Dịch giả: Phạm Văn Thiều
Chương 4

Do phóng như bay, tôi về tới Paradise City chỉ ít phút trước sáu giờ chiều. Rất may là Chick vẫn còn đang dọn dẹp bàn làm việc.
- Mẹ kiếp! – anh ta thốt lên khi thấy tôi bước vào phòng làm việc. – Nghe đây Dirk, mình có hẹn với một cô bé, không thể tới chậm được.
- Cậu đúng là chả biết cóc khô gì. Cậu càng bắt họ đợi lâu, họ càng kích thích. Cậu có tin gì cho mình không?
- Cậu xem mình là ai vậy? Một thầy phù thủy chắc? Dù sao mình cũng có cái gì đó cho cậu đây. Nhưng không giúp ích lắm đâu. (Anh ta sốt ruột xem đồng hồ, rồi mở ngăn kéo bàn). Này, cầm lấy. Đây là một tờ báo cáo về Syd Watkins. Cho tới tận bây giờ mình vẫn chưa tìm được đầu mối gì về đám cưới của Mitch Jackson và sự ra đời của thằng bé. Theo sổ đăng ký của quân đội thì hắn độc thân, nhưng quân đội cũng có thể nhầm chứ.
- Thế Johnny Jackson không có đăng ký khai sinh à?
- Mình không biết gì hết. (Anh ta chìa cho tôi một bản báo cáo đánh máy). Cậu cầm lấy đi. Mình chuồn đây.
- Hượm đã nào, Chick. Cậu đã từng là quân cảnh trong trung đoàn của Parnell. Đơn vị của cậu có bao nhiêu phần trăm người nghiện ma túy?
- Lạy Chúa! Cái đầu của cậu đang suy nghĩ gì vậy? Cậu đang được giao nhiệm vụ tìm thằng cháu nội Jackson cơ mà.
- Đừng mất thời gian nữa, Chick. Có bao nhiêu phần trăm người nghiện ma túy trong trung đoàn của Parnell?
- Đó là câu chuyện cũ rích rồi, nhưng thật đáng lo ngại. Ở đó tất cả các trung đoàn đều vấp phải vấn đề này. Nhưng không liên quan đến mình. Có cả một êkíp của phòng chống ma túy lo chuyện đó. Họ là những người chuyên nghiệp mà.
- Thế họ không gửi báo cáo về trung đoàn của cậu à?
- Mình nghĩ là có, nhưng nó được thông báo trực tiếp cho đại tá.
- Trưởng kíp chống ma túy là người như thế nào?
- Đó là đại tá Jefferson Haverford. Ông ấy là bạn lớn của đại tá Parnell.
- Hiện ông ta sống ở đâu?
Chick nhíu mày nhìn tôi.
- Chuyện quái quỷ gì đang xảy ra trong óc cậu vậy? Đại tá không muốn người ta đào bới chuyện đó đâu. Ông vốn rất kiêu hãnh về trung đoàn của mình và ông hoàn toàn có cơ sở để làm vậy.
- Mình có thể gặp đại tá Haverford ở đâu?
- Ông ấy hiện sống ở đây, cậu có thể tìm theo danh bạ điện thoại. Nhưng phải thận trọng, Dirk ạ. Đại tá sẽ không hài lòng việc cậu đào bới lại chuyện cũ đâu. Mình phải đi đây, kẻo không cô bồ của mình sẽ bóp nát của gia bảo mình mất.
Đoạn, anh ta vụt chạy ra cửa. Tôi châm thuốc, rót một ly vừa nhâm nhi vừa đọc bản báo cáo ngắn về cuộc sống quân ngũ của Syd Watkins.
Bản báo cáo cho biết Syd Watkins nhập ngũ và được biên chế vào một đơn vị cung cấp bom cho máy baỵ Anh ta làm việc trong suốt bốn năm tại một căn cứ không quân ở Việt nam. Sau khi giải ngũ anh ta về Mỹ cùng với các đồng đội khác. Địa chỉ cuối cùng của anh ta mà quân đội nắm được là một ngôi nhà ở phía đông New York. Sau đó anh ta mất tăm. Báo cáo dừng lại ở đó.
Điều duy nhất khiến tôi quan tâm là Watkins và Mitch ở Việt nam cùng một thời gian.
Tôi đặt bản báo cáo vào cặp hồ sơ, rồi tìm điện thoại của đại tá Haverford. Đại tá sống trong một căn hộ thuộc tòa nhà ở phố Đại dương, một khu phố sang trọng ở Paradise City.
Đích thân ông trả lời tôi qua điện thoại.
- Tôi Haverford đây, - Ông nói bằng một giọng nghiêm nghị.
- Thưa đại tá, tôi là Dirk Wallace, nhân viên của đại tá Parnell, - tôi tự giới thiệu.
- À, thế hả. Anh là nhân viên mới, phải không? Đại tá Parnell có nói với tôi về anh. Có chuyện gì vậy, Dirk?
- Cháu đang phải đối phó một vấn đề. Bác dành cho cháu ít phút, được không?
- Sao, một vấn đề à?
- Đây là một vụ mà cháu đang điều trạ Cháu có cảm giác là vụ này có liên quan đến việc buôn bán ma túy trong quân đội. Cháu nghĩ bác có thể giúp cháu lần ra manh mối.
- Thôi được, mười phút nữa cháu hãy đến đây. Tôi được mời ăn tối lúc tám giờ.
Nói đoạn, ông gác máy.
Phố Đại dương chỉ cách văn phòng tôi chừng ba phút xe hơi. Bảy phút sau tôi ấn chuông cửa nhà đại tá Haverford.
Người hầu – một bà da đen – dẫn tôi qua một phòng khách lớn tiện nghi sau khi đi qua một hàng hiên nhìn ra đại lộ có hàng cọ ngăn cách với một bãi cát tuyệt đẹp. Haverford đang ngồi trên một chiếc ghế dài. Nhìn thấy tôi, ông đứng dậy. Hồng hào, hơi nhỏ con và béo tròn, Haverford có gương mặt nhà binh, hàng ria bạc trắng được tỉa cầu kỳ và bộ tóc cắt ngắn.
- Wallace hả? – ông hỏi và chìa tay cho tôi bắt.
- Vâng, - tôi nói.
- Tốt lắm, ngồi xuống đi. Một ly uytski chứ?
- Vâng, cám ơn bác.
Ông đi lấy hai ly ở quầy rượu, đưa đến cho tôi một ly rồi ngồi xuống.
- Nào, có vấn đề gì?
- Cháu nghe nói ở Việt nam bác chuyên lo về vấn đề ma túy, - tôi nói.
- Đúng vậy.
- Người ta yêu cầu hãng cháu tìm đứa con trai của Mitch Jackson. Trong quá trình điều tra, cháu biết Mitch có bán ma túy.
Rồi ông nhún vai.
- Tôi cũng đã nghĩ rằng, rồi một ngày nào đó chuyện này cũng sẽ tới. Anh nói chuyện với ông chủ của anh chưa?
- Chưa. Đại tá đang ở Washington, cháu chưa thể gặp được. Chính vì thế cháu mới tìm bác. Liệu người ta đã có bằng chứng về Jackson bán ma túy chưa ạ?
- Hãy nghe kỹ đây, anh bạn trẻ. Mọi người hiện đều xem Mitch là một anh hùng. Chúng ta không nên làm vấy bẩn danh tiếng của một người đã hy sinh mình để cứu sống mười bảy mạng người.
- Như vậy đúng là anh ta đã bán ma túy?
Đại tá lưỡng lự một lát, rồi gật đầu.
- Đúng. Chúng tôi sắp bắt anh ta như nhiều kẻ bán ma túy khác. Người trợ lý của tôi đã thu thập đủ bằng chứng về Jackson và đã có lệnh bắt. Đúng lúc đó thì xảy ra chuyện anh ta lao vào rừng cứu người và đã hy sinh một cách bi thảm. Tôi rất căm ghét những kẻ bán ma túy. Nhưng Jackson lại là một chiến sĩ dũng cảm. Anh thử nghĩ xem dư luận sẽ thất vọng ghê gớm tới mức nào nếu chúng ta để lộ ra rằng trước khi chết như một người anh hùng, anh ta là một gã nhơ nhuốc, đại tá Parnell không hề biết chuyện này. Chúng tôi đã lờ chuyện này đi. Đấy, chuyện là như vậy, anh bạn trẻ ạ. Tôi khuyên anh cũng nên làm vậy.
- Đây có thể là chuyện cái lá nho, - tôi nói. – Ý cháu muốn nói là một sự che đậy. Nhưng cháu vẫn muốn tiếp tục điều trạ Bác có biết Jackson đã cưới vợ và có con trai không?
- Theo tài liệu lưu trữ chỗ tôi thì trước khi nhập ngũ, Jackson là một tên du thủ du thực. Hắn có một hồ sơ rất xấu. Nhưng khi trong quân ngũ, hắn được nhận xét rất tốt. Không có một thượng cấp nào nghi ngờ những hoạt động của nó. Nếu không có trợ lý của tôi, đại úy Harry Weatherspoon, truy tìm ráo riết những kẻ bán ma túy, thì Jackson chắc đã hốt bạc.
Tôi ngồi im cố không để lộ rõ những điều tôi đã linh cảm thấy.
- Đại úy Harry Weatherspoon? Hiện nay anh ta ra sao ạ?
- Cậu ta đã giải ngũ. Tôi có nghe nói cậu ta mua một nhà máy liên quan đến ếch nhái gì đấy. Tôi lấy làm lạ vì cậu ta đã từng là một nhân viên xuất sắc của cơ quan chống ma túy của quân đội. (Ông xem đồng hồ). Tôi cần phải thay đồ rồi. Trước khi tiếp tục điều tra nên xin ý kiến Parnell. Tôi không hiểu sao việc tìm đứa con của Jackson lại quan trọng như vậy.
Chúng tôi bắt tay nhau rồi tôi ra về.
Lúc đó đã là bảy giờ kém hai mươi. Tôi quyết định trở về nhà. Tôi cần phải suy nghĩ một cách bình tĩnh và không muốn đi ra ngoài nữa.
Tôi mở cửa phòng, tay lăm lăm khẩu 38 lỵ Không có thằng du đãng nào đợi tôi ở đây cả. Tôi khóa trái cửa và nhét súng vào bao. Tôi ngồi xuống ngẫm nghĩ về những điều vừa xảy ra trong ngày. Tôi cảm tưởng công việc đã có tiến triển. Tôi tự nhủ ngày mai sẽ tới gặp Howard và Benbolt – các công chứng viên của Weatherspoon, rồi sẽ quay về Searlẹ Tôi cũng muốn gặp lại Wally Watkins, nói chuyện với Josh – người bưu tá và tất nhiên cả Weatherspoon nữa.
Trong khi uống uytski, tôi thấy trong tôi đang lớn dần một linh cảm không mấy dễ chịu là Parnell sẽ không cho tôi tiếp tục điều tra nữa, nếu tôi kể cho ông tất cả những điều tôi phát hiện cho tới naỵ Tôi mừng là ông đang ở Washington.
Sau khi ăn sáng muộn, tôi đi tới văn phòng Howard và Benbolt ở Miamị Họ đều ở tầng năm của một tòa văn phòng rất đẹp ở phố ba mươi sáu tây bắc. Một người đàn bà cao lớn tóc muối tiêu ngồi ở phòng tiếp tân. Bà nhìn tôi với đôi mắt lạnh và không mấy thiện cảm.
- Tôi muốn gặp ông Benbolt, - tôi mỉm cười nói và đưa cho bà ta danh thiếp.
Bà ta xem danh thiếp của tôi và quẳng ngay xuống, cứ như sợ nó làm bẩn ngón tay.
- Ông có hẹn trước không?
Tôi đáp rằng không.
- Ông Benbolt chỉ tiếp những thân chủ có hẹn trước.
Tôi đáp rằng tôi không phải là thân chủ. Tôi chỉ muốn trao đổi một vài lời với ông Benbolt thôi, tất nhiên nếu ông ấy không quá bận.
- Thế thì ông tới không đúng lúc rồi.
Mụ già làm tôi hơi bực mình. Nhưng tôi vẫn cố tươi cười rằng tôi lấy làm tiếc và hỏi lúc nào có thể tới gặp được.
Bà ta nhìn tôi một lúc dường như xem có phải tôi chế nhạo bà ta không, rồi nhấn máy điện thoại nội bộ:
- Có ông Wallace nào đó của hãng thám tử tư Parnell muốn gặp ông, ông Edward ạ.
Một giọng chân thành vang lên trong máy.
- Cho ông ấy vào gặp tôi, cô Lacey.
Bà gái già tắt máy và giơ ngón tay chỉ cho tôi một cái cửa.
- Sau cửa này, đi theo dọc hành lang vào cửa thứ ba bên phải.
Tôi cám ơn, đi vào một hành lang rộng, rồi gõ cửa thứ ba bên phải. Một giọng vang và chân thành mời tôi vào. To lớn và phương phi, Benbolt cho tôi ấn tượng là một người giàu có. Ông trạc ngoại tứ tuần. Chiếc sơ mi Cardin, cúc măng sét bằng vàng, mái tóc đen bóng nhẫy, gò má hồng hào, tất cả đều toát ra một vẻ giàu có và tự tin.
- Mời ông vào, ông Wallacẹ (Ông chìa tay cho tôi. Bắt tay ông tôi có cảm giác bàn tay như được làm bằng một thứ bột nhão).
Tôi đoán rằng bàn tay ông chỉ quen dùng dao và nĩa.
- Mời ông ngồi. Ông Weatherspoon có điện thoại cho tôi nói rằng ông sẽ qua đây.
Ông ta cười để lộ cả hàm răng có phủ một lớp men đắt tiền.
- Ông ta cũng đã nói với tôi rằng tôi có thể giúp ông giải quyết một vấn đề nhỏ gì đó. Chúng tôi đều biết hãng Parnell, một hãng vào loại tốt nhất bây giờ.
- Chắc Weatherspoon cũng đã nói với ông tôi là đại diện của ông già Fred Jackson quá cố trong việc tìm kiếm đứa cháu nội của ông ấy., -tôi nói.
- Đúng như vậy. Chúng tôi cũng đang thử tìm kiếm nó. Tất cả chuyện này có vẻ bí ẩn thế nào ấy, phải không? Ông Weatherspoon có ý định mua lại khu chăn nuôi ếch của Jackson, nhưng tôi không thể làm gì trước khi tìm được người thừa kế của Jackson.
- Ông có chắc Johnny Jackson là người thừa kế của Jackson không?
- Không còn gì phải nghi ngờ. Tôi đã xem bản sao của tờ di chúc.
- Thì ra có một tờ di chúc?
- Đúng nt. – Con đang cần tiền. Mẹ có thể cho con năm mươi đô chứ?”. Stella vẫn ngồi đó, bất động nhìn nó. Em bèn hét nó xéo đi. Lúc đó Stella mới lên tiếng: Trời ơi, Johnny, tại sao con lại ra nông nỗi này? Nó cười: Thôi đi, sao lại ra nông nỗi này? – nó đay lại. – Đưa cho con năm mươi đô đây. Con không còn một xu dính túi. Stella bật khóc. Thằng khốn cầm lấy sắc mẹ nó và đúng lúc nó đang mở sắc em hất ngay vào mặt nó chai côca đang uống dở. Nó lùi lại hét lên: Làm bẩn hết quần áo người ta rồi. Ngay lập tức gã đen bước vào phòng. Em nghĩ hắn sẽ giết chết em, nhưng hắn chỉ cầm tay Johnny dắt ra ngoài. Stella dàn dụa nước mắt. Đó là lần cuối cùng em nhìn thấy bà ấy còn sống. Bà ấy đã tiêm một lúc ba liều.
Các mẩu ghép hình đã bắt đầu ăn khớp với nhau. Johnny là một tên đồng tính luyến ái. Điều này giải thích vì sao ở trường hắn lại lảng tránh bọn con gái và mọi người đều nói hắn là một thằng bé ngoan nhưng hơi ẻo lả. Tôi có linh cảm là đã đạt được một điều gì đó.
- Em có biết tìm nó ở đâu không?
- Không. Em chẳng biết gì hết và cũng cóc cần biết. Nghe đây, cưng. Em phải đi đây. Anh có thể cho em vài chục đô nữa không?
- Em đi đâu?
- Em cũng không biết nữa. Em đã ngán cái câu lạc bộ Skin lắm rồi. (Cô ta chằm chằm nhìn tôi). Anh có thể tưởng tượng con gái như em mà có nguy cơ bị chết đói không?
- Chắc là em phải đi đâu đó chứ?
- Có thể là New York. Ở đó chả thiếu gì việc. Nhưng lúc này em biết là phải thoát khỏi Eđỵ Chuyện đôla thế nào?
- Này, cưng. Với một trăm đô em không thể đi xa được đâu. New York cách đây biết bao là cây số.
Cô gái chìa tay ra.
- Mười đô vậy, được không?
- Hãy cho anh biết về Eđy Raiz đi.
- Anh điên à? Em không thể nói về thằng thối tha đó. Em đã nói với anh rằng em đã gặp Johnnỵ Thế là đủ rồi.
- Eđy là tên buôn bán ma túy. Em không cần phải nói thì điều ấy cũng đã rõ như ban ngày.
Cô gái đứng dậy, đi ngang qua phòng ra mở cửa.
- Vứt mẹ nó cái mười đô của anh đi. Anh hãy đi đi.
Tôi nhìn cô gái và cảm thấy thương hại cộ Cô gái tuyệt diệu này đã phải vật lộn để kiếm sống như bao cô gái khác ở tuổi cộ Có chăng là vẻ đẹp của cơ thể họ và sự dễ dàng chấp nhận lên giường với ai đó. Không bao giờ họ nghĩ rằng rồi năm tháng sẽ qua, họ sẽ trở nên tàn tạ không còn cần cho ai nữa. Hiện thời, với sự tự tin mà sắc đẹp đem lại, cô không hề nghĩ rằng, rồi một ngày nào đó, một cô gái khác trẻ hơn, vì mưu sinh, sẽ đẩy cô xuống cuối hàng chờ dành cho những kẻ mạt hạng, những tên say khướt, những kẻ chỉ cần ôm ấp cái gọi là đàn bà.
- Khoan đã, cưng, - tôi nói. Hãy suy nghĩ một chút đi. Rồi em sẽ lại nghiện hút như Stella thôi. Em có thể làm gì ngoài nghề thoát y vũ không?
- Thôi cái trò đạo đức giả ấy đi. Nếu có một điều tôi có thể làm, đó là tổ chức cuộc sống của tôi. Anh hãy xéo đi.
Tôi bỏ đi với ý nghĩ buồn bã rằng không một lời nào của tôi có thể thuyết phục được cô.
Khi đi dọc theo hành lang tối om, tôi nghe tiếng cửa phòng cô đóng sập lại.
Tôi ngồi vào xe, chạy dọc theo phố. Khi quẹo phải, tôi phát hiện thấy một chiếc xe từ một chỗ kín lao ra. Tôi đạp phanh vừa lúc một chiếc xe khác lao tới. Người lái xe nhìn tôi như muốn nuốt sống, rồi phóng đi. Tôi khóa xe và nhanh chóng quay lại phố của Bêbệ Len lỏi qua dòng người chen chúc, cuối cùng tôi cũng tìm được một cái cửa khuất trong bóng tối, từ đó nhìn rõ cửa ngôi nhà của Bêbệ Tôi rất quan tâm tới cô và muốn biết cô sẽ đi đâu.
Đợi khoảng mươi phút, cửa sau lưng tôi chợt mở ra và tôi quay phắt lại.
Một gã da đen cao lớn đi ra trước mặt tôi. Xộc vào mũi tôi mùi nước hoa rẻ tiền. Đi được mấy bước, gã dừng lại chằm chằm nhìn tôi với đôi mắt đầy vẻ hăm dọa.
- Anh cần gì, anh bạn trắng? – hắn hỏi.
- Nếu cần gì, người tôi hỏi không phải là anh, anh đen ạ, - tôi đáp.
Hắn gồng mình làm bật cả cúc áo.
- Xéo ngay khỏi đây, - hắn gầm gừ.
Tôi cởi cúc giữa của áo vét và hơi hé cho hắn thấy khẩu 38 ly nằm trong bao.
Gã đen nhìn dán vào khẩu súng, rồi nhìn tôi mỉm cười.
- Sao ông không nói trước, ông chủ? – gã nhăn nhở.
Rồi hắn rảo bước rẽ đường giữa đám đông như một chiếc xe ủi gạt những khối đất lớn.
Tôi cài lại cúc áo và tiếp tục canh chừng.
Khoảng hai mươi phút sau, tôi đã hết kiên nhẫn, thì nhìn thấy Bêbê đi ra, mắt liếc ngang liếc dọc, rồi đi xuống phố. Tôi đã nghĩ cô mang theo vali, nhưng chỉ có chiếc sắc đeo vai. Tôi để cho cô đi trước rồi bám theo sau. Trông cô không có vẻ gì là người sắp rời khỏi thành phố.
Tôi len lỏi trong đám đông, khó lắm mới bám sát được cộ Đột nhiên cô rẽ phải và tôi mất dạng cô một lúc. Tôi xô cả một đám người đang mải mê tranh luận, rồi vòng qua một góc phố đúng lúc thấy cô ta ở cuối phố. Cô sắp sửa ngồi vào chiếc TR 7. Chiếc xe khiến tôi ngạc nhiên. Nó gần như còn mới, bóng loáng, màu xanh nhạt. Vì ở khá gần nên tôi nhìn rõ số đăng ký của chiếc xe trước khi nó chạy hết tốc lực vòng qua góc phố và biến mất.
Tôi ghi biển số xe vào sổ rồi quay lại ngôi nhà của Bêbệ Tôi mở cửa, bước vào hành lang tối om dẫn tới phòng cộ Tôi nghĩ rằng cửa khóa, nhưng chỉ quay nắm cửa, nó đã nhẹ nhàng mở ra.
Tôi lục soát khoảng năm phút nhưng không phát hiện thấy gì. Chiếc tủ quần áo rỗng không. Phòng tắm có ba con gián lớn đang nô giỡn, chắc hàng tháng nay không sử dụng tới. Tôi kết luận rằng Bêbê xạo tôi. Cô ta không sống trong cái phòng dơ bẩn này.
Tôi trở về văn phòng và tới gặp Charles Edward, thằng cha kế toán rất chi li trong việc tính tiền chi phí cho tất cả nhân viên của hãng. Sau một hồi tranh cãi gay gắt, tôi đã nhét đầy ví với lời hứa hẹn sẽ có báo cáo chi tiết về việc chi tiêu.
Chick Barley đi vắng. Tôi đóng cửa phòng và gọi điện cho viên sĩ quan chuyên quản lý về ôtô của Sở cảnh sát thành phố. Tôi đã từng có quan hệ với anh ta, vả lại hãng luôn sẵn lòng giúp đỡ cảnh sát nên họ cũng rất nhiệt tình đáp lại.
- Lew hả? – tôi nói. – mình cần biết chủ chiếc xe có biển đăng ký PC 400 008.
- Đợi mình một lát.
Trong khi ngồi đợi tôi lấy bút vẽ bậy bạ và nghĩ tới Bêbệ Tại sao cô ta lại đưa tôi đến căn phòng bẩn thỉu ấy nhỉ? Có đúng là cô ta định bỏ câu lạc bộ Skin không? Làm sao cô ta có thể là chủ nhân của chiếc xe thể thao đắt tiền như thế mà lại móc của tôi vài chục đôlả Có lẽ chiếc xe không phải của cô tạ Hay là nó bị đánh cắp?
- Dirk hả? – viên sĩ quan cảnh sát hỏi. – chiếc xe này thuộc bà Phyllis Stobart. Địa chỉ: 48 đại lộ Broadhurst, Paradise City.
- Cám ơn Lew. – tôi nói và gác máy.
Tôi lấy máy chữ và kê chi tiết các khoản chi tiêu để gửi cho Edward. Tôi hy vọng với bản tường trình này anh ta sẽ thỏa mãn.
Cửa phòng chợt mở và Chick bước vào.
- Cậu vẫn ở đây à? Mình có mấy thứ cho cậu đây. (Anh ta mở ngăn kéo và lấy ra một bản báo cáo ngắn). Không có gì cho thấy Mitch đã lấy vợ. Nhưng Johnny Jackson, con anh ta, thì được Stella Jackson lập giấy khai sinh ở tòa thị chính. Có thể đây là vợ anh ta, nhưng ít có khả năng.
Anh chìa cho tôi bản sao giấy khai sinh. Nhưng những điều này thì tôi cũng đã biết. Cha: Mitch Jackson. Mẹ: Stella Jackson. Nơi ở: 22 Grove Lane, Miami.
- Cám ơn Chick nhiều. Mà này, cậu có quen đại úy Harry Weatherspoon ở Phòng chống ma túy không?
- Cậu vẫn đào bới chuyện ma túy ấy à?
- Cậu có biết anh ta không?
- Mình có gặp một lần, nhưng mình không thích anh ta lắm.
- Tại sao?
- Có thể mình ghen tị. Hắn sống phong lưu lắm. Nghe đâu là con trai của một gia đình giàu có. Nhưng hắn thì chẳng nói lên điều gì với mình.
- Nghe đây, Chick. Cậu có muốn giúp mình một việc không? Mình phải trở lại Searlẹ Mình muốn biết gốc gác của bà Phyllis Stobart, 48 đại lộ Broadhurst.
Chick há hốc mồm.
- Bà ta thì quan hệ gì với Johnny Jackson?
- Mình không biết. Có thể là không, nhưng mình muốn biết vậy thôi.
- Terry hiện không làm việc gì, mình sẽ nhờ cậu ta giúp cậu. Nhưng đào sâu tới mức nào?
- Tới chừng nào có thể được.
- Tất nhiên rồi.
- Mình sẽ gọi điện cho cậu từ Searlẹ Về nhà cậu, lúc chín giờ.
- Chín giờ, không được. Lúc đó mình hy vọng còn đang giúp một cô bé nào đó cởi quần áo. Cậu cứ gọi cho Terrỵ Nó còn quá trẻ chắc chưa có bồ mà hẹn hò đâu.
- Thôi được, mình sẽ gọi cho cậu ấy.
Ra khỏi văn phòng, tôi tới đặt bản tường trình chi tiêu lên bàn Edward, lúc đó đang bận nói chuyện điện thoại. Tôi ra ôtô và trở lại Searle.
Khi tôi dừng xe trước khách sạn Jumping Frog thì chuông đồng hồ nhà thờ điểm bảy giờ rưỡi tối. Tôi đi qua tiền sảnh vào nhà ăn, ở đó chỉ có đám thương khách vừa ăn vừa bàn việc.
Abraham – người da đen quản lý nhà ăn – cười rất tươi đón tôi.
- Chào anh Wallace, - Ông nói khi tôi đã ngồi. – Tôi xin được giới thiệu món bitết tẩm dầu.
- Được lắm. Và cho tôi thêm một ly uytski có đá. Ông có biết Peggy đâu không?
- Peggy không được khỏe. (Ông buồn rầu nói). Cô ấy nghỉ trên lầu.
Rồi ông đi vào bếp. Tôi ngả người vào ghế, châm thuốc hút.
Mười phút sau, Abraham từ bếp nặng nhọc đi ra với khay thức ăn trên taỵ Ông đặt thức ăn và đồ uống trước mặt tôi.
- Anh thấy thế nào, Wallace?
- Trông có vẻ ngon lắm.
Bất chợt ông thay đổi nét mặt và có vẻ hoảng sợ. Tôi quay lại. Weatherspoon đang đứng ở ngưỡng cửa. Chúng tôi nhìn nhau, rồi tôi mỉm cườivà giơ tay chào. Ông ta lưỡng lự tiến lại bàn tôi.
- Chào ông Weatherspoon! – tôi nói, - Tôi mời ông bữa tối nay, được chứ?
- Cám ơn, tôi đã ăn rồi. Ông ta nói và chằm chằm nhìn Abraham, người đang đứng cúi đầu chào ông ta, rồi lê chân đi vào.
- Thế ông uống một ly cà phê nhé. Tôi muốn nói với ông mấy lời.
Ông ta vẫn có vẻ lưỡng lự, rồi kéo ghế ngồi trước mặt tôi.
Abraham quay trở lại.
- Một cà phê và một cô nhắc, - Weatherspoon nói cụt lủn.
- Nhà bếp ở đây nấu ăn khá lắm, - tôi nói. – Hình như ông định mua khách sạn này khi ông Wyatt qua đời?
- Tôi vẫn còn chưa quyết định.
Abraham mang cà phê và cô nhắc tới.
- Cứ tính tiền thanh toán cho tôi, ông Abraham ạ. – tôi nói.
Ông già gật đầu rồi lui ra.
Tôi tiếp tục ăn và Weatherspoon nhấm nháp ly cô nhắc.
- Công việc điều tra của anh phát triển tốt chứ? – đột nhiên ông ta hỏi.
- Cũng tà tà vậy thôi. Tôi đã gặp đại tá Jefferson Haverford.
Tôi đột ngột ngẩng mặt lên và nhìn ông tạ Ông ta chớp mắt, nhưng vẻ mặt không thể hiện gì.
- Đại tá có khỏe không? – ông ta hỏi.
- Ông đã nói dối tôi khéo lắm, ông Weatherspoon ạ. Ông nói rằng ông không biết Mitch Jackson.
- Thì ông có nói thật với tôi đâu. (Weatherspoon mềm hẳn). Thôi thế là hòa.
- Đúng vậy, - tôi mỉm cười.- Đại tá Haverford có nói với tôi rằng ông có đầy đủ bằng chứng về việc Mitch bán ma túy và ông cũng đã có lệnh bắt anh ta.
- Đúng thế. Tôi đang định bắt thì Jackson lại có một hành động anh hùng. Tôi báo cáo việc này với đại tá Haverford và ông quyết định cho quạ Chúng tôi đã giữ bí mật này suốt bao nhiêu năm, thế mà bây giờ anh lại bới tung ra.
- Nhiệm vụ của tôi là tìm con trai của Jackson. Nếu có thể đạt được mục đích mà không phải lần lại quá khứ của anh ta, thì tôi cũng chẳng đào bới làm gì.
Weatherspoon nhìn tôi và gật đầu.
- Có Chúa mới biết thằng bé hiện giờ ở đâu.
- Công chứng viên của ông đã cho đăng báo tìm kiếm thằng bé. Có thể điều đó có kết quả cũng nên.
- Tôi nghe nói là anh đã tới gặp ông ta.
- Tôi đã gặp cả đống người. Một cuộc điều tra như thế này đòi hỏi mất nhiều thời gian và gặp nhiều người.
Ông ta uống cạn ly cà phê và chuyển sang nhấm nháp ly cô nhắc.
- Để tìm thằng bé mà phải tốn nhiều công sức nhỉ.
- Tôi được trả tiền để làm việc đó mà. Xét cho cùng, ông quan tâm tới điều đó làm gì, phải không ôgn Weatherspoon?
- Bây giờ thì không. Tôi đã có ý định mua trang trại đó, nhưng giờ tôi thay đổi ý kiến. Tôi đã nói điều này với Benbolt. Tôi không muốn làm phức tạp thêm cuộc sống và lại tốn kém nữa.
- Thế có nghĩa là ông không quan tâm tới việc tìm Johnny nữa?
- Đúng thế. (Ông ta đứng dậy). Đã đến lúc tôi phải đi rồi.
- Hượm đã. Mitch Jackson chắc đã hốt nhiều tiền nhờ buôn bán ma túy. Ai cung cấp cho anh ta vậy?
- Làm sao tôi biết được. (Khuôn mặt ông trở nên lạnh như đá).
- Thế làm sao ông vạch mặt được anh tả Làm sao ông có được lệnh bắt anh ta?
- Tôi không thảo luận công việc của quân đội với một người dân sự, - Ông ta lạnh nhạt nói. – Chào anh.
Ông ta bước ra tiền sảnh và đi khuất.
Tôi ra hiệu cho Abraham mang cà phê tới. Tôi uống chậm rãi và suy nghĩ. Rồi tôi để lại tiền boa cho Abraham và đi ra cabin điện thoại ở tiền sảnh.
Bob Wyatt ngủ gật ở quầy tiếp tân. Ông ta chớp mắt khi nhìn thấy tôi. Tôi mỉm cười và khép cửa cabin lại. Tôi quay số của Chick đã chọ Terry ÓBrien trả lời ngay lập tức, cứ như anh ta ngồi chờ sẵn cú điện thoại của tôi.
Terry ÓBrien là một trong những tay học việc trẻ của đại tá Parnell.
- Terry hả. Wallace đây. Cậu đã tìm được gì chưa?
- Chào Dirk. Phyllis Stobart, đúng vậy không?
- Đúng, - tôi nói. – Cậu đã tìm được chưa?
- Mình bỏ ra hai giờ đào bới trong lưu trữ của tờ Herald. Fan đã giúp mình rất nhiều, nhưng không thấy được gì đáng kể.
Fanny Batley là cô nhân viên da đen chuyên trực đêm các kho lưu trữ của tờ Paradise City Herald. Cô ta lúc nào cũng sẵn lòng giúp đỡ mọi người. Khi các thám tử của Parnell cần biết ai đó trong thành phố, họ đều tự động nhờ đến cô.
- Thế cậu tìm được gì rồi?
- Phyllis Stobart là vợ của Herbert Stobart. Bà ta trạc ngoài bốn mươi, còn ông ta khoảng bốn nhăm bốn sáu. Ông ta mua một vila rất xịn ở đại lộ Broadhurst, trị giá cỡ nửa triệu độ Hình như ông ta làm xuất nhập khẩu gì đó ở Viễn Đông, đâu như Sài gòn thì phải. Ông ta đã bán toàn bộ sản nghiệp trước khi Sài gòn thất thủ và ôm về cả đống tiền. Ở đây họ chỉ giao du với những kẻ giàu có xuất thân từ tầng lớp dưới. Ngôi nhà của họ rất đẹp. Ba ôtộ Một chiếc Rolls và một chiếc Jaguar cho ông chồng và chiếc TR 7 cho bà vợ. Bốn người hầu. Tay chồng không làm gì hết, chỉ có chơi golf và đánh bài poker. Còn vợ thì đánh bridgẹ Những điều đó có nói với cậu điều gì không?
- Hiện tại thế là tuyệt rồi. Nhưng mình muốn tông tin chi tiết hơn về người đàn bà đó. Mình cũng muốn biết bà ta từ đâu tới và họ có con không?
Terry khẽ rên rỉ.
- Thôi được, mai mình sẽ lo vụ đó.
Tôi gác máy,bước ra khỏi cabin và thấy Bob Wyatt mặt đang lơ đãng nhìn đi đâu, tôi tiến lại gần.
- Peggy ốm ra sao, ông Wyatt? – tôi hỏi.
Ông nhìn tôi.
- Nó đang nằm viện.
- Rất tiếc phải nghe tin buồn này. Thế có nghiêm trọng lắm không?
- Nó có vấn đề. (Ông ta nhún vai). Chuyện làm ăn đang khấm khá, nhưng tôi không thể tiếp tục được nữa. Chỉ mong sao Peggy không chết đói. Ông Weatherspoon có ý định sẽ hiện đại hóa khách sạn này. Ông ta sẽ đuổi hết nhân viên ở đây, chỉ trừ có bà đầu bếp. Xét cho cùng, đời là thế mà.
- Xem ra ông Weatherspoon mua đủ thứ ở Searle này nhỉ, - tôi nhận xét.
Ông ta gật đầu và đưa chìa khóa cho tôi.
- Anh đi ngủ chưa, Wallace?
Tôi cầm chìa khóa, mỉm cười và đi ra thang máy.
Tôi ngồi suy nghĩ về những điều diễn ra trong ngày và những điều Terry cho biết. Rồi khi thấy công việc chưa đâu vào đâu, tôi bèn đi tắm, rồi lên giường ngủ.
Wally Watkins đang ngồi tỉa những bông hoa tàn trong những chậu hồng đặt dọc hai bên con đường nhỏ dẫn vào nhà. Nhìn thấy xe tôi, ông đứng dậy và ra tận cổng đón.
Vẫn rất nghiêm chỉnh trong bộ vét trắng, đầu đội chiếc mũ rộng vành.
- Tôi vẫn cứ tự hỏi khi nào tôi mới có cơ may gặp lại anh, - Ông nói. – Một chút cà phê nhé.
- Không, cám ơn bác. Cháu vừa ăn sáng xong. (Lúc đó khoảng mười giờ năm). Cái gối của bác thế nào rồi.
- Lúc đỡ lúc không. Những khi đỡ tôi tranh thủ làm vườn chốc lát.
Tôi dừng lại ngắm nghía những bông hồng.
- Chưa bao giờ cháu thấy những bông hồng đẹp như thế này.
- Anh biết đấy, đó là do tôi hay trò chuyện với chúng. (Ông cười). Hoa nó cũng hiểu người đấy.
Chúng tôi ngồi trong hai chiếc ghế phôtơi đu đưa trong bóng râm. Ông châm tẩu và tôi châm thuốc lá.
- Này, anh bạn trẻ. Anh đã tìm thấy Johnny chưa? – ông hỏi.
- Thế ông có bao giờ hỏi thăm sức khỏe thằng bé không?
- Tôi rất muốn làm điều đó, nhưng ông già chẳng bao giờ nói gì. Ông ta cầm lấy thư rồi quay đi ngaỵ Tôi thường phát thư vào lúc thằng nhỏ đến trường nên không bao giờ gặp nó. Fred thậm chí chẳng nói gì ngay cả lần tôi mang tới cho ông huân chương của con trai. Tôi hiểu đó là huân chương vì thấy có hộp và bao gói cẩn thận. Ông giật nó từ tay tôi, ký nhận rồi bỏ đi.
- Thế bức thư mà Johnny đưa cho ông… tôi biết đã mười năm trôi qua, nhưng ông còn nhớ nó gửi cho ai không?
- Ồ, có chứ. Tôi vốn tò mò mà. Hơn nữa, thằng bé như từ trên trời rơi xuống và lại tìm gặp lão già Fred thì ai không tò mò muốn biết.
- Tôi hiểu. (Tôi cố không nén hét lên vì vui sướng). Thế bức thư gửi cho ai?
- Bức thư ấy à? Nó được gửi cho bà Stella Costa, phố Macey ở Secomb, số bảy hay chín gì đó.
Tôi tự hỏi không biết mình đã chạm đúng mỏ vàng hay chưa
- Bà Stella Costa, số bảy hay chín phố Macey ở Secomb.
Ông bưu tá gật đầu.
- Đúng vậy.
- Cám ơn ông Josh, - tôi nói. – Ông đã giúp tôi rất nhiều.
- Tôi quý thằng bé lắm! Nếu Fred có để lại tiền bạc thì tôi sẽ rất mừng nếu thằng bé nhận được nó.
Tôi bắt tay Josh và đi nhanh ra chỗ đỗ xe. Tôi phải nhanh chóng tìm được bà Stella Costa.
Paradise City nổi tiếng là thành phố đắt đỏ và xa hoa nhất thế giới. Để giữ được tiếng tăm đó và chiều chuộng những gã tỷ phố sống ở đây, thành phố phải sử dụng cả một đội quân lao động, quét dọn đường phố, phục vụ khách sạn và hộ sĩ. Đội quân khổng lồ đó đóng ở Secomb, cách thành phố hai cây số.
Secomb rất giống West Miamị Đây là một thành phố nhỏ với những ngôi nhà lụp xụp, những khách sạn rẻ tiền, những quán bar và hộp đêm mờ ám.
Phố Macey xuất phát từ đường Seaview, một trung tâm thương mại của thành phố.
Nhà số bảy là một cửa hiệu may nhỏ. Từ ngưỡng cửa, ông chủ người Hoa đã tươi cười mời chào. Tôi đi tiếp. Nhà số chín xem ra có vẻ hứa hẹn hơn. Tôi thấy một cái cửa nhỏ kẹp giữa một hiệu ăn Tàu và một hiệu thuốc. Bên trên cửa có treo tấm bảng “cho thuê phòng”. Tôi bước vào. Ở bên trái có một cánh cửa ghi “văn phòng”. Tôi gõ cửa, mở ra và bước vào một căn phòng nhỏ. Một người da đen ngồi sau chiếc bàn nhỏ đang say sưa đọc báo. Ông ta trạc ngoài bảy mươi, tóc đã bạc trắng.
Ông ta đặt tờ báo thể thao đang đọc dở xuống bàn, nhìn tôi cười nghi vấn và tinh quái.
- Ông nghĩ gì về cuộc đua ngựa ba giờ chiều mai? – ông ta hỏi.
- Tôi không biết. Tôi không chơi cá ngựa.
- Tôi cũng đã ngờ như vậy. (Ông già gật đầu). Thế anh có tìm thuê phòng không?
- Không. Tôi tìm bà Stella Costa.
Ông ta nhướn hàng lông mày rậm.
- Một người trẻ tuổi ăn mặc lịch sự, không chơi cá ngựa như anh mà lại dây dưa với loại người như Costa sao?
Tôi mỉm cười thân thiện.
- Nếu bà ta muốn thì tự bà ta sẽ cho ông biết.
Ông ta có vẻ suy nghĩ về những điều tôi vừa nói, hết nhấc kính lại đeo vào.
- Bà ta đâu có thèm trả lời tôi.
- Tệ quá nhỉ. Thế phòng bà ấy ở đâu?
- Phòng của Stella ấy à?
- Tôi không có nhiều thời gian đâu. Có thể tìm bà ta ở đâu?
- Chắc chắn là bây giờ không có ở đây. Bà ta đã chuyển đi từ nhiều năm rồi.
Tôi lấy một chiếc ghế và ngồi dạng chân ra hai bên.
- Mà tôi chưa biết tên ông.
- Cứ gọi tôi là Washington. Bố mẹ tôi vốn có óc hài hước mà.
- Vậy thì thưa ngài Washington, ngài có thể cho tôi biết bà ấy hiện sống ở đâu không?
Ông già lấy từ túi ra một chiếc khăn mùi soa rồi lau kính.
- Tôi xin nhắc lại câu hỏi đầu tiên của tôi: tại sao một người trẻ tuổi, ăn mặc lịch sự, không chơi cá ngựa như anh lại muốn gặp loại người như Costa?
Tôi đã quá quen thuộc những tình huống như thế này. Tôi lấy ví rút ra tờ hai mươi đô và nhìn ông già. Ông ta đeo ngay kính lên, nhìn tờ giấy bạc, rồi nhìn tôi.
- Tôi biết ngay anh bạn trẻ là người thông minh mà.
- Vậy tôi có thể tìm bà Costa ở đâu? – tôi nhắc lại.
- Một câu hỏi tuyệt vời: tìm ở đâu? Tôi muốn trước hết phải có cái mà anh đang cầm trong tay đã. Thật lòng tôi không biết bà ta ở đâu. Nhưng tôi có thể kể cho anh một số chuyện về cuộc đời bà ấy. Anh có muốn nghe không?
Tôi đặt tờ giấy bạc xuống trước mặt ông già. Ông xem xét một lúc, rồi cầm nhét luôn vào túi áo.
- Bây giờ ta sẽ nói chuyện công việc, - Ông ta mỉm cười nói. – Anh hỏi tôi là bà Costa hiện ở đâu đúng không?
- Đúng, thưa ngài Washington. Ông có thể nói gì về bà ấy?
- Tôi đề nghị anh đừng gọi tôi là ngài Washington nữa. Cứ gọi tôi là Wash như mọi người ở đây vẫn gọi.
- Cũng được thôi. Vậy là bà ta đã sống ở đây và bây giờ đã chuyển nơi khác?
- Đúng thế.
- Bà ta đã sống ở đây bao lâu?
- Khoảng hai mươi năm trước, bà ta tới đây cùng một đứa con trai còn bé tí. Lúc đó bà ta mới mười bảy mười tám tuổi gì đấy. Bà ta thuê của tôi hai căn phòng đẹp nhất và xưng tên là Stella Costa, nhưng tôi có cảm tưởng đó không phải là tên thật.
- Điều gì khiến ông nghĩ như vậy?
- Chủ một ngôi nhà cho thuê buộc phải thận trọng, - Ông ta nhìn tôi cười tinh quái. – Khi bà ta ra ngoài, thằng bé khóc tôi có ghé vào xem có chuyện gì với thằng bé. Tôi có chìa khóa vạn năng mà. Thực ra chẳng có chuyện gì nghiêm trọng cả, nhưng tôi thấy một phong bì trong sọt đựng giấy tờ đề gửi cho bà Stella Jackson. Vì vậy tôi nghĩ rằng bà ta đã xưng một cái tên khác.
- Bà ta tự kiếm sống chứ?
- Tất nhiên rồi! Bà ta đẹp lắm. Rất đẹp. Bà ấy biểu diễn thoát y vũ trong nhiều hộp đêm.
- Thế vào những giờ bà ta làm việc, thằng bé thì sao?
- Bà ta toàn làm việc về đêm, nên thằng bé không có vấn đề gì.
- Chuyện này kéo dài khoảng bao lâu?
- Khoảng năm năm. Tiền nhà trả rất nghiêm chỉnh. Hầu như bà ta ngủ suốt ngày. Chẳng chăm lo gì cho thằng bé, vậy mà nó vẫn sống.
- Thằng bé có đi học không?
- Có chứ. Điều này có thể làm cho anh ngạc nhiên. Nhưng ở Secomb này có một trường tốt lắm. Johnny đi học ở đó. Nó là một đứa bé rất ngoan. Có thể hơi ẻo lả một chút, nhưng tôi rất quý nó. Khốn khổ là chuyện xảy ra với mẹ nó!
- Chuyện gì vậy?
- Vì Costa không kiếm được nhiều tiền, bà ta phải đưa cả đàn ông về nhà. Johnny là mối phiền phức của họ. Bà ta phải cho nó lang thang ngoài phố, đợi cho bạn trai của bà ta đi về mới được về. Thằng bé nói với tôi rằng nếu có dịp nó sẽ bỏ đi. Tôi bỏ ngoài tai, xem như chuyện bực bội của trẻ con. Thế rồi năm nó chín tuổi, nó bỏ đi thật. Một ngày sau hôm nó bỏ đi bà Costa hỏi tôi có thấy nó không. Tôi có cho bà ta một bài thuyết giáo ngắn về phận sự của người mẹ, nhưng bà ta không thèm nghe. Bà ta bảo tôi rằng thoát được nó là may, bà ta đã khổ vì nó lắm rồi. (Ông già vuốt mũi và lắc đầu). Bà ấy không có tình mẫu tử.
- Thế bà ấy đi khỏi đây khi nào?
- Khoảng hai năm sau Johnnỵ Hợp đồng cuối cùng của bà ấy là với Câu lạc bộ Skin.
- Bà ấy có để lại địa chỉ không?
- Trong cái nghề của tôi, người ta không bao giờ lưu tâm đến thư từ vì vậy tôi không hỏi. Cứ trả tiền thuê phòng xong, ai muốn đi đâu thì đi.
- Ông có bao giờ nói chuyện với Johnny về bố của nó không?
- Chỉ có một lần. Tôi chỉ chuyện vãn với nó lúc nó ăn. Nó có nói với tôi rằng bố nó là người lính giỏi và dũng cảm nhất trong quân đội. Hồi đó nó mới bảy tuổi mà. Anh biết chuyện bọn trẻ con rồi đấy. Tôi chẳng bận tâm làm gì, nhưng cảm thấy thương nó. Tôi nghĩ chắc nó là con trai một người lính đã tằng tịu với Stella.
Tôi có cảm giác đã moi hết thông tin từ ông già này. Tôi không biết được thông tin gì nhiều, nhưng vẫn phải tìm Costa.
- Thế Câu lạc bộ Skin ở đâu? – tôi hỏi và đứng dậy.
- Ở phía đông Secomb Road. Trông coi Câu lạc bộ này là một người Mêhicô, tên Edmundo Raiz. Nếu anh có ý định đến đó thì hãy giữ ví cho thật chặt.
- Cám ơn ông.
Câu lạc bộ Skin đặt dưới một tầng hầm, đây là nơi chuyên dành cho những kẻ bê tha, say khướt và khách du lịch.
Giờ này là vắng khách đối với tất cả các hộp đêm. Đồng hồ của tôi chỉ mười tám giờ năm. Tôi dừng chân xem bức ảnh phóng to của các cô gái thoát y vũ. Đó là nhóm ba cô gái da đen. Rồi tôi đi xuống một gian phòng lớn có nhiều bàn ghế, một quầy bar ở một đầu và một sàn diễn có dàn nhạc ở một đầu khác.
Một ngọn đèn đơn độc treo trên quầy bar và một người đàn ông đang đứng đó xem một tờ giấy. Chắc ông ta đang kiểm tra tổng thu nhập của ngày hôm trước. Người đàn ông này tóc đen với nước da sạm nắng và hàng ria mép mảnh. Trông anh ta nhỏ con, nhưng béo tròn với đôi vai lực lưỡng. Anh ta ngẩng lên nhìn tôi khi tôi đi qua phòng tiến tới chỗ anh ta.
- Quầy bar đóng rồi, - anh ta nói cụt ngủn.
- Tôi không cần uống, - tôi nói. – Tôi là Diek Wallace, làm việc chỗ các ông Benbolt và Howard. Tôi cần một số thông tin.
Vẻ mặt anh ta sáng hẳn lên.
- Thế hả? Thông tin gì?
- Chúng tôi muốn tìm bà Stella Costạ Hình như trước kia bà ta có làm việc ở đây.
- Howard và Benbolt à? – anh ta nheo mắt hỏi.
- Thì tôi đã nói rồi.
- Anh tìm bà ta làm gì?
- Bà ấy được nhận một khoản thừa kế nhỏ, - tôi nói dối, - và chúng tôi muốn thanh lý tài sản kế thừa.
- Tài sản thừa kế lớn cỡ chừng nào?
- Cũng nhỏ thôi. Đối với ông đó chỉ là món tiêu vặt, ông Raiz ạ. Nhưng chúng tôi muốn thanh lý tài sản đó. Ông có thể cho tôi biết tìm bà ấy ở đâu không?
Đúng lúc đó, một cô gái trẻ từ một buồng cạnh dàn nhạc ở đầu kia của phòng bước ra. Cô đi ngang qua phòng với những bước dài duyên dáng. Tôi phản ứng như một thanh nam châm đặt trước một mẩu sắt. Khoảng hai mốt hai hai, cao hơn tầm vóc trung bình, cô gái có mái tóc đen mượt và dài. Cô mặc một chiếc quần bò bó sát và một chiếc áo phông vừa khít làm nổi rõ bộ ngực căng phồng. Raiz bực tức nhìn cô gái.
- Xéo ngay, Bêbê, - anh ta nói. – Tôi đang bận.
Cô ta tới gần quầy bar và mỉm cười với tôi. Đôi môi cô gái tô đỏ chót vẻ mùi mẫn và hàm răng trắng đều đặn.
- Grosso buộc phải làm dữ, - cô nói. – Hãy tha thứ cho anh ấy. Anh là ai?
- Dirk Wallace.
Nhìn cô gái tôi tự nhủ rằng qua một đêm trên giường với cô ta chắc phải đi cấp cứu chứ không chơi, nhưng cũng bõ lắm.
- Chào Dirk. – (Cô ưỡn ngực về phía tôi, nhăn mặt với Raiz rồi vòng qua quầy bar chỉ chai Cutty Sark). Hãy phục vụ tôi và Dirk đi và đừng có cau có như thú dữ thế, Eđy.
- Bêbê Mansel đây là hiện thân của sex. Cô ta ngủ với tất cả ở đây, chỉ trừ có voi thôi, - Raiz giải thích, rồi lấy chai uytski rót ra ba lỵ – Đừng có để ý đến cô tạ Trí tuệ của cô ấy chỉ giới hạn trong cặp đùi thôi.
- Đừng có nghe mồm anh tạ (Bêbê cười ré lên). Vì chưa bao giờ sờ được tới đó nên anh ta tức tối đấy mà.
Tôi đã phát hiện ra các sự kiện sau: người ta giết Fred Jackson. Để bảo vệ viên cảnh sát trưởng sâu rượu và không để cảnh sát bang điều tra, bác sĩ Steed đã kết luận Fred tự sát. Dưới giường Fred, tôi thấy một cái hố trống và nhiều khả năng ông già giấu tiền để dành ở đó. Có ai đó đã lấy sạch mọi thứ trong nhà, kể cả tấm huân chương Danh dự của Mitch và tiền để dành của Fred. Theo lời đồn thi Mitch và Syd Watkins đã gây ra nhiều chuyện tai tiếng trong làng. Rồi cả hai đều nhập ngũ.
Ít lâu sau khi Mitch đi lính, một thằng bé tám chín tuổi tới Searle tìm ông nội nó là Fred Jackson. Thằng bé có tên Johnny nhờ người bưu tá gửi hộ bức thư cho bà Stella Costạ Thằng bé ở lại với ông nó và đi học tới lúc nó mười bốn tuổi. Những người tới nhà Fred không ai thấy thằng bé cả. Trong suốt sáu năm sau khi Mitch chết, tháng nào Fred cũng nhận được một bức thư từ Miami.
Nếu mọi sĩ quan đều đánh giá cao Mitch, thì một người lính da đen tên Hank Smith lại nói rằng Mitch bán ma túy và đã chết khi cứu những tên lính trẻ, nguồn thu nhập béo bở của anh tạ Smith đã bị giết. Tôi cũng bị một gã nhọ và hai thằng du đãng tấn công. Và Harry Weatherspoon nguyên là nhân viên cơ quan phòng chống ma túy của quân đội, muốn mua lại cơ ngơi của Fred. Ông yêu cầu luật sư của mình là Edward Benbolt cho đăng thông báo tìm Johnny trên báo chí. Bây giờ ông ta không quan tâm nữa.
Stella rõ ràng là mẹ của Johnny, bà ta làm việc trong một hộp đêm mờ ám do gã Mêhicô tên Edmundo Raiz cai quản. Một cô vũ nữ thoát y tên Bêbê Mansel cho biết Stella chết vì tiêm ma túy quá liều và Johnny là một gã đồng tính sống cùng một gã da đen. Bêbê dùng chiếc xe mang biển đăng ký theo tên bà Phyllis Stobart, vợ một thương nhân từ Sài gòn trở về có tên Herbert Stobart.
Wally Watkins, cha của Syd nói đã đặt hoa ở mộ Jackson và khẳng định đó là điều mà Johnny muốn làm. Nhưng ông già rõ ràng là nói dối. Tôi biết chắc chắn Wally vẫn đang liên lạc với Johnny.
Tôi suy ngẫm tất cả các yếu tố đó, nhưng chưa có kết luận rõ ràng. Lúc này tôi cách trang trại nuôi ếch của Fred chỉ hơn một cây số. Tôi quyết định tới đó xem xét lần nữa. Biết đâu có chi tiết nào mà tôi bỏ sót. Một sự lục soát không có sự mất tập trung do có mặt Anderson, có thể sẽ có yếu tố mới mẻ.
Tôi lên đường tới trại nuôi ếch. Tôi cho xe chạy theo con đường hẹp, tới chỗ ngoặt rộng, tôi dừng xe và đi bộ. Tôi quan sát ngôi nhà. Cửa vẫn hé mở. Bầu không khí vẫn như trước kia: hơi nóng ẩm, tiếng ộp oạp của lũ ếch và vẻ tiêu điều của ngôi nhà.
Theo bản năng, tôi mở cúc áo vét để có thể rút nhanh khẩu 38 lỵ Tôi đến ngôi nhà và đẩy cửa.
Tôi đứng khá lâu để quan sát căn phòng mờ tối. Người ta có cảm giác như có kẻ nào đó đã đến đây đập phá. Một chiếc bàn gãy hết chân, những chiếc ghế mất lưng, những chiếc thảm bụi bặm lật lên hết. Các bức vách bị rìu chém nham nhở tạo thành những lỗ hổng to tướng. Hai chiếc ghế phôtơi cũ bị rạch lung tung, lòi ra những thứ nhồi bẩn thỉu.
Tôi đi ngang qua đống hỗn độn đó và bước vào phòng Fred. Ở đây cũng thế, mọi thứ đều bị đập phá. Chiếc giường cũng như chăn đệm đều bị phá nát. Cửa tủ quần áo cũng mở toang và bị giật sắp rời khỏi bản lề. Quần áo bẩn của Fred rắc đầy sàn nhà. Căn phòng còn lại cũng ở tình trạng như vậy. Tất cả đều bị rìu bằm nát. Có kẻ đã tới đây tìm gì đó, và đã quyết tâm phải tìm bằng được.
Tình trạng thê thảm của ngôi nhà và cảnh hỗn độn ở đây mách bảo tôi rằng lục soát tiếp ở đây chỉ mất thời gian vô ích.
Tôi bước ra khỏi nhà trong cái nắng chói chang. Tiếng ộp oạp của lũ ếch khiến tôi không sao tập trung suy nghĩ được. Tôi quyết định nói với cảnh sát trưởng Mason về những điều diễn ra ở đây. Một kẻ nào đó đã tới đây tìm kiếm tiền của Jackson.
Tôi quay lại con đường nhỏ dẫn tới chỗ đỗ xe, nhưng rồi chợt dừng lại. Không hiểu sao tôi lại nảy ra ý muốn ngó lại cái đầm nuôi ếch một lần nữa. Đôi khi tôi hay có những trực giác rất lạ, mà lần này lại rất mạnh.
Tôi đi xuống theo con đường hẹp và càng tới gần khu đầm thì tiếng ộp oạp của lũ ếch càng làm tôi ù tai. Tôi cảm thấy đơn độc và hơi rờn rợn, bèn đặt tay lên bao súng, nhưng cũng chẳng ăn nhằm gì.
Tôi rón rén đi tới mép đầm. Chắc có tới hàng trăm con ếch trên bờ đang giáp mặt với tôi. Chúng tạo thành một đội quân, giương những đôi mắt xanh nhìn tôi. Tôi vẫn lặng lẽ tiến lên.
Đầm lõng bõng bùn và mọc đầy cỏ lác, phản chiếu hơi nóng mặt trời đến ngột ngạt. Giữa đầm, tôi nhìn thấy hình như có một cái bè có hàng chục con ếch ngồi trên đó. Tôi tiến tới gần hơn và nín thở khi nhận thấy một cánh tay người. Thì ra đó không phải là bè! Mà là một xác người!
Tôi vỗ taỵ Ngay lập tức lũ ếch biến hết. Tôi đi xuống mép đầm và nhìn cái xác nổi lềnh bềnh.
Một con ếch lớn vẫn ngự trên đầu cái xác. Nó nhìn tôi không mấy thiện cảm, kêu mấy tiếng rồi nhảy đại xuống nước.
Cái xác đó là thi thể của Harry Weatherspoon.