Dịch giả: Phạm Văn Thiều
Chương 7

Nguyên lãnh đạo phòng thí nghiệm của cảnh sát ở Paradise City là HarryMeadows, một người đàn ông cao gầy và đã ở tuổi xấp xỉ thất tuần. Khi ông về hưu, đại tá Parnell đã đề nghị Ông lãnh đạo phòng thí nghiệm của hãng, một phòng thí nghiệm được trang bị cũng không kém phần hiện đại. Meadows đã không bỏ lỡ cơ hội đó. Ông đã từng nổi tiếng là một bác sĩ giỏi nhất ở Florida và mặc dù tuổi cao, ông vẫn là một chuyên gia cự phách mà người kế vị Ông ở phòng thí nghiệm của Sở cảnh sát vẫn thường xuyên phải tới tham khảo ý kiến.
Tôi tới đúng lúc Meadows đang ngồi trên một chiếc ghế đẩu lớn, mắt dán vào kính hiển vi.
Tôi từ Searle phóng thẳng đến đây mang theo hộp đùi ếch.
- Chào bác Harry, tôi lao vào như cơn gió. - Cháu có việc nhờ bác đây. (Ông ra hiệu cho tôilùi xa ra, mắt vẫn không rời kính hiển vi). Bác Harry! Việc gấp và quan trọng lắm.
Ông thở dài, quay người trên ghế và mỉm cười với tôi.
- Bọn trẻ các cậu lúc nào mà chả gấp. Có chuyện gì vậy nào?
Tôi rút ví lấy ra túi nylon nhỏ và đặt trên bà ông.
- Bác có thể phân tích giúp cháu cái này, được không? Về nguyên tắc đây là một nguyên liệu để pha nhanh nước chấm ăn cùng với món đùi ếch.
- Thật hả? Một ý tưởng tuyệt vời nếu thứ nước chấm này là ngon thật. Bác cũng khoái mòn đùi ếch lắm. Cháu tìm đâu ra cái của qúy này, Dirk?
- Rất có thể đây không phải là nước chấm đâu, bác Harry ạ. (Tôi nói rồi bước nhanh ra cửa). Cháu rất gấp. Cháu sẽ ngồi đợi ở văn phòng. Bác có thể gọi điện cho cháu chứ?
Ông gật đầu và cầm lấy cái túi. Về tới văn phòng, tôi thấy Chick Barley không có nhà. Trong suốt hành trình từ Searle về Paradise City tôi đã suy nghĩ xong xuôi về bản báo cáo mà tôi sẽ phải trình cho đại tá Parnell. Tôi ngồi xuống và lấy máy chữ ra gõ. Vừa mới gõ được một nửa thì Harry gọi điện tới.
- Tới đây ngay, Dirk, - Ông nói cụt lủn.
Tôi để bản báo cáo trên máy và chạy theo hành lang dài dẫn đến phòng thí nghiệm.
- Chuyện này là thế nào? - Harry hỏi tôi bằng một giọng nghiêm khắc.- cậu đã tìm thấy nó ở đâu?
Tôi đóng cửa và bước tới gần ông.
- Nó chứa gì ạ?
- Năm mươi phần trăm là hêrôin tinh khiết và năm mươi phần trăm là glucô.
- Chính cháu cũng đã ngờ như thế. Bác có biết giá thị trường là bao nhiêu không?
- Một túi như thế này là giá ba trăm đôla.
Tôi nhẩm tính nhanh trong óc. Mỗi hộp một túi, mỗi các tông hai hộp và khoảng năm trăm hộp các tông. Vị tri một xe hàng trị giá ba trăm ngàn độNếu mỗi tháng giao một xe (nhưng chắc là hơn), thì trong trường hợp này, Weatherspoon sẽ kiếm ba triệu sáu trăm ngàn đô một năm.
- Bác nắm chắc giá ấy chứ, bác Harry?
Ông gật đầu.
- Đây là sản phẩm chất lượng tuyệt hảo. Văn phòng chống ma túy hàng tháng đều có gửi cho bác các con số. Túi này trị giá ba trăm đô.
- Cám ơn bác Harrỵ Cháu đang bận thảo báo cáo gửi đại tá. Cháu chưa thể nói hết với bác được. Bác cứ giữ cho cháu túi bột đó. Sau này có thể dùng làm vật chứng.
Tôi chia tay ông và chạy về văn phòng để hoàn tất bản báo cáo. Xong xuôi, tôi cho vào phong bì,rồi mang theo cả hộp các tông chứa hộp đùi ếch tới gặp Glenda Kerry.
Glenda là trợ lý riêng của đại tá. Cao lớn, da nâu, xinh đẹp, tuổi ngoài ba mươi, mái tóc uốn miễn chê, ăn mặc nghiêm chỉnh, cô có vẻ ngoài đúng như con người thật của mình: hiệu quả và đầy tham vọng.
Khi tôi bước vào văn phòng, Glenda đang ngồi lật giở hồ sơ.
- Chào Glenda! (tôi đặt hộp các tông lên bàn). Chị làm ơn cất giùm cái hộp vào tủ sắt. Giá đắt lắm đấy. Và cả cái phong bì này nữa.
- Cái gì thế này? Anh vẫn theo đuổi vụ Jackson đấy à?
- Tất nhiên rồi. Đại tá giao cho tôi làm chuyện này và tôi đang làm.
- Anh tiêu nhiều tiền quá rồi đấy. (Glenda luôn luôn đánh giá kết quả theo số tiền chi phí). Anh từ đâu về thế?
- Tất cả ở trong bản báo cáo này. Nhưng gửi cho đích thân đại tá đấy nhé. Đây là một vụ lớn, Glenda ạ. Chớ có mà thọc những ngón tay xinh xẻo của chị vào đấy.
Chị ta nhún vai.
- Bây giờ anh đi đâu?
- Ngày mai, khi đại tá quay về, chị sẽ biết.
Ngày mai ông ấy về, phải không?
- Bây giờ anh đi đâu?
- Ngày mai khi đại tá quay về, chị sẽ biết. Ngày mai ông ấy về, phải không?
- Ông ấy nhắn thế. Từ khi ông ấy đi Washington tôi chẳng nhận được tin tức gì.
- Thôi, nhờ chị cất cái hộp các tông và cái phong bì vào tủ sắt cẩn thận hộ.
Tôi chào Glen da đi ra, nhưng vừa tới hành lang thì gặp Terry ÓBrien từ thang máy bước ra.
- Dirk, mình có tin cho cậu đây.
Chúng tôi vội vã về căn phòng của tôi.
ÓBrien đúng là tạng người Ailen: vóc dáng như lực sĩ, người thấp hơn trung bình, mũi tẹt, nụ cười vui vẻ và đôi mắt xanh lanh lợi.
- Cậu đã tìm được gì vậy, Terry?
- Bà Phyllis Stobart. Tên thời con gái: Phyllis Lowerỵ Tuổi: bốn hai, ÓBrien
đọc dõng dạc cho tôi ghi vào sổ. – Tyson đã cung cấp cho mình những thông tin này, có thể nó sẽ có ích cho cậu.
Ritchie Tyson là người đứng đầu một hãng thám tử tư nhỏ nhưng rất uy tín ở Jacksonville và chúng tôi đôi khi vẫn giúp đỡ nhau. Tôi nhăn mặt.
- Thế anh ta đòi bao nhiêu?
- Mình đã bắt anh ta hạ giá xuống còn một trăm độ (ÓBrien nhìn tôi vẻ dò hỏi). Thế được không?
- Tất cả còn phụ thuộc vào những điều anh ta cung cấp cho cậu.
- Theo Tyson, khoảng bốn mươi năm trước, ông bà Lowery do không có con nên đã nhận một bé gái làm con nuôi. Lowery, một trong số những người đàn ông rất đáng kính, lãnh đạo một hãng du lịch rất phát đạt. Phyllis – tên đứa con gái nuôi – đến với họ khi đã được bốn tuổi. Người ta không biết bố mẹ cô bé là ai. Phyllis bị bỏ rơi trước cửa văn phòng chuyên lo các thủ tục về việc nhận con nuôi. Quả thật, vợ chồng ông Lowely đã không gặp maỵ Lớn lên, cô bé rất trái tính trái nết: chẳng học hành gì, chỉ chạy theo lũ con trai. Lại còn ăn cắp trong các cửa hàng tự chọn, thường xuyên có chuyện với cảnh sát, và đủ thứ chuyện đại loại như vậy. Vẫn theo Tyson, gia đình Lowely chẳng thiếu thứ gì, nhưng họ không hạnh phúc. Đứa con nuôi trở thành kẻ phạm pháp. Nó đã phải ngồi bóc lịch trong tù một thời gian, rồi bỏ trốn, lại bị bắt lại và cuối cùng, cũng được tha về. Hồi đó nó khoảng mười bảy tuổi. Một tuần sau khi trở về nhà Lowely, nó lại bỏ đi. Gia đình buộc phải báo với cảnh sát, mặc dù chẳng có gì thương tiếc việc bỏ đi của nó. Cảnh sát cũng tiến hành tìm kiếm, nhưng không có kết quả. Và rồi, một tối, khoảng một chục năm trước, con bé lại trở về nhà Lowelỵ Họ đã kể với Tyson – anh là bạn họ và vừa mới mở hãng – rằng không sao nhận ra con bé nữa. Nó dữ dằn và thô lỗ khiến cặp vợ chồng già thấy sợ. Nó yêu cầu phải đưa cho nó năm trăm độ Nghĩ rằng nó đang phải trốn tránh, nên họ đã đưa tiền và nó đi ngaỵ Rồi từ đó không thấy dấu vết gì nữa. Ông bà Lowery mất đã lâu. Tin tức đầu tiên mà người ta biết về Phillis sau này là đám cưới của cô ta với Stobart năm ngoái.
- Nghĩa là cô ta đã mất hút trong vòng mười hai năm?
- Đại khái như vậy.
- Mất tích như thế kể cũng hơi bị lâu, phải không? (Tôi ngẫm nghĩ. Terry này, cậu giúp mình đến Secomb tìm hiểu về hãng chuyên cung cấp vũ nữ thoát y cho các hộp đêm nhé. Mình cần một bức ảnh, đó là Stella Costa, người đã làm việc một số năm ở Câu lạc bộ Skin. Bà ta sống ở nhà số 9 phố Maceỵ Hãy kể rằng bà ta vừa đươc hưởng một tài sản thừa kế nhỏ. Nói chung sẽ chẳng có gì khó khăn đâu. Nhưng nên nhớ là không được đặt chân vào Câu lạc bộ Skin đâu đấy nhé. Cậu hiểu chứ?
- Đồng ý. Mình sẽ đi làm cho cậu. (Nói rồi Terry đi ra).
Tôi ở lại mấy phút gõ thêm phần báo cáo của ÓBrien và đưa đến cho Glenda.
- Đây là các nguồn tin khác thêm vào bản báo cáo của tôi gửi cho đại tá, - tôi nói.
Glenda ngả người trên lưng ghế.
- Tôi vừa được biết đại tá đã trở về Washington. Và trhứ hai tuần sau mới về đây, -cô ta nói và cầm lấy bản báo cáo.
- Thật là một tin tuyệt với! Thế là tôi còn những năm ngày nữa.
Chia tay Glenda tôi chạy vội ra chỗ đỗ xe. Cần phải tới gặp Howard và Benbolt. Trên đường tôi dừng xe ăn một chiếc bánh nhồi thịt băm và một cốc bia. Tôi đến văn phòng Benbolt vào lúc hơn hai giờ chiều.
Bà già to béo ngồi trực nhìn tôi đầy vẻ nghi ngờ.
- Tôi muốn gặp ông Benbolt,-tôi nói
- Anh có hẹn trước à? Hình như anh là Wallace, phải không?
- Tên tôi thì đúng, nhưng hẹn trước thì không. Ông ấy nhất định sẽ tiếp tôi.
- Ông Benbolt vừa mới đi ăn trưa về.
- Thì tôi cũng mới ăn trưa xong. (Tôi mỉm cười với bà già). Bà cứ làm ơn báo với ông ấy là tôi đang có mặt ở đây.
Bà ta lườm tôi một cái rồi ấn nút.
- Thưa ông Edward, có ông Wallace ở hãng Parnell đang đợi,- bà ta thông báo.
- Cho ông ấy vào gặp tôi ngay,- tôi nghe rõ giọng nói chân thành của Benbolt.
Bà già nhìn tôi.
- Tôi nghĩ chắc là ông đã biết đường vào.
- Vâng, cửa thứ ba bên phải hành lang.
Bà già không thèm đáp lại, làm ra vẻ chúi mũi vào tập hồ sợ Tôi cảm thấy thương bà. Bà đã già lại béo và chắc là chẳng có ai yêu thương. Chút ít quyền lực mà bà có được để bảo vệ Ông chủ của mình cũng đang mất dần. Chả còn bao lâu nữa, bà sẽ phải một thân một mình sống căn phòng thuê vớ một con mèo làm bạn.
Edward đang ngồi sau bàn vớ gương mặt đỏ au vẻ no saỵ Ông ta nở một nụ cười chuyên nghiệp chào tôi, rồi đứng dậy bắt tay và ra hiệu mời tôi ngồi xuống.
- Thế nào, ông Wallace,- Ông nói sau khi chúng tôi đã yên vị.- Ông có tin tức gì mới không?
- Về chuyện gì mới được chứ?- tôi hỏi.
- Trong cuộc gặp gỡ của chúng ta lần trước, ông có nói ràng ông đang tìm đứa cháu nội của Frederick Jackson, phải vậy không? (Tôi hiểu rằng chất cay của bữa ăn trưa vẫn đang làm cho đầu óc ông ta còn lơ mơ).
- Theo lần gặp nhau trước thì chính ông mới là người đang tìm Johnny chứ đâu phải tôi. Ông có nhận được tin tức gì từ những thông báo đăng trên báo không?
- Không nhận được gì cả. Theo lệnh của ông Eatherspoon chúng tôi đã chấm dứt việc tìm kiếm. Hỏi để viết vậy thôi, thế ông đã tìm được thằng bé chưa? (Ông ta mở nắp hộp thuốc). Ông hút một điếu chứ?
- Tôi chưa tìm thấy, nhưng vẫn tiếp tục tìm. Không, cám ơn ông
Benbolt chọn một diếu, cắt đầu rồi châm hút.
- Một nhiệm vụ khó đấy.
- Ông đã biết chuyện gì xảy ra với Weatherspoon chưa?
Gương mặt ông ta lạnh băng tới mức mà một gã đô tùy cũng phái kính nể.
- Rồi. Tôi mới biết sáng naỵ Thật là một bi kịch! Ông ta còn trẻ thế mà…
- Chẳng có ai sống mãi được. Đời là thế mà, - tôi nói và rút thuốc lá châm hút. – tôi nghĩ chắc ông sẽ là người quản lý tài sản của Weathrspoon chứ?
- Cám ơn Sammy.
- Nếu anh muốn nói chuyện với ông ta thì không nên vào lúc này. Ông ta chơi golf để bàn việc với một ngài nào đó. Mà Stobart là người khó tính lắm.
- Một lần nữa cám ơn Sammy.
Tôi đi xuống hàng hiên bên dưới, thấy một chiếc bàn đứng biệt lập, tôi kéo chiếc ghế ngồi chờ đợi. Hai mươi phút sau, tôi thấy một người đội mũ chơi bóng chày kẻ sọc đỏ trắng. Ông ta vừa đi vừa nói chuyện với một gã nhỏ con, béo tròn và tôi nhận ra ngay đó là Edmundo Raiz. Tôi vội dịch nhanh ghế nấp kín hơn. Họ đi tới gần và ngồi cách tôi khoảng ba bàn.
Stobart ngồi quay lưng về phía tôi và Raiz ngồi xuống cạnh ông tạ Cả hai không ai nhìn về phía tôi.
Stobart bật ngón tay kêu đánh tách gọi người hầu bàn. Ông ta gọi bia, rồi nghiêng người ra phía trước tiếp tục nói chuyện với Raiz. Tôi thấy Raiz gật đầu lia lịa cứ như đang nhận mệnh lệnh. Tôi thất vọng không nhìn được rõ mặt Stobart, nhưng tôi kiên nhẫn đợi.
Người hầu bàn mang bia tới, Stobart ký hóa đơn, cho tiền boa và người hầu bàn lùi ra. Tôi thấy Stobart rút túi ra cái gì đó, mở ra rồi lấy bút viết.. tôi nhổm người nhìn và thấy ông ta đang viết séc. Viết xong ông đưa cho Raiz. Raiz cầm ngay lấy và đút nhanh vào ví.
- Tốt lắm, Ed, - Stobart nói cao giọng. – Hãy lên đường đi. Nhớ đổi ra tiền mặt và giải quyết gọn vụ này.
- Vâng, thưa ông Stobart. Ngay khi có tin, tôi sẽ gọi ngay cho ông.
- Đừng có đánh trượt đấy, nhớ chưa, Ed. - Stobart gắt.
- Ông cứ tin ở tôi, ông Stobart ạ.
Nói rồi hắn đi ngang qua hàng hiên và biến mất.
Rồi ông ta đứng dậy đi nhanh tới bậc thang dẫn lên hàng hiên trên. Tôi vội bám theo, nhưng giữ khoảng cách đủ xa, nên vẫn nhìn thấy lưng ông ta.
Trong gian tiền sảnh, ông ta mua một tờ Paradise City Herald ở quầy báo. Tôi chọn chỗ đứng ngay cạnh chiếc cửa quay nhìn ra hàng hiên phía trước. Bên dưới là chiếc Rolls sơn hai màu be và nâu. Một gã da đen lực lưỡng đứng đợi sẵn. Tôi nhận ra gã: đó chính là tên dọa tôi khi tôi từ nhà Hank Smith đi ra. Hốt hoảng, tôi lùi lại và xô phải Stobart đang đi ra cửa.
- Say hả? – ông ta lầu bầu và nhìn tôi.
Chúng tôi nhìn vào mắt nhau và tôi sững sờ. Người đứng trước mặt tôi có hai con mắt sát nhau, cái miệng gần như không có môi và một vết sẹo chạy dài từ mắt phải tới cằm. Ông ta gạt tôi sang một bên rồi ra cửa. Thằng khỉ đột mở cửa xe, Stobart ngồi vào và chiếc xe phóng vụt đi.
Tôi đứng nhìn cho tới khi chiếc xe đi khuất. Bây giờ thì tôi biết Herbert Stobart chính là thằng bạn thân thiết của Mitch Jackson. Hắn chính là Syd Watkins!
Tôi gặp Benbolt ở văn phòng của ông.
Ông bắt tay tôi và vồn vã mời ngồi.
- Tôi vừa từ Searle về xong, - Ông nói. – Do có người yêu cầu mua nhà máy, tôi nghĩ rằng đã đến lúc nói với cô Peggy Wyatt. (Ông ta cười vẻ đểu giả). Cô bé hấp dẫn đấy chứ nhỉ? Lại còn gặp may nữa!
- Ai yêu cầu mua vậy?
- Ông thấy đấy, đã xảy ra quá nhiều chuyện. Bản di chúc của Weatherspoon thì không có vấn đề gì. Ông Seiler thuộc công ty Seiler đã gặp tôi và đưa một đề nghị khá hấp dẫn đối với nhà máy. Vì quyền lợi của cô Wyatt tôi buộc phải xem xét đề nghị này. Sáng nay tôi cho cô ta biết và cô ta đã chấp nhận bán.
- Người ta trả bao nhiêu?
Benbolt xoa chiếc cằm.
- Một số tiền rất lớn.
- Này ông Benbolt, bí mật nghề nghiệp của ông chẳng có nghĩa lý gì với tôi. – tôi nói bằng giọng gay gắt. – Tôi đã nói với ông rồi, kẻ mua nhà máy sẽ là một tên buôn bán ma túy. Ông ta trả bao nhiêu?
- Thì tôi đã nói với ông rồi. – đôi mắt ti hí của ông ta tối sầm lại. – Còn chuyện kia tôi cũng chỉ mới nghe ông nói thôi.
- Rồi ông sẽ phải đương đầu với các nhân viên cơ quan phòng chống ma túy. Mà họ không phải là những kẻ nhẹ tay đâu. Người ta trả bao nhiêu?
- Nếu cần, tôi sẽ làm việc thẳng với họ chứ không phải ông, ông Wallace ạ.
- Ai sẽ là người mua?
Ông ta ngả lưng ra ghế, gương mặt đầy vẻ thù địch.
- Ông Wallace ạ, nhiệm vụ của ông là tìm kiếm Johnny cơ mà. Liệu chúng ta có nên chỉ dừng ở đây thôi, được không?
Tôi chằm chằm nhìn ông ta.
- Ông muốn nói rằng ông từ chối hợp tác?
- Tôi chẳng có lý do gì phải cộng tác với một thám tử tư cả. Ông đã nói rằng nhà máy ếch hộp bán ma túy. Tôi đã kiểm tra nhà máy và không thấy có gì chứng tỏ nó có những hoạt động khác với nhiệm vụ thực tế của nó. Đó chỉ là một doanh nghiệp phát đạt nhờ chuyên cung cấp đùi ếch cho các khách sạn lớn. Nếu việc bán nhà máy bị chậm trễ, các khách sạn sẽ bị mất khách và họ có thể sẽ tìm nguồn cung cấp khác. Khi đó công nhân có tay nghề sẽ bị thất nghiệp. Tất cả chỉ bởi vì những phỏng đoán không có căn cứ của ông cho rằng nhà máy có liên kết với bọn buôn bán ma túy. (Ông ta giơ tay xem đồng hồ). Tôi đề nghị Ông đừng quấy rầy tôi nữa. Tôi không muốn mất thời gian vô ích với ông.
Tôi đứng dậy.
- Họ đã đút cho ông bao nhiêu, ông Benbolt?
Gương mặt ông ta bừng bừng sát khí.
- Cút ra khỏi văn phòng tôi ngay!
- Bình tĩnh nào, đừng có làm ra vẻ vô tư nữa đi, đồ khốn kiếp! – tôi nói. – Rồi chúng ta sẽ gặp nhau ở tòa.
Nói xong, tôi hầm hầm bước ra ngoài.
Tôi quyết định phải liên lạc ngay với Peggỵ Có cả một dãy cabin điện thoại ở gian tiền sảnh. Tôi tìm số phôn của khách sạn Jumping Frog. Người nhấc máy là ông Abraham.
- Peggy có ở đó không, bác Abraham? Tôi đây, Wallace đây mà.
- Không. Cô ấy đi vắng rồi, Wallace ạ.
- Đúng vậy.
Tôi chờ đôi. Nhưng có vẻ như ông ta quan tâm tới điếu xì gà hơn là Weatherspoon.
- Có một nhà máy đóng hộp ếch và một cửa hàng thực phẩm, - tôi nói. Và sau đó còn tiền bạc nữa.
- Tôi những tưởng là ông chỉ được giao tìm thằng cháu nội của Jackson. Nhưng hôm nay mới vỡ lẽ là ông còn tìm kiếm cả những thông tin có liên quan tới tài sản của ông Weatherspoon nữa kia đấy. Chuyện này đâu có liên quan gì tới việc điều tra của ông. Tôi không có thời giờ để tiếp ông thêm nữa.
- Ông đã bao giờ tới Searle chưa, ông Benbolr?
- Searle ấy à? Chưa một lần trong đời.
- Xin ông một phút, - tôi nói và mỉm cười cởi mở và thân thiện. – Tôi đã tiến hành điều tra ở Searle để tìm kiếm Johnny Jackson. Và tôi phát hiện được những bằng chứng mà nếu Weatherspoon còn sống, ông ta cầm chắc sẽ ngồi bóc lịch không dưới mười lăm năm.
Ông ta há hốm mồm nhìn tôi.
- Những bằng chứng nào?
- Tôi chưa thể nói với ông chừng nào tôi chưa kết thúc điều tra và báo cáo với đại tá Parnell để ông ấy gioa vụ này cho cảnh sát bang. Nhưng tôi có thể đảm bảo với ông rằng tôi không đùa đâu. Với một chút kiên nhẫn nữa tôi cũng có thể biết được tài sản của Weatherspoon lên tới bao nhiêu. Nhưng thời gian quá gấp, tôi hy vọng ông sẽ hợp tác với chúng tôi.
- Ông muốn nói rằng ông Weatherspoon là một tên tội phạm?
- Ông ta là trung tâm của một mạng lưới buôn bán ma túy. Hiện tại tôi chỉ có thể nói với ông như vậy.
- Lạy Chúa! – Benbolt để rơi cả tàn thuốc trên chiếc áo gilê đắt tiền. – Ma túy?
- Chuyện này tạm thời chỉ giữa hai chúng tạ Tài sản của Weatherspoonm cỡ bao nhiêu?
- Cỡ nửa triệu. Nhưng tất cả còn phụ thuộc vào chuyện nhà máy và cửa hiệu thực phẩm sẽ được bán với giá bao nhiêu. Nói thực tình, tôi đã rất ngạc nhiên về nguồn lợi mà cái máy đó mang lại. Dây dưa với ma túy, thật là một chuyện khủng khiếp. Tôi nghĩ ông hiểu về điều ông vừa nói đấy chứ?
- Tôi đã có đủ những bằng chứng cần thiết. Nhưng ông ta không phải là người duy nhất can dự vào vụ này, vì vậy tôi còn phải tiếp tục điều tra.
Benbolt nhặt điếu xì gà lên và khi thấy nó đã tắt, ông ta bật lửa châm lại.
- Tôi quả thật không hiểu. Làm sao mà một nhà máy đóng hộp đùi ếch lại có quan hệ với ma túy được?
- Đây là thủ đoạn lá nho rất khôn khéo.
- Ý ông muốn nói gì?
- Nhà máy đóng ếch chỉ là tấm bình phong che đậy của Weatherspoon. Ai sẽ là người kế thừa tài sản của ông ta?
Benbolt ngồi lặng một phút nhìn điếu xì gà, vẻ lưỡng lự rồi nhún vai.
- Do tất cả những điều ông vừa thông báo cho tôi, hơn nữa thân chủ tôi cũng đã chết rồi, để giúp cho công việc điều tra của ông, tôi nghĩ sẽ không phải là tiết lộ bí mật nghề nghiệp nếu tôi cho ông biết những điều đã xảy ra một tuần trước đây. Ông Weatherspoon đã tới tìm tôi, - Benbolt nói tiếp. – Trông ông ta có vẻ không được bình thường. Có cảm tưởng rằng như ông ta đang ốmhay mất ngủ. Đó là điều ít khi xảy ra với ông tạ Ông ta nói với tôi rằng ông ta sẽ thôi không kinh doanh nữa. Quyết dịnh của ông ta khiến tôi ngạc nhiên, vì ông ta chưa tới năm mươi. Weatherspoon muốn tôi bán tất cả các cổ phiếu của ông tạ Tôi có nói với ông ta rằng giá cả trên thị trường chứng khoán đang rất hạ, nhưng ông ấy nói rằng ông cần tiền mặt ngaỵ Ông cũng đề nghị tôi bán luôn cả cửa hàng thực phẩm ở Searle với giá nào mà tôi có thể. Tôi đánh hơi thấy ngay và có linh cảm rằng thân chủ tôi đang chịu một áp lực rất lớn. Tôi hỏi ông ta có ý định bán nhà máy đóng hộp không thì ông ta trả lời gắt rằng việc ấy để tự Ông ta lọ Khi đó tôi bèn đặt một câu hỏi mà tôi cứ bận tâm từ khi ông ấy là thân chủ của tôi. Tôi nhắc ông ta là chưa thảo di chúc. Ông ta đáp ngay rằng ông không có gia đình và chẳng cần phải làm di chúc. Tôi cũng cho ông ta biết nếu một thân chủ của tôi có tài sản tới nửa triệu đô mà chết đột tử sẽ để lại rất nhiều điều về mặt pháp lý. Ông ta bảo tôi rằng ông không hề nghĩ tới chuyện đó. Rồi ông ta nói thêm, ông muốn toàn bộ tài sản của ông và cả cửa hàng thực phẩm nữa sẽ thuộc về cái cô Peggy nào đó ở Searle.
- Ông ta có giải thích gì với ông không? – tôi hỏi.
- Tôi có hỏi cô Peggy là ai. Thì ông ta trả lời rằng đó là tình nhân của ông và ông đã cư xử không tốt với cô ấy. Vả lại ông không có ai để kế thừa thì tại sao lại không phải là cô ấy? Rồi ông ta nhếch mép cười mà bảo rằng nói thế thôi chứ ông ta đâu đã có ý định chết. Nhưng nếu ông ta chết, thì ông ta muốn Peggy sẽ được kế thừa tất cả. Như vậy là cô Peggy sẽ được hưởng thừa kế ít nhất là nửa triệu đôla.
- Thế cô ấy đã biết chưa?
- Thì ông Weatherspoon chỉ vừa mới mất hôm quạ Phải đợi cho tới lúc bản di chúc có hiệu lực đã chứ. Tôi có ý định tuần này sẽ tới Searle báo cho cô ấy biết.
- Thế còn nhà mấy ếch? Nếu có ai đó mua thì liệu số tiền bán được có nằm trong tài sản của Weatherspoon và cô Peggy có được hưởng không?
- Tất nhiên.
- Nhưng nếu giả dụ như ông ta bán nhà máy thì ông liệu có biết không?
- Không. Nhưng ngay khi bản di chúc có hiệu lực, tôi sẽ tới nhà máy để xem có chuyện gì xảy ra.
- Nhà máy không lâu nữa sẽ được bán. Ông phải theo dõi thật sát sao, ông Benbolt ạ. Ông nói rằng ông Weatherspoon đã mang hết giấy tờ có liên quan tới nhà máy đi. Thế bây giờ chúng ở đâu?
- Tôi cũng không biết. Để tôi hỏi ngân hàng của ông ta xem.
- Ông sẽ làm điều đó và báo cho tôi biết chứ?
- Tôi sẽ báo. Có thực sự là ông muốn nói rằng ông Weatherspoon là kẻ buôn bán ma túy?
- Đúng vậy.
- Liệu ông có nên báo cho cảnh sát không?
- N10px;'>
- Cô ấy đi đâu?
- Tôi nghĩ là đến nhà máy. Anh đã biết tin vui chưa? Bây giờ cô ấy là bà chủ ở đó rồi.
- Có, tôi biết rồi. Cám ơn bác. (Tôi gác máy).
Từ Paradise City tới Searle mất hơn hai giờ xe hơi. Và trong hai giờ đó nhiều chuyện có thể xảy ra. Dù sao tôi cũng thấy bứt rứt không yên và mỗi khi rơi vào trạng thái đó tôi luôn phải hành động.
Tôi gọi điện đến đồn cảnh sát Searlẹ Anderson nhấc máy.
- Bill, mình nhờ cậu một việc. Cậu hãy đến ngay nhà máy đóng hộp ếch xem Peggy có ở đó không và có chuyện gì xảy ra với cô ấy không.
- Có chuyện gì xảy ra với Peggy à? – Anderson hỏi vẻ ngạc nhiên. – Ý anh muốn nói gì? Anh biết tin gì chưa? Cô ấy vừa mới được thừa kế, Weatherspoon đã…
- Mình biết rồi. Hãy tới nhà máy xem cô ấy làm gì ở đó. Mình đang gọi điện cho cậu từ một cabin điện thoại, số đây. (Tôi đọc số cho Anderson). Cậu ghi xong chưa?
- Rồi. Nhưng có chuyện gì vậy?
- Đi ngay đi. Hãy nói chuyện với cô ấy, chúc mừng cô ấy và nếu thấy mọi chuyện ổn cả thì gọi điện ngay cho mình. Mình sẽ đợi.
- Đồng ý. Có thể anh phải đợi hơi lâu đấy.
- Mình sẽ chờ. Thôi, đi nhanh lên.
Tôi ngồi ở tiền sảnh, cạnh dãy cabin điện thoại, châm thuốc hút và nghĩ về Benbolt.
Tôi tin rằng người ta đã mua được hắn. Chắc Seiler đã đút cho hắn để đảm bảo nhà máy sẽ được bán. Liệu hắn có biết những chuyện đã xảy ra ở nhà máy không nhỉ?
Cuối cùng, sau bốn mươi phút chờ đợi và đốt tới sáu điếu thuốc, tôi nghe tiếng chuông điện thoại trong cabin. Tôi vội nhấc máy.
- Anh Dirk hả?
- Mình đây. Có chuyện gì không?
- Tại sao anh cứ cuống lên thế? Tôi đã đi bộ tới nhà máy. Peggy cũng có ở đó. Cô ta đang phát điên lên vì sung sướng. Tôi vừa mới cất lời chúc mừng, cô ta đã ngắt lời ngay: “Không phải bây giờ, Bill. Sau này hẵng haỵ Tôi đang bận lắm”. Rồi cô ta đóng sập cửa ngay trước mũi tôi.
- Chỉ có thế thôi à?
- Thế thôi. Anh sợ cái gì mới được chứ?
- Cô ta đang bận việc à? Có ai ở đó với cô ta không?
- Có. Qua cửa sổ văn phòng tôi thấy có một gã có vẻ như người Mêhicô.
- Mẹ kiếp!- tôi nói rồi gác máy.
Tôi chạy ngay tới chỗ đỗ xe.
Khi tôi tới nơi, tôi thấy một thằng bé tóc vàng chừng mười hai tuổi đang đứng cạnh xe.
- Xe chú bị xịt lốp rồi, - nó nói. – Cháu thấy một gã thọc dao vào lốp.
Tôi nhìn xuống bánh xe trước. Lốp đã bị xẹp chẳng còn tí hơi nào.
- Nó nhìn thế nào? – tôi hỏi.
- Một gã da đen đội chiếc mũ lớn màu đen. Hắn đeo cả một tá dây chuyền và hôi hám lắm.
Lại thằng khốn kiếp đó.
Tôi lấy lốp dự phòng ra thaỵ Hàng năm nay có xảy ra chuyện này bao giờ đâu. Sau khi thấy tôi loay hoay một lúc, thằng bé nói:
- Chú lắp sai rồi. Để cháu làm cho.
Thằng bé thay chiếc lốp chỉ trong mười phút. Tôi phải mất hơn nửa giờ nữa mới tới được đó.
- Cháu tên gì? – tôi hỏi trong khi đặt chiếc lốp xịt vào trong cốp.
- Wes Bridley.
- Nếu một ngày nào đó cháu muốn trở thành thám tử tư, hãy tới gặp chú ở hãng Parnell. Chú sẽ giúp cháu vào làm trong đó. (rồi tôi đưa cho thằng bé năm đôla).
- Cháu mà làm thám tử đấy à? Đâu có hay ho gì. (Nó nhăn mũi). Cháu thích làm chủ nhà băng kia.
Tôi ngồi vào xe, giơ tay chào nó, rồi phóng thẳng về Searlẹ Tôi đi theo con đường ven biển và cố giữ không vượt quá tốc độ cho phép cho tới tận Fort Pierce, từ đây tôi đi ra quốc lộ 8. Đoạn đường tới Fort Pierce rất đông xe cộ và tôi tin rằng Raiz đã ra lệnh cho thằng nhọ đó làm chậm thêm hành trình của tôi. Mặc dù vậy, tôi vẫn lái thận trọng không vượt quá sáu mươi cây số một giờ để không cho cảnh sát làm chậm trễ tôi hơn. Trên quốc lộ 8, xe cộ vắng hơn và tôi đã liều chạy tới hơn chín mươi cây số giờ.
Tôi cố không nghĩ tới Peggỵ Tôi nhớ Stobart đã trao cho Raiz một tấm séc và nói với anh ta đổi ra tiền mặt. Lóa mắt trước cả đống tiền mà Raiz mời mọc, giờ này chắc Raiz đã thuyết phục được Peggy bán nhà máy mất rồi.
Cách hồ Placid khoảng chục cây số, tôi chợt thấy một chiếc xe chở đầy cam chạy bám theo tôi chừng mấy mét. Giờ tôi mới nhớ rằng thực ra nó đã theo tôi một thời gian rồi. Có lẽ vì lúc nào cũng có hàng chục xe tải chở rau quả chạy trên quốc lộ nên tôi đã không để ý. Nhưng tôi chạy với tốc độ cả trăm cây số giờ vẫn thấy nó bám theo sát.
Phía trước, con đường thẳng băng, hai bên là cây cối và các rãnh thoát nước. Tôi quyết định cắt đuôi và nhấn ga hết cỡ. Chiếc xe của tôi vọt lên và đạt tới tốc độ một trăm hai mươi cây số giờ. Tôi liếc mắt nhìn qua gương hậu thấy chiếc xe tải đã bị bỏ lại phía sau. Tôi đã cách nó vài trăm mét, nhưng không thể tiếp tục duy trì tốc độ này mãi được. Rất nhiều xe tải chạy ngược chiều và tôi chợt thấy ngay trước mặt một chiếc xe tải hai mươi tấn, chất đầy rau quả, đang ỳ ạch chạy như rùa. Tôi đạp hờ phanh và chờ cơ hội vượt lên. Nhưng xe chạy ngược chiều mỗi lúc một đông và qua gương hậu tôi thấy chiếc xe tải chở cam chỉ còn cách tôi vài mét.
Đó là một chiếc xe loại nhỏ mang biển số Miamị Kính chắn gió màu xanh không cho phép tôi nhìn rõ mặt người lái. Thấy có thể vượt lên, tôi nhấn gạ Tôi rất sợ sẽ bị ép ở bên phải. Một chiếc xe con phóng rất nhanh vừa khẽ đánh tay lái đã suýt đâm phải tôi. Tôi chỉ kịp nghe thấy tiếng còi, chiếc xe đã mất hút phía trước.
Tôi rất cố gắng giữ bình tĩnh. Qua gương chiếu hậu tôi lại thấy chiếc xe cam chỉ cách tôi vài mét. Mà tôi đang chạy với tốc độ một trăm hai mươi cây số giờ chứ ít đâu. Tôi chợt thấy một cán'height:10px;'>
- Đồng ý.
Sau khi ngồi suy gẫm một lát, tôi quyết định đã đến lúc phải gặp bà Phyllis Srobart.
Trở về nhà, sau khi tắm rửa, mặc một bộ complê rất đẹp, tôi ghé vào một nhà hàng hải sản ăn no căng món tôm hùm rưới nước sốt ớt xanh để tăng thêm sức lực. Khi đồng hồ chỉ bảy giờ ba mươi tối, tôi ngồi vào xe và phóng thẳng tối đại lộ Broadhurst.
Tôi đỗ xe dưới bóng cây, rồi đi gần tới cổng. Từ đây tôi có thể nhìn rõ ngôi biệt thự. Đó là một tòa nhà hai tầng, có lẽ tới sáu phòng ngủ, một phòng khách có thể chứa thoải mái hàng trăm khách một lúc. Cửa nhà bằng gỗ sồi được hiếu ánh sáng bằng hai ngọn đèn ô tộ Phòng khách và hai căn phòng khác vẫn sáng đèn. Một chiếc Rolls sơn màu be và nâu đang đợi bên thền. Tôi thoáng thấy một bóng người lướt qua một cửa sổ tầng trên: bóng của một người đàn bà.
Phía sau tôi chợt vang lên giọng đanh chắc của một gã cớm.
- Anh làm gì ở đây hả?
Tôi nhảy lùi lại cứ như bị một thanh sắt nung đỏ gí vào người. Tôi thận trọng quay đầu lại. Dưới ánh trăng mờ, tôi nhìn thấy một gã lực lưỡng đội mũ cảnh sát. Gã đứng phía sau cách tôi khoảng một mét, tay lăm lăm khẩu súng ngắn.
Tôi chợt thấy nhẹ người khi nhận ra người mặc sắc phục đó:
- Trời ơi, Jay! – tôi reo lên. – Xuýt chút nữa cậu làm mình vãi linh hồn.
Anh ta nhìn tôi, bỏ súng vào bao rồi mỉm cười.
- Thì ra là cậu à? Có chuyện gì vậy?
- Đứng ngắm dinh cơ nhà Stobart một lát. Đẹp đấy chứ, hầy?
- Khỏi nói rồi. Có chuyện gì xảy ra với nhà Stobart à?
- Người mà mình quan tâm là bà chủ. Mình cần nói chuyện với bà ấy.
- Để làm gì?
- Cậu nhất định phải biết à?
Vào mỗi dịp Noel, đại tá đều gửi cho anh ta một con gà mái tây và chai uytski để làm lễ Tạ Ơn. Anh ta toét miệng cười.
- Ồ, không.
- Cậu có quen bà ấy không?
- Mình gặp bà ấy thường xuyên. Kênh kiệu lắm. Mình chả thèm làm quen.
- Mình cần nói chuyện với bà ta khi không có mặt chồng. Lúc nào là thích hợp nhất?
- Ngày nào cũng như ngày nào, đều đặn như giấy kẻ khuôn nhạc, bà ta cùng chồng từ đây khoảng một giờ nữa tới Câu lạc bộ Countrỵ Ông chồng để bà ta ở đó rồi đi tới Câu lạc bộ Poker. Khoảng một giờ sáng ông ta đón vợ về nhà ngủ.
- Xem ra họ không hợp nhau nhỉ?
- Cậu thấy thế à? Mà ai có thể hợp với cái lão Herbert Stobart ấy. Một cục phân, không hơn không kém.
- Có ai khác sống ở đây nữa không?
- Nhiều. Một gã da đen to bự lái xe cho Stobart. Kiêm luôn vệ sĩ. Rồi một cô gái thi thoảng lại tới mượn xe bà vợ.
- Cô ta là ai?
- Mình không biết. Trông sexy lắm. Tóc đen, ngực đẹp. Xem ra thân với bà Stobart lắm.
- Cám ơn Jay.
Để tỏ lòng biết ơn, tôi lấy ra tờ hai mươi đô và khi chúng tôi bắt tay nhau, tờ giấy bạc đã đổi chủ.
Tất cả những ngườ làm việc cho hãng Parnell đều là thành viên của câu lạc bộ Country, câu lạc bộ thuyền buồm, của Casino và nhiều hộp đêm sang trọng khác. Ngồi trên chiếc ghế dài ở hàng hiên lớn của câu lạc bộ, với ly uytski trong tay, tôi thấy chiếc Rolls sơn màu be và nâu dừng ở trước cửa ra vào. Một người đàn bà bước xuống, giơ tay vẫy rồi bước lên bậc tam cấp. Tôi hy vọng nhìn thấy mặt Herbert Stobart, nhưng chiếc xe đã phóng đi trước khi tôi kịp đứng dậy.
Bà ta đi vào tiền sảnh, tôi uống cạn ly rượu rồi vội vã bám theo ngaỵ Bà ta đứng nói gì đó với Johson, người gác cửa câu lạc bộ, một ông già đen có mái tóc bạc xoăn tít. Ông ta có vẻ cung kính lắm, rồi bà ta khẽ gật đầu với ông, đi qua phòng khách lớn và bước ra sau hàng hiên nơi phục vụ bữa tối.
Tôi bước lại gần. Đứng bên cạnh, tôi mới thấy trước kia chắc bà ta phải đẹp mê hồn. Không một khoảnh khắc nào tôi có thể rằng người đàn bà mà tôi đang ngắm nhìn đây lại là Stella Costa, người đã từng một vũ nữ thoát y và là một con điếm. Tôi quyết định thử vận may:
- Xin lỗi được hỏi bà có phải là bà Stobart? – tôi hỏi và dừng lại trước bàn.
Bà ta nhìn như xuyên qua người tôi, rồi mỉm cười. Gương mặt nặng nề của bà ta biến đổi hẳn.
- chính tôi đây. Thế anh là ai?
- Dirk Wallace, - tôi nói. – Những người đàn bà đẹp không bao giờ nên ngồi một mình cả. Liệu tôi ngồi cùng không làm hỏng buổi tối của bà chứ hay tôi phải ngồi sang bàn khác.
- Ồ không, anh đừng đi. Tối nay mọi người đều có đôi cả. Tôi thường xuyên tới đây sao không gặp anh nhỉ?
- Thi thoảng tôi mới ghé quạ Tôi bận lắm.
- Bận cả buổi tối sao?
Bà ta nhìn tôi vẻ ngạc nhiên.
- Không may lại đúng như vậy, - tôi nói và mỉm cười thân thiện. – Ở đây đông người thật.
Bà ta nhún vai.
- Lúc nào chả thế. Thế anh làm nghề gì, Wallace?
- Tôi là điều tra viên.
Nụ cười trên mặt bà vụt tắt.
- Điều tra viên à? Hay lắm. Thế anh điều tra về cái gì?
- À, đủ mọi thứ, toàn là bí mật cả.
- Tôi làm việc cho hãng thám tử tư Parnell, - tôi nói và vẫn tiếp tục quan sát bà ta.
Bà Stobart là một diễn viên có hạng đấy nhưng chưa đủ siêu. Tay cầm ly rượu đưa lên uống còn vững, nhưng đã hơi run.
- Có phải anh muốn nói rằng anh thuộc loại sâu bọ ghê tởm chuyện đục khoét vào đời tư của mọi người không? Một thằng khốn chuyên đào bới?
Giọng bà ta đanh lại và bà ta đã hiện nguyên hình là một con điếm trở nên giàu có.
- Qủa là một sự mô tả khá chính xác, - tôi nói và nhếch mép cười vô tư
- Hãy để tôi yên, - bà ta nói bằng một giọng nghẹn ngào. – tôi không muốn giao du với hạng người như anh.
- Mẹ tôi cũng khuyên tôi không nên giao du với gái điếm.
- Nếu anh không đi ngay lập tức, tôi sẽ kiện lên hội đồng, - bà lầu bầu khó chịu.
- Thôi đi, Stellạ Tôi cũng có thể tố cáo bà chứ. Thực ra, tôi không quan tâm bà, người tôi quan tâm chính là thằng Johnny kia.
Bà ta nhìn tôi khá lâu:
- Có thật là anh đang kiếm nó không?
- Đó là một phần công việc của tôi. Tôi có thể kiếm con trai bà ở đâu, bà Stobart?
- Tôi không biết gì hết. Tôi ngán câu chuyện này đến tận cổ rồi. Hãy để tôi yên.
Bà ta nói bằng giọng the thé.
- Tôi xin bà hãy bình tĩnh lại, bà Stobart, - tôi nghiêm giọng nói. – Tôi cần phải tìm bằng được Johnnỵ Bà nói rằng bà không biết nó ở đâu. Nhưng bà có thể cho tôi một gợi ý nào không? Có phải nó là đứa đồng tính và hiện đang sống với một gã da đen không?
- Đúng, nó là một thằng pêđê, - cuối cùng bà ta cũng lên tiếng. – một hôm nó tới gặp tôi và xin tiền. Từ đó tôi không bao giờ gặp lại nó nữa. Có thể nó đã chết rồi.
- Vì sao nó lại chết?
- Tôi không biết. Tôi ngán nó đến tận cổ rồi! Tôi hy vọng nó chết đi. Thế là xong!
- Bà có thể cho tôi một ý niệm về nơi có cơ may tìm ra nó không?
- Tôi không có một ý niệm nào hết. Tôi chỉ hy vọng nó sẽ không trở lại làm khổ tôi nữa. Anh có hiểu không? Tôi đã từng sống những ngày cơ cực không khác gì địa ngục! Bây giờ tôi đã có một người chồng giàu có. Cuộc đời tôi đã thay đổi, được kính trọng. Từ đây tôi đã được giải thoát, anh không hiểu điều đó có ý nghĩa nào với tôi đâu! Tôi đã được giải thoát, nhưng cái thằng pêđê khốn nạn đó vẫn cứ ám ảnh tôi.
- Chuyện đó cũng tất nhiên thôi. Thế Mitch Jackson có phải là cha nó không?
- Thằng chó ấy đâu có đáng mặt làm chồng. Nó cũng như lão già khốn khiếp cha nó, chỉ muốn có con trai thôi. Mà tôi cũng đẻ cho nó một thằng con trai, dù là pêđệ Khi đó tôi nghĩ rằng Mitch cưới tôi. Nhưng không. Rồi hắn chết và được tặng huân chương. Anh thấy có khôi hài không?
- Vào lúc tám tuổi, Johnny đã trốn nhà bỏ đỉ Tại sao vậy?
- Anh muốn biết cả điều đó à? Anh đã xem tôi là một con điếm cơ mà. Hãy để cho cái bộ não bé tí của anh nó động đậy một chút. Nếu anh định phá hoại cuộc đời tôi, thì anh bạn thám tử tư ạ, anh sẽ phải hối hận đấy.
- Cảm ơn về sự hợp tác của bà. Tôi hy vọng không làm hỏng bữa tối nay của bà.
Tôi nhìn bà đi lên hàng hiên trên và thấy bà ta giơ tay đáp lại tiếng gọi của ai đó. Tôi vẫn chưa tiến được bước nào trong việc tìm kiếm Johnny.
Tôi trở về nhà và bật ti vi xem cô bé tóc vàng ưỡn ẹo. Tôi bật sang kênh khác cũng gặp toàn cảnh đại loại như vậy. Tắt máy và chợt tự hỏi không hiểu Terry bây giờ ra sao.
Tôi bị đánh thức bởi tiếng chuông điện thoại réo inh ỏi. Lúc này đã hơn ba giờ sáng. Tôi nhấc ống nghe.
- Hy vọng rằng mình đã không đánh thức cậu dậy, - ÓBrien nói.
- Đánh thức mình ấy à? Không đâu, mình vẫn đang ngồi chờ cậu. Có tìm được gì không?
- Nghe đây, Dirk. Sao cậu lại chơi khăm mình?
- Cậu nói sao?
- Mình đã tới tất cả câu lạc bộ pêđệ Mình cũng đã gặp Flossiẹ Không có ai từng biết thằng Johnny của cậu cả. Cậu nên nhớ rằng Flossie biết tất cả bọn này. Anh ta có cả một danh sách. Không hề có thằng Jackson Johnny nào cả.
- Cũng không có thằng thanh niên tóc vàng, cổ đeo dây chuyền và tay mang lắc vàng cặp kè với một gã da đen cao lớn à?
- Mình còn phải nhắc đến bao nhiêu lần nữa đây? (Giọng của Terry đầy vẻ tuyệt vọng). Flossie đã khẳng định với mình là không có thằng Jackson Johnny nào hết. Ngay khi mình nói Jackson sắp được thừa kế, tất cả bọn pêđê có mặt ở đó đều xô lại định giúp đỡ mình, nhưng không có đứa nào đã nghe nói về Johnny cả. Thế nào, cậu thỏa mãn chưa?
- Thì cũng phải thỏa mãn vậy thôi, - tôi nói trước khi gác máy.
 

Xem Tiếp: Chương 8

Truyện Vụ Giết Người Bí Ẩn Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8
Truyện Cùng Tác Giả Đóa Lan Rừng Nổi Loạn HÃY ĐẶT NÀNG LÊN TẤM THẢM HOA Vụ Giết Người Bí Ẩn