Dịch giả: Trịnh Huy Hóa
Congo
Stuart Cloete

     hững chuyện mà tôi phải kể dưới đây cứ để mặc ai muốn nghĩ gì thì nghĩ; nhưng còn anh, Retief, tôi viết những điều này cho anh và anh phải tin nó, vì khi những dòng này đến tay anh thì cuộc sống của cô ấy đang bị nguy hiểm. Tôi, người đang viết đây, đã chứng kiến chuyện này, ngay từ khi nó mới chỉ bắt đầu, tôi đã thấy nó diễn tiến như thế nào, rồi bị lôi cuốn vào đó, thoạt đầu chỉ như một khán giả, rồi sau đó trô thành người trong cuộc. Vì thế đây không phải là bịa đặt mà là chuyện riêng của tôi, chẳng liên quan gì đến chuyện người ta có tán thành với tôi hay không, và cuối cùng nó hầu như quá sức chịu đựng của tôi. Dĩ nhiên khi tôi đang viết đây thì vấn đề vẫn đang còn bỏ ngỏ.
Khi còn trẻ, tôi là học trò của giáo sư Le Grand nổi tiếng ở Đại học Brussels. Do một sự tình cờ may mắn, ông ấy đã chọn tôi để giúp ông trong một thí nghiệm nhỏ. Và ông thấy tôi có nhiều điều đồng cảm với ông. Tôi cũng nhìn cuộc đời theo một góc độ giống như ông. Chúng tôi cùng có cách nhìn giống nhau, dù với những cặp kính khác nhau; tầm nhìn của ông thực bao quát, bao gồm rất nhiều đối tượng rộng lớn, cứ như những dãy núi liên tiếp nhau; trong khi tôi chỉ nhìn thấy một mảnh nhỏ xíu, nhưng thay vì thế, tôi nhìn thấy rất rõ ràng và thấu suốt. Chính là sự cảm mến chứ không phải vì tôi thông minh đặc biệt gì mà ông đã chọn tôi làm phụ tá cho ông, vì thế tôi có điều kiện để cùng ông đi đến Côngô để tiếp tục công việc nghiên cứu của chúng tôi.
Chúng tôi làm việc tại một vùng rừng rậm ở đất nước này. Nơi đây có rất nhiều cây to, ông Le Grand nói nhiều cây trong số đó đã có hàng ngàn năm tuổi. Ánh nắng mặt trời hầu như không bao giờ xuyên đến được mặt đất dưới gốc của chúng. Rừng rậm mở ra bên trong chúng nhiều khoảng rừng thưa, nơi đây những thổ dân thực hiện một hình thái nông nghiệp nguyên thủy. Họ trồng chuối, kê, ngô, khoai lang, bí đỏ, lạc và một số giống đậu. Đất đai ở đây rất mầu mỡ, và thu hoạch luôn luôn khá; điều này thật lạ lùng vì cây trồng hầu như chẳng được chăm sóc gì cả.
Thỉnh thoảng bầy voi lại đến phá hại ruộng vườn, nhưng lũ khỉ đột gorilla mới là nỗi lo lắng chính và những người thổ dân vừa ghét lại vừa sợ hãi chúng. Sự tàn phá do chúng gây ra không thấy ngay lập tức, vì những con vật rất tinh quái này chỉ ăn trộm mỗi lần một ít, và chúng ăn trộm tài tình đến mức trừ phi anh đi đếm từng quả đậu, nếu không thì anh sẽ chẳng nhận thấy gì hết cho tới tận mùa thu hoạch.
Khi tôi nói chúng tôi, thì cần phải hiểu chúng tôi ở đây là ba người. Vì trước khi đi, Le Grand đã cưới một cô gái trẻ. Cô ấy biết đánh máy và ghi tốc ký, cô rất quen thuộc với các bản thảo của Le Grand và là một trong số rất ít người có thể đọc được chữ viết của ông ta. Tên cô gái là Helena Magrodvata. Cô có dòng máu lai Hy Lạp - Nga, có mái tóc rất đẹp, vì thiếu sắc tố nên nó có màu hầu như trắng. Khi không đeo kính thì trông cô khá xinh đẹp. Có thể đám cưới của Le Grand là một kết quả lôgích từ ước muốn của một người đàn ông muốn chiếm hữu một người đàn bà, hoặc cũng có thể chỉ là một thí nghiệm khác của ông Giáo sư; tôi không tìm thấy một ghi chép nào của ông có khuynh hướng phủ nhận giả thuyết này, và nếu thế thì đây có lẽ là thí nghiệm duy nhất mà ông không bao giờ thảo luận với tôi.
Chúng tôi ở trong một căn lều tròn làm bằng đất sét trắng. Và theo đúng quy trình, Helena sinh một cậu con trai. Chẳng có gì khó khăn trong việc này cả, vì Le Grand và tôi là các bác sĩ, còn Helena là một cô gái khỏe mạnh.
Chúng tôi phải sống và giữ sức khỏe trong cái khí hậu rất khó chịu đó cũng là vì ngài Giáo sư. Chắc chắn chúng tôi là những người da trắng đầu tiên đối mặt với vô số những con muỗi anopheles mà không lo sợ bệnh sốt rét hay bệnh ngã nước: hai căn bệnh đặc biệt nguy hiểm ở vùng này mà ngay cả thổ dân cũng chết vì chúng rất nhiều.
Chính vắcxin của Le Grand, khi được tung ra thị trường, cuối cùng đã mở ra những vùng đất rộng lớn mà cho đến nay vẫn chưa có người ở. Đó có thể là lý do thứ hai khiến ông ấy đi đến Côngô, nơi ông có thể thử những loại vắcxin còn đang thí nghiệm với ba người thuộc ba kiểu loại, giới tính và dân tộc khác nhau. Chúng tôi không chỉ khỏe mạnh mà một trong ba loại vắcxin ông sử dụng chứng tỏ có hiệu lực rất mạnh.
Đứa bé lớn rất nhanh, tăng cân hàng ngày, còn Helena vô cùng vui sướng. Tình mẫu tử trong cô lên đến mức cô không còn làm việc gì khác ngoài những báo cáo tuần, và cũng chỉ những khi khẩn cấp.
Mối quan tâm của ông Giáo sư đối với thằng bé có vẻ mang nhiều chất khoa học hơn là tình cha con, mặc dù khi thằng bé chết ông cũng có dấu hiệu đau buồn. Chúng tôi cùng đi ra rừng, đang đo đạc và cân lượng mủ cao su thi có một thổ dân chạy đến báo tin thằng bé bị rắn cắn. Khi chúng tôi chạy về đến nhà thì thằng bé đã chết, Helena gần như hóa điên. Không sao an ủi được cô ấy, cũng không thể để cô ấy ở một mình. Ngay cả Le Grand cũng phải thừa nhận điều này sau lần đầu tiên cô cố tự sát. Vì vậy cần phải sắp xếp lại lịch làm việc. Vì chúng tôi làm việc ở những khu vực khác nhau của cánh rừng, công việc ngoài đồng cũng như ở văn phòng đều không bỏ bê được, chúng tôi cũng không thể làm thay hoàn toàn công việc của nhau. Tuy vậy, việc chậm trễ cũng không gây tác hại gì nghiêm trọng đến các thí nghiệm của chúng tôi. Vì thế chúng tôi thay phiên nhau đi, Giáo sư đi vào một ngày, còn ngày hôm sau đến phiên tôi.
Khoảng một tháng sau, một hôm khi chúng tôi đang ăn sáng thì có người báo tin có một con gorilla bị sập bẫy. Để Helena lại nhà, cô ấy vẫn đang ngủ, chúng tôi chạy đến xem.
Đường đi không xa lắm, và chúng tôi chẳng mấy chốc đã đến mảnh rẫy của thổ dân nơi người ta bắt được nó. Chiếc bẫy, giống như một chiếc lồng thú khổng lồ buộc bằng dây thép và đóng đinh đặt ở giữa ruộng ngô xanh tốt, nhưng giờ đây đã bị các thổ dân vây xung quanh dẫm nát. Mồi nhử là mấy nải chuối, thứ trái cây mà các con thú này rất thích. Con gorilla đã bị nhiều vết thương rất nặng ở khắp nơi trên cơ thể và máu đang tuôn ra như suối; cái trò tra tấn này không hẳn chỉ là để tiêu khiển mà là một nghi lễ mê tín của thổ dân. Họ tin rằng làm như thế họ sẽ xua đuổi được ma quỷ nhập trong con thú, và vì thế sẽ giảm bớt sự phá hoại của bầy đàn nó trong một thời gian.
Chen qua đám đông, chúng tôi đến gần cái cũi. Con gorilla đang rống lên vì đau đớn và tức giận. Đó là một con gorilla cái còn trẻ và đang có mang rất to, chỉ cần nhìn thoáng qua cũng đủ thấy. Việc xem xét kỹ càng hơn cho cả hai chúng tôi thấy rằng nó đã đến kỳ sinh, và thế là Le Grand nảy ra một ý kiến.
“Harry,” ông nói, “tôi sẽ mổ lấy con nó ra, nó không còn sống được lâu nữa đâu”.
Điều này là rõ ràng, một mũi giáo đã đâm thủng phổi nó.
“Chạy về nhanh lên, lấy dụng cụ cho tôi, và cả thuốc mê nữa. Tôi sẽ chấm dứt cảnh tượng này”. Ông nói thêm.
Đó là cái cách con gorilla con, mà sau này chúng tôi gọi là Congo, được sinh ra. Le Grand đã thành công trong việc thuyết phục các thổ dân thôi hành hạ con vật. Trong lúc tôi chạy về lấy dụng cụ, con vật nằm duỗi dài, nghiến răng kèn kẹt trong cơn giận dữ. Trói được nó lại đã là cả một kỳ công, nhưng bước vào cái cũi nơi nó bị trói là một việc mà tôi chỉ dám làm một lần và không bao giờ định thử lại nữa. Sức mạnh của loài thú này thật là kinh khủng. Chúng có thể vặn xoắn nòng súng còn dễ dàng hơn ta uốn một cây kim.
Nó nằm đó gầm gừ với chúng tôi, máu và nước dãi chảy đầy mặt. Hàm răng lởm chởm nhe ra như giống chó đang gầm gừ khi nó gào thét hết đợt này đến đợt khác. Đồng tử trong mắt nó mở rộng hết cỡ dưới hàng lông mày rậm.
Tôi đã từng nhìn thấy điều đó trước đây, trên mặt của một kẻ tâm thần sát nhân đã giết mấy mạng người. Nó là sự pha trộn giữa bản tính hung ác và sự tinh khôn. Người ta cảm thấy dù nó có vùng vẫy mạnh đến đâu, nó cũng vẫn còn chưa tung ra hết cái sức mạnh siêu nhiên của nó. Nó đã làm như vậy khi chúng tôi bước vào trong. Cả cái cũi rung lên chao đảo khi nó vùng vẫy, những cơ bắp rất khỏe của nó căng lên như dây chão, sữa phun ra từ ngực nó. Có lúc tôi đã nghĩ nó sẽ dứt tung dây trói; mà nếu thế thì nó sẽ chẳng cần nhiều thời gian để xé chúng tôi ra thành từng mảnh. Từ trước đến giờ tôi vẫn tưởng mình đã trở nên chai lì với mọi chuyện vì tôi đã từng nhìn thấy cơ man những cảnh tượng khủng khiếp; nhưng cái con thú khổng lồ đó nằm ở đây, gào thét và ho khạc trong cơn giận dữ, thân hình nhuộm đầy máu, quả thực đã làm tôi sờn lòng. Bên cạnh nó có một cánh tay đàn ông. Chúng tôi đã đến quá muộn để cấp cứu cho anh ta và anh ta đã chết. Chắc chắn là anh ta đã đến quá gần cái cũi để nó tóm được tay, và nó đã vặn đứt tay anh ta khỏi thân người như bẻ gẫy một cành nhỏ khỏi thân cây. Đây chẳng phải là một cuộc phẫu thuật được tiến hành có ngăn nắp trật tự mà là một ca xô bồ đẫm máu; và giáo sư Le Grand mặc áo blu trắng, dao cầm trong tay, vẫn bình tĩnh lạnh lùng cứ như ông đang xem xét vi trùng qua ông kính hiển vi vậy.
Tôi không tin là trái tim ông ta không đập nhanh hơn, hay ông thậm chí có giây phút nào nghĩ đến khả năng xảy ra thảm họa. Với ông thì con linh trưởng dạng người khổng lồ này chỉ thuần túy là một vấn đề khoa học, nhưng tôi thì không cảm thấy như thế. Ngay từ lúc đó, có lẽ tôi đã biết điều ác sẽ đến từ cái sinh vật phi tự nhiên này.
Tôi không biết chắc là chúng tôi đã sử dụng bab nhiêu thuốc mê; chúng tôi cũng đánh đổ mất một ít, nhưng khi xong việc thì chai thuốc mê nửa lít đã chẳng còn lại bao nhiêu. Không cần phải nói, chúng tôi đã giải thoát nó vĩnh viễn khỏi sự đau đớn cực độ. Nó chẳng bao giờ thức dậy sau giấc ngủ đó nữa. Con gorilla con được lấy ra khỏi bụng mẹ và trao cho một người phụ tá nửa mùa của chúng tôi (chúng tôi đã thành lập một bệnh xá nhỏ gần nơi chúng tôi ở). Ông Giáo sư cúi người trên cái xác con mẹ với các dụng cụ đo đạc trong tay trong lúc tôi tiến hành việc phẫu tích trước khi cái xác bị cứng lại. Khi tôi tò mò quay đầu nhìn quanh, tôi thấy Helena đã đứng đó tay bế con gorilla con trước ngực.
Chuyện xảy ra như thế nào tôi chỉ có thể đoán phỏng. Tôi nghĩ cô ấy đã nhìn thấy chúng tôi khi thức dậy, đã đến đây và lại gần người thổ dân đang bế con gorilla con. Nét mặt nhăn nhúm của nó trông cũng giống như một đứa bé mới đẻ, và theo bản năng, cô ấy bồng lấy con vật từ tay anh ta. Có vẻ như Salomon, tên người thô dân đó, hành động như người chăm sóc con cho cô ấy, và để cho bức tranh thêm hoàn chỉnh, con gorilla con, khỏe hơn một đức trẻ bình thường nhiều, cứ đeo riết lấy cổ cô. Dù thế nào đi nữa, khi tôi nhìn thấy cô ấy thì mọi việc đã xong xuôi.
“Nhìn xem” tôi nói với ông Giáo sư khi ông đứng dậy với một mảnh cơ bắp trong tay.
“Vậy là,” ông ta nói, “cô ta đã nhận nó”.
Ông ta định làm gì tôi cũng chẳng hiểu nữa. Hay ông ta sẽ thực hiện một cuộc phẫu thuật cho thỏa trí tò mò? Tôi nghi ngờ điều đó. Hay là ông muốn giao nó cho một người phụ nữ thổ dân nuôi? Hay là ông định giết nó, giữ lại như một mẫu vật; bổ sung thêm cho bộ sưu tập vốn đã nổi tiếng của ông?
Còn Helena có biết cô ấy đang làm gì hay không? Còn nữa, chúng tôi đã biết gì về Helena, với giòng máu lai của cô, với bản năng mạnh mẽ của cô, và những chất vắcxin thử nghiệm đầy trong mạch máu của cô? Đó là vấn đề cần được giải quyết sau này, Le Grand cần phải suy nghĩ.
“Đưa cô ấy về đi,” ông nói, “và đem cho tôi mấy cái lọ”. Chúng tôi vẫn cất giữ mẫu vật trong lọ. “Và ít cồn nữa”, ông kêu với theo khi chúng tôi đã rời đi.
Khi ông trở về thì mặt trời đã sắp lặn, còn Helena chỉ nói có một lần. “Nó là của em”, cô ấy nói có vậy.
Một năm sau chúng tôi quay trở về Brussels. Ông Giáo sư, trợ lý của ông, vợ ông và đứa con của cô ấy. Vì cô ấy cứ khăng khăng như thế. Nó không phải là một con gorilla, mà là một đứa trẻ, và nó ăn mặc như một đứa trẻ. Phải sử dụng đến những thế lực quen biết chúng tôi mới kiếm được cho nó một phòng trên tàu; công ty tàu biển chỉ coi nó là một con vật, họ chỉ nhượng bộ khi Helena giận điên lên. Cô ấy mang bữa ăn về phòng, vì con vật gây náo loạn và gào thét ầm ĩ mỗi khi cô rời nó đi đâu.
Thật khó mà miêu tả chuyến hành trình, nhất là từ những sự kiện diễn ra sau này. Helena gọi nó là Baby. Ông Giáo sư đôi khi cũng gọi thế, còn tôi cố tránh hết sức đế không nhắc đến nó. Nếu cô ấy nuôi nó như một con vật cảnh thì là một chuyện, nhưng nó ngủ cùng giường với cô, còn Le Grand và tôi ở trong cabin cạnh đó. Khi đó Helena đã hai mươi.
Tôi bỏ qua tám năm kế tiếp vì chẳng có gì đặc biệt để nói. Công việc của chúng tôi, của Giáo sư và của tôi, thành công ngoài sức tưởng tượng. Tôi sẽ không nói gì về cuộc sống chung của chúng tôi với “nó” đến nay đã gần chín năm. Tôi đã nói rằng Helena rất đẹp, còn Giáo sư thì không còn trẻ nữa, đôi khi ông đãng trí; còn tôi thì chẳng khác gì những người đàn ông khác. Tuy vậy tôi biết chắc một điều là nó ghét cả hai chúng tôi; mà nó thì còn khỏe hơn cả một người đàn ông.
Tại sao tôi lại nói vậy. Nó ăn mặc như một đứa con trai, áo thủy thủ, quần soọc và đi dép, ăn cùng bàn với chúng tôi, khuôn mặt nó giống như mặt một ông già. Nó vẫn ngủ cùng phòng với Helena còn ông Giáo sư thì ngủ ở phòng thay quần áo liền đó. Nó có một cái giường rộng trải drap và có cái chăn để trong góc. Nếu nó là một đứa trẻ thì những chuyện như thế này là không được phép, nhưng với tính cố chấp của đàn bà, Helena đôi khi đối xử với nó như những người đàn bà khác âu yếm con chó cưng của họ vậy. Nhưng nó, cái “thằng” đó, không phải là một con chó.
Congo trong chuyện yêu ghét của nó giống như một người nguyên thủy; vì nếu nó vốn là một loài linh trưởng dạng người, thì cái môi trường sống mà Helena áp đặt lên nó làm cho nó có sự tiến hóa nhảy vọt, và về mặt tâm thần nó phải tương ứng ít nhất với người vượn Neanderthal. Và nó rất yêu Helena.
Tôi dùng chữ “yêu” ở đây là có cân nhắc. Chuyện nó yêu mến Helena là điều tự nhiên, vì cô ấy là người mẹ nuôi nấng và dạy dỗ nó, nhưng chuyện còn đi xa hơn thế. Sự sớm phát triển của nó một phần có thể là vì nó được ăn uống tốt, nó ăn những thứ mà chính chúng tôi ăn, giàu chất protein hơn những thức ăn trong thiên nhiên; nhưng sự sớm phát triển đó là một điều rất đáng sợ. Nhìn bề ngoài, thái độ của nó với Helena giống một đứa trẻ được nuông chiều. Nó đeo lên tay cô, trèo lên cổ cô, quàng tay quanh cổ và hôn vào miệng cô băng cặp môi dày của nó. Nhưng vấn đề là cái ánh mắt của nó khi nó nghĩ rằng không bị ai trông thấy; đã một vài lần tôi thấy rằng nó đang thử sức mạnh của mình. Nó không đập vỡ đồ đạc, nó đã được dạy dỗ chuyện đó từ khi còn bé, nó chỉ di chuyển chúng. Một hôm tôi bắt gặp nó đang nâng cái tủ quần áo lên khỏi đầu bằng hai tay. Vì tò mò tôi đã cân thử cái tủ, đúng 95 kilôgam. Thế mà nó nâng dễ dàng như một người đàn ông xách một gói bưu kiện nhỏ. Chúng tôi còn giữ những số đo chính xác của nó lúc đó: lồng ngực nó rộng một mét hai, cao một mét hai, nặng một trăm chín mươi pao (khoảng chín mươi ký). Còn bây giờ nó đã lớn hơn nhiều.
Họ bảo rằng đó là một tai nạn, cho dù thoạt đầu họ cho là tôi có dính líu vào đó. Họ nói động cơ giết người là ghen tuông, cả về chuyện cô vợ ông, cả chuyện địa vị trong giới khoa học, dù họ cố tử tế bảo là tôi ganh đua với ông. Thật may, tôi có thể chứng minh là vào thời điểm đó tôi đang lên lớp giảng bài, nếu không thì chẳng gì có thể cứu được tôi, nhất là khi họ phát hiện ra ông đã ủy thác cho một mình tôi trông nom tài sản cũng như công việc của ông, để lại cho tôi tất cả sách vở, mẫu vật và các bản thảo của ông. Vậy là tôi không chỉ mất đi một người bạn, mà còn suýt nữa bị tội giết người.
Chuyện Helena sẽ lấy tôi là không tránh khỏi; đó chỉ là chuyện thời gian - nhưng tại sao lại thế? Bất cứ người đàn ông nào từng sống trong ngôi nhà đó, trong một hoàn cảnh lạ lùng như thế mà lại không xử sự như tôi? Tôi nghi ngờ chuyện đó. Làm sao Helena có thể không có tôi làm bầu bạn khi ông Le Grand bất hạnh còn sống hay làm một tấm đệm giữa thế giới bên ngoài và Congo của cô sau khi ông chết? Tôi cũng nghi ngờ chuyện đó. Hay làm sao tôi có thể không hiểu và yêu Helena sau chừng ấy năm? Nhưng cô ấy vẫn còn điên đầu vì một chuyện. Đó là con khỉ đột. Không có gì, kể cả khi cô ấy yêu tôi đi nữa, có thể tách rời nó khỏi cô ấy.
Le Grand rơi xuống từ cửa sổ. Căn hộ chúng tôi ở cao trên mãi lầu năm. Ông ấy còn cầm một chiếc bình tưới cây trong tay khi rơi xuống. Tôi như vẫn nhìn thấy cảnh tượng đó hàng trăm lần mỗi ngày. Ông lão đáng yêu, vì ông già đi rất nhanh, đang rờ rẫm từng chiếc lá trong cái bồn cây bên cửa sổ bằng những ngón tay hiếu kỳ. Nó lẻn đến gần, vì Congo có thể di chuyển yên lặng như một con mèo và sàn lại trải thảm rất dày. Hai cánh tay siết lại, bầu trời đảo lộn, tiếng thét, tiếng va đập.
Tôi tin chắc là Helena đã đoán biết, nhưng cả hai chúng tôi không ai dám nói ra. Cô ấy thì vì yêu quý Congo, còn tôi thì vì tôi yêu cô ấy. Nhưng trong tiềm thức, cô biết điều đó, và cô sợ cho tôi. Bây giờ, cô ấy không bao giờ để chúng tôi ở lại một mình với nhau; nhưng cô ấy sẽ phản đối đến cùng, vì tôi đã nghĩ ra một cách khôn khéo để đầu độc nó. Làm chuyện này với thạch tín hay một thứ gì đó sẽ tố cáo tôi ngay lập tức vì Helena biết khá rành về chuyện thuốc men. Dù về mặt luật pháp cô chẳng có gì trách cứ được, nhưng về mặt đạo đức cô sẽ coi tôi như kẻ đã giết con cô. Tôi sẽ dùng lòng trắng trứng; chỉ 5cc là đủ.
Nhưng đây là một trò chơi nguy hiểm, trong đó yếu tô thời gian đóng vai trò quyết định. Chừng nào tôi vẫn mang theo súng, lấy cớ không an toàn khi đi lại làm việc ở những khu vực hoang vắng trong thành phố thì còn được. Nhưng cô ấy bảo: “Khẩu súng bỏ trong túi áo sẽ rất bất tiện, mà tại sao lại phải đeo súng khi ở nhà? Nó sẽ làm nhàu quần áo anh”. Đó là một khẩu Browning cỡ nòng 32, nhưng tôi vẫn nghi ngờ không biết những viên đạn nhỏ xíu này có ngăn chặn được nó không. Hôm nay tôi cảm thấy một cơn khủng hoảng đang đổ lên đầu tôi; vì thế tôi viết những dòng này. Nó thật quá khủng khiếp, tay tôi đã bị số phận trói chặt. Nhưng có ai đó cần phải biết. Cô ấy, một cô bé bất hạnh, cô ấy bảo, “Nó yêu em như một đứa con yêu mẹ vậy”.
Tôi đã gác lại cuốn sách của tôi để viết những dòng này. Tôi chỉ còn biết hy vọng.