Phá cỗ


Trăng suông

     ôm ấy tôi đến thăm một người bạn cũ ở một làng nhỏ, làng Đoan Hạ thuộc huyện Thanh Thủy, tỉnh Hưng Hóa. Dân cư chỉ có bề dài chạy theo nẻo tả ngạn sông Đà. Bên kia sông Đà. Bên kia sông và xế về phía Đông nam núi Ba Vì đứng sững, đồ xộ, nguy nga.
Lúc bấy giờ đã gần tối. Mặt trời vừa lặn khuất ngọn Lưỡi Hai, bóng nằm dài, bắc qua sông. Tôi đi ven dòng nước, chỉ chực trượt chân vì trời nhá nhem mà bờ sông, đất phù sa, vừa cao vừa lở nhiều chỗ.
Đến cổng nhà bạn, một cái cổng tre xinh xắn, trông ngay ra sông, tôi lên tiếng thì một thằng bé con khoảng mười hai tuổi con vận tang phục chạy ra nói cha nó sang bên làng Hoàng Xa tử sáng và có lẽ hôm sau mới về.
Tôi buồn rầu, thất vọng, đứng ngẫm nghĩ, thì thằng bé, vẻ mặt thông minh, linh lợi, bàn với tôi một câu:
- Hay mời ông nghỉ lại nhà con một tối, mai thế nào thầy con cũng về.
Tôi hỏi:
- Bà Nhất có nhà không, em?
Nó ngơ ngác nhìn tôi rồi đáp:
- Mẹ con mất năm ngoái.
Tôi nhớ đến tang phục của nó.
Thằng bé đưa tôi lên nhà trên, rót nước mời tôi uống. Tôi mở va-li lấy tiền nhờ nó đi mua dùm vài cái bánh chưng ăn cho đỡ đói...
Mới vào khoảng chín, mười giờ làng xóm đã im phăng phắc. Thằng bé, con bạn tôi, cũng đã xuống nhà ngang ngủ từ lâu, một mình tôi ngồi đối ngọn đèn dầu tù mù xem sách.
Lúc mới đến, tôi đã để ý tới cái tủ sách sơn quang dầu của bạn đặt trên bàn thờ người vợ bày ở gian giữa. Tôi kéo cánh tủ lên thì mấy ngăn xếp chặt ních những sách cũ, đã bị mọt đục, dán nhấm nhiều chỗ; nào Đường thi, cổ văn, Tam quốc, Bắc sử, lại cả sách thuốc nữa.
Tôi toan đóng cửa tủ lại thì một con “ba đuôi” lớn chạy ẩn vào trong một quyển sách bìa đã nhàu, và bốn góc như bị dao cùn xén nham nhở. Tôi liền rút quyển sách ấy ra để giết chết loài rắn hại kia mà tôi vẫn ghét và sách của tôi ở nhà bị lũ đồng chủng của nó nhấm nát.
Rồi tôi tò mò mở sách ra xem thì đó là một bộ “Liễu trai chí dị” mười sáu quyền đóng làm một.
Hết một chuyện lại một chuyện, tôi đọc không biết chán, tuy chữ nhỏ khó xem và đèn tù mù. Tôi mê mải sống với bọn đạo sĩ, yêu tinh trong chuyện, hưởng những cuộc tình duyên mơ mộng, giữa những cảnh thần tiên êm đềm...
Tiếng gà gáy nửa đêm làm tôi giật mình, gập sách lại, tắt đèn toan đi ngủ. Nhưng lòng còn bâng khuâng nhớ cô Lý, cô Liên trong vườn Liễu, tai tôi còn vang dịp cười ròn rã của cô Ninh bên khóm bạch đào trổ bông tươi tốt. Thành thử tôi băn khoăn không sao yên giấc được.
Tôi liền chỗi dậy chống cái phên che cửa sổ chấn song tre, và ngồi đó nhìn ra sông. Trăng tròn có tán đã lên quá đỉnh đầu, và chiếu xuống trần gian một làn ánh sáng như có như không. Một làn sương mù chạy dài phủ khắp mặt nước như tấm lụa trắng hung bất tuyệt. Tiếng lá lau cọ vào nhau nghe lạt xạt. Bên kia sông, chòm núi Ba Vì nổi lềnh bềnh trên mây, ba ngọn nhọn hoắt và như bạt theo chiều gió.
Ngắm cảnh trăng suông, tôi mơ màng tưởng còn đương sống với những chuyện vừa đọc và tôi yên trí rằng không thể nào lại không có những cô yêu tinh diễm lệ chờ đợi, hẹn hò khách văn nhân đa tình, đa cảm.
Một con thuyền đi qua như lướt trong không. Ngọn lửa vàng nhợt nhạt chọc thủng màn sương. Phải chăng đó là thuyền đưa tiên tử xuống trần?
Thân thể mỏi mệt vì thức khuya, tôi đóng cửa sổ lên giường nằm. Song mắt tuy nhắm mà trí vẫn theo đuổi mộng dài đêm xuân.
Có lúc tôi thiếp đi độ mười phút, tức thì tôi thấy hiện ra trong ánh trăng suông đủ các nhân vật Liễu trai chí dị. Nhưng tôi tỉnh ngay và tự cười thầm cái lòng mơ mộng hão huyền của mình.
Bỗng nghe có tiếng động ở bàn thờ, như ai se sẽ lôi một vật gì.
Tôi nghĩ ngay đến cái tủ sách cũ mà có lẽ tôi quên chưa đóng cửa. Sợ chuột rủ nhau đến phá phách, tôi liền dậy đánh diêm thắp đèn xem lại...
Vừa soi xuống dưới bàn thờ, thì trong đó chui ra một người con gái, vận nâu sồng, đầu tóc bù rối. Người ấy đứng trân trân nhìn thẳng vào mặt tôi. Tôi đờ người ra, lưỡi díu lại, lắp bắp không ra hơi!
- Yêu tinh!
Cô kia mỉm một nụ cười bí mật, nửa như đùa, nửa như sợ, làm cho tôi rợn tóc gáy, rồi vừa lùi, vừa nhìn tôi sòng sọc, mắt không chớp, cặp mắt to đen láy, phản chiếu ánh đèn lấp lánh như mắt con cáo trắng, con bạch hồ ly.
Thật trong đời tôi chưa lần nào tôi kinh hãi như cái phút lặng lẽ ấy, và bây giờ kể lại chuyện, tôi còn trông thấy cái miệng cười huyền ảo, cặp mắt yêu quái nhìn đăm đăm.
Tôi ngây ngất, mướt mồ hôi, đứng như chôn chặt xuống đất. Cây đèn dầu cầm nghiêng ở tay đã tắt tự bao giờ mà tôi vẫn không hay.
Mãi nửa giờ sau, tôi mới hơi hoàn hồn và nghĩ đến thắp đèn. Tay tôi run lẩy bẩy đánh đến mười que diêm mới châm được bấc đèn cháy.
Một cánh cửa hé mở...
Và cái ví tiền để trong va-li, tôi không tìm thấy đâu nữa.