêu lên:
- Tỉ phu, tỉ phu, ngồi xuống đã, để tiểu muội nói cho nghe.
Nếu như A Tử chỉ gọi ông Này, hay Kiều bang chủ, Tiêu đại ca gì đó, Tiêu Phong cũng chẳng thèm nghe đâu, thế nhưng hai tiếng tỉ phu khiến ông nhớ đến A Châu, lòng chua xót hỏi lại:
- Cái gì?
A Tử đáp:
- Nhị sư ca không phải đáng ghét đâu, y ra tay không đả thương được anh, chất độc không thể tán phát, không giết một người không được.
Tiêu Phong biết trong võ công tà phái có một môn gọi là tán độc, chất độc tụ vào bàn tay rồi, nếu không tống được vào địch nhân thì cũng phải đánh con bò con ngựa gì đó, giết chết một con vật, nếu không chất độc chạy ngược trở vào mình, bèn nói:
- Nếu muốn tán độc, sao y không kiếm một con vật mà đánh? Sao lại vô duyên vô cố giết người là sao?
A Tử liếc xác người hầu bàn nằm dưới đất, cười nói:
- Những kẻ ngu độn như thế có khác gì bò ngựa, giết y với giết một con vật cũng vậy thôi.
Cô ta thuận miệng nói ra như một chuyện đương nhiên là thế. Tiêu Phong cảm thấy lạnh người: Con bé này tính tình tàn nhẫn quá, mình lo cho nó làm gì?. Ông thấy người trong quán lại chạy ra, không muốn thêm phiền phức, vội lẻn ra khỏi cửa tiệm chạy về hướng bắc. Ông ng dài một tiếng nói:
- Cái con bé cứ ra khỏi nhà là gây chuyện.
Đoàn Dự nói:
- Chuyện này toàn do vãn sinh mà ra, không thể trách Chung cô nương được.
Chung phu nhân chăm chăm nhìn chàng, khẽ nói:
- Đúng thế, cũng chẳng nên trách nó làm gì, năm xưa... năm xưa ta cũng thế...
Đoàn Dự hỏi:
- Cái gì?
Chung phu nhân đôi má ửng hồng, bà ta tuy tuổi đã trung niên nhưng nét e thẹn cũng không khác gì một cô gái nhỏ, bẽn lẽn nói:
- Ta... ta nhớ đến một chuyện cũ.
Bà nói tới đây, mặt càng đỏ hơn vội nói trớ ra:
- Ta... ta nghĩ chuyện này.... xem ra... thật khó lòng.
Đoàn Dự thấy bà ấp úng nghĩ thầm: “Thì chuyện này quả khó lòng, nhưng có gì đâu mà sao bà ta lại thẹn thùng đến thế. Con gái bà xem ra còn già dặn hơn nhiều”.
Ngay lúc đó, từ bên ngoài cửa có tiếng một người đàn ông ồm ồm nói:
- Hay nhỉ, Tiến Hỉ Nhi lại bị người ta giết là sao?
Chung phu nhân giật mình kinh hãi, nói nhỏ:
- Ngoại tử đến rồi, ông ta... ông ta đa nghi lắm, Đoàn công tử tạm tránh qua một bên.
Đoàn Dự nói:
- Vãn sinh thể nào cũng phải bái kiến tiền bối, chi bằng...
Chung phu nhân giơ tay ra bịt miệng chàng lại, tay kia cầm chàng kéo qua căn phòng phía đông, nói:
- Cậu trốn ở đây, tuyệt đối không được mở miệng nói năng. Ngoại tử tính nóng như lửa, có gì sơ xẩy tính mạng cậu e khó mà bảo toàn, dẫu ta cứu cũng không được.
Bà ta tuy hình dung mảnh dẻ nhưng một thân đầy võ công, vừa nắm vừa lôi, Đoàn Dự không sao kháng cự được, chỉ đành chịu một phép, trong bụng hơi bực bội: “Ta đường xa tới đây báo tin, dẫu sao cũng là một người khách, lấp lấp ló ló trốn nơi đây, có khác gì thằng ăn trộm vặt?”.
Chung phu nhân quay sang nhìn chàng mỉm cười vẻ thật ôn nhu. Đoàn Dự thấy nụ cười đó liền hết giận, gật đầu. Chung phu nhân quay mình đi ra khép cửa phòng trở lại khách sảnh.
Chỉ nghe thấy tiếng bước chân hai người đi vào trong phòng, một giọng đàn ông cất tiếng chào:
- Phu nhân!
Đoàn Dự nhìn qua khe tường thấy một người chừng ba mươi tuổi ăn mặc theo lối gia nhân, vẻ mặt kinh hoàng. Một người đàn ông khác mặc áo đen, vừa cao vừa gầy, mặt quay ra ngoài nên chàng không nhìn rõ tướng mạo chỉ thấy hai bàn tay to như hai cái quạt nan xuôi theo mình, trên lưng bàn tay nổi đầy gân xanh, nghĩ thầm: “Bàn tay cha Chung cô nương to thật”.
Chung phu nhân hỏi:
- Tiến Hỉ Nhi chết rồi ư? Có chuyện gì thế?
Người kia đáp:
- Lão gia sai Tiến Hỉ Nhi và tiểu nhân đến Bắc Trang đón khách. Lão gia nói là tất cả có bốn người, hôm nay lúc trưa mới có một vị, nói là họ Nhạc. Lão gia từng dặn nếu gặp họ Nhạc thì chào là “tam lão gia”. Tiến Hỉ Nhi tiến lên cung kính gọi “tam lão gia”. Ngờ đâu người đó bỗng nổi cơn lôi đình, quát lớn: “Ta là Nhạc lão nhị, cớ gì lại gọi ta là tam lão gia? Ngươi coi thường ta phải không?” Nghe bộp một cái đã đánh cho Tiến Hỉ Nhi sứt đầu chảy máu, lăn ra ngay.
Chung phu nhân nhíu mày:
- Trên đời này sao lại có kẻ ngang ngược đến thế! Nhạc lão tam trở thành Nhạc lão nhị từ bao giờ?
Chung cốc chủ nói:
- Nhạc lão tam xưa nay tính tình nóng nảy, lại điên điên rồ rồ.
Nói xong y bèn quay mình lại. Đoàn Dự từ bên kia bức vách nhìn ra không khỏi giật mình kinh hãi, thấy y mặt dài như mặt ngựa, mắt ở thật cao, cái mũi tròn xoay thì lại như dính liền với miệng, thành thử từ mắt xuống mũi có một khoảng trống bèn bẹt chẳng đâu vào đâu. Chung Linh dung mạo xinh đẹp như thế, ngờ đâu phụ thân lại cực kỳ khó coi, cũng may nàng chỉ giống mẹ không có chút nào giống cha.
Chung cốc chủ vốn dĩ mặt mày đăm đăm nhưng vừa mới gặp nương tử, lập tức chuyển sang nhu hòa, khuôn mặt xấu xa cũng có vài phần dễ chịu, nói:
- Nhạc lão tam tính tình ngang ngược, ta cũng sợ y kinh động đến phu nhân, nên không để cho y vào trong cốc. Chuyện nhỏ nhặt kia nàng đừng để tâm làm gì.
Đoàn Dự hơi cảm thấy khác lạ: “Khi nãy phu nhân nghe thấy chồng đến bỗng sợ đến tái người nhưng xem điệu bộ Chung cốc chủ thì y vừa yêu thương, vừa kính trọng”.
Chung phu nhân nói:
- Sao lại là chuyện nhỏ nhặt được? Tiến Hỉ Nhi trung thành chăm chỉ hầu hạ mình bao nhiêu năm nay, nay bị gã trư bằng cẩu hữu kia giết chết, trong lòng ta thật đau đớn xiết bao.
Chung cốc chủ cười gượng:
- Đúng, đúng lắm! Nàng thương xót kẻ ăn người làm, quả là tốt bụng.
Chung phu nhân hỏi gã gia nhân:
- Lai Phúc Nhi, rồi sau ra sao?
Lai Phúc Nhi đáp:
- Tiến Hỉ Nhi bị y đánh ngã xuống vốn đâu đã chết. Tiểu nhân vội vàng chào “Nhị lão gia, nhị lão gia, xin lão nhân gia đừng nóng nảy”. Y liền cười hề hề rất là cao hứng. Tiểu nhân bèn đỡ Tiến Hỉ Nhi dậy, rồi dọn một mâm rượu cho gã họ Nhạc kia ăn.
Y hỏi: “Chung... Chung... sao không ra tiếp ta?”. Tiểu nhân trả lời: “Lão gia chúng tôi chưa biết nhị lão gia đại giá quang lâm, nếu không thì đã ra nghinh tiếp rồi. Để tiểu nhân quay vào bẩm báo”.
Người đó gật đầu, thấy Tiến Hỉ Nhi khép na khép nép đứng bên cạnh hầu hạ, liền hỏi: “Hồi nãy ta đánh ngươi một chưởng, trong bụng ngươi thể nào cũng rủa thầm ta, có đúng không nào?”. Tiến Hỉ Nhi vội đáp: “Không, không, tiểu nhân đâu dám thế! Vạn lần không dám!”.
Người đó nói: “Ngươi trong bụng nhất định bảo ta là một đại ác nhân, ác không ai ác hơn, hà hà!”. Tiến Hỉ Nhi nói: “Không, không! Nhị lão gia là một người rất tốt, không ác một tí nào”. Người kia dựng ngược lông mày quát: “Ngươi bảo ta không ác
- Không được.
A Tử nói:
- Vậy tỉ phu hát cho em nghe, được chăng?
Tiêu Phong đáp:
- Không được.
Cô ta liên tiếp hỏi đến mười bảy, mười tám câu liền, Tiêu Phong không cần nghĩ ngợi đều nhất nhất cự tuyệt. A Tử lại nói:
- Vậy em chẳng thổi địch cho tỉ phu nghe, được chăng?
Tiêu Phong thuận mồm đáp:
- Không được.
Hai tiếng đó vừa buột mồm liền biết ngay mình nói hớ, cô ta hỏi là Vậy em chẳng thổi địch cho tỉ phu nghe, được chăng? mà lại trả lời Không được, thì hóa ra là mình bắt nàng phải thổi sáo rồi. Ông nói rồi cũng không để ý nữa, nếu ngươi muốn thổi sáo thì cứ thổi đi. A Tử thở dài nói:
- Cái gì cũng không chịu, thật khó chiều quá, nếu nhất định bắt em phải thổi sáo thì cũng đành phải chiều.
Nói xong rút trong tút ra một chiếc địch bằng ngọc. Cái ngọc địch đó ngắn lạ lùng, chỉ dài chừng bảy tấc, toàn thân trắng tinh, bóng lộn thật đẹp đẽ. A Tử đưa lên môi, nhẹ nhàng thổi, một âm thanh sắc nhọn truyền ra thật xa. Mới rồi gã mũi lân bỏ đi, cũng có phát ra một tiếng còi lanh lảnh như thế. Tiếng sáo vốn dĩ nhẹ nhàng êm ái nhưng tiếng từ chiếc địch ngọc này nghe thật thê lương, không có vẻ gì vui thú. Tiêu Phong chỉ hơi suy nghĩ đã biết ngay lý do, trong bụng cười khẩy: Đúng rồi, thì ra ngươi ước định đồng đảng, mai phục chung quanh đâu đây, định tập kích ta, Tiêu mỗ lẽ nào lại sợ cái bọn hồ quần cẩu đảng này? Có điều không có gì thích lắm. Ông biết môn hạ Tinh Tú Lão Quái võ công cực kỳ âm độc, nếu chỉ sơ sẩy một chút là trúng ám toán ngay. Chỉ nghe tiếng địch của A Tử lúc thì cao, lúc thì thấp, như heo bị cắt tiết, như ma quỉ kêu gào, hết sức khó nghe. Một cô gái xinh xắn hoạt bát như thế, cầm một ống sáo ngọc bóng loáng dễ thương nhưng lại thổi ra một điệu cực kỳ rùng rợn càng làm tăng thêm vẻ tà ác của phái Tinh Tú. Tiêu Phong cứ mặc cô ta vẫn tiếp tục đi, chẳng mấy chốc đến một đường núi dài và hẹp vắt ngang một đỉnh núi, nghĩ thầm: Địch nhân nếu như phục kích thì hẳn phải ở chỗ này. Quả nhiên lên trên núi rồi, vừa qua một vùng đất bằng đã thấy bốn người chặn đằng trước. Cả bốn người đó đều mặc áo dài bằng vải gai màu vàng, phục sứ giống hệt gã mũi lân vừa
gặp trong quán rượu. Bốn người đó không đứng hàng ngang, mà kẻ trước người sau một dãy, trong tay người nào cũng cầm cương trượng dài ngoằng. A Tử không thổi sáo nữa, dừng chân lại, gọi:
- Tam sư ca, tứ sư ca, thất sư ca, bát sư ca, các vị khỏa cả chứ? Sao thật khéo quá, mọi người ai cũng tụ lại đây là sao?
Tiêu Phong cũng ngừng bước, tựa lưng vào vách núi, nghĩ thầm: Để xem chúng bay giở trò gì?. Trong bốn người, gã đứng đầu là một người trung niên mập mạp, nhìn Tiêu Phong từ đầu xuống chân đánh giá một hồi rồi mới hỏi:
- Tiểu sư muội khỏe chứ? Ngươi sao lại đả thương nhị sư ca?
A Tử thất kinh kêu lên:
- Nhị sư ca bị thương sao? Ai đả thương thế? Vết thương có nặng hay không?
Người đứng sau cùng trong bốn người lớn tiếng đáp:
- Ngươi còn giả ngây giả dại nữa sao? Nhị sư ca bảo là chính ngươi gọi người đả thương y đó.
Người nói lùn xủn, lại đứng sau cùng, toàn thân bị ba người đứng trước che khuất, Tiêu Phong không nhìn thấy y hình dáng ra sao nhưng nghe y nói năng liến thoắng cũng đủ biết tính tình nóng nảy nhưng cương trượng y cầm vừa dài vừa to đủ biết cánh tay rất khỏe, nhưng vì trời sinh thấp lùn nên muốn tìm cách nổi trội hơn người. A Tử nói:
- Bát sư ca nói gì đó? Nhị sư ca bảo là anh gọi người đánh y sao? Chao ôi, sao anh lại nỡ nào hạ độc thủ? Sư phụ lão nhân gia mà biết thì chẳng thể nào tha thứ cho bát sư ca đâu, không lẽ anh không sợ hay sao?
Gã lùn kia nổi cơn lôi đình nhảy nhổm lên, tay cầm cương trượng động xuống đá ầm ầm, miệng gào lên:
- Là ngươi đánh y chứ nào phải ta đâu.
A Tử nói:
- Cái gì? Là ngươi đánh y chứ nào phải ta đâu! Đúng quá, sư ca thú nhận rồi. Tam sư ca, tứ sư ca, thất sư ca ba người chính tai nghe thấy nhé, bát sư ca nói là y giết chết nhị sư ca, phải rồi, chắc là bát sư ca dùng Tam Âm Ngô Công Trảo giết chết nhị sư ca.
Gã lùn lại gào lên:
- Ai bảo nhị sư ca chết đâu! Y chưa chết, thụ thương đâu phải do Tam Âm Ngô Công Trảo...
A Tử cướp lời:
- Không phải Tam Âm Ngô Công Trảo sao? Thế hẳn là do Trừu Tủy Chưởng, ngón nghề ruột của bát sư ca, nhị sư ca sơ xẩy không để ý nên bị trúng ám toán, ngươi... ngươi quả là ghê gớm thật.
Gã lùn càng nổi điên lên, quát lớn:
- Tam sư ca mau động thủ, bắt con tiểu tiện nhân này về, về để bắt lại, xin sư phụ phát lạc, nó... nó... nó, nói lăng nhăng láo lếu, chẳng biết nói những gì, chẳng đâu ra đâu...
Giọng y vốn đã khó nghe, lại thêm gấp gáp càng lắp bắp, không hiểu muốn nói gì. Gã mập liền nói:
- Động thủ thì chưa cần, tiểu sư muội xưa nay vốn ngoan ngoãn, chịu nghe lời. Tiểu sư muội, ngươi đi theo bọn ta thôi.
Gã mập đó nói năng chậm rãi, xem ra vẻ người dễ tính. A Tử cười đáp:
- Được rồi, tam sư ca bảo sao thì tiểu muội làm vậy, xưa nay em vẫn nghe lời sư ca.
Gã mập cười khà khà nói:
- Nếu thế thì hay lắm, chúng mình đi thôi.
A Tử đáp:
- Được rồi, xin chư vị cứ tự tiện.
Gã lùn ở phía sau lại rống lên:
- ấy, ấy, chư vị tự tiện là thế nào? Ngươi phải đi cùng với bọn ta.
A Tử cười nói:
- Các vị cứ đi trước đi, tiểu muội sẽ theo sau.
Gã lùn nói:
- Không được! Không được! Ngươi phải đi chung với bọn ta mới xong.
A Tử nói:
- Thế cũng được! Có điều ông anh rể của tiểu muội lại không chịu.
Nói rồi chỉ vào Tiêu Phong. Gã lùn nói:
- Ai là anh rể ngươi? Sao ta không thấy đâu cả?
A Tử cười nói:
- Bát sư ca cũng cao quá nên anh rể tiểu muội cũng không thấy đâu cả.
Chỉ nghe coong một tiếng, cương trượng của gã lùn đã giáng xuống đất, thân hình bay vọt lên, cả người lẫn gậy đã vọt qua khỏi đầu ba người đứng trước rơi xuống trước mặt A Tử, quát lên:
- Mau theo bọn ta trở về.
Vừa nói y vừa vươn tay chộp vào đầu vai cô gái. Gã này tuy lùn tịt nhưng hông to vai nở, nhìn ngang trông cũng khá vạm vỡ, động tác thật là nhanh nhẹn. A Tử không tránh, không né cứ để mặt y chộp tới. Bàn tay to lớn của gã lùn sắp sửa chạm vào đầu vai cô ta bỗng y hơi chần chừ rồi ngừng lại, hỏi:
- Ngươi đã dùng nó rồi ư?
A Tử hỏi:
- Dùng cái gì?
Gã lùn đáp:
- Tự nhiên là Thần Mộc Vương Đỉnh...
Bốn chữ Thần Mộc Vương Đỉnh vừa buột khỏi miệng, ba người kia đã cùng quát lên:
- Bát sư đệ, ngươi nói gì đó?
Thanh âm cực kỳ gay gắt, gã lùn lật đật lùi lại một bước, mặt lộ vẻ hoảng hốt. Tiêu Phong lập tức suy tính: Thần Mộc Vương Đỉnh là cái gì thế? Bốn gã này vẻ mặt cực kỳ trịnh trọng, quyết không phải chuyện đùa. Bọn chúng mai phục nơi đây sao không ra tay mà còn cãi nhau ỏm tỏi, không lẽ sợ không địch lại mình, hay còn đang chờ thêm ngoại viện?. Chỉ thấy gã lùn giơ tay ra nói:
- Đưa đây!
A Tử hỏi lại:
- Đưa cái gì?
Gã lùn đáp:
- Là cái Thần... Thần... cái đó đó.
A Tử chỉ vào Tiêu Phong nói:
- Tiểu muội đưa cho tỉ phu rồi.
Câu đó vừa nói ra, ánh mắt cả bốn người liền quay về phía Tiêu Phong, đầy vẻ giận dữ. Tiêu Phong nghĩ thầm: Bọn này quả là đáng ghét, mình cũng chẳng nên dây dưa với chúng làm chi. Ông chậm rãi đứng lên, bất thần hai chân búng một cái bay vọt qua đầu bốn người kia. Hành động đó vừa kỳ quái, vừa nhanh nhẹn, cả bọn không thấy ông chạy hay cong chân nhún lấy đà, chỉ thấy trước mắt thấp thoáng, gió trên đầu hơi động, Tiêu Phong đã ở phía sau bốn người rồi. Cả bọn hốt hoảng kêu la om sòm, xoay người lại đuổi theo nhưng chỉ chớp mắt Tiêu Phong đã chạy xa đến mấy trượng. Bỗng nghe vù một tiếng thật mạnh, một món binh khí nặng nề phóng vào sau lưng. Tiêu Phong không cần quay đầu lại, biết là có người dùng cương trượng ném tới, lật ngược tay trái đón ngay lấy chiếc gậy. Cả bốn người cùng hung hăng quát tháo, lại có thêm hai chiếc cương trượng nữa ném theo, Tiêu Phong lại đưa tay về sau bắt được. Mỗi chiếc gậy phải đến năm chục cân, cả ba chiếc ở trong tay cũng phải đến trăm sáu, trăm bảy cân nhưng bước chân ông không chậm lại chút nào, chỉ nghe vụt một tiếng, lại một chiếc nữa ném tới. Chiếc gậy này bay tới tiếng kêu mạnh hơn cả, rõ ràng nặng nề hơn hết ắt hẳn là do gã lùn ném ra. Tiêu Phong nghĩ thầm: Mấy thằng mọi này chẳng biết phải quấy, phải cho chúng biết tay mới được. Ông nghe thấy tiếng gió bay tới sau ót, chỉ còn cách chừng hai thước liền thò tay về sau bắt được. Bốn người ném gậy ra đã tính toán nếu như đối phương tránh né cũng không phải dễ, trong bốn cái thể nào cũng có một hai chiếc gậy trúng vào người chứ đời nào lại để binh khí rời khỏi tay? Có ai ngờ đâu Tiêu Phong thản nhiên như không bắt được tất cả, ai nấy vừa kinh hãi vừa tức tối, lập tức lao xao chạy đuổi theo. Tiêu Phong dụ cho chúng chạy theo một quãng, bất thần đứng chựng lại. Bốn gã kia đang ra sức đuổi theo, không hãm kịp lao cả vào người ông, vội vàng đứng lại ai nấy thở hồng hộc. Tiêu Phong theo tiếng gậy ném tới và cách bọn chúng chạy theo biết rằng võ công chỉ bình thường, mỉm cười hỏi:
- Các vị đuổi theo tại hạ có điều gì dạy bảo chăng?
Gã lùn lắp bắp:
- Ngươi... ngươi... ngươi là ai? Võ... võ công... ngươi thật là ghê gớm.
Tiêu Phong cười đáp:
- Có gì ghê gớm đâu.
Ông vừa nói vừa vận sức vào bàn tay, ấn một cây cương trượng lún xuống dưới tuyết. Sơn đạo đó đất thật cứng, chỉ thấy chiếc gậy ngắn dần, đến khi chỉ còn khoảng hai thước bấy giờ Tiêu Phong mới buông ra, giơ chân phải lên dậm xuống một cái, cả cây gậy liền lún tịt xuống. Bốn người kẻ thì mắt trợn tròn, kẻ thì mồm há hốc. Tiêu Phong cứ từng chiếc một ấn xuống, sau cùng đạp một cái cắm thẳng vào mặt đất. Đến chiếc sau cùng, gã lùn liền nhảy tới, quát lên:
- Chớ có đụng đến binh khí của ta.
Tiêu Phong cười nói:
- Được, trả lại ngươi đây.
Tay phải cầm cương trượng lên, nhắm thẳng vào vách núi phóng một cái, nghe keng một tiếng, chiếc gậy tám thước phải đến năm thước lún vào trong đá. Nơi chiếc gậy cắm vào đá là một vùng đá đen cực kỳ cứng rắn, vậy mà Tiêu Phong ném sâu đến thế, chính ông cũng phải ngạc nhiên bụng bảo dạ: Mấy tháng nay mình có biết bao chuyện ưu phiền, lo lắng mà công phu không sút chút nào, ngược lại còn tiến bộ nhiều là khác. Nửa năm trước e rằng ta ném không được mạnh đến như vậy. Bốn người kia không hẹn mà cùng kêu la rầm rĩ, vẻ mặt hết sức kinh hoàng. A Tử từ phía sau chạy tới gọi:
- Tỉ phu, công phu đó của anh thật là hay, dạy cho em nhé!
Gã lùn giận dữ nói:
- Ngươi là môn hạ đệ tử phái Tinh Tú sao lại còn đi nhờ người ngoài dạy võ nghệ là thế nào?
A Tử nói:
- Y là anh rể ta đâu có phải người ngoài?
Gã lùn nóng lòng lấy lại binh khí, tung mình nhảy lên, thò tay chộp lấy cây cương trượng. Ngờ đâu Tiêu Phong đã tính toán tài nghệ khinh công của y nông sâu cỡ nào, nơi cương trượng cắm vào vách đá phải cách mặt đất đến một trượng bốn năm thước, b bỗng nổi lòng thương xót đại hán này, dường như y biết tài mạo mình không xứng với vợ cho nên chuyện gì cũng dễ ghen tuông, thực ra y đáng thương biết bao. Chàng quên rằng mạng mình đang ở trong tay người, cất tiếng an ủi:
- Tôi họ Đoàn, trước đây chưa từng gặp mặt phu nhân, cốc chủ chớ có nghi ngờ cho khổ vào thân.
Chung Vạn Cừu mặt lộ vẻ vui mừng, nghẹn ngào nói:
- Thật thế sao? Ngươi trước nay chưa hề... chưa hề gặp A Bảo ư?
Đoàn Dự nói:
- Tôi đến đây chỉ chưa đầy nửa giờ.
Chung Vạn Cừu ngoác mồm cười hề hề mấy tiếng nói:
- Đúng lắm, đúng lắm! A Bảo mười năm nay chưa ra khỏi cốc, mười năm trước ngươi chỉ mới chín mười tuổi, không thể nào... không thể nào... không thể nào...
Thế nhưng y vẫn xách Đoàn Dự lên chưa thả xuống. Chung phu nhân mặt đỏ lên, nói:
- Mau thả Đoàn công tử ra!
Chung Vạn Cừu vội đáp:
- Vâng! Vâng!
Y nhẹ nhàng để Đoàn Dự xuống, đột nhiên mặt lại lộ vẻ ngờ vực, hỏi:
- Đoàn công tử? Đoàn công tử? Thế... thế cha ngươi là ai?
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nếu ta còn nói láo chẳng hóa ra mình quả có tà ý hay sao?”. Chàng ngang nhiên đáp:
- Hồi nãy tôi không nói thật với Chung phu nhân, thực ra chẳng có gì phải dấu diếm. Tôi tên Đoàn Dự, tự Hòa Dự, chính người Đại Lý. Cha tôi tên trên Chính dưới Thuần.
Chung Vạn Cừu thoạt đầu chưa nghĩ ra trên Chính dưới Thuần là gì, Chung phu nhân đã run run hỏi lại:
- Cha ngươi là... là Đoàn... Đoàn Chính Thuần ư?
Đoàn Dự gật đầu:
- Đúng thế!
Chung Vạn Cừu gào lên:
- Đoàn Chính Thuần!
Ba tiếng đó y hét lên long trời lở đất, đột nhiên mặt đỏ bừng, toàn thân run lên bần bật:
- Ngươi là... ngươi là con thằng cẩu tặc Đoàn Chính Thuần đấy sao?
Đoàn Dự giận quá, quát lại:
- Sao ngươi dám lớn mật chửi mắng cha ta?
Chung Vạn Cừu bực bội nói:
- Có gì mà không dám? Đoàn Chính Thuần, ngươi là tên cẩu tặc, là đồ khốn nạn.
Đoàn Dự bấy giờ mới rõ, y viết ở ngoài cửa cốc: Ai họ Đoàn vào đây sẽ bị giết không tha” chính là vì y cực kỳ căm hận cha mình, nên mới giận lây ra tất cả những người họ Đoàn khác nên thản nhiên đáp:
- Chung cốc chủ, nếu ông có thù với cha tôi thì nên quang minh chính đại kết thúc mối hận này. Ông có giỏi thì tới gặp tận mặt cha tôi mà chửi, còn chửi sau lưng thì đâu có gì là anh hùng hảo hán? Cha tôi ở trong thành Đại Lý, ông muốn kiếm thật dễ như trở bàn tay, việc gì mà phải để một tấm biển trước cửa nhà: Ai họ Đoàn vào đây sẽ bị giết không tha” làm gì?
Chung Vạn Cừu mặt lúc xanh, lúc đỏ xem ra những gì Đoàn Dự nói ra câu nào cũng trúng vào tim đen. Đôi mắt y trợn ngược lộ hung quang, xem chừng định ra tay giết người, đứng sừng sững một hồi, đột nhiên đấm bình bình hai cái, đánh vỡ tan hai chiếc ghế ngồi, giơ chân đá ra, trên vách liền vỡ một mảng lớn, kêu lên:
- Ta không sợ không đánh lại cha ngươi, ta... ta chỉ sợ... chỉ sợ cha ngươi biết được... biết được A Bảo đang ở đây thôi...
Nói tới mấy câu đó thanh âm đã lẫn tiếng nức nở, hai tay ôm mặt, kêu lên:
- Ta là đứa nhát gan! Ta là đứa nhát gan!
Y cắm đầu cắm cổ chạy ra, chỉ nghe bình bành, loảng xoảng liên tiếp không ngừng, hẳn là trên đường đụng phải các thứ kệ, bồn hoa, ghế đá. Đoàn Dự ngạc nhiên hồi lâu nghĩ thầm: “Cha ta biết được phu nhân của ngươi ở đây thì đã sao? Không lẽ đến đây giết bà ta chăng?”. Nghĩ lại lời mình nói ra quả có nặng nề, khơi dậy mối đau lòng của Chung Vạn Cừu nên chàng cảm thấy ăn năn, quay đầu lại thấy Chung phu nhân đang chăm chăm nhìn mình.
Hai người ánh mắt chạm nhau, Chung phu nhân lập tức quay đi chỗ khác, trên khuôn mặt xanh xao kia ẩn ẩn hiện lên sắc hồng, một hồi sau, hạ giọng hỏi:
- Đoàn công tử, lệnh tôn mấy năm nay có được khỏe không? Mọi việc vẫn trôi chảy chứ?
Đoàn Dự thấy bà ta hỏi thăm cha mình, vội vàng đứng lên, cung kính đáp:
- Gia nghiêm lúc này vẫn khỏe, mọi việc đều bình thường.
Chung phu nhân nói:
- Thế thì hay lắm. Ta... ta cũng...
Đoàn Dự thấy hàng lông mi dài của bà rưng rưng mấy giọt nước mắt, nói chưa dứt lời đã quay đi, giơ tay chùi lệ, trong lòng không khỏi thương cảm, an ủi bà ta:
- Chung cốc chủ tuy tính tình nóng nảy, đối với bá mẫu kính yêu biết mấy. Hai vị hôn nhân mỹ mãn, nếu có đôi khi lỡ lời thất hòa, bá mẫu cũng đừng phải đau lòng.
Chung phu nhân quay đầu lại, miệng mỉm cười nói:
- Cậu mới bấy nhiêu tuổi đầu, biết thế nào là nhân duyên mỹ mãn hay không mỹ mãn.
Đoàn Dự thấy nụ cười của bà xem ra có chiều ngây thơ, trong lòng chợt động, lập tức nghĩ đến Chung Linh, mắt liền quay qua nhìn đôi giày hoa của nàng trên ghế, nghĩ thầm: “Chung cô nương bị gã râu dê kia bắt giữ, một giờ một khắc cũng đau đớn biết bao, phải mau mau cứu nàng ra mới được”. Chàng bèn nói:
- Vãn sinh mới rồi ngôn ngữ vô lễ, xin bá mẫu chuyển lời tạ tội đến cốc chủ, xin cốc chủ sớm lên đường đi cứu lệnh ái.
Chung phu nhân đáp:
- Ngoại tử hiện đang bận tiếp những bằng hữu từ xa tới đây, thật khó có thể phân thân được. Công tử đã nghe qua rồi, những người khách đó tính tình cổ quái, ra tay không nói năng gì đã giết người, nếu như đối đãi với họ lễ số không chu toàn, không khỏi hậu hoạn vô cùng. Ôi! Sự đã đến nước này, ta đi theo công tử vậy.
Đoàn Dự mừng rỡ nói:
- Bá mẫu đích thân ra đi, thật tốt biết mấy.
Chàng nhớ lại lời của Chung Linh nên hỏi thêm:
- Bá mẫu có trị được chất độc của thiểm điện điêu chăng?
Chung phu nhân lắc đầu nói:
- Ta không trị được.
Đoàn Dự phân vân nói:
- Thế thì... e rằng...
Chung phu nhân quay vào phòng ngủ, lật đật viết một lá thư, vừa xong liền lấy trên tường xuống một thanh trường kiếm đeo vào lưng, quay trở lại sảnh đường nói:
- Thôi mình đi.
Bà ta xoay mình đi trước. Đoàn Dự thuận tay nhặt luôn đôi giày của Chung Linh bỏ vào túi. Chung phu nhân lặng lẽ lắc đầu, định nói gì, nhưng lại thôi.
Hai người ra khỏi cái hang sau thân cây, Chung phu nhân liền gia tăng cước bộ, nếu chỉ thấy thân hình mảnh dẻ của bà ta không ai dám bảo rằng bà ta chạy nhanh hơn Đoàn Dự nhiều. Đoàn Dự vẫn không yên tâm, nói:
- Bá mẫu nếu không biết trị chất độc của con chồn, e rằng Thần Nông Bang không chịu thả lệnh ái ra đâu.
Chung phu nhân thản nhiên nói:
- Ai cần chúng phải thả người? Thần Nông Bang dám bắt giữ con gái ta để uy hiếp chẳng phải không muốn sống hay sao? Ta không cứu người được, chẳng lẽ cũng không biết giết người?
Đoàn Dự không khỏi nổi da gà, nghe bà ta nói thản nhiên như không, tưởng như chỉ giết loài cây loài cỏ thật nào có kém gì gã Nhạc lão tam hung thần ác sát kia. Chung phu nhân hỏi lại:
- Cha cậu có tất cả bao nhiêu thị thiếp?
Đoàn Dự đáp:
- Chẳng có ai cả, một người cũng không. Mẹ cháu không chịu.
Chung phu nhân hỏi thêm:
- Cha cậu sợ mẹ cậu lắm sao?
Đoàn Dự cười nói:
- Cũng chẳng phải sợ, có lẽ là vì yêu mà đâm ra kính, cũng như cốc chủ đối với bá mẫu vậy thôi.
Chung phu nhân nói:
- Ồ, thế cha cậu hàng ngày có luyện võ không? Bao nhiêu năm nay, công lực chắc tiến triển rất nhiều rồi?
Đoàn Dự đáp:
- Cha cháu mỗi ngày đều luyện công nhưng công lực đến đâu thật cháu không biết tí gì.
Chung phu nhân nói:
- Nếu công phu ông ta không kém sút, ta... ta cũng yên lòng. Sao cậu không biết chút võ công nào là sao?
Hai người vừa đi vừa nói chuyện đã đi hơn một dặm, Đoàn Dự đang định trả lời bỗng nghe đằng sau có tiếng người gầm gừ gọi tới:
- A Bảo, nàng... nàng đi đâu đó?
Đoàn Dự quay đầu lại chỉ thấy Chung Vạn Cừu từ sau gốc cây đang đuổi tới như bay. Chung phu nhân giơ tay đỡ vào nách Đoàn Dự, quát lớn:
- Chạy cho nhanh.
Bà ta nhấc chàng lên lao vụt về phía trước. Đoàn Dự hai chân rời khỏi mặt đất, bị Chung phu nhân lôi đi không sao cưỡng lại được. Hai người chạy trước, một người đuổi theo ba người chỉ giây lát đã chạy được mấy chục trượng. Chung phu nhân khinh công tuy không kém trượng phu nhưng vì phải đỡ thêm một người thành thử Chung Vạn Cừu dần dần đuổi kịp. Lại chạy thêm vài chục trượng nữa, Đoàn Dự xem chừng hơi thở gấp rút của Chung Vạn Cừu đã ở ngay sau lưng. Đột nhiên soẹt một tiếng, chàng thấy lưng lạnh toát, áo đã bị Chung Vạn Cừu xé toạc một mảng.
Chung phu nhân tay trái vận kình ném Đoàn Dự ra xa hơn trượng, quát lên:
- Chạy mau!
Tay phải rút phắt trường kiếm đâm ngược về sau. Cứ như võ công của Chung Vạn Cừu, nhát kiếm đó không thể nào trúng y được, huống chi Chung phu nhân hoàn toàn không có ý đả thương trượng phu, chỉ cốt ngăn y khỏi đuổi tới. Ngờ đâu bà ta đâm ra, thấy mũi kiếm chạm phải vật gì ngăn lại đã đâm trúng ngay ngực chồng.
Thì ra Chung Vạn Cừu không né tránh cũng không đỡ gạt, lại ưỡn ngực tới để nhận nhát kiếm. Chung phu nhân giật mình kinh hãi, quay đầu lại, thấy chồng sắc mặt thê thảm, nước mắt rưng rưng, trên ngực trúng kiếm máu chảy túa ra, giọng run run nói:
- A Bảo, nàng... rồi cũng bỏ ta mà đi sao?
Chung phu nhân thấy nhát kiếm đó ngay chính giữa ngực, tuy không trúng tim, nhưng mũi kiếm đâm vào mấy tấc, sống chết không biết ra sao, trong cơn khẩn cấp vội vàng rút kiếm ra, nhào tới giơ tay chặn vết thương lại, chỉ thấy máu chảy như suối, theo kẽ ngón tay mà cuồn cuộn ra ngoài.
Chung phu nhân giận dữ nói:
- Tôi nào có định giết ông, sao không tránh né?
Chung Vạn Cừu gượng cười đáp:
- Nàng... nàng... muốn bỏ ta mà đi, ta... ta chết cho xong.
Nói xong liên tiếp ho sù sụ. Chung phu nhân nói:
- Ai bảo tôi bỏ ông mà đi? Tôi ra ngoài đi cứu con gái chúng mình, vài ngày sẽ quay lại, trên giấy đã viết rõ như thế đấy thôi?
Chung cốc chủ nói:
- Tôi có thấy tờ giấy nào đâu.
Chung phu nhân nói:
- Ôi, sao ông đểnh đoảng thế.
Bà ta vội vàng nói sơ qua việc Chung Linh bị Thần Nông Bang bắt giữ. Đoàn Dự thấy tình cảnh đó, sợ đến mất vía, cố gắng định thần, xé áo ra, lật đật đến băng bó cho Chung Vạn Cừu. Chung Vạn Cừu bỗng nhiên giơ chân đá phốc một cái khiến chàng lăn chòng chọc, quát lớn:
- Thằng chó đẻ, tao không muốn thấy cái mặt mày.
Y quay lại nói với Chung phu nhân:
- Bà lừa tôi, tôi không tin. Rõ ràng là nó... nó đến gọi bà đi. Thằng khốn kiếp này là con nó... Nó lại còn mở miệng chửi tôi...
Nói xong y lại ho khúc khắc, mỗi lần ho máu trên ngực lại tuôn ra xối xả. Y quay sang Đoàn Dự:
- Giỏi thì lên đây. Ta bị thương nhưng cũng không sợ Nhất Dương Chỉ của ngươi đâu! Cứ tiến lên động thủ.
Đoàn Dự bị ngã đập vào một hòn đá, lồm cồm đứng lên, một bên mặt đầy máu nói:
- Tôi không biết sử dụng Nhất Dương Chỉ mà dẫu có biết, tôi cũng không đánhcác ngươi đi tìm, nếu không, tại hạ xin lỗi không thể hầu tiếp được.
Gã lùn liên tiếp xoa tay nói:
- Tam sư ca, không còn cách nào khác, chi bằng nói cho y hay cho xong!
Gã mập nói:
- Được, để ta nói cho các hạ hay...
Tiêu Phong đột nhiên lao mình tới bên cạnh gã lùn, vươn tay chộp luôn vào nách y nói:
- Mình đi tới đằng kia, ta chỉ nghe ngươi nói, không nghe y.
Ông biết rằng gã mập trông mặt mũi thực thà, kỳ thực cực kỳ giảo hoạt, không câu nào nói thật, chỉ có gã lùn tính thẳng lại nhanh mồm nhanh miệng, không quen nói láo. Ông xách gã lùn lên, chạy vọt lên trên vách núi. Vách núi thật là cheo leo, vốn dĩ không thể nào bám víu vào đâu mà trèo lên được, nhưng Tiêu Phong đề khí chạy thẳng lên, chỉ một hơi đã chạy được hơn chục trượng, thấy một mỏm đá thò ra, liền đặt gã lùn ngồi ngay đó, còn mình một chân đứng một chân giơ ra ngoài không nói:
- Ngươi nói ta nghe đi!
Gã lùn ở chỗ giữa lưng chừng trời, đưa mắt nhìn xuống, không khỏi hoa mắt choáng váng, vội nói:
- Mau... mau thả tôi xuống!
Tiêu Phong cười nói:
- Ngươi tự mình nhảy xuống đi!
Gã lùn đáp:
- Chỉ nói lăng nhăng! Nhảy xuống có mà nát thây!
Tiêu Phong thấy y tính tình thẳng thắn cũng có đôi phần hảo cảm hỏi:
- Ngươi tên là chi?
Gã lùn đáp:
- Ta là Xuất Trần Tử.
Tiêu Phong mỉm cười, nghĩ bụng: Cái tên đó phong nhã quá, chỉ có điều không xứng với thân hình lão huynh chút nào. Ông bèn nói:
- Xin lỗi ta không thể bồi tiếp, gặp lại sau vậy.
Xuất Trần Tử lớn tiếng kêu lên:
- Không được, không được! Trời ôi, ta... ta ngã xuống thì chết.
Hai tay y bám chặt lấy vách đá, ám vận nội kình định ôm lấy tảng đá nhưng chung quanh chỗ nào cũng trơn tuột, làm gì có chỗ nào mà tựa vào? Võ công y tuy không kém nhưng ở vào chỗ ba mặt chênh vênh như thế này, không khỏi cực kỳ kinh hãi. Tiêu Phong nói:
- Nói mau, Thần Mộc Vương Đỉnh dùng để làm gì? Nếu ngươi không nói là ta bỏ đi đó.
Xuất Trần Tử vội vàng đáp:
- Ta... ta không nói không được hay sao?
Tiêu Phong đáp:
- Không nói không được, thôi để gặp lại sau vậy.
Xuất Trần Tử vội vàng níu tay áo ông lại nói:
- Để ta nói, để ta nói. Thần Mộc Vương Đỉnh là một trong tam bảo của môn phái chúng ta, dùng để tu tập Hóa Công Đại Pháp. Sư phụ có nói là, người trong võ lâm Trung Nguyên nghe đến Hóa Công Đại Pháp đều sợ đến mất cả hồn vía, nếu thấy tòa Thần Mộc Vương Đỉnh ắt sẽ đập cho tan nát, cái đó... cái đó là một bảo vật hiếm có trên thế gian, không biết nói sao cho hết...
Tiêu Phong đã từng nghe đến Hóa Công Đại Pháp từ lâu, biết đó là một môn tà thuật vô cùng bẩn thỉu, bây giờ nghe nói Thần Mộc Vương Đỉnh có tác dụng như thế, không cần phải hỏi thêm, giơ tay cầm ngay nách Xuất Trần Tử, chạy bon bon xuống. Chạy từ trên vách núi dựng đứng xuống, so với chạy lên còn nguy hiểm hơn nhiều, Xuất Trần Tử sợ đến la hét rầm lên, tiếng kêu chưa dứt, hai chân đã chạm đất rồi, mặt tái mét không còn hột máu, hai đầu gối run lập cập. Gã mập hỏi:
- Bát sư đệ, ngươi đã nói chưa?
Xuất Trần Tử hàm răng vẫn còn đánh vào nhau kêu lốp cốp, không nói nên lời. Tiêu Phong quay sang nói với A Tử:
- Đưa ra đây!
A Tử hỏi lại:
- Đưa cái gì?
Tiêu Phong đáp:
- Thần Mộc Vương Đỉnh!
A Tử đáp:
- Thì anh đã chẳng bảo là để ở nhà Mã phu nhân hay sao? Sao lại còn hỏi tiểu muội?
Tiêu Phong ngắm cô gái, thấy nàng eo thon, áo quần mỏng mảnh, bên người xem ra không thể dấu chiếc một đỉnh cao sáu tấc được, nghĩ thầm: Con bé con này tinh quái lắm. Việc môn phái của nó mình vốn không muốn nhúng tay vào, bọn tà ma ngoại đạo này chẳng nên dây dưa để chúng cứ như oan hồn không tan luẩn quẩn bên mình, thật là khó chịu. Ông liền nói:
- Cái vật chi đó Tiêu mỗ có cũng vô ích, không thể nào lấy mà không chịu trả. Các ngươi tin cũng được, không tin cũng không sao, Tiêu mỗ cáo lỗi vậy.
Nói xong phi thân chạy đi, chỉ nhô lên hụp xuống mấy cái đã bỏ cả năm người ở lại thật xa. Bọn bốn người kia thấy ông thần uy như thế, đuổi theo thì không dám, còn đang bàn cãi Tiêu Phong đã không biết chạy tận nơi nào. Tiêu Phong chạy một mạch hơn bảy chục dặm lúc ấy mới tìm được một cái quán ghé vào ăn cơm uống rượu. Chiều tối hôm đó, ông nghỉ lại Chu Vương điếm, vận nội công một hồi rồi đi ngủ. Đến nửa đêm, trong giấc mơ nghe thấy mấy tiếng còi rít lên, lập tức tỉnh dậy. Một lát sau, phía tây nam cũng nghe mấy tiếng còi khác, rồi phía đông nam cũng có tiếng đáp lại, tiếng còi chói tai nghe thật ghê rợn, chính là tiếng ngọc địch của phái Tinh Tú. Tiêu Phong nghĩ thầm: Bọn chúng đã đến rồi đây, mặc kệ, chẳng việc gì đến mình. Đột nhiên có hai tiếng sáo ti ti vọng lên nghe thật gần, ngay tại trong khách điếm này, rồi có tiếng người nói:
- Dậy đi thôi, đại sư ca đến rồi, chắc là đã bắt được tiểu sư muội.
Lại một người khác nói:
- Bắt được rồi ư? Ngươi thử nghĩ thị liệu có sống được chăng?
Người trước nói:
- Làm sao biết được? Đi mau, đi mau!
Rồi có tiếng hai người đẩy cửa sổ, nhảy ra khỏi phòng. Tiêu Phong nghĩ thầm: Lại thêm hai môn hạ đệ tử nữa của phái Tinh Tú, té ra trong cái quán này có hai tên ẩn sẵn nơi đây, chắc là bọn chúng đến trước ta, không nói năng gì thành ra mình không biết. Hai đứa đó hỏi nhau A Tử có sống được không, tiểu cô nương này tuy tàn nhẫn độc ác thật nhưng không thể để cho cô nàng bị giết chết, nếu không thì thật không phải đối với A Châu. Nghĩ thế ông cũng nhảy ra khỏi phòng đuổi theo. Bỗng nghe tiếng địch nổi lên liên tiếp, chỗ này vừa thổi thì chỗ kia đáp lại, từ từ chuyển qua tây rồi xuống phía nam. Ông theo tiếng địch mà lần theo, chỉ giây lát đã đuổi kịp hai người từ khách điếm đi ra. Ông lặng lẽ theo sát hai gã đó giữ khoảng cách chừng mươi trượng, vượt qua hai ngọn núi thì thấy dưới sơn cốc có một đống lửa. Ngọn lửa cao chừng năm thước, màu xanh biếc trông cực kỳ ngụy bí khác hẳn lửa bình thường. Hai người kia chạy thẳng đến chỗ đốt lửa, vừa tơi nơi đã quì phục xuống vái lạy. Tiêu Phong rón rén tới gần, ẩn thân sau một tảng đá nhìn vọng ra, thấy chung quanh đám lửa tụ tập đến hơn chục người, ai nấy đều mặc áo gai màu vàng, ánh lửa xanh chiếu lên đầy vẻ ma quái. Phía bên trái đống lửa có một người mặc áo dài màu tím đứng đó, chính là A Tử. Hai tay nàng đã bị khóa bằng xích sắt, khuôn mặt trắng trẻo dưới ánh lửa bập bùng trông thật thần bí. Mọi người không ai nói một lời chỉ chăm chăm nhìn ngọn lửa, tay trái để trên ngực, miệng lẩm bẩm không biết đang tụng niệm gì. Tiêu Phong biết rằng đây là nghi thức quái dị của bọn tà ma ngoại đạo nên chẳng thèm để ý. Mới đây ông nghe hai tên đệ tử phái Tinh Tú bàn với nhau:Đại sư ca đến rồi, chắc là đã bắt được tiểu sư muội, nhìn lại hơn mười người này, già có trẻ có, phục sức hoàn toàn giống nhau, động tác thần thái không ai có gì đặc biệt tỏ ra là một kẻ đứng đầu.
Bỗng nghe u u u mấy tiếng địch nhu hòa từ phía đông bắc vọng tới, mọi người đều quay lại cùng hướng về phía có tiếng sáo kia khom lưng hành lễ. A Tử bĩu môi, nhưng không thèm quay lại. Tiêu Phong nhìn về phía có tiếng địch thấy một người áo trắng thong dong đi tới, bộ pháp cực kỳ nhanh nhẹn, chỉ thoáng một cái đã đến trước đống lửa, đưa một đầu
chiếc ngọc địch dài chừng hai thước lên môi, thổi vào đống lửa một cái, đám lửa lập tức tắt ngúm, rồi đột nhiên bừng lên thật to, nghe bùng một tiếng bay vọt lên trên không phải chừng hơn một trượng, lúc ấy mới từ từ rơi xuống. Mọi người cùng cất tiếng hô to:
- Đại sư huynh pháp lực thần kỳ, khiến chúng ta ai nấy được một phen mở mắt.
Tiêu Phong nhìn vào gã đại sư huynh kia, hơi ngạc nhiên, người này đứng đầu cả bọn, tưởng phải là một lão già năm sáu chục tuổi, ngờ đâu chỉ là một thanh niên chừng hăm bảy hăm tám, thân hình cao gầy, gương mặt xanh mét có ẩn màu vàng, trông cũng khá anh tuấn. Tiêu Phong mới thấy y phiêu hành đến đây cùng công phu thổi tắt ngọn lửa, biết y nội lực không phải là kém nhưng cung cách thổi ngọn lửa xanh, kế đó bùng lên ắt không phải do nội công mà có lẽ trong ống sáo có để dược liệu dẫn hỏa gì đặc biệt. Gã đó quay sang nói với A Tử:
- Tiểu sư muội, ngươi quả là nở mày nở mặt, vì ngươi mà biết bao nhiêu người phải lao sư động chúng, từ biển Tinh Tú nghìn dặm xa xôi tới tận Trung Nguyên.

Xem Tiếp: Hồi 25(b)

Truyện Thiên Long bát bộ (bản mới) LỜI NÓI ĐẦU Hồi 1(a) Hồi 1(b) Hồi 2(a) Hồi 2(b) Hồi 3(a) Hồi 3(b) Hồi 4(a) Hồi 4(b) Hồi 5(a) LỜI NÓI ĐẦU Hồi 1(a) Hồi 1(b) Hồi 2(a) Hồi 2(b) Hồi 3(a) Hồi 3(b) Hồi 4(a) Hồi 4(b) Hồi 5(a) Hồi 5(b) Hồi 6(a) Hồi 6(b) Hồi 7(a) Hồi 7(b) Hồi 8(a) Hồi 8(b) Hồi 9(a) Hồi 9(b) Hồi 10(a) Hồi 10(b) Hồi 11(a) Hồi 11(b) Hồi 12(a) Hồi 12(b) Hồi 13(a) Hồi 13(b) Hồi 14(a) Hồi 14(b) Hồi 15(a) Hồi 15(b) Hồi 16(a) Hồi 16(b) Hồi 17(a) Hồi 17(b) Hồi 18(a) Hồi 18(b) Hồi 19(a) Hồi 19(b) Hồi 20(a) Hồi 21(a) Hồi 21(b) Hồi 22(a) Hồi 22(b) Hồi 23(a) Hồi 23(b) Hồi 24(a) Hồi 24(b) Hồi 25(a) ng1('tuaid=2731&chuongid=35">Hồi 17(b) Hồi 18(a) Hồi 18(b) Hồi 19(a) Hồi 19(b) Hồi 20(a) Hồi 21(a) Hồi 21(b) Hồi 22(a) Hồi 22(b) Hồi 23(a) Hồi 23(b) Hồi 24(a) Hồi 24(b) Hồi 25(a) Hồi 25(b) hồi 26(a) hồi 26(b) Hồi 27(a) Hồi 27(b) Hôi28(a) Hôi28(b) Hồi 29(a) Hồi 29(b) Hồi 30(a) Hồi 30(b) Hồi 31(a) Hồi 31(b) Hồi 32(a) Hồi 32(b) Hồi 33(a) Hồi 33(b) Hồi 34(a) Hồi 34(b) Hồi 35(a) Hồi 35(b) Hồi 36(a) Hồi 36(b) Hồi 37(a) Hồi 37(b) Hồi 38(a) Hồi 38(b) Hồi 39(a) Hồi 39(b) Hồi 40(a) Hồi 40(b) Hồi 41(a) Hồi 37(a) Hồi 37(b) Hồi 38(a) Hồi 38(b) Hồi 39(a) Hồi 39(b) Hồi 40(a) Hồi 40(b) Hồi 41(a) Hồi 41(b) Hồi 42(a) Hồi 42(b) Hồi 43(a) Hồi 43(b) Hồi 44(a) Hồi 44(b) Hồi 45(a) Hồi 45(b) Hồi 46(a) Hồi 46(b) Hồi 47(a) Hồi 47(b) Hồi 48(a) Hồi 48(b) Hồi 49(a) Hồi 49(b) Hồi 50(a) Hồi 50(b)
Truyện Cùng Tác Giả Anh Hùng Xạ Điêu Bạch mã khiếu tây phong Bích Huyết Kiếm Cô Gái Đồ Long Hiệp Khách Hành Liên Thành Quyết Liên Thành Quyết - Hàn Giang Nhạn Lộc Đỉnh Ký Lộc Đỉnh Ký (2) Lộc Đỉnh ký (bản mới)

Xem Tiếp »