Chương 13

    
UẦN TIẾP ĐÓ, ba người chúng tôi lại ngồi đúng vị trí cũ trong căn phòng khách nhỏ ấm cúng nhà Aibileen. Minny sồng sộc bước vào, giọng dịu dần khi kể chuyện cho Aibileen nghe, sau đó lại lao đi trong giận dữ sôi sục, nhanh không kém gì lúc đến. Tôi cố gắng ghi lại chi tiết: hết mức có thể.
Có những lúc Minny vô tình hở miệng nhắc đến Celia - “Cô ta lẻn lên gác, tưởng cháu không nhìn thấy, nhưng cháu biết, mụ đàn bà điên khùng ấy đang làm chuyện gì mờ ám lắm” - cô lập tức im bặt, y như Aibileen khi bác ấy nói tới Constantine. “Đấy không phải là chuyện tôi muốn nói. Cô bỏ ngay cô Celia ra cho tôi.” Cô săm soi tôi cho đến khi tôi ngừng viết.
Ngoài nỗi căm hờn dành cho người da trắng, Minny rất thích nói về chuyện nấu nướng. “Này nhé, cháu bỏ đỗ xanh vào trước, tiếp đến cháu cho sườn vào đảo, chà chà, cháu thích xào sườn cho thật nóng, cô biết rồi đấy.”
Một hôm, cô đang kể, “… một tay cháu cắp đứa bé da trắng, đậu xanh trong nồi thì...” đột nhiên cô ngưng bặt, hất hàm về phía tôi, bàn chân gõ gõ xuống sàn.
“Phân nửa những chuyện này đều chẳng có liên quan gì đến quyền lợi của người da màu cả. Rặt những công việc hàng ngày.” Cô nhìn tôi từ đầu đến chân. “Xem ra cô đang viết truyện đời thì phải.”
Tôi dừng bút. Cô ấy nói đúng. Tôi chợt nhận ra đó chính là điều tôi muốn làm. Tôi đáp, “Tôi hy vọng thế.” Cô đứng dậy và nói cô còn nhiều việc quan trọng cần làm hơn là những thứ tôi hy vọng.
BUỔI TỐI HÔM SAU, lúc tôi đang ngồi làm việc trên phòng, tay lọc cọc gõ lên chiếc máy chữ Corona thì đột nhiên nghe thấy tiếng mẹ chạy rầm rập lên cầu thang. Chỉ sau có hai giây, mẹ đã đứng trước cửa phòng tôi. Mẹ thì thào, “Eugenia!”
Tôi đứng phắt dậy, nhanh đến nỗi chiếc ghế rung lên lập bập, cố gắng che đi những đoạn văn tôi đang đánh máy dở “Dạ vâng?”
“Đừng cuống nhé, nhưng ở dưới nhà có một anh chàng một anh chàng rất cao - muốn gặp con đấy.”
“Ai ạ?”
“Anh ta nói tên anh ta là Stuart Whitworth?
“Gì ạ?”
“Anh ta nói các con đã gặp nhau một tối cách đây ít lâu, nhưng làm sao có chuyện đó được, mẹ chẳng biết gì cả..,”
“Lạy Chúa.”
“Đừng có lôi Chúa ra vô ích, Eugenia Phelan. Tô ít son nhanh lên.”
“Mẹ tin con đi,” tôi nói, dù vẫn bôi son lên môi. “Đến Chúa cũng chẳng ưa nổi anh ta đâu.”
Tôi chải lại tóc vì biết trông nó khiếp lắm. Tôi còn rửa sạch những vết mực máy chữ và bút xóa dính đầy trên hai bàn tay và khuỷu tay. Nhưng tôi không thay đồ, không phải lễ nghi với kẻ như anh ta.
Mắt mẹ quét khắp lượt chiếc quần yếm cùng cái áo sơ mi trắng cũ mèm của bố mà tôi đang mặc trên người. “Anh ta là người họ Whitworth ở Greenwood hay Natchez?”
“Anh ta là con trai ngài nghị sĩ bang.”
Mồm mẹ há hốc ra thảng thốt, cằm dễ phải chạm đến chuỗi hạt đeo trên cổ. Tôi bước xuống cầu thang, đi qua những tấm ảnh chân dung chụp hai anh em hồi bé treo dàn hàng. Ảnh của Carlton xếp thành một đường ngang trên tường, bức mới nhất có lẽ vừa được chụp hôm kia. Còn tôi chỉ có ảnh đến lúc lên mười hai. “Mẹ, mẹ để bọn con nói chuyện riêng một chút nhé.” Tôi nhìn mẹ chậm chạp lê bước trở về phòng của bà, còn cố quay lại nhìn vớt một lần cuối trước khi biến mất hẳn.
Tôi bước ra ngoài, và anh ta ở đó. Ba tháng sau cuộc hẹn, và kia, chính là Stuart Whitworth, đứng trên hiên trước nhà tôi trong chiếc quần kaki và áo khoác xanh lơ cùng một cái cà vạt đỏ như thể đã sẵn sàng cho một bữa tối ngày Chủ nhật.
Đồ khốn.
“Cái gì đã đưa anh đến đây vậy?” Tôi hỏi nhưng không cười. Tôi không cười với anh ta.
“Tôi chỉ... tôi muốn ghé qua.”
“Ra thế. Để tôi hầu anh chút gì lót giọng nhé?” tôi hỏi mỉa. “Hay tôi mang cho anh cả chai Old Kentucky luôn cho tiện?”
Anh ta cau mày, mũi và trán hồng rựng lên, như thể vừa phải làm việc dưới nắng. “Cô nghe này, tôi biết chuyện xảy ra... cũng đã lâu rồi, nhưng tôi vẫn muốn đến đây để xin lỗi.
“Ai bảo anh đến đây - Hilly à? Hay William?” Trên hiên nhà kê tới tám cái ghế bập bênh còn trống, nhưng tôi không mời anh ta ngồi vào cái nào cả.
Anh ta đưa mắt nhìn ra cánh đồng bông phía tây, nơi mặt trời đang chìm dần xuống đất. Anh ta đút hai tay vào túi quần trước như một thằng bé mười hai tuổi. “Tôi biết hôm đó mình đã cư xử... rất thô thiển, và tôi cũng đã nghĩ về chuyện đó rất nhiều và...”
Tôi cười phá lên. Tôi quá xấu hổ khi anh ta dám vác mặt đến đây và khơi lại những chuyện cũ.
“Cô nghe tôi đi,” anh ta nói, “tôi đã bảo chị Hilly cả chục lần là tôi chưa sẵn sàng để hẹn hò. Thực ra là tôi rất không sẵn sàng...”
Tôi nghiến răng. Tôi không thể tin nổi sống mũi mình đang cay xè; cuộc hẹn đã lùi xa hàng mấy tháng trời kia mà. Nhưng tôi vẫn nhớ tối hôm đó mình đã cảm thấy bị rẻ rúng biết chừng nào, tôi đã cố gắng chải chuốt ăn diện đến nực cười, chỉ vì anh ta. “Đã thế anh còn vác mặt đến làm gì?”
“Tôi không biết.” Anh ta lắc đầu. “Cô biết tính Hilly rồi đấy.”
Tôi đứng đó chờ nghe bất cứ lý do gì khiến anh ta đến đây. Anh ta lùa tay qua mái tóc nâu nhạt. Tóc anh ta dày quá, nom gần như rễ tre. Trông anh ta thật mệt mỏi.
Tôi nhìn lảng đi chỗ khác vì anh ta dễ thương quá, kiểu dễ thương của một thằng bé già tuổi và đó không phải là điều tới muốn nghĩ đến ngay lúc này. Tôi muốn anh ta đi về - tôi không muốn nếm trải lại cảm giác ê chề này một lần nữa, song tôi lại nghe thấy chính giọng mình nói, “Chưa sẵn sàng, ý anh là sao?”
“Chỉ là chưa sẵn sàng thôi. Sau những gì vừa xảy ra.”
Tôi nhìn anh ta chằm chằm. “Anh còn muốn tôi phải đoán ư?”
“Tôi và Patricia van Devender. Chúng tôi đính hôn năm ngoái và sau đó... tôi tưởng cô biết rồi.”
Anh ta gieo mình xuống một chiếc ghế. Tôi không ngồi xuống bên cạnh anh ta nhưng cũng chẳng đuổi anh ta về.
“Sao, cô ấy bỏ anh đi với người khác à?”
“Trúng rồi đấy.” Anh ta úp mặt lên hai tay, rền rĩ. “So với những chuyện vừa xảy ra, thgọi là một bữa đại tiệc Mardi Gras mới xứng tầm.”
Tôi không dám cho phép mình nói ra điều mình muốn, rằng dù cô ta có làm gì đi chăng nữa, thì có lẽ cũng đáng đời anh lắm, song trông anh ta khổ sở quá. Giờ đây, khi tất cả những cuộc trò chuyện anh anh chú chú sặc mùi rượu mạnh đã bốc hơi hết, tôi bỗng tự hỏi phải chăng lúc nào anh ta cũng thảm hại như thế.
“Chúng tôi đã yêu nhau từ hồi mười lăm tuổi. Cô biết cảm giác thế nào rồi đấy, khi mình gắn bó với một người duy nhất trong khoảng thời gian dài đến vậy.”
Tôi không biết tại sao mình lại thú thực, trừ việc tôi chẳng còn gì để mất cả. “Thành thật mà nói, tôi không biết,” tôi nói. “Tôi đã yêu ai bao giờ đâu.”
Anh ta ngước lên nhìn tôi, gần như bật cười. “Đấy, chính là cái đấy.”
“Cái đấy là cái gì?” Tôi gồng mình lên, nhớ lại chuyện phân bón và cái máy kéo.
“Cô rất... khác. Tôi chưa bao giờ gặp ai dám nói thẳng những gì họ đang nghĩ trong đầu. Đúng hơn là chưa gặp phụ nữ nào như thế.”
“Tin tôi đi, tôi còn rất nhiều điều muốn nói nữa cơ.”
Anh ta thở dài. “Khi thấy khuôn mặt cô, lúc cô đứng cạnh chiếc xe tải... tôi không phái người như thế. Tới thật sự không thô lỗ đến thế.”
Tôi nhìn lảng đi chỗ khác, thẹn thùng. Tôi bắt đầu xiêu lòng bởi những gì anh ta nói, rằng mặc dù tôi khác biệt, song có lẽ không phải theo kiểu kỳ quặc hay bất bình thường của những đứa con gái cao kều. Mà là theo chiều hướng tích cực.
“Tôi ghé qua để hỏi xem cô có muốn vào thị trấn ăn tối với tôi không. Chúng ta có thể nói chuyện một chút,” anh ta nói và đứng dậy. “Lần này chúng ta có thể... tôi không biết, lắng nghe đôi bên chẳng hạn.”
Tôi đứng đó, sững sờ. Đôi mắt anh ta xanh biếc, trong veo, và đóng đinh lên tôi như thể câu trả lời của tôi thực sự rất quan trọng đối với anh ta. Tôi hít vào một hơi thật sâu, dợm miệng đáp có o vì cớ gì một đứa như tôi lại nỡ từ chối kia chứ - còn anh ta cắn môi, chờ đợi.
Và đột nhiên tôi nhớ ra anh ta đã đối xử với tôi như cỏ rác. Anh ta đã nốc rượu như điên, quá ngán ngẩm vì bị gán ghép với tôi. Tôi nhớ tới lúc anh ta nói người tôi có mùi phân. Tôi đã mất trời mới thôi không nghĩ về lời bình phẩm đó nữa.
“Không,” tôi buột miệng. “Cảm ơn anh. Nhưng tôi thực sự không thể nghĩ ra điều gì tệ hơn thế nữa.”
Anh ta gật đầu, mắt nhìn xuống chân, rồi chậm chạp bước xuống bậc thềm.
“Tôi xin lỗi,” anh ta vừa nói, vừa mở hé cánh cửa xe. “Tôi đến cốt để nói vậy và, đấy, tôi nghĩ mình đã nói xong rồi.”
Tôi đứng trên hiên nhà, lắng nghe những âm thanh xôn xao của buổi tối, tiếng sỏi lạo xạo dưới bàn chân Stuart, mấy con chó chạy trong ánh chiều chạng vạng. Trong phút chốc, tôi bỗng nhớ tới Charles Gray, nụ hôn duy nhất trong đời tôi từng được nếm. Tôi đã đẩy anh ấy ra, chẳng hiểu vì đâu tôi đã tin chắc rằng nụ hôn đó không phải dành cho mình.
Stuart ngồi vào xe và cánh cửa đóng sập lại. Anh ta chống tay lên, khuỷu tay chìa hẳn ra ngoài cửa sổ để ngỏ, song mắt vẫn nhìn xuống.
“Chờ một chút,” tôi hét lên. “Để tôi mặc thêm cái áo len đã.”
CHẲNG AI BẢO CHÚNG TÔI, những cô gái hiếm khi hẹn hò, rằng cảm giác khi nhớ lại cũng ngọt ngào không kém gì thực sự nếm trải những gì đã xảy ra. Mẹ hì hục leo lên tận tầng ba và đứng bên giường tôi, nhưng tôi vờ như đang ngủ. Vì tôi chỉ muốn nhớ thêm một chút nữa.
Hôm trước, chúng tôi đã lái xe đến khách sạn Robert E. Lee để ăn tối. Tôi mặc chiếc áo len màu xanh lơ và một cái chân váy bó màu trắng. Thậm chí tôi còn để mẹ chải tóc cho mình, cố bỏ ngoài tai những lời căn dặn rắc rối, phức tạp của mẹ.
“Nhớ phải cười nhiều vào. Đàn ông không thích mấy cô cứ suốt ngày ủ ê sưng sỉa lên đâu, mà đừng có ngồi ệnh ra như bọn da đỏ, nhớ bắt chéo...”
“Mẹ, bắt chéo chân hay mắt cá...”
“Mắt cá chân. Ngần ấy nghi thức học ở lớp cô Rheimer mà con chẳng chịu nhớ tí gì à? Đừng ngại nói dối cậu ấy là Chủ nhật nào con cũng đi lễ nhà thờ, và làm gì thì làm, đừng nhai đá viên ngay trước mặt người ta, mất lịch sự lắm. À, mà khi nào câu chuyện có vè loãng, thì con hãy kể cho cậu ta nghe về ông anh họ xa của con, cái cậu đang làm ủy viên hội đồng thành phố ở Kosciusko ấy...”
Vừa miệt mài chải vàải và vuốt, mẹ vừa luôn miệng lục vấn, hỏi tôi gặp anh ấy như thế nào rồi đã có chuyện gì xảy ra trong lần hẹn trước, song tôi đã kịp lỉnh đi và phi xuống tầng dưới, chính tôi cũng run bần bật vì kinh ngạc và lo lắng. Đến khi tôi và Stuart vào đến khách sạn, ngồi xuống ghế và trải khăn ăn lên đùi, thì người bồi bàn nói họ sắp đóng cửa. Họ sẽ chỉ phục vụ chúng tôi món tráng miệng.
Stuart bỗng đâm ra trầm tư.
“Em... muốn gì, Skeeter?” Anh hỏi còn tôi gần như muốn toát mồ hôi hột, hy vọng anh ấy không định nốc say bí tỉ như lần trước.
“Em uống Co-Cola. Nhiều đá.”
“Không.” Anh ấy cười. “Ý anh là... trong đời em cơ. Em mong muốn gì?”
Tôi hít một hơi thật sâu, tôi biết nếu là mẹ, mẹ sẽ khuyên tôi đáp là: những đứa con ngoan ngoãn, khỏe mạnh, một người chồng để yêu thương chăm sóc, những món đồ gia dụng mới tinh bóng loáng để tôi có thể nấu những bữa ăn ngon lành, bổ dưỡng. “Em muốn theo nghiệp viết lách,” tôi đáp. “Nhà báo. Hoặc có thể là nhà văn. Hoặc cả hai.”
Anh ngước lên và nhìn tôi, mắt đối mắt.
“Anh thích thế,” anh nói và rồi cứ nhìn tôi trân trân như vậy. “Anh đã nghĩ đến em rất nhiều. Em thông minh, em xinh đẹp, em...” - anh cười - “...cao.”
Xinh đẹp?
Chúng tôi ăn bánh kem dâu và mỗi người uống một ly Chablis. Anh ấy nói cho tôi nghe làm cách nào để biết có mạch dầu bên dưới một cánh đồng bông, còn tôi kể bà tiếp tân và tôi là hai người phụ nữ duy nhất ở tòa báo.
“Anh hy vọng em sẽ viết được một tác phẩm thật hay. Về điều gì đó em thực sự tin tưởng.”
“Cảm ơn anh. Em... cũng mong thế.” Tôi không đả động gì đến Aibileen hay bà Stein.
Tôi hầu như chưa có cơ hội được nhìn sát tận mặt mấy người đàn ông và tôi nhận thấy da anh ấy dày hơn da tôi và hao hao màu vỏ bánh mì nướng rất đẹp; những sợi lông hoe vàng cứng đơ trên má và cằm anh ấy dường như đang đâm lên từ từ ngay trước mắt tôi. Người anh ấy tỏa ra mùi bột hồ. Như gỗ thông vậy. Và mũi anh ấy cũng đâu có nhọn lắm.
Người bồi bàn đứng ở góc phòng ngáp ngắn ngáp dài, nhưng cả hai chúng tôi đều lờ tịt anh ta và cố ngồi nán lại để chuyện trò thêm. Và đến lúc tôi thầm ước giá như sáng nay mình chịu gội đầu thay vì chí tắm qua quít và cảm thấy may mắn vô cùng vì ít ra mình cũng đã đánh răng, thì đột nhiên, anh ấy hôn tôi. Ngay giữa nhà hàng khách sạn Robert E. Lee, anh ấy hôn tôi thật chậm bằng khuôn miệng rộng mở và từng tế bào trong cơ thể tôi - da, xương đòn gánh, xương kheo, tất thảy mọi bộ phận trên người tôi, đều ngập chìm trong ánh sáng.
VÀO MỘT BUỔI CHIỀU THỨ HAI, vài tuần sau cuộc hẹn với Stuart, tôi ghé qua thư viện trước khi tới cuộc họp của Hội phụ nữ. Bên trong tòa nhà sực lên thứ mùi gây gây như ở trường tiểu học - mùi buồn chán, mùi hồ dán, và mùi những bãi nôn ọe được tẩy bằng Lysol. Tôi đến để lấy thêm sách cho Aibileen, tiện thể tìm xem đã có cuốn sách nào về người giúp việc trong gia đình từng được xuất bản chưa.
“Ồ kìa, chào cậu, Skeeter!”
Lạy Chúa tôi. Đó là Susie Pernell. Hồi còn ở trung học, chắc cô ta phải được bầu là đứa lắm mồm nhất trường. “Chào... Susie. Cậu làm gì ở đây thế?”
“Tớ trực ở đây cho ban chấp hành Hội, nhớ không? Lúc nào đó cậu cũng thử làm mà xem, Skeeter, vui lắm ấy! Cậu được đọc tất cả tạp chí số mới nhất, rồi sắp xếp giấy tờ, lại con được ép cả thẻ thư viện nữa chứ.” Susie ra sức tạo dáng bên chiếc máy màu nâu khổng lồ, làm như cô nàng đang tham gia chương trình Hãy chọn giá đúngtrên tivi không bằng.
“Hay quá nhỉ.”
“Vậy, tôi có thể giúp cô tìm gì đây, thưa quý cô? Chúng tôi có truyện trinh thám, tiểu thuyết lãng mạn, sách hướng dẫn trang điểm, sách hướng dẫn làm tóc,” cô ta ngừng nói, đoạn rặn ra một nụ cười toe toét, “trồng hoa hồng, trang trí nhà cửa...”
“Tớ chỉ định ngó nghiêng tí thôi, cảm ơn cậu nhé.” Tôi vội đánh bài chuồn. Tôi sẽ tự biết cách xoay xở. Làm sao tôi có thể nói hở cho cô ta biết mình đang tìm gì. Ngay lúc này đây tôi đã có thể nghe thấy tiếng cô ta xì xào trong buổi họp mặt Hội, Em biết ngay con bé Skeeter Phelan đấy có vấn đề mà, nó đang kiếm tư liệu về người da màu đấy...
Tôi săm soi mấy quyển danh mục sách và lướt qua các kệ giá, nhưng không tìm thấy gì liên quan đến người giúp việc. Ở gian sách nghiên cứu, tôi nhác thấy một quyển Frederick Douglass, người nô lệ Mỹ. Tôi vồ lấy, háo hức muốn đưa cho Aibileen ngay, nhưng khi giở ra, tôi thấy phần giữa đã bị xé mất. Trong ruột, đã có ai đó viết mấy chữ SÁCH MỌI Đ bằng bút sáp tím. Bản thân dòng chữ không khiến tôi bức bối bằng việc nó được viết với những nét nguệch ngoạc, trông như chữ của một đứa lớp ba. Tôi ngó nghiêng xung quanh, rồi bỏ tọt quyển sách vào túi. Như thế xem ra tốt hơn là trả nó lại trên giá.
Trong phòng sách Lịch sử Mississippi, tôi cố tìm thứ gì đó ít nhiều phản ánh mối quan hệ sắc tộc nhưng chỉ tìm thấy các cuốn sách về nội chiến, bản đồ, và danh bạ điện thoại cũ. Tôi kiễng chân lên để nhìn xem trên giá cao có gì. Đó là khi tôi phát hiện ra một cuốn sách nhỏ, nằm ở phía cuối ngăn trên cùng của giá sách Thống kê các trận lũ tại thung lũng sông Mississippi. Một người có tầm vóc trung bình chắc sẽ không bao giờ nhìn thấy được. Tôi lấy xuống để xem bìa. Cuốn sách mỏng dính, in trên giấy vỏ hành, mép hơi quăn, được đính lại bằng ghim dập. Trên bìa ghi “Tuyển tập các điều luật Jim Crow của miền Nam.” Tôi bèn lật tờ bìa đầy những chữ đao to búa lớn ấy sang một bên.
Cuốn sách chỉ đơn giản là một danh sách các điều luật quy định những gì người da màu được và không được làm, được phân theo các bang miền Nam. Tôi đọc lướt qua trang đầu tiên, bối rối không hiểu sao nó lại ở đây. Giọng điệu của các điều luật không hăm dọa, cũng không mời gọi, chỉ đơn thuần liệt kê sự việc:
Không một ai được quyền đòi bất kỳ nữ y tá da trắng nào phục vụ trong phòng bệnh hoặc khu bệnh có bệnh nhân người Phi.
Một người da trắng kết hôn với bất kỳ ai thuộc tộc người nào khác ngoài da trắng đều là trái pháp luật. Bất kỳ cuộc hôn nhân nào vi phạm điều luật này đều không có giá trị pháp lý.
Không một thợ cắt tóc da màu nào được phép phục vụ các phụ nữ và trẻ em gái da trắng.
Nhân viên quản trang không được phép chôn bất kỳ người da màu nào trong khu vực dành riêng cho việc chôn cất người da tráng.
Các loại sách không được phép lưu chuyển giữa các trường da màu và da trắng, song có thể tiếp tục được tái sử dụng bởi những người cùng sắc tộc với nhóm người sử dụng đầu tiên.
Tôi đọc qua bốn trong số hai mươi lăm trang, gần như bị thôi miên bởi ngần ấy điều luật tồn tại chỉia cắt chúng tôi. Người da màu và người da trắng không được phép dùng chung vòi nước, rạp chiếu phim, nhà vệ sinh công cộng, sân bóng, bốt điện thoại, rạp xiếc. Người da màu kông được mua thuốc ở cùng một hiệu thuốc hoặc mua tem ở cùng một ô cửa với tôi. Tôi nhớ đến Constantine, có lần cả gia đình tôi đưa bác ấy cùng đi lên Memphis và đường cao tốc khi ấy gần như ngập chìm dưới làn nước lũ, song chúng tôi vẫn phải lái xe đi tiếp vì biết rằng các khách sạn sẽ không cho bác ấy vào. Tất cả mọi người trong chúng tôi đều biết những luật lệ đó, chúng tôi sống ở đây kia mà, nhưng chúng tôi không đề cập đến chúng. Đây là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy các điều luật viết trên giấy trắng mực đen.
Quán ăn trưa, hội chợ, bàn bi a, bệnh viện. Riêng điều luật bốn mươi bảy tôi phải đọc lại đến lần thứ hai, vì sự trớ trêu của nó.
Ban quản trị phải dành riêng một tòa nhà biệt lập trên một khu đất biệt lập để những người mù thuộc chủng da màu có thể dễ dàng phân biệt.
Sau vài phút, tôi buộc mình ngừng đọc. Tôi giơ cuốn sách lên tính cất trở lại giá, tự nhủ rằng mình đâu có định viết sách về luật pháp miền Nam, đọc thêm cũng chỉ phí thời giờ. Song đột nhiên tôi ngộ ra, như thể có một lớp vỏ nứt bung ra trong đầu tôi, chẳng có gì khác biệt giữa những điều luật của chính phủ và việc Hilly xây cho Aibileen một phòng vệ sinh riêng trong gara, ngoại trừ những chữ ký phê chuẩn của chính quyền bang mà người ta chỉ mất vỏn vẹn mười phút là ký xong.
Ở trang cuối, tôi đọc được dòng chữ in Tài sản của thư viện luật bang Mississippi. Cuốn sách đã bị trả nhầm chỗ. Tôi viết nguệch ngoạc khám phá của mình lên một mảnh giấy và kẹp nó vào giữa cuốn sách: Jim Crow và kế hoạch xây nhà vệ sinh của Hilly - có gì khác đâu? rồi nhồi nó vào sâu trong túi. Susie Vita hắt xì hơi sau chiếc bàn kê ở đầu kia gian phòng.
Tôi xoay người đi ra cửa. Tôi có một cuộc họp Hội phải tham dự trong ba mươi phút nữa. Tôi dành cho Susie một nụ cười thân thiện quá mức. Cô ta đang thì thầm to nhỏ gì đó trẽn điện thoại. Mấy cuốn sách ăn trộm trong túi tôi như rung lên, bỏng rẫy.
“Skeeter,” Susie bỗng rít lên, mắt trợn tròn. “Tớ nghe nói cậuđi chơi với Stuart Whitworth, có thật không?” Cô ta nhấn giọng vào chữ cậu ghê quá, khiến tôi không tài nào giữ nổi nụ cười của mình nữa. Tôi vờ như không nghe thấy gì và bước về phía ánh nắng rực rỡ. Đời tôi chưa từng một thứ gì, trước ngày hôm nay. Tôi khá hả dạ, khi đó lại chính là ca trực của Susie.
CÕI HOAN LẠC của mỗi người chúng tôi rất khác nhau, tôi và hai cô bạn, âu cũng là điều dễ hiểu. Elizabeth ngày đêm còng lưng trước máy khâu, cố sao để cuộc đời mình trông như đồ hiệu, không một tì vết. Với tôi là ở bên chiếc máy chữ, viết ra những áng văn đanh thép sôi sục mà tôi không bao giờ có đủ can đảm để nói ra thành lời. Và với Hilly là ở sau chiếc bục diễn thuyết, nói với sáu mươi lăm chị em phụ nữ rằng ba hộp thức ăn mỗi cháu là chưa đủ để làm no lòng tất cả các PSCA(7). Tức là trẻ em nghèo đói vùng châu Phi. Dẫu vậy, Mary Joline Walker lại cho rằng ba là quá nhiều.
“Mà làm thế có đắt đỏ quá không, tội gì phải chuyển ngần ấy hộp thức ăn sang tận Ethiopia?” Mary Joline hỏi. “Ta cứ gửi luôn một tấm séc sang đó chẳng tiện hơn à?”
Cuộc họp chưa chính thức bắt đầu, song Hilly đi đứng chỉnh tề sau bục diễn thuyết. Mắt cô ánh lên những tia cuồng tín. Đây không phải buổi họp tối thông thường, mà là một phiên họp chiều bổ sung do Hilly triệu tập. Vào tháng Sáu, rất nhiều thành viên sẽ rời thị trấn để đi nghỉ hè. Sau đó, đến tháng Bảy, Hilly sẽ vắng mặt vì chuyến đi biển thường niên kéo dài ba tuần. Cô không bao giờ yên tâm rằng cả thị trấn có thể vận hành trơn tru nếu thiếu sự hiện diện của cô ở đây.
Hilly nhướng mắt lên. “Mary Joline, chị không thể để tiền rơi vào tay những kẻ man di đó được. Đào đâu ra cửa hàng tạp hóa Jitney 14 giữa sa mạc Ogaden. Và làm sao chúng ta biết chắc được bọn họ có mua đồ ăn thức uống cho con mình không? Rất có thể họ sẽ mò đến lều của bọn phù thủy để xăm những thứ hình thù quỷ quái lên người bằng chính số tiền đó ấy chứ.”
“Ừ nhỉ.” Mary Joline rụt cổ lại, mặt ngẩn tò te, trông như vừa bị tẩy não. “Chuyện gì chị cũng biết cả.” Sức mạnh áp đảo người khác từ đôi mắt ốc nhồi chính là chìa khóa biến Hilly thành một nữ chủ tịch Hội cực kỳ thành công.
Tôi len lỏi đi qua căn phòng họp chật cứng người, cảm thấy cả sức nóng của sự chú ý như một luồng sáng đang chiếu thẳng xuống đầu tôi. Cá phòng toàn phụ nữ đang ăn bánh kem, uống nước Tab, hút thuốc lá, tất cả đều tầm tuổi tôi. Vài người vừa xì xào với nhau, vừa len lén nhìn về phía tôi.
“Skeeter,” Liza Presley gọi ầm lên trước khi tôi kịp bước qua bàn đặt bình cà phê, “tớ nghe nói mấy tuần trước cậu có đến nhà hàng Robert E. Lee
“Có thật không? Cậu đang hẹn hò với Stuart Whitworth đấy à?” Frances Greenbow hỏi.
Đa phần các câu hỏi đều không có gì ác ý, không như kiểu móc mói của Susie lúc ở thư viện. Thế nhưng, tôi chỉ nhún vai, cố gắng không để tâm đến một thực tế rằng, khi một cô gái bình thường được mời đi chơi thì đó là chuyện vặt, nhưng khi Skeeter Phelan được mời đi chơi, đó là tin sốt dẻo.
Nhưng quả đúng thế thật. Tôi đang hẹn hò với Stuart Whitworth và đã làm thế ba tuần nay. Hai lần ở nhà hàng Robert E. Lee nếu tính cả cuộc hẹn khủng khiếp đần tiên, và ba lần nữa ngồi uống nước ngay trên hiên trước nhà tôi trước khi anh ấy lái xe về nhà ở Vicksburg. Bố thậm chí còn thức rốn qua tám giờ tối để nói với anh ấy. “Chúc ngủ ngon, con trai. Cháu nhớ nhắn với ngài nghị sĩ rằng chúng tôi rất cảm kích vì ngài đã kiên quyết không ký vào đạo luật thuế trang trại.” Mẹ thì run lẩy bẩy, bị giằng xé giữa một bên là nỗi phấp phỏng tôi sẽ làm mọi chuyện xôi hỏng bỏng không và bên kia là niềm hân hoan rằng tôi thực sự có hứng thú với đàn ông.
Anh đèn pha trắng xóa của nỗi kinh ngạc vẫn bám dính lấy tôi khi tôi lần đến chỗ Hilly đứng. Các cô gái đền mỉm cười và gật đầu với tôi.
“Khi nào hai người lại gặp nhau nữa?” Giờ đến lượt Elizabeth, tay vò xoắn chiếc khăn, mắt trợn lên như thể đang ngó một tai nạn xe hơi. “Anh ấy có nói không?”
“Tối mai. Ngay khi nào anh ấy có thể qua được.”
“Tốt.” Nụ cười của Hilly y hệt nụ cười của một đứa bé béo múp đứng trước của kính tiệm kem Seale-Lily. “Vậy ta sẽ tổ chức một cuộc hẹn hò kép nhé.”
Tôi không đáp. Tôi không muốn Hilly và William đi cùng. Tôi chỉ muốn được ngồi bên Stuart, muốn anh nhìn tôi và chỉ mình tôi thôi. Có tới hai lần, khi chúng tôi ngồi một mình với nhau, anh ấy đã đưa tay gài lại lọn tóc rơi lên mắt tôi. Anh ấy sẽ không làm thế nếu có mặt họ.
“Tối nay William sẽ gọi cho Stuart. Ta đi xem phim nhé.”
“Cũng được,” tôi thở dài.
“Tớ đang mong xem phim Thế giới điên cuồng chết đi được dây. Chắc sẽ vui lắm nhỉ,” Hilly xuýt xoa. “Cậu và tớ và William và Stuart.”
Tôi bống thấy có gì đó đáng ngờ trong cách cô sắp xcái tên. Cứ như mục đích chính là để William và Stuart được ở bên nhau thay vì tôi và Stuart vậy. Tôi biết mình đang thành ra hoang tưởng. Nhưng tất cả mọi chuyện đều khiến tôi kiệt quệ. Hai tối trước, tôi vừa đi qua chiếc cầu dẫn đến khu da màu thì một cảnh sát chặn xe tôi lại. Anh ta lia đèn pin vào trong xe, chiếu thẳng lên chiếc túi. Anh ta đòi kiểm tra bằng lái xe và hỏi tôi đang đi đâu. “Tôi đưa tấm séc sang cho... Constantine, bác giúp việc của tôi. Tôi quên chưa trả bác ấy.” Một gã cớm khác đi xe tới, và tiến đến bên cửa sổ xe tôi. “Sao các ông lại chặn xe tôi?” Tôi rít lên the thé. “Có chuyện gì à?” Tôi hỏi mà tim đập thình thịch. Nhỡ họ lục soát túi của tôi thì sao?
“Có vài thằng Yankee mất dạy đang tính đường gây rối. Chúng tôi sẽ tóm bọn nó sớm thôi, thưa cô,” anh ta nói, đoạn đập đập chiếc dùi cui lên tay. “Cô làm xong việc rồi đi về cho sớm đi.”
Khi đi tới phố nhà Aibileen, tôi chọn một chỗ đỗ xe xa hơn nữa. Tôi đi vòng ra sau để vào bằng cửa hậu, không dám dùng cửa chính. Trong suốt giờ đồng hồ đầu tiên, toàn thân tôi run lên bần bật, tôi gần như không đọc nổi mấy câu hỏi mình đã chuẩn bị cho Minny.
Hilly cầm chiếc búa con gõ xuống ra hiệu còn năm phút nữa là cuộc họp bắt đầu. Tôi trở về chỗ ngồi của mình, đặt chiếc túi lên đùi. Tôi lùa tay qua những món đồ để trong túi, đột nhiên nhớ ra cuốn Jim Crow tôi vừa ăn trộm ở thư viện. Thực ra, chiếc túi chứa tất cả các giấy tờ công việc tôi đã làm - bản phỏng vấn Minny và Aibileen, đề cương cuốn sách, danh sách những người giúp việc tiềm năng, một lá thư gay gắt tôi viết để phản đối sáng kiến vệ sinh phòng dịch của Hilly nhưng không gửi đi - tất cả những gì tôi không dám bỏ lại nhà vì sợ mẹ sẽ lục lọi đồ đạc của tôi. Tôi giữ tất cả trong ngăn bên có khóa kéo và nắp đậy. Cả chiếc túi phồng lên lổn nhổn.
“Skeeter, cái quần nom yêu quá, sao tớ chưa thấy cậu mặc bao giờ nhỉ?” Carroll Ringer ngồi cách đó mấy ghế gọi với sang, tôi bèn ngước lên nhìn cô ta và cười, trong bụng thầm nhủ, Vì tôi đâu dám mặc quần áo cũ đi họp và cô cũng vậy. Những câu hỏi liên quan đến áo xống luôn làm tôi phát cáu sau bao nhiêu năm phải chịu đựng ngần ấy lời nhiếc móc của mẹ.
Tôi cảm thấy có một bàn tay đặt lên vai mình và quay lại thì thấy Hilly đang thò tay vào túi, ngón tay đặt đúng trên quyển sách luật. “Cậu có mang mấy bài viết cho tạp chí tuần tới không? Đây à?” Tôi còn không nhìn thấy cô tiến lại gần.
“Ấy, đừng!” Tôi nói và nhồi quyển sách lại vào giữa đống giấy tờ. “Tớ phải... phải sửa vài chỗ nữa. Tớ sẽ mang cho cậu xem sau.”
Tôi hít vào một hơi thật dài.
Trên bục diễn thuyết, Hilly liếc nhìn đồng hồ, tay mân mê chiếc búa con như thể cô đang vô cùng thèm khát được gõ nó xuống. Tôi bỏ chiếc túi xuống gầm ghế. Cuối cùng, cuộc họp cũng bắt đầu.
Tôi ghi lại các tin tức về PSCA, em nào đang trong danh sách cần giúp đỡ, em nào chưa được nhận hộp thức ăn. Tờ lịch sự kiện đầy ắp các cuộc họp ban chấp hành và lễ tắm bé, tôi ngồi nhấp nhổm trên ghế, chỉ mong sao cuộc họp chóng kết thúc. Tôi phải mang xe về cho mẹ trước ba giờ.
Vừa đến giờ nghỉ mười lăm phút, tức là một tiếng rưỡi sau đó, tôi vội rời căn phòng nóng nực, phi như bay đến chỗ chiếc Cadillac. Tôi sẽ tha hồ mà gặp rắc rối vì tội bỏ về sớm, nhưng lạy Chúa, không biết cái nào đáng sợ hơn, cơn lôi đình của mẹ hay của Hilly?
TÔI BƯỚC VÀO NHÀ sớm năm phút, miệng ngâm nga bài “Love me do,” nghĩ bụng mình phải đi mua một chiếc váy ngắn như cái Jenny Foushee mặc hôm nay mới được. Cô ấy nói vừa mua tận trên New York ở của hàng Bergdorf Goodman. Nếu thấy tôi diện một chiếc váy ngắn trên đầu gối khi Stuart qua đón tôi vào thứ Bảy này, khéo mẹ sẽ lên cơn đột quỵ ấy chứ.
“Mẹ ơi, con về rồi đây,” tôi đứng dưới nhà gọi to.
Tôi lấy một lon Co-Cola trong tủ lạnh ra, thở phào và cười, cảm thấy thật khoan khoái, mạnh mẽ. Tôi quay ra của trước để đi lấy chiếc túi, sẵn sàng bắt tay vào viết thêm những mẩu chuyện khác của Minny. Tôi dám chắc cô ta rất bức bối muốn nói về Celia Foote, nhưng vẫn luôn dừng lại khi vừa vô tình nhắc đến nó và lập tức chuyển chủ đề. Điện thoại đổ chuông, tôi bèn nhấc máy lên nghe nhưng là của Pascagoula. Tôi ghi lời nhắn vào một tờ giấy. Đó là Yule May, người giúp việc của Hilly.
“Chào chị, Yule May,” tôi nói, tự nhủ thị trấn này quả là nhỏ bé. “Khi nào cô ấy về tôi sẽ chuyển lại lời nhắn của chị.” Tôi đứng tựa lên quầy bếp một lát, ước sao Constantine vẫn còn ở đây như ngày xưa. Lúc nào tôi cũng thích kể lể với bác ấy từng chi tiết vụn vặt nhất tôi gặp trong ngày.
Tôi thở dài và uống nốt lon Coke rồi ra của trước lấy chiếc túi. Nó không có ở đó. Tôi xuống sân và tìm trong xe nhưng cũng không thấy nốt. Hở, tôi nghĩ bụng và lên gác, khuôn mặt tôi đã bớt hồng hào, giờ có vẻ vàng vọt nhiều hơn. Tôi đã lên gác đâu nhỉ? Tôi lục tung cả phòng, nhưng nó vẫn biệt tăm. Cuối cùng, tôi đứng như trời trồng giữa căn phòng câm lặng, Nỗi hoang mang bắt đầu chạy dọc sổng lưng tôi như kim châm. Chiếc túi, tất cả mọi thứ đều để trong đó.
Mẹ, tôi nghĩ rồi lao ngay xuống nhà và tìm trong phòng nghỉ. Nhưng đột nhiên tôi nhận ra không phải mẹ cầm chiếc túi - cầu trả lời bật ra trong đầu, khiến toàn thân tôi như tê dại. Tôi đã bỏ quên túi ở trụ sở Hội. Tôi quá vội vì phải đưa xe về cho mẹ. Và ngay giây phút chuông điện thoại reo, tôi biết người đang ở đầu dây bên kia chính là Hilly.
Tôi vồ lấy chiếc điện thoại treo trên tường. Mẹ đứng ở cửa trước chào tạm biệt.
“A lô?”
“Sao cậu lại quên cái của khỉ nặng trịch này ở đây được nhỉ?” Hilly hỏi. Hilly chưa bao giờ ngại ngùng gì chuyện lục lọi đồ đạc của người khác. Thực ra, cô ấy còn rất khoái việc đó nữa kia.
“Mẹ, đợi con với!” Tôi hét vọng ra từ trong bếp.
“Trời đất, Skeeter, có những gì trong này thế?” Hilly nói. Tôi phải đuổi theo mẹ, song giọng Hilly nhỏ dần, hình như có ấy đang cúi xuống, mở túi ra.
“Không có gì đâu! Toàn... toàn thư của cô Myrna, cậu biết thừa rồi còn gi.”
“Ờ, tớ sẽ mang về nhà vậy, khi nào rảnh cậu qua mà lấy nhé.”
Mẹ đang khởi động xe ngoài sân. “Cứ... để ở đấy. Tớ đến ngay đây.”
Tôi ba chân bốn cẳng lao ra ngoài nhưng mẹ đã lái xe ra đến ngõ. Tôi nhìn quanh nhưng chiếc xe tải cũ cũng đã biến mất, chắc đang chở hạt bông ngoài đồng. Nỗi hoảng sợ trong bụng tôi cứng đơ, nặng trịch và nóng rẫy, như một viên gạch nung dưới nắng.
Dưới đường cái, tôi thấy chiếc Cadillac đi chậm lại, rồi đột nhiên dừng hẳn. Rồi nó lại lăn bánh. Rồi dừng. Rồi từ từ lùi xiêu vẹo ngược lên đồi. Nhờ ơn của một vị Chúa tôi chưa bao giờ thực bụng ưa, chứ chẳng nói gì đến chuyện tin tưởng, mẹ đã quay về thật.
“Sao mẹ lại quên mất nồi thịt hầm cho Sue Anne được nhỉ...”
Tôi nhảy bổ vào ghế hành khách phía trước, đến khi mẹ leo lên xe trở lại. Mẹ đặt tay lên vô lăng.
“Chở con đến nhà Hilly nhá? Con cần phải lấy vài thứ.” Tôi ấn tay lên trán. “Ôi trời ơi, nhanh lên mẹ. Con muộn mất.”
Chiếc xe của mẹ không nhúc nhích. “Skeeter, mẹ còn cả tỷ việc phải làm trong hôm nay...”
Nỗi sợ dâng đầy lên cổ tôi. “Mẹ, con xin mẹ, mẹ cứ lái đi...”
Song chiếc Cadillac Deville vẫn đứng ì trên con dường rải sỏi, nổ máy ù ù như một quả bom hẹn giờ.
“Con nghe đây,” mẹ nói, “mẹ còn vài việc riêng phải đi ngay, mẹ không cho đây là thời điểm thích hợp để con bám theo đâu.”
“Con chỉ xin mẹ năm phút thôi. Mẹ lái nhanh đi mẹ!”
Mẹ vẫn giữ nguyên hai bàn tay đeo găng trắng trên vô lăng, môi mím lại.
“Hôm nay mẹ có một việc riêng rất quan trọng phải làm.”
Tôi không thể tưởng tượng ra mẹ còn việc gì khác quan trọng cần làm hơn là thứ đang dồn lên tận cổ họng tôi đây.
“Cái gì thế ạ? Một người Mễ đòi tham gia DAR ạ? Hay có người bị bắt quả tang đang đọc Từ điển nước Mỹ mới?”
Mẹ thở dài, nói, “Thôi được,” và cẩn thận dồn cần số sang chế độ lái. “Rồi, ta đi.” Chúng tôi bò trên đường mòn với tốc độ khoảng một phần mười dặm một giờ, rón rén từng tí một để sỏi không bắn lên làm xước sơn xe. Đến cuối đường, mẹ bật đèn xi nhan nắn nót như đang thực hiện một ca phẫu thuật não và cho chiếc Cadillac trườn lên đường cái. Hai nắm tay tôi siết lại chặt cứng. Tôi ra sức nhấn cái chân ga tưởng tượng của mình. Đối với mẹ lần nào cũng là buổi lái xe đầu tiên.
Ra đến đường cái, mẹ tăng tốc lên mười lăm và bấu riết lấy vô lăng cứ như hai mẹ con đang lao đi với vận tốc một trăm linh năm dặm một giờ.
“Mẹ,” cuối cùng tôi đành lên tiếng, “mẹ để con lái cho.”
Mẹ thở dài. Tôi ngạc nhiên thấy mẹ đánh xe sang bãi cỏ cao.
Tôi ra khỏi xe và đi vòng qua đuôi trong khi mẹ chuyển sang ngồi bên cạnh. Tôi vào số tối đa và tăng tốc lên bảy mươi, thầm cầu nguyện, Xin cậu, Hilly, xin cậu hãy cưỡng lại cám dỗ xoi mói việc riêng của tớ.
“Vậy bí mật lớn của mẹ là gì, hôm nay mẹ phải làm gì?” Tôi hỏi.
“Mẹ... mẹ phải đến gặp bác sỹ Neal để làm vài xét nghiệm. Xét nghiệm thường quy thôi, nhưng mẹ không muốn cho bố biết. Con thừa biết tính bố rồi đấy, cứ thấy ai phải đi khám là bố lại lo đứng lo ngồi.”
“Xét nghiệm gì ạ?”
“Xét nghiệm khối cho khối u của mẹ, như mẹ vẫn làm mọi năm thôi. Con thả mẹ ở bệnh viện Baptist rồi tự đi qua nhà Hilly nhé. Ít ra mẹ cũng đỡ phải lo chuyện đậu xe.”
Tôi liếc sang mẹ để xem mẹ còn nói thêm gì nữa không, nhưng mẹ chỉ ngồi thẳng đơ, cứng quèo trong bộ đầm màu xanh lơ, hai chân bắt chéo lại ở mắt cá. Tôi chẳng hề nhớ năm ngoái mẹ đã làm xét nghiệm như thế. Ngay cả hồi tôi còn ở trường đại học, Constantine cũng sẽ viết thư kể cho cho tôi ngay. Chắc mẹ đã giữ kín việc đó.
Năm phút sau, đến bệnh viện Baptist, tôi vòng qua đuôi xe và đỡ mẹ xuống.
“Eugenia, để mặc mẹ. Đến bệnh viện không có nghĩa mẹ là người tàn tật.”
Tôi mở cánh cửa kính cho mẹ và mẹ bước vào, đầu ngẩng cao.
“Mẹ, mẹ... có muốn con vào cùng mẹ không?” Tôi hỏi, dù biết mình không thể - tôi còn phải lo đối phó với Hilly, song đột nhiên tôi không muốn bỏ mẹ ở đây, như thế này.
“Chỉ là xét nghiệm thường quy thôi. Con cứ qua nhà Hilly đi, nhớ quay lại trong một tiếng nữa.”
Tôi nhìn bóng mẹ nhỏ dần phía cuối hành lang, tay siết chặt chiếc xắc nhỏ, tôi biết mình nên quay lưng chạy thật nhanh. Song trước khi làm được điều đó, tôi sững sờ nhận ra mẹ bây giờ mỏng manh và yếu đuối biết bao. Mẹ đã từng khiến cả căn phòng rộn lên chỉ bằng tiếng thở của mình và nay thì... dường như không còn là mẹ của ngày xưa nữa. Mẹ rẽ ở một góc và biến mất sau những bức tường sơn màu vàng nhạt. Tôi nhìn rốn một giây nữa rồi vội vã lao ra xe.
MỘT PHÚT RƯỠI SAU ĐÓ, tôi nhấn chuông nhà Hilly.
Nếu là lúc bình thường, tôi đã kể cho Hilly nghe chuyện của mẹ rồi. Nhưng tôi không thể làm cô ấy phân tán ngay lúc này được. Chính khoảnh khắc chạm mặt đầu tiên sẽ cho tôi biết tất cả. Hilly là một tay dối trá cự phách, chỉ trù giây phút ngắn ngủi ngay trước khi cô cất lời.
Hilly mở của ra. Môi cô mím chặt, đỏ chót. Tôi nhìn xuống tay cô. Hai cánh tay xoắn lại với nhau như một sọi dây thừng. Tôi đã tới quá muộn.
“Ồ, nhanh quá nhỉ,” cô nói và tôi lẽo đẽo theo cô vào nhà. Tim tôi thắt lại trong lồng ngực. Tôi chẳng biết mình còn thở không nữa.
“Đây rồi, cái thứ xấu xí này. Hy vọng cậu không phiền, tớ phải kiểm tra lại vài thứ trong biên bản họp.”
Tôi nhìn cô trân trối, cô bạn thân nhất của tôi, cố đoán xem cô đã đọc được những gì trong mớ giấy tờ của tôi. Nhưng nụ cười của cô rất điệu nghệ, nếu không nói là rạng rỡ. Khoảnh khắc của sự thật thế là hết.
“Tớ lấy cho cậu chút gì nhấp giọng nhé?”
“Thôi, tớ không khát.” Rồi tôi đế thêm, “Tí nữa cậu có muốn đi đánh bóng không? Trời đẹp lắm.”
“William còn bận họp cho chiến dịch tranh cử, xong bọn tớ sẽ đi xem phim Thế giới điên cuồng.”
Tôi nhìn cô.
Chẳng phải chỉ mới hai giờ trước chính cô đã rủ tôi đi xem bộ phim này trong một cuộc hẹn hò kép vào tối mai hay sao?
Thật thong thả, tôi bước về phía đầu kia bàn ăn, như thể cô sẽ vồ lấy tôi nếu tôi cử động quá nhanh. Cô lấy một cái nĩa bạc trong tủ búp phê ra, gõ ngón tay trỏ lên từng chiếc răng.
“À ừ, tớ nghe nói Spencer Tracy diễn hay lắm,” tôi nói. Rồi làm ra vẻ tụ nhiên hết sức, tôi lần tay điểm lại các thứ giấy tờ trong túi. Bài phỏng vấn Aibileen và Minny vẫn nhồi kỹ trong ngăn bên sườn túi, nắp đậy, khóa cài. Nhưng sáng kiến vệ sinh phòng dịch của Hilly lại ở ngăn chính giữa vẫn để mở cùng tờ giấy tôi ghi mấy chữ Jim Crow và kế hoạch xây nhà vệ sinh của Hilly - có gì khác đâu? Bên cạnh là bản nháp tạp chí mà Hilly đã đọc qua. Song cuốn sách - những điều luật - tôi kiểm tra lại một lượt nữa - đã biến mất.
Hilly nghiêng đầu, nheo mắt nhìn tôi. “Này, tớ đang nghĩ đến cái hôm người ta ngăn thằng cha da màu vào Oie Miss, bố Stuart đứng ngay cạnh ngài Ross Barnett. Họ nhau thật đấy, nghị sĩ Whitworth với thống đốc Barnett ấy.”
Tôi mở miệng định nói gì đó, bất kỳ điều gì, song đột nhiên, thằng nhóc William Bé mới lên hai chập chững bước váo.
“Con đây rồi.” Hilly bế bổng nó lên, rúc vào cổ nó. “Bé con hoàn hảo số một của mẹ!” Cô nói. William nhìn sang tôi và hét ầm lên.
“Thôi, chúc các cậu xem phim vui vẻ nhé,” tôi nói, đoạn bước ra cửa.
“Ừ,” cô đáp. Tôi bước xuống bậc thềm. Đứng trên ngưỡng cửa, Hilly giơ tay chào, rồi vẫy tay William ra hiệu tạm biệt. Cô đóng sập cửa lại trước cả khi tôi kịp ngồi vào xe.
AIBILEEN