Dịch giả: Khanh Khanh
Chương 8

     hải tốn không ít thời gian chúng tôi mới tới được mục tiêu. Chúng tôi đã đi qua con đường Upper Richmond Road, vào gần vườn thượng uyển hoàng gia. Đó là một khuôn viên xanh mát và rất rộng, bên trong có chứa cả đài thiên văn Kew.
Suốt đường đi tới đây, Cynthia Manson không nói một lời nào, để cho tôi một mình lái xe. Cuối cùng, khi không thể tiếp tục chịu đựng tình trạng im lặng, tôi phanh xe bên cạnh công viên.
- Thế, ít nhất thì bây giờ chúng ta cũng gần tới nơi rồi. Giờ thì tôi muốn biết chuyện sắp tới sẽ là chuyện gì.
Ánh mắt của người đàn bà xuyên qua màn kính đằng trước, phóng hẳn ra tới khuôn viên xanh ngắt.
- Nghĩa trang nằm ở gần đây.
- Trong công viên hay sao?
- Không, bên rìa công viên. Ông cứ đi thẳng đường này tới chỗ rẽ đàng trước kia. Lúc đó chúng ta ngoặt sang phải.
- Rồi sao nữa?
- Rồi ông sẽ nhìn thấy nó.
Vừa nói câu đó, người đàn bà vừa mở cửa và bước thật nhanh ra ngoài xe, nhanh đến mức tôi không kịp giữ cô ta lại. Chỉ vài giây sau đó, cả tôi cũng đã rời ô-tô nhưng Cynthia đã biến mất như một bóng ma giữa những bụi cây, như bị đẩy thật nhanh ra khỏi tầm nhìn.
Cô ta đã lạnh lùng lừa tôi vào đây, rồi bỏ tôi đứng đó như một cậu bé ngu ngốc. Một cậu bé giờ đang phát điên lên vì giận dữ, chỉ muốn tát thẳng vào mặt mình.
Cáu kỉnh, tôi nắm chặt hai nắm đấm. Nếu khung cảnh xung quanh quang đãng, chắc chắn tôi đã đuổi theo. Nhưng ở cạnh khu công viên này, rõ là cô ta có đủ mọi cơ hội lẩn tránh nếu như cô ta muốn.
Khốn nạn!
Giận dữ, tôi nhìn lên bầu trời đang chuyển màu xám. Mặt trời biến mất, những tảng mây nặng từ từ kéo đến. Trông có vẻ như sắp nổi bão. Từng đàn muỗi bay thật thấp. Chúng hốt hoảng vo ve và nhảy múa trong không trung. Bầu không khí nặng nề như một lớp chì đang muốn đè lên vạn vật.
Mọi âm thanh bây giờ đều được khoảng không gian bí hiểm và khó chịu này truyền nhanh, mạnh hơn mọi khi. Tôi nhận ra rất nhiều tiếng động đang vang lên từ khuôn viên. Tiếng kêu gay gắt của những con chim, đa số là giống chim của những đất nước xa xôi. Chắc chúng cũng đang nhận thấy đất trời xung quanh sắp nổ bùng ra một cơn bão tháng năm.
Gió vẫn chưa nổi lên chứng tỏ cần thêm một chút thời gian để ủ bão. Phía rìa của những tảng mây nặng trĩu đã phơn phớt ánh vàng.
Hiện tôi vẫn chưa nghe thấy gì, và có cảm giác tột cùng cô đơn trong cái khuôn viên trống vắng.
Trời chiều đã ẩm ướt hơi nước. Cách đó chẳng bao xa là một khúc lượn quanh của dòng sông Themse. Những vệt cỏ sát mép nước là khu vực lý tưởng để cứ đêm tới lại có vô vàn những làn sương mù mỏng mảnh lừ đừ theo nhau bò lên cao.
Sau khi đã chờ được 5 phút mà khung cảnh xung quanh vẫn im lặng, tôi leo trở lại chiếc xe Rover. Cynthia Manson rõ ràng chỉ quay trở lại đây khi cô ta muốn. Có nghĩa là rất có thể tôi còn phải chờ lâu. Tôi sử dụng điện thoại trên ô-tô, nối liên lạc với Suko mà không thành. Đành chọn cách để cho xe chạy. May mà Cynthia đã giải thích chút ít về đường đi. Chỉ hy vọng cô ta không nói dối.
Chiếc xe Rover bò lên phía trước trong tốc độ của người đi bộ. Hai khuôn cửa sổ mở toang. Gió lùa vào trong xe, chơi đùa với mái tóc tôi và vuốt qua khuôn mặt đẫm mồ hôi làm tôi cảm nhận giây lát thật dễ chịu. Thế rồi có hai người đi xe máy vượt lên trên, ngoái trở lại vẫy tay chế giễu nhưng tôi mặc kệ họ. Chẳng bao lâu tôi đã thấy hiện ra nhánh đường rẽ mà Cynthia nhắc tới. Ít nhất thì trong chuyện này cô ta không dối trá.
Chiếc xe Rover nhích từ từ vào con đường nhỏ. Bên trái và bên phải là cây cối mọc chằng chịt như trong một cánh rừng già. Cũng có không ít cây mọc chồm ra đường đi, cành lá của chúng quệt vào vỏ xe, vào những miếng kính cửa sổ mà tôi đã quay lên trên.
Nghĩa trang có lẽ nằm đằng sau dãy cây rậm rạp kia. Tôi cho xe chạy thẳng và thấy mình gặp may bởi đây là một con đường cụt, nó kết thúc trong một đoạn nằm ngang dùng để quay đầu xe, nối vào đường chính theo hình chữ T.
Bên ngoài khúc đường quay xe đó có hai chiếc ô-tô đang đỗ trong một bãi đậu xe rất nhỏ. Phía sau bãi là một ngôi nhà xây gạch trần có mái màu xám phủ rất dài xuống dưới.
Nhà xác chăng?
Chắc không sai, bởi cách đó không xa là một khuôn cửa rộng bằng thép sơn đen, hai cánh cửa đang mở toang, tạo nên một khung hở lớn giữa hàng rào.
Tôi cho chiếc Rover đỗ bên cạnh một xe Ford cũ kỹ, lòng thầm vui khi phát hiện thấy một khuôn cửa sổ nhà xác sáng ánh đèn. Vậy là ở đây có người!
Thường thì nhân vật canh nghĩa trang hoặc đào mộ cũng có một căn nhà nhỏ nằm ngay bên nhà xác, thậm chí có khi là một căn hộ nằm bên trong nhà xác. Có những người thấy cảnh sống ở nghĩa trang là bình thường, hơn nữa họ lại thích khung cảnh yên tĩnh xung quanh. Yên tĩnh đến mức tôi nghe những bước chân mình vang lên ầm ầm.
Giọng ríu rít của những con chim từ vườn động vật hoàng gia đã nhỏ đi, chúng tạo thành một nền âm thanh liên tục phía xa. Mỗi bước chân đi khiến mồ hôi tôi túa ra thêm. Không khí trong một cánh rừng rậm miền nhiệt đới chắc cũng không thể oi nồng hơn ở đây được.
Thêm vào đó là một thứ ánh sáng kỳ lạ. Chẳng thật sáng, mà cũng không thật tối. Đúng hơn là một tổ hợp của vô vàn màu xám khác nhau, thỉnh thoảng lại trộn lẫn một vệt dài nhỉnh sáng hơn chút xíu. Khuôn cửa sổ có ánh đèn nằm trong một tiểu công trình xây áp vào nhà xác. Nó đứng phía sau nhà xác, mọc lồi lên như một cái bướu trên lưng người gù. Những tấm đan bê tông đặt rải rác trên một con đường nhỏ dẫn tôi đến khuôn cửa còn bốc mùi sơn.
Tôi phát hiện thấy một nút chuông nhỏ, trên đề Osgood. Chắc đây là tên người cai quản nghĩa trang hoặc người đào huyệt. Hiện tôi vẫn chưa nhìn thấy bia mộ. Chắc chúng nằm khuất đằng sau những bụi cây cao và rậm rạp kia. Hy vọng là Osgood có thể giúp tôi đi tiếp. Căng thẳng, tôi chờ xem con người đó ra sao, lòng đã thầm tính đến khả năng sẽ gặp một ông già bẳn tính hoặc một chàng trai cẩu thả, bừa bộn. Suy cho cùng, ai trong chúng ta cũng có một bức tranh nhất định về nghề cai quản nghĩa trang hay đào huyệt. Nhưng tôi đã lầm to. Người vừa mở cửa cho tôi trông chải chuốt như một diễn viên điện ảnh. Cao ráo, vai ngang, mái tóc vàng thẫm, một khuôn mặt đàn ông với đôi con mắt màu xanh lạnh. Đôi mắt chắc chắn đã khiến không ít cô gái phải run rẩy một khi chúng khoác lên ánh nhìn thấu suốt tâm can. Anh ta mặc áo sơ mi kẻ sọc trắng xanh, đi kèm với một chiếc quần đen được cắt rất đúng mốt.
- Ông cần gì ạ? - Giọng anh ta nghe bình thường, không ra hồ hởi mà cũng không lãnh đạm.
- Ông Osgood phải không?
- Đúng.
- Tên tôi là John Singlair. Tôi muốn nói chuyện với ông một chút.
- Ngay bây giờ sao?
- Đúng thế.
Người đàn ông trước mặt tôi hoàn toàn không biểu lộ cử chỉ muốn tránh ra nhường đường cho khách, ông nói:
- Giờ này mà còn khách đến thăm thì thật là chuyện bất bình thường. Nói cho đúng đắn thì nghĩa trang đóng cửa rồi.
- Nhưng ông còn phải tiến hành một đám ma mà.
Một thớ thịt nhỏ xíu quanh bờ mắt anh ta khẽ giật lên.
- Ai nói cho ông nghe điều đó, quỷ tha ma bắt ông đi!
- Có người cho tôi biết.
- Không, ở đây chẳng có đám ma nào hết. Ngày hôm nay thì không. Rất tiếc, ông đã đến đây uổng công rồi.
Tôi đã tính đến khả năng này và đạp sẵn một bàn chân vào khe cửa. Cánh cửa vì thế đập vào gót giày tôi khi người đàn ông muốn quay vào, để tôi đứng lại bên ngoài. Thái độ của anh ta thay đổi. Khuôn miệng hằn rõ một nét nhăn giận dữ, hầu như độc ác, thế rồi anh ta nhìn xuống, cái thẻ mà tôi đang chìa về phía trước.
Ánh sáng vừa đủ để đọc những dòng chữ in trên đó, và Osgood chắc chắn phải có hai con mắt rất tinh. Anh ta hắng giọng.
- Scotland Yard?
- Đúng thế.
Vậy mà gã vẫn chưa chịu né ra nhường đường. Rõ ràng có rất nhiều suy nghĩ đang chạy lộn xộn bên dưới vầng trán kia. Người đàn ông cần thời gian để xử lý tình huống mới.
- Thôi được, nếu đã thế... ông vào đây.
Tôi bước vào một khoảng hành lang tương đối dài với những bức tường thẫm màu. Đèn cũng cháy đó, nhưng hầu như không đủ tỏa sáng. Có ba cánh cửa tất cả. Người đàn ông dẫn tôi đi qua một trong những cánh cửa đó, vào một căn phòng có treo một chùm đèn trần bằng thủy tinh hiện đại. Trông chúng như hai chiếc bánh ngọt khổng lồ đặt chồng lên nhau.
Tất cả những thứ còn lại trong phòng đều có thể được coi là đồ nội thất tân tiến. Sáng màu, hoàn toàn không có những món đồ gỗ đồ sộ, cổ kính. Thay cho sô-pha là một chiếc ghế dài khung thép, căng vải bố màu ngà. Bar rượu được xây giả thành một kim tự tháp nhỏ. Chai whisky đứng trong ngăn trên cùng.
Nghe lời mời của Osgood, tôi ngồi xuống và từ chối không uống nước rồi nhìn thẳng vào mặt chủ nhân căn hộ. Anh ta bây giờ đang ngồi đối diện với tôi, vắt chéo hai chân lên nhau và nhịp nhịp ngón chân. Người đàn ông ra vẻ thờ ơ, ngạo mạn, nhưng vẻ mặt anh ta cho biết đây là một lời nói dối không thành. Kẻ đối diện tôi thật ra đang rất căng thẳng, hắn đang rình mò đối phương như một con thú dữ rìnn mồi thì đúng nhất.
- Nào, có chuyện gì vậy, ông Singlair?
- Chuyện đám ma.
- Cái đám ma xảy ra ngày hôm nay ấy hả? - Người đàn ông cười.
- Vâng.
- Không đâu, Singlair. Ông đừng có tin vào chuyện đó, chẳng có đám ma nào đâu. Đã bao giờ ông nghe nói tới chuyện người ta làm đám ma lúc hoàng hôn hoặc khi trời tối...?
- Có chứ, nếu người ta muốn che giấu điều gì đó.
Người đàn ông dang rộng hai cánh tay.
- Tôi phải che giấu cái gì nào? Tôi ở đây là người làm việc vặt, mọi việc trong nghĩa trang đều đổ dồn lên đầu tôi. Đào mộ, quản lý, thật ra mà nói thì tôi có một công việc tốt, bởi bộ phận quản lý nghĩa trang giờ đây từ chối rất nhiều đám ma. Việc đó chúng tôi đẩy cho các bạn đồng nghiệp ở những nghĩa trang lớn hơn. Ông đã đến đây uổng công rồi.
- Tôi không tin như vậy.
- Khốn nạn, tại sao ông lại tự tin vậy?
- Vì một cái tên, ông Osgood.
- Thôi được, tên nào?
- Cynthia Manson! - Vừa nói tôi vừa quan sát người ngồi đối diện rất kỹ, bởi tôi muốn biết cái tên kia có gây ấn tượng gì không.
Osgood tỏ vẻ lãnh đạm.
- Đúng, tôi biết cô ta. Tôi quen cô ta. Cynthia Manson.
- Chính thế.
- Nhưng cô ta đâu đã nằm dưới đất.
- Thế thì nằm ở đâu?
- Trong nhà xác.
- Có thật như thế không?
- Dĩ nhiên rồi. Tại sao tôi lại phải nói dối ông mới được chứ, ông Singlair? Cô ta nằm trong quan tài ở nhà xác.
- Cho tôi xem cô ta được không?
- Nếu ông muốn thì mời ông. Nhưng tôi không phải là người thích làm cái chuyện...
Tôi chống cả hai tay lên thành ghế và từ từ đứng dậy.
- Ta đi được chưa?
- Tùy ý ông thôi. - Osgood vừa lắc đầu vừa cười và cũng đứng dậy - Thỉnh thoảng các ông cảnh sát viên lại nảy sinh những ý muốn kỳ quặc, tôi thật không hiểu.
- Không kỳ quặc lắm đâu.
- Đó chỉ là một cách nói thôi. - Anh ta đút cả hai bàn tay vào túi quần và đi trước.
Góc nhà xây thêm có một cửa dẫn thẳng vào nhà xác, chỉ có điều cánh cửa đang đóng kín. Osgood lục lọi trong túi rồi lấy ra một chiếc chìa khóa.
Cánh cửa xoay không một tiếng động ra phía ngoài, mở cho một luồng khí lạnh đập thẳng vào mặt tôi. Đó là thứ khí lạnh tiêu biểu của nhà xác, với cái mùi cũng tiêu biểu của nó rất rùng rợn.
Mùi thuốc sát trùng, mùi của những hoa lá không còn tươi nữa, mùi xà phòng đánh bóng nền phòng và những thứ mùi khác nữa mà cái mũi của tôi không thể ngay lập tức nhận dạng.
- Chờ đã, để tôi bật đèn lên.
Dáng người Osgood biến mất. Anh ta đi tương đối xa, thế rồi đèn cũng được bật lên, nỗi nghi ngờ của tôi biến mất. Chúng tôi bước vào một khoảng hành lang rất rộng với những cánh cửa bằng gỗ nằm mé trái. Người đào mộ đứng lại trước một cánh cửa trong số đó.
- Đằng sau cửa này là cái gì vậy?
- Phòng lạnh trữ xác chết.
- Cô ta đang nằm trong quan tài hay sao?
- Chưa, chưa đâu. Sáng ngày mai quan tài mới được đưa tới đây, sau đó mới đến thời điểm làm đám ma.
- Làm ơn cho tôi nhìn cô ta.
- Đây là chuyện của ông, ông Singlair. - Anh ta mở cửa ra - Ông biết không, ta làm như thế này cho chắc chắn, ta khóa mấy cửa này lại. Có những người điên khùng chỉ thích đi ăn cắp xác chết.
- Tôi biết.
Anh ta lại đi trước tôi, bật đèn lên, lần này thì luồng sáng từ những ống đèn neon dài ngoẵng đập xuống nền phòng lát bằng những viên gạch bông màu đỏ hình vuông.
- Mời ông, cô ta đây. - Osgood đứng sừng sững bên trái tôi như một cảnh sát viên giao thông, giơ một cánh tay ra, chỉ vào một chiếc bàn, trên bàn là xác người.
Cổ họng tôi chợt đắng ngắt. Bây giờ mà được uống một ngụm whisky thì hay biết mấy.
Xác chết nằm trên bàn chính là người đã ngồi cạnh tôi trong xe ô-tô. Cynthia Manson!