Dịch giả: Trịnh Huy Hóa
Tiếng gọi trong đêm
William Hope Hodson

     ó là một đêm tối mịt, không trăng không sao. Bầu không khí im ắng khác thường, và thuyền của chúng tôi đang thả trôi trên một vùng biển phía bắc Thái Bình Dương. Tôi không biết chính xác chúng tôi đang ở đâu; vì trong suốt một tuần lễ đứng gió, mặt trời luôn bị che khuất bởi một màn mây dày đặc luôn treo lơ lửng trên đầu.
Vì không có gió nên chúng tôi phải cố định bánh lái thả trôi, và tôi là người duy nhất có mặt ở trên boong. Thủy thủ đoàn, gồm hai người lớn và một cậu nhỏ, ngủ trong khoang mũi, còn Will - anh bạn tôi, và là chủ chiếc thuyền buồm nhỏ bé của chúng tôi - ngủ õ đằng sau trên chiếc giường xếp trong cabin.
Đột nhiên, từ trong bóng tôi mịt mùng vây quanh con thuyền vang lên tiếng kêu: “Thuyền buồm, ahoy! [1]”
Tiếng kêu bất ngờ đến nỗi tôi không thể đáp lại ngay vì quá kinh ngạc.
Tiếng kêu lại vang lên - với giọng cổ thật lạ lùng, không giống tiếng người, nó gọi từ một nơi nào đó trong bóng tối cách mạn thuyền chúng tôi khá xa.
“Thuyền buồm, ahoy!”
“Ơi!” Tôi kêu lên. “Ông là ai? Ông muốn gì?”
“Các anh đừng sợ”, âm thanh kỳ cục đáp lại, có lẽ nhận thấy vẻ bối rối trong giọng nói của tôi. “Tôi chỉ là một người... già thôi”.
Sự ngập ngừng dễ dàng nhận thấy và có vẻ lạ lùng; nhưng chỉ sau này chúng tôi mới hiểu ra được đôi chút.
“Thế tại sao ông không bơi đến đây?” Tôi cật vấn và cảm thấy hơi bực mình, vì tôi không thích ông ta nghĩ rằng tôi đang sợ.
“Tôi - tôi - không thể. Như thế không an toàn. Tôi...” - Tiếng nói đứt quãng rồi sau đó là sự im lặng.
“Ông định nói gì?” Tôi hỏi, mỗi lúc lại tò mò hơn. “Cái gì không an toàn? Ông ở đâu?”.
Tôi lắng nghe một lúc, nhưng không có câu trả lời. Và rồi đột nhiên, một mối nghi ngờ mơ hồ mà tôi cũng không rõ là gì đến với tôi. Tôi bước vội vào buồng lái và lấy cây đèn. Đồng thời tôi gõ mạnh gót giày vào boong để đánh thức Will. Sau đó tôi quay lại thành tàu, chiếu một luồng ánh sáng vào khoảng mênh mông yên lặng phía ngoài mạn thuyền. Khi làm thế, tôi nghe thấy một tiếng kêu khẽ, nghèn nghẹn, và sau đó là một tiếng động dường như ai đó đang vội ấn mái chèo xuống nước. Tôi không thể nói rằng tôi nhìn thấy cái gì chắc chắn cả; chỉ có điều, tôi có cảm tưởng như khi ánh sáng mới lóe lên thì ở đó dường như có một cái gì nổi trên mặt nước, nhưng giờ thì lại chẳng thấy gì hết.
“Này, ai đằng kia ơi!” Tôi gọi. “Chuyện kỳ cục gì vậy!”.
Nhưng vẳng đến chỉ có tiếng động mơ hồ của một con thuyền đang bơi vào bóng đêm.
Rồi tôi nghe thấy tiếng của Will từ phía sau chạy lại. “Có chuyện gì thế, Georger?”.
“Đến đây, Will”. Tôi nói.
“Chuyện gì thế?” anh hỏi khi chạy lên boong.
Tôi kể cho anh nghe về câu chuyện kỳ cục vừa xảy ra. Anh hỏi vài câu; rồi sau một lúc im lặng anh khum tay lên miệng làm loa gọi, “Này thuyền, ahoy!”.
Từ một khoảng cách khá xa vẳng lại phía chúng tôi một tiếng đáp yếu ớt. Rồi sau một lúc im lặng, tai chúng tôi dường như nghe thấy có tiếng mái chèo ngập ngừng; Will lại gọi về hướng đó.
Lần này chúng tôi đã nghe rõ có tiếng đáp: “Tắt đèn đi”.
“Tắt đèn là thế nào”. Tôi lầm bầm; nhưng Will bảo tôi cứ làm như tiếng nói đã bảo, và tôi chúc cây đèn xuống sàn tàu.
“Đến gần đây nào”, anh nói, và tiếng mái chèo khua nước lại tiếp tục. Rồi khi đến cách chúng tôi chắc khoảng năm sáu sải, tiếng động lại ngừng lại.
“Đến sát đây nào” Will kêu lên “Không có gì đáng sợ ở đây đâu!”.
“Hãy hứa là các anh sẽ không chiếu đèn đi?”
“Có chuyện gì với ông thế”, tôi bùng lên, “Vì sao ông lại sợ ánh sáng thế?”.
“Vì...” tiếng nói bắt đầu, rồi lại ngưng.
“Vì cái gì?” Tôi hỏi nhanh.
Will đặt tay lên vai tôi. “Im đi một lúc, anh bạn ạ” anh hạ giọng “Để tôi nói chuyện với ông ta”.
Anh ngả người qua mạn thuyền. “Nghe này, thưa ông,” anh nói, “chuyện này khá kỳ quặc, ông cứ như từ giữa biển đến chỗ chúng tôi vậy. Làm sao biết được ông sẽ không giở trò gì với chúng tôi? Ông nói ở đây chỉ có một mình ông, nhưng làm sao chúng tôi biết được chuyện đó nếu không nhìn thấy ông, hả? Mà vì sao ông lại không cho chiếu đèn?”.
Khi anh nói xong, tôi nghe thấy tiếng mái chèo vang trở lại; nhưng bây giờ lại ở một khoảng cách xa hơn, và một âm thanh nghe thật thương tâm, tuyệt vọng.
“Tôi - tôi xin lỗi - xin lỗi! Tôi sẽ không làm phiền các anh nữa, chỉ có điều tôi đang đói, mà - mà cô ấy cũng vậy”.
Tiếng nói lại tắt đi, và tiếng mái chèo rời rạc lại vang đến chỗ chúng tôi.
“Dừng lại!” Will kêu lên. “Tôi không muốn đuổi ông. Quay lại đây! Chúng tôi sẽ cất đèn đi nếu ông không thích”.
Anh quay về phía tôi. “Quái quỷ thật đấy. Nhưng tôi nghĩ chẳng có gì phải sợ cả, hả?”
Đó là một câu hỏi, cứ theo giọng của anh. Vì thế tôi đáp. “Không, tôi nghĩ cha nội này chắc bị đắm tàu đâu quanh đây, rồi sợ quá hóa điên”.
Tiếng mái chèo đến gần hơn.
“Quay đèn vào trong buồng lái” Will bảo tôi, rồi anh ngả người qua mạn thuyền lắng nghe. Tôi đặt lại cây đèn rồi trở lại bên anh. Tiếng mái chèo khua nước lại ngừng ở khoảng cách năm sáu sải.
“Giờ ông cũng không thể đến sát đây được hay sao?” Will hỏi bằng một giọng bình thường. “Tôi đã quay đèn vào buồng lái rồi”.
“Tôi - tôi không thể” tiếng nói đáp lại “Tôi không dám đến gần hơn. Tôi thậm chí không dám trả cái gì cho ông để đổi lấy thức ăn”.
“Thôi được” Will nói và lưỡng lự “Xin mời ông cứ ăn thỏa thích...” Anh lại lưỡng lự.
“Anh thật tốt quá” tiếng nói lại vang lên “Lạy Chúa, Ngài biết mọi việc, Ngài sẽ đền bù cho anh...” Tiếng nói vỡ ra nghèn nghẹn.
“Thế bà ấy... bà ấy thì sao?” Will cắt ngang. “Có phải bà ấy...”
“Tôi để cô ấy lại trên dảo”, tiếng nói đáp.
“Đảo nào thế?” tôi cắt ngang.
“Tôi cũng không biết tên”, giọng nói lại đáp “Tôi cầu Chúa...!” nó bắt đầu rồi lại tắc nghẹn thình lình.
“Chúng tôi có thể đưa thuyền đến cứu bà ta được không?” Will hỏi ngay.
“Đừng!” giọng nói đáp, nhấn mạnh một cách lạ lùng. “Lạy Chúa! Đừng!” Một thoáng ngập ngừng; sau đó nó nói thêm, trong giọng nói dường như có sự trách cứ. “Vì đói mà tôi phải đi, vì sự khổ sở của cô ấy làm tôi đau đớn”.
“Tôi thật là một gã cục súc vô tâm” Will kêu lên “Chờ một chút, dù ông là ai, tôi sẽ mang cho ông chút gì ngay lập tức”.
Vài phút sau anh quay lại, hai tay đầy thức ăn. Anh chần chừ bên mạn thuyền.
“Ông có thể đến đây lấy chúng không?” anh hỏi.
“Không - tôi không dám” giọng nói đáp lại, tôi cảm thấy trong giọng nói đó có sự cầu khẩn cực độ, dường như người nói cố che giấu một mong ước ghê gớm. Rồi sau đó tôi lóe lên một ý nghĩ rằng cái tạo vật già nua khốn khổ trong bóng tôi kia đang suy sụp vì thực sự cần những thứ Will đang giữ trong tay; và còn nữa, vì nỗi kinh sợ không thể hiểu được, mà phải bắt mình ở xa mạn thuyền chúng tôi khi nhận nó. Và với lòng tin như một tia sáng, tôi biết rằng người Vô hình kia không điên; nhưng đang phải tỉnh táo đối mặt với một nỗi khủng khiếp không thể chịu đựng nổi.
“Mẹ kiếp, Will!” tôi nói, trong lòng tràn ngập một nỗi thông cảm vô bờ. “Lấy một cái thùng. Chúng ta sẽ thả những thứ này đến chỗ ông ta”.
Chúng tôi làm như vậy - dùng sào đẩy cái thùng khỏi mạn thuyền cho nó trôi vào bóng tối. Vài phút sau, một tiếng kêu nhẹ nhõm từ phía người Vô hình vẳng đến, chúng tôi biết ông ta đã vớt được cái thùng.
Một lúc sau, ông ta gọi to chào chúng tôi, với những lời cầu nguyện đầy chân thành cho chúng tôi. Sau đó không có gì nữa, chúng tôi nghe thấy tiếng mái chèo trong đêm đen.
“Chuồn nhanh nhỉ” Will nhận xét có vẻ hơi bị tổn thương.
“Cứ chờ xem” tôi đáp “Tôi nghĩ ông ta sẽ quay lại. Ông ta hẳn phải rất cần thức ăn”.
“Và bà ấy nữa” Will nói. Anh im lặng một lúc, sau đó tiếp tục “Thật là một chuyện kỳ quặc nhất mà tôi từng trải qua, từ khi tôi biết đánh cá”.
“Phải”, tôi đáp và suy nghĩ rất lung.
Thời gian cứ thế trôi đi - một giờ, rồi một giờ nữa, Will vẫn ở lại với tôi; câu chuyện kỳ quặc vừa qua đã khiến anh hết cả muốn ngủ.
Sang giờ thứ ba được chừng bốn mươi lăm phút thì chúng tôi lại nghe thấy tiếng mái chèo khua nước xuyên qua màn đêm yên lặng.
“Nghe kìa!” Will nói với giọng thì thào lộ vẻ kích động.
“Ông ta lại đến, đúng như tôi nghĩ” tôi thì thầm.
Tiếng mái chèo nghe gần hơn, và tôi nhận thấy rằng các nhịp chèo mạnh và dài hơn. Thức ăn rõ ràng đã có công hiệu.
Tiếng mái chèo đến gần và dừng lại ở một khoảng cách không xa mạn thuyền, và cái giọng kỳ cục lại vọng đến xuyên qua màn đêm.
“Thuyền buồm, ahoy!”
“Ông đấy à?” Will hỏi.
“Vâng” giọng nói đáp. “Tôi bỏ đi thình lình; nhưng điều đó là rất cần”.
“Bà ấy à?” Will hỏi.
“Cô ấy rất biết ơn các anh, lúc còn trên mặt đất. Cô ấy sẽ còn biết ơn các anh nhiều hơn ở... ở trên trời, chẳng bao lâu nữa...”.
Will đã đáp lại, với một giọng bối rối, nhưng rồi anh lúng túng và ngừng lại nửa chừng. Tôi không nói gì. Tôi cứ ngờ ngợ về những khoảng ngập ngừng lạ lùng này, và từ sự ngờ ngợ đó, tôi thấy đầy lòng thương cảm với ông ta.
Giọng nói tiếp tục. “Chúng tôi... cô ấy và tôi đã nói chuyện khi chúng tôi chia nhau món quà từ tình thương của Chúa và của các anh...”.
Will lẩm bấm ngắt lời, nhưng không rõ ràng lắm.
“Xin anh dừng coi nhẹ việc làm đầy tình thương Thiên Chúa của các anh tối nay”, giọng nói tiếp tục, “chắc rằng Chúa Trời cũng sẽ ghi nhận việc làm của các anh”.
Giọng nói dừng lại, im lặng suốt một phút đồng hồ. Sau đó nó trở lại.
“Chúng tôi đã nói với nhau về chuyện... chuyện... đã xảy ra cho chúng tôi. Chúng tôi đã nghĩ là sẽ không nói cho bấy kỳ ai về nỗi khủng khiếp xảy đến cho cuộc đời chúng tói. Cô ấy tin rằng chuyện xảy ra tối nay là do một quyền lực đặc biệt, rằng chính Chúa Trời muốn chúng tôi phải kể mọi chuyện mà chúng tôi đã lâm vào từ khi... từ khi...”.
“Sao?” Will nhẹ nhàng hỏi.
“Từ khi tàu Albatross bị đắm”.
“A!” tôi bất giác kêu lên. “Nó đã rời cảng Newcastle đến Frisco sáu tháng trước, và từ đó đến giờ không nghe tin tức gì”.
“Phải”, giọng nói trả lời “Nhưng nó bị chệch vài độ về phía bắc, rồi gặp phải một cơn bão biển khủng khiếp và mất điều khiển. Khi trời sáng, nó bị nghiêng rất mạnh, và dường như sắp lật úp. Các thủy thủ liền thả thuyền cứu sinh và rời khỏi tàu, bỏ lại một người phụ nữ trẻ - vị hôn thê của tôi - và tôi trên con tàu đắm”.
“Chúng tôi lúc đó đang ở dưới tàu thu thập vài thứ đồ dùng thì họ bỏ đi. Bọn họ hết thảy đều là lũ người nhẫn tâm lại thêm hèn nhát. Khi chúng tôi lên boong tàu thì họ đã bơi xa chỉ còn là những bóng mờ. Tuy vậy chúng tôi vẫn không tuyệt vọng, chúng tôi bắt tay vào việc, làm một cái bè nhỏ. Chúng tôi bỏ lên đó một ít thứ có thể chở được, gồm thùng nước và mấy thùng bánh bích quy lấy ở trên tàu. Chiếc tàu đang ngập rất sâu trong nước, chúng tôi leo lên bè và chèo đi.
Sau này tôi mới phát hiện ra rằng chúng tôi hình như đang nằm trên luồng hải lưu hay thủy triều gì đó, nó đưa chúng tôi trôi đi theo một góc sao đó mà sau ba tiếng đồng hồ chúng tôi không còn nhìn thấy con tàu nữa. Sau đó, tối đến trời nổi sương mù và cứ như thế suốt cả đêm. Ngày hôm sau chúng tôi vẫn phải đi trong sương mù.
Sau bốn ngày chúng tôi trôi qua một vùng sương mù lạ, rồi cho đến tối hôm thứ tư, bên tai chúng tôi bỗng vọng lên những tiến ì ầm của những cơn sóng lớn từ dằng xa. Dần dần nó trở nên rõ ràng hơn, và khoảng sau nửa đêm, tiếng sóng dường như ở sát ngay bên cạnh chúng tôi. Chiếc bè vài lần bị những cơn sóng lớn tóm lấy, nhưng sau đó đột nhiên chúng tôi bị hút vào một vùng nước lặng và tiếng sóng đã lùi lại đằng sau.
Khi trời sáng, chúng tôi thấy mình đang ở trong một thứ giống như một cái hồ có một vành bờ san hô bao quanh; nhưng vào lúc đó chúng tôi chẳng biết được gì nhiều; ngay gần trước bè của chúng tôi qua lớp sương mù phủ kín dày đặc là thành mạn của một chiếc tàu lớn. Cả hai chúng tôi cùng quỳ xuống để cảm tạ Chúa, vì như chúng tôi nghĩ thì đây sẽ là điểm kết thúc cho những hiểm nguy của chúng tôi. Chúng tôi còn phải học nhiều.
Chiếc bè trôi sát mạn con tàu, chúng tôi kêu to lên để họ cho chúng tôi lên boong. Nhưng không có ai trả lời. Sau đó, chiếc bè chạm vào mạn con tàu, và tôi nhìn thấy một sợi thừng thả xuống, tôi liền tóm lấy nó và bắt đầu leo lên. Tôi đã phải cố hết sức vì có một thứ nấm hay rêu màu xám, phủ đầy sợi thừng, nó còn làm cho phía ngoài vỏ tàu có màu xanh xám.
Tôi trèo đến lan can thành tàu, leo qua nó và bước lên boong. Tại đây tôi nhìn thấy boong tàu phủ dầy những mảng lớn thứ nâm mốc gì đó màu xám, đôi chỗ chúng mọc lên thành những khối u phồng lên cao tới cả mét; nhưng lúc đó tôi không nghĩ nhiều lắm về chuyện này mà chủ yếu về khả năng có người trên tàu. Tôi kêu lên, nhưng không có ai trả lời. Sau đó tôi đi đến cánh cửa dẫn xuống khoang tàu. Tôi mở nó ra và nhìn vào trong. Một mùi mốc meo xông ra khó chịu đến mức ngay lập tức tôi hiểu rằng không thể có sự sống gì ở trong đó, và khi biết như vậy tôi vội đóng cánh cửa lại. Bỗng nhiên tôi cảm thấy thật cô độc.
Tôi đi đến thành tàu nơi tôi đã leo lên. Vợ... vợ chưa cưới của tôi vẫn đứng yên trên bè. Thấy tôi nhìn xuống, nàng gọi với lên để biết xem có ai trên đó không. Tôi đáp lại rằng con tàu dường như đã bị bỏ không từ rất lâu rồi; nhưng nếu nàng chờ một chút thì tôi sẽ tìm xem có cái thang dây nào không để nàng có thể leo lên tàu. Rồi sau đó chúng tôi có thể tiến hành xem xét cùng với nhau. Chỉ một lát sau, tôi tìm thấy chiếc thang dây ở thành mạn bên kia. Tôi mang nó sang bên này và một phút sau nàng đã ở bên cạnh tôi.
Chúng tôi cùng nhau thám thính khoang lái và gian công thất ở phía sau con tàu; nhưng không ở đâu có bất kỳ một dấu hiệu nào của sự sống cả. Đây đó ngay trong cabin chúng tôi phải đi qua những đám nấm mốc kỳ quặc với hình thù quái dị; nhưng thứ đó, như người yêu tôi nói, sẽ dọn sạch chẳng mấy chốc.
Cuối cùng sau khi chắc chắn rằng phần đuôi con tàu hoàn toàn trống rỗng, chúng tôi mở đường đi ra phía trước len qua giữa những khối u màu xám quái gở của một thứ cây lạ lùng; và ở đây chúng tôi lại tiếp tục tìm kiếm, và rốt cuộc chúng tôi biết được rằng trên con tàu này hoàn toàn không có ai khác ngoài chúng tôi.
Điều đó giờ đây đã không còn nghi ngờ gì nữa, chúng tôi quay trở lại phía đuôi tàu và thu xếp cho mình một chỗ nghỉ tử tế hơn. Chúng tôi cùng quét dọn và lau chùi hai phòng nhỏ; và sau đó tôi đi tìm kiếm thật kỹ xem trên tàu có gì ăn được không. Và tôi đã sớm tìm được chúng, tôi thành tâm cảm ơn Chúa đã từ tâm đối với chúng tôi. Ngoài thực phẩm, tôi còn tìm được một thùng nước ngọt, và khi uống thử, tôi thấy nước uống được mặc dù có vị hơi khó chịu một chút.
Suốt mấy ngày liền chúng tôi ở trên boong tàu, không hề tìm cách bơi vào bờ. Chúng tôi đang bận bịu thu xếp chỗ ở. Nhưng rồi chúng tôi cũng sớm biết rằng nơi ở mới của chúng tôi thật không dáng mong muốn như chúng tôi hình dung; và dù ngay từ đầu chúng tôi đã cạo sạch những đám nấm mốc lạ đời mọc đầy trên sàn và tường các cabin và phòng khách, nhưng lập tức chúng lại mọc lên với kích thước y như cũ chỉ trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ, nó không chỉ làm chúng tôi nản chí mà còn đem lại cho chúng tôi một cảm giác khó chịu mơ hồ.
Chúng tôi vẫn chưa chịu thua, và lại cạo sạch chúng, mà không chỉ cạo sạch đám nấm mốc, mà còn khử trùng băng carbolic, một thùng đầy mà tôi tìm thấy trong gian bếp. Nhưng chưa đến cuối tuần chúng đã mọc trở lại y như cũ, thêm nữa chúng lại lan ra cả những nơi khác, cứ như việc chúng tôi chạm vào chúng đã mang mầm mông của chúng đi gieo rắc khắp nơi vậy.
Vào buổi sáng ngày thứ bảy, người yêu tôi thức dậy đã thấy một đám nấm nhỏ mọc ngay dưới gối, gần sát mặt nàng. Và thế là nàng đến phòng tôi, ngay sau khi mặc xong quần áo. Khi đó tôi đang ở trong gian bếp đốt lửa để làm bữa sáng.
‘Lại đây, John’, nàng bảo và kéo tôi theo sau. Khi nhìn thấy đám nấm mốc trên gối của nàng, tôi phát rùng mình, rồi ngay tại đó chúng tôi đồng ý rằng phải đi ngay khỏi con tàu, và xem ra không còn nơi nào cho chúng tôi sống tốt hơn là mấy hòn đảo nhỏ kia.
Chúng tôi vội vàng thu nhặt những thứ đồ đạc ít ỏi của mình, trong đó tôi cũng thấy một số thứ có nấm đang mọc. Trên chiếc khăn quàng của nàng cũng có một vệt nấm đang mọc ở một góc. Tôi ném toàn bộ những thứ đó sang một bên mà không nói với nàng lời nào.
Chiếc bè của chúng tôi vẫn còn ở đó, nhưng nó rất khó điều khiển, vì thế tôi hạ xuống một chiếc thuyền treo ngoài mạn tàu, rối chúng tôi lên thuyền và bơi vào một hòn đảo. Nhưng khi chúng tôi đến gần nó thì dần dần mới nhận thấy rằng cái thứ nấm ghê tởm đã đuổi chúng tôi ra khỏi con tàu kia cũng đang mọc loạn xạ ở đây. Một vài chỗ chúng mọc thành những cái ụ kỳ quái, khủng khiếp, chúng dường như đang lắc lư, lảo đảo như những con vật sống, giống như những bụi cây mỗi khi có làn gió thôi qua. Ở đâu đó, chúng có hình dạng những cánh tay khổng lồ, còn ở những chỗ khác chúng lại trải ra như tấm thảm, trơn mướt và đầy bất trắc. Những chỗ kỳ quặc nhất thì trông cứ như những thân cây kỳ dị uốn éo, vặn xoắn và nổi mấu nổi u rất lạ thường - chỉ vừa nhìn thấy là phải rùng mình kinh sợ ngay lập tức.
Thoạt đầu chúng tôi có cảm tưởng rằng không có lấy một chỗ nào trên cái vòng san hô kia mà không phải là nơi ẩn náu của đám nấm mốc; nhưng rồi tôi thấy là mình đã lầm; cách đó xa hơn một chút, chúng tôi phát hiện thấy một dải trắng muốt trông như cát trắng, và chúng tôi đưa thuyền vào đó. Nhưng đó không phải là cát. Nó là gì thì tôi cũng không biết. Tất cả những gì mà tôi xác định được là nấm mốc không mọc ở trên đó; trong khi ở những nơi khác ngoài vùng trông như cát này thì chúng mọc dày đặc không có lối mà đi. Ở đó không có gì ngoài một màu xám xịt đáng sợ.
Thật khó làm cho các anh hiểu chúng tôi đã vui mừng như thế nào khi tìm được một chỗ hoàn toàn thoát khỏi cái thứ cây kỳ quặc kia, và chúng tôi lập tức mang đồ đạc lên đó. Sau đó chúng tôi trở lại con tàu để lấy theo những thứ chúng tôi sẽ cần đến. Ngoài những thứ khác tôi còn mang đi một tấm buồm và tôi dùng nó để làm hai cái lều nhỏ. Chúng tôi ở trong một chiếc lều còn chiếc kia để cất đồ dùng. Rồi sau đó là bốn tuần lễ trôi qua yên ổn và không có gì đặc biệt xảy ra. Tất nhiên là tôi nói chúng tôi rất hạnh phúc vì được ở bên nhau.
Nấm xuất hiện đầu tiên là ở trên ngón tay cái bàn tay phải của nàng. Thoạt đầu đó chỉ là một vết tròn nhỏ, rất giống túm lông chuột màu xám. Chúa ơi! Tim tôi thắt lại vì sợ hãi khi nàng chỉ nó cho tôi. Chúng tôi vội tẩy sạch nó đi, rửa chỗ đó bằng carbolic và nước. Buổi sáng ngày hôm sau, nàng lại giơ tay cho tôi xem. Cái mụn cơm màu xám kia đã trở lại. Chúng tôi nhìn nhau im lặng một lúc lâu. Sau đó, vẫn không nói một lời, chúng tôi lại tẩy nó đi. Trong khi đang còn làm chưa xong thì nàng bỗng nói:
‘Có cái gì ở bên cạnh mặt anh thế, anh yêu?’ giọng nàng khản đi vì lo lắng. Tôi bất giác giơ tay lên sờ mặt.
‘Chỗ này này! Phía dưới tóc, ngay cạnh tai ấy. Phía trước một chút’. Ngón tay tôi dừng lại ở chỗ đó, và thế là tôi hiểu.
‘Hãy lo cho ngón tay của em trước đã’ tôi nói. Và nàng dồng ý, chỉ vì nàng sợ ngón tay sẽ chạm vào tôi khi chưa được chùi rửa sạch. Tôi kết thúc công việc chùi rửa và tẩy trùng ngón tay nàng, và sau đó đến lượt nàng lo cho tôi. Sau khi xong việc, chúng tôi ngồi bên cạnh nhau và nói chuyện một lúc về nhiều chuyện; những suy nghĩ rất khủng khiếp thình lình chen vào giữa cuộc sống của chúng tôi. Ngay lúc đó chúng tôi đã lo sợ một điều gì đó còn đáng sợ hơn cả cái chết. Chúng tôi nói đến việc chất thức ăn và nước lên chiếc thuyền và lên đường ra biển; nhưng chúng tôi bất lực vì nhiều lý do, và lũ nấm mốc đã thực sự tấn công chúng tôi, chúng đã xâm nhập vào cơ thể chúng tôi rồi. Vậy là chúng tôi quyết định ở lại. Hãy để cho Chúa làm với chúng tôi những gì Ngài muốn. Và chúng tôi sẽ chờ đợi.
Một tháng, hai tháng rồi ba tháng trôi qua, và lũ nấm mốc vẫn mọc ở khắp nơi, còn trên thân thể chúng tôi chúng vẫn tiếp tục lan rộng. Chúng tôi vẫn cố gắng chống chọi, nhưng vô cùng lo sợ khi thấy chúng đã ăn sâu vào thân thể chúng tôi mà không có cách gì trừ bỏ đi được.
Đôi khi chúng tôi lại bơi ra con tàu để tìm những thứ chúng tôi cần. Ở đó chúng tôi thấy nấm mốc vẫn mọc không ngừng. Một số khối nấm mốc trên boong chính chẳng bao lâu đã cao ngang đầu tôi.
Giờ đây chúng tôi đã bỏ mọi ý nghĩ và hy vọng rời hòn đảo. Chúng tôi nhận ra rằng mình không thể được phép trở về sống giữa loài người khỏe mạnh với những gì mà chúng tôi đang phải gánh chịu.
Với nhận thức và quyết định đó trong đầu, chúng tôi thấy cần phải dè sẻn thức ăn và nước uống của mình; vì lúc đó chúng tôi còn không biết gì khác ngoài việc chúng tôi sẽ còn phải sống ở đây nhiều năm nữa.
Điều này nhắc tôi nhớ một điều mà tôi đã bảo anh rằng tôi là một ông già. Cứ theo tuổi tác thì không phải vậy. Nhưng... nhưng...”
Ông ta ngắt ngang; rồi sau đó lại đột ngột nói tiếp.
“Như tôi đã nói, tôi biết rằng chúng tôi phải lo vấn đề thực phẩm. Nhưng chúng tôi không nghĩ là mình lại còn ít lương thực đến thế. Một tuần sau tôi phát hiện ra rằng tất cả các thùng bánh mỳ khác mà tôi vẫn nghĩ là đầy hóa ra lại trống rỗng và (ngoài mấy hộp rau và thịt và một vài thứ khác) chúng tôi không còn gì để trông mong vào nữa, ngoài cái thùng bánh mà chúng tôi đã mở ra.
Sau khi biết điều này, tôi bận rộn lo làm những gì có thể, và thử đi câu cá trong hồ nhưng không thành công. Thất bại này làm tôi nản lòng chỉ đến khi tôi chợt nghĩ là tại sao không bơi ra ngoài biển để đi câu.
Lần này, tôi câu được một con cá lạ ngoài biển; nhưng dẫu có câu được thường xuyên hơn thì việc đi câu cũng không giữ được chúng tôi khỏi cái đói đe dọa. Tôi mường tượng được rằng cái chết của chúng tôi sẽ là chết đói trước khi cơ thể của chúng tôi bị thứ nấm mốc khủng khiếp kia gặm nhấm hết.
Chúng tôi đang trong tình trạng tinh thần như thế thì tháng thứ tư đã trôi qua. Khi đó tôi phát hiện ra một điều rất kinh khủng. Một buổi sáng, khoảng trước buổi trưa một tý, tôi từ chiếc tàu quay về sau khi lấy được một hộp bánh quy mà chúng tôi còn bỏ sót. Tôi thấy cô ấy đang ngồi ăn cái gì đó.
‘Em đang ăn cái gì thế?’ tôi gọi nàng trong khi nhảy lên bờ. Nhưng, nghe thấy tiếng tôi gọi nàng hình như có vẻ bối rối, nàng quay đi và vội nhổ cái gì đó trong miệng ra. Một sự nghi ngờ mơ hồ trỗi dậy, tôi bước đến gần và nhặt nó lên. Đó là một cục nấm mốc màu xám.
Khi tôi bước tới ôm nàng vào lòng, nàng trông nhợt nhạt như người chết, rồi sau đó mặt nàng đỏ lựng. Tôi cảm thấy choáng váng lạ lùng và hoảng sợ nữa.
‘Ôi em yêu, em yêu!’ tôi không còn biết nói gì nữa. Nghe tôi kêu, nàng khuỵu xuống và bật khóc cay đắng. Dần dần nàng bình tĩnh lại. Nàng kể cho tôi nghe là nàng đã thử ăn nó ngày hôm trước, và thấy nó rất lạ! Tôi bắt nàng phải hứa là sẽ không động đến nó, cho dù đói như thế nào đi nữa. Sau khi hứa, nàng bảo với tôi rằng ước muốn ăn nó đến rất thình lình, và rằng trước đó nàng chưa từng thèm khát thứ gì khác ghê gớm như thế.
Vào cuối ngày, cảm thấy mệt mỏi lạ lùng, và quá bị sốc với điều mà tôi mới phát hiện được. Tôi đi thơ thẩn dọc theo dải đường quanh co làm bằng cái thứ trắng như cát, nó chạy vào giữa đám nấm mốc đang mọc cao hai bên. Trước đây tôi đã một lần đi vào đó nhưng không đi xa. Lần này, mải miên man nghĩ ngợi, tôi đi xa hơn nhiều vào bên trong.
Thình lình, tôi sực tỉnh vì một âm thanh khàn khàn kỳ cục ở phía bên trái tôi. Tôi quay ngoắt người lại và nhìn thấy một khối nấm mốc có hình thù kỳ dị đang chuyển động ngay sát bên hông tôi. Nó lắc lư một cách khó nhọc, nhưng dường như nó có một linh hồn sống của chính mình. Dột nhiên, tôi phát hoảng, một ý nghĩ chợt đến trong đầu tôi rằng cái khối hình thù quái dị kia chính là thân hình của một con người đã bị nấm mốc làm cho méo mó vẹo vọ đi như thế. Ngay khi cái ý nghĩ đó lóe lên trong đầu tôi, thì có một tiếng nức nở khe khẽ như chìm trong nước mắt, và tôi nhìn thấy một thứ như nhánh cây có hình thù hao hao như cánh tay tách ra khỏi các khối nấm xung quanh và chìa về phía tôi. Cái đầu của nó - một quả bóng méo mó màu xám không ra hình thù gì - ngả về phía tôi. Tôi bất giác bước lui lại, và cánh tay dưới dạng thân cây sống quệt qua mặt tôi. Tôi kêu thét lên sợ hãi và chạy giật lùi vài bước. Có một vị ngòn ngọt trên môi tôi nơi mà cái vật kia quệt vào. Vô tình, tôi liếm môi, và ngay lập tức tôi cảm thấy hơi choáng váng, một ước muốn kinh khủng, không giống của con người xâm chiếm lấy tôi. Tôi quay lại và vồ lấy một cục nấm mốc. Sau đó lại một cục, rồi một cục nữa. Tôi vẫn còn chưa thỏa mãn. Giữa lúc đang ngấu nghiên, trí nhớ về sự việc phát hiện hồi sáng quét qua bộ não đang điên dại của tôi. Chính Chúa đã gửi nó đến cho tôi. Tôi ném cục nấm đang cầm trong tay xuống đất. Rồi, bất hạnh cùng cực và vô cùng hối hận, tôi quay trở về nơi dựng lều của chúng tôi.
Tôi nghĩ là nàng biết ngay khi nàng đưa mắt nhìn tôi, bởi một linh cảm kỳ lạ mà tình yêu đã đem lại cho chúng ta. Sự cảm thông yên lặng của nàng làm cho tôi thấy dễ chịu hơn, và tôi kể cho nàng nghe về giây phút yếu đuôi bất ngờ của tôi. Nhưng tôi không nhắc gì đến cái sinh vật quái dị kia. Tôi không muốn làm cho nàng phải kinh khủng một cách không cần thiết.
Nhưng với bản thân mình thì tôi đã biết thêm được một điều khó mà chịu đựng nổi, nó sẽ nuôi dưỡng một sự khủng khiếp thường trực trong trí óc tôi. Vì tôi không nghi ngờ gì rằng tôi đang chứng kiến đoạn kết bi thảm của một trong những người lên đảo từ con tàu đậu trong hồ kia; và trong cái đoạn kết quái gở đó tôi cũng nhìn thấy cái kết cục không tránh khỏi của chính mình.
Từ đó về sau chúng tôi cứ phải cố gắng giữ mình tránh xa cái thức ăn ghê tởm đó, mặc dù sự thèm muốn nó dường như đã ngấm vào máu chúng tôi. Chúng tôi không thể làm gì để kiềm chê được nó, và cứ thế, cứ thế, chúng tôi - vốn là những con người - đã trở thành... Phải, cứ mỗi ngày chúng tôi lại ít còn hình hài người thêm một chút. Chỉ có điều, còn có điều chúng tôi vẫn là một người đàn ông và một người đàn bà!
Ngày lại ngày cuộc đấu tranh lại càng kinh khủng hơn, để đứng vững được trước cơn thèm khát cái thứ mốc meo kinh sợ đó.
Một tuần trước chúng tôi đã ăn đến cái bánh quy cuối cùng, và từ bữa đó đến giờ tôi chỉ bắt được có ba con cá. Tối này tôi bơi ra đây câu cá và bắt gặp chiếc thuyền buồm của các anh từ trong đám sương mù trôi đến đây. Tôi đã gọi các anh, và chuyện sau đó thì các anh đã biết rồi. Cầu Chúa thương xót các anh vì lòng tốt mà các anh đã dành cho hai... hai linh hồn khốn khổ bị ruồng bỏ này”.
Một thoáng im lặng rồi chúng tôi nghe thấy tiếng mái chèo quạt nước. Sau đó giọng nói lại vọng đến, lần cuôì cùng, xuyên qua đám sương mù bàng bạc, ảm đạm và ma quái kia.
“Cầu Chúa thương xót các anh! Vĩnh biệt!”
“Vĩnh biệt”, chúng tôi cùng kêu lên, trong lòng đầy những xúc cảm lạ lùng.
Tôi liếc nhìn quanh. Tôi đâm ra cảnh giác với cái màn đêm đang bủa vây chúng tôi.
Mặt trời còn chưa mọc, nhưng những tia sáng đầu tiên của nó đã phản chiếu trên mặt nước, xuyên qua đám sương mù ảm đạm, chiếu lờ mờ vào chiếc thuyền nhỏ đang lùi xa. Trong một thoáng tôi như nhìn thấy một cái gì đó đang gật gù giữa các mái chèo. Tôi nghĩ đến một khối bot biển hay một con bạch tuộc khổng lồ màu xám Các mái chèo vẫn khua nước. Tất cả đều màu xám, cả chiếc thuyền cũng thế. Tôi căng mắt ra nhìn, cố phân biệt giữa đôi cánh tay và mái chèo, nhưng không thể. Mắt tôi nhìn trở lên cái đầu. Nó đang gật gù mỗi khi mái chèo bổ xuống mặt nước. Con thuyền cũng bơi đi theo nhịp giật cục và biến vào màn sương mù ma quái kia.
Chú thích:
[1] Ahoy: tiếng kêu “hê” của thủy thủ.

HẾT


Xem Tiếp: ----