Dịch giả: Nguyễn Trung Đức
Chương 10

Những năm sau này, hấp hối trên giường bệnh, Aurêlianô Sêgunđô đã nhớ lại buổi chiều mưa tháng sáu cái buổi chiều anh bước vào phòng ngủ để nhận mặt đứa con trai đầu lòng của mình. Mặc dù đứa trẻ yếu ớt và hay khóc, không hề giống một người nào trong nhà Buênđya, anh chẳng phải suy nghĩ lao lung mới đặt nổi tên cho nó.
- Sẽ gọi nó là Hôsê Accađiô, - anh nói.
Phecnanđa Đên Cacpiô, cô vợ kiều diễm anh mới cưới năm ngoái, đã đồng ý gọi tên đứa bé như vậy. Về phần mình, Ucsula đã không thể giấu nổi cảm giác đau đớn bâng khuâng Trong lịch sử lâu dài của gia đình, việc gọi tên trùng nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác cho phép cụ rút ra những kết luận hẩu như đã được khẳng định. Trong khi những người mang tên Aurêlianô là những người âu sầu lại rất thông minh thì những người mang tên Hôsê Accađiô là những người nông nổi và táo bạo; nhưng tất cả đều bị số phận bi thảm in dấu. Những trường hợp duy nhất khó phân biệt là trường hợp của Hôsê Accađiô Sêgunđô và Aurêlianô Sêgunđô. Lúc còn ở tuổi ấu thơ cả hai đều quá giống nhau và lại hay nghịch ngợm đến ngay cả Santa Sôphia đê la Piêđat cũng chịu không phân biệt nổi hai anh em sinh đôi này. Trong ngày lễ đặt tên, Amaranta đeo cho mỗi người một tượng thánh có khắc tên và mặc cho họ bộ quần áo khác màu đánh dấu bằng chữ đầu viết tắt tên mỗi người; nhưng khi vào lớp, hai người đã đổi tên, đổi quần áo, đổi tượng thánh cho nhau. Thày giáo Menchô Escalôna, do đã quen nhận mặt Hôsê Accađiô Sêgunđô nhờ chiếc áo sơ mixanh, bỗng nhầm lẫn khi phát hiện ra cậu này đeo tượng thánh mang tên Aurêlianô Sêgunđô và rằng mặc dù cậu kia tự xưng tên là Aurêlianô Sêgunđô nhưng lại mặc áo sơ mi trắng và đeo tượng thánh khắc tên Hôsê Accađiô Sêgunđô. Bắt đầu từ đấy không còn biết đích xác ai là ai. Ngay cả khi họ đã trưởng thành và cuộc sống đã làm cho họ khác nhau, Ucsula vẫn tiếp tục tự hỏi lòng mình nếu ở một thời điểm nào đó họ không phạm một khuyết điểm trong trò chơi gây nhiều nhầm lẫn phiền phức của mình thì chắc hẳn họ đã thay đổi nhiều. Ngay cả khi bước vào tuổi thanh niên, họ vẫn là hai cỗ máy đồng thời. Họ dậy cùng một lúc, thấy cần phải vào cầu tiêu cùng một giờ, cùng chịu cơn trái nắng trở trời và họ mơ thấy những giấc mơ giống hệt nhau. Ở nhà, ai cũng tin rằng bọn họ thống nhất hành động là do cố ý muốn gây nhầm lẫn cho mọi người chứ không một ai hiểu nổi bản chất của họ; cho đến một hôm Santa Sôphia đê la Piêđat đưa cho người nây cốc nước chanh, rồi sau đó bà thấy người kia nói chưa có đường. Thực thế, bà quên không cho đường vào nước chanh. Santa Sôphia đê la Piêđat đem chuyện này kể lại cho Ucsula nghe. "Con cái nhà này đều thế cả", cụ nói vẻ không hề ngạc nhiên. "Chúng điên rồ ngay từ bé". Thời gian trôi đi cũng kết thúc luôn sự đảo lộn các sự vật. Cậu bé trong các trò chơi nhầm lẫn vẫn được gọi tên là Aurêlianô Sêgunđô đã có thân hình vạm vỡ của ông nội và cậu kia vẫn được gọi là Hôsê Accađiô Sêgunđô đã có thân hình mảnh khảnh của ngài đại tá, và điểm duy nhất hai người giống nhau chính là vẻ cô đơn của dòng họ. Có lẽ sự hoán vị hình hài, tên tuổi và đặc tính ấy chính là điều khiến Ucsula phải nghi ngờ rằng: ngay từ tuổi thiếu nhi, họ đã bị xáo trộn như người ta chương quân bài. Sự khác nhau rõ rệt giữa hai người được thể hiện rõ trong thời chiến tranh ác liệt nhất khi Hôsê Accađiô Sêgunđô xin đại tá Hêrinênđô Mackêt cho mình cùng đi xem các vụ hành hình.
Ngược với suy nghĩ của Ucsula, nguyện vọng của cậu đã được thoả mãn. Trái lại, Aurêlianô Sêgunđô cảm thấy bủn rủn cả người khi nghĩ tới việc mình có mặt trong buổi hành hình. Cậu bé chỉ thích ở nhà. Vào lúc lên mười hai tuổi, cậu hỏi Ucsula có gì trong phòng đóng kín cửa kia. "Giấy má thôi", cụ trả lời cậu, "đó là sách của Menkyađêt và những điệu quái dị cụ viết trong những năm cuối đời". Câu trả lời đáng lẽ sẽ làm cho cậu yên lòng thì lại càng kích thích tính tò mò của cậu. Cậu khẩn khoản đòi vào xem, tha thiết hứa với cụ sẽ không làm hư hại các thứ trong đó, đến mức Ucsula không đành lòng được, buột phải đưa chìa khoá cho cậu. Không ai bước vào căn buồng nữa kể từ khi người ta khiêng từ thi Menkyađêt đi; và lắp vào cửa một chiếc khoá sắt lâu ngày han gỉ đã làm liệt các bộ phận của nó. Song, khi Aurêlianô Sêgunđô mở toang các cửa sổ, thấy một luồng ánh sáng thân thuộc dường như vẫn thường chiếu sáng căn buồng vào tất cả mọi ngày; căn buồng không có bụi bậm phủ, không có mạng nhện giăng, mà trái lại tất cả đều sạch sẽ, có lẽ còn được quét dọn và lau chùi kỹ lưỡng hơn cả ngày đưa đám tang cụ, mực trong lọ vẫn không khô, gỉ sắt vẫn không làm các dụng cụ kim loại mất đi vẻ bóng nhoáng; cả than lửa trong bếp nơi Hôsê Accađiô Buênđya đun thuỷ ngân vẫn không tắt. Trên các giá là những cuốn sách được đóng bìa cứng bằng các tông màu nâu nhạt giống như da người thuộc và cả những trang viết tay cỏn tươi màu mực. Mặc dù phòng bị đóng kín cửa trong nhiều năm, không khí nơi đây dường như vẫn trong sạch hơn các nơi khác trong ngôi nhà. Tất cả đều rất mới đến mức vài tuấn sau đó khi Ucsula mang một xô nước và một cái chổi vào phòng để lau quét sàn thì cụ chẳng phải làm gì cả. Aurêlianô Sêgunđô đang say đắm đọc một cuốn sách. Mặc dù cuốn sách này mất bìa và không có nhan đề, cậu bé thưởng thức câu chuyện một người phụ nữ ngồi bên bàn lấy đũa gắp từng hạt cơm ăn; câu chuyện về một ngư dân mượn anh hàng xóm một cục chì để gài vào lưới đánh cá và con cá sau này bác trả cho anh hàng xóm mang trong bụng nó một hạt ngọc; chuyện cây đèn thần thoả mãn mọi ước nguyện và những chiếc thảm bay.
Vẻ đầy cao hứng, cậu bé hỏi Ucsula rằng có phải những chuyện này đều có thật không, và cụ đã trả lời cậu rằng phải đấy, rằng trước đây lâu lắm rồi, những người digan mang đến làng Macônđô những cây đèn thần và cả những tấm thảm bay.
- Có điều là, - cụ thở dài, - thế giới ngày một khánh kiệt và do đó không thấy có các vật ấy nữa.
Khi đọc xong cuốn sách có nhiều truyện bỏ dở vì mất trang, Aurêlianô Sêgunđô chuyển sang dịch các bản viết tay. Đó là công việc không thể làm được. Các con chữ giống như quằn áo móc trên dây thép, và nhìn chung nó giống bản nhạc ghi trên giấy hơn là một áng văn chương. Có một buổi trưa nực nữa nọ, trong lúc dò đoán các bản chép tay, cậu bé cảm thấy không chỉ có mình mình ở trong phòng. Menkyađêt ngồi ở đấy, quay lưng lại phía cửa sổ, hai tay đặt trên gối. Cụ vẫn mặc chiếc áo khoác ngoài cổ quái và đội chiếc mũ vành cánh quạ cụp, mồ hôi bết tóc chảy thành giọt qua hai thái dương, y hệt hình ảnh cụ từng được Aurêlianô và Hôsê Accađiô nhìn thấy từ khi họ còn nhỏ tuổi. Ngay lập tức Aurêlianô Sêgunđô nhận rõ cụ, bởi vì ký ức di truyền ấy được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, và nó đến với cậu từ trí nhớ của ông nội cậu.
- Chào cụ, - Aurêlianô Sêgunđô nói.
- Chào anh bạn trẻ, - Menkyađêt trả lời.
Kể từ dạo ấy, trong vài năm, hầu như chiều nào họ cũng gặp nhau. Menkyađêt nói với cậu bé về thế giới, cố truyền lại cho cậu tri thức cổ xưa của mình, nhưng cụ từ chồi dịch những trang viết tay.
"Chẳng một ai nên biết ý nghĩa trong khi chúng chưa được trăm năm", cụ giải thích. Aurêlianô Sêgunđô mãi mãi giữ kín các cuộc hội ngộ này. Cũng có lúc cậu bé cảm thấy thế giới riêng của mình bị đánh đổ, bởi vì Ucsula đã vào phòng đúng lúc Menkyađêt đang có mặt. Nhưng cụ đã không nhìn thấy.
- Cháu nói chuyện với ai thế? - cụ hỏi.
- Chả nói với ai cả, cố ạ? - Aurêlianô Sêgunđô trả lời.
- Cố nội mày cũng thế đấy, - Ucsula nói, - Ông ấy cứ nói chuyện một mình thôi.
Trong khi đó, Hôsê Accađiô Sêgunđô lại mãn nguyện khi được xem một buổi hành hình. Cả đời mình, cậu sẽ nhớ mãi ánh lửa chớp sáng của sáu viên đạn cùng bắn một lúc và tiếng súng nổ vọng lại từ các ngọn núi xung quanh, rồi nhớ đến nụ cười buồn bã và đôi mắt thảng thốt của kẻ bị bắn, người vẫn hiên ngang đứng trong lúc máu chảy ra thấm đẫm áo sơ mi, người vẫn mỉm cười ngay cả lúc người ta cởi trói cho mình khỏi cọc xử bắn và nhét mình vào chiếc quan tài đầy vôi bột. "Vẫn còn sống", cậu nghĩ. "Người ta sẽ chôn sống anh ta". Cậu sợ lắm, sợ đến mức từ dạo đó cậu nguyền rủa nghề lính và chiến tranh, không chỉ vì các vụ xử bắn mà chủ yếu vì thói quen kinh tởm chôn sống những người bị hành hình. Vậy là không một ai biết từ lúc nào cậu bắt đầu kéo chuông nhà thờ, bắt đầu giúp cha Antôniô Isaben, người được mệnh danh là En Cacharô(1) đến thay cha xứ, bắt đầu chăm sóc các chú gà chọi được nuôi trong sân tu viện. Khi đại tá Hêrinênđô Mackêt biết chuyện, chàng đã mắng mỏ cậu bé một hồi vì tội học những nghề nghiệp vốn bị những người Tự do lên án.
- Vấn đề là, - cậu bé trả lời, - dường như cháu đã trở thành một người Bảo hoàng.
Cậu tin điều đó như thể đó là một sự khẳng đinh của nỗi bất hạnh. Đại tá Hêrinênđô Mackêt bực dọc, đã kể lại câu chuyện cho Ucsula nghe.
- Càng tốt, - cụ tán thưởng. - Lạy Chúa, nó sẽ trở thành một nhà tu hành để cuối cùng Thượng đế đến nhà này.
Ngay lập tức mọi người biết rằng cha Antôniô Isaben đang chuẩn bị làm lễ ban thánh thể đầu tiên cho cậu. Cha dạy cậu học bổn trong lúc vặt lông cổ các chú gà chọi. Cha lấy những ví dụ đơn giản dễ hiểu để giảng giải cho cậu trong lúc cha đặt các cô gà mái ấp vào ổ như đã từng xảy ra với Thượng đế trong ngày Sáng thế thứ hai, ngày những chú gà con được hình thành trong quả trứng. Ngay từ dạo ấy vị mục sư để lộ những triệu chứng lẩm cẩm đầu tiên của tuổi già mà nhiều năm sau này nó đã dẫn cha đến việc nói rằng có thể quỷ dữ đã chiến thắng cuộc khởi nghĩa trái với ý của Thượng đế, người ngồi trên ngai vàng thượng giới, không để lộ hình hài của mình trước mắt những kẻ ngu khờ. Được tôi rèn bởi lòng dũng cảm của thày học, ít tháng sau Hôsê Accađiô Sêgunđô đã trở thành một người rất am hiểu những thủ thuật tôn giáo để đánh lừa ma quỉ đồng thời cũng là người giàu kinh nghiệm nuôi gà. Amaranta may cho cậu một bộ quần áo vải lanh có cổ cồn và cà vạt, mua cho cậu một đôi giày trắng và mạ chữ vàng tên cậu trên những dải lụa buộc vào cây nến. Hai đêm trước ngày lễ ban thánh thể đầu tiên cho cậu, cha xứ Antôniô Isaben đóng kín kho đồ thánh để cùng với cậu làm lễ xưng tội, có sự giúp đỡ của cuốn sổ ghi tên các tội lỗi. Đó là một danh mục rất dài đến mức vị mục sư già, vốn quen đi ngủ từ lúc sáu giờ đã ngủ khì trên ghế xích đu trước khi kết thúc.
Những câu hỏi là một điều khải thị đối với Hôsê Accađiô Sêgunđô. Cậu không ngạc nhiên thấy cha xứ hỏi mình đã chung đụng với đàn bà chưa, và cậu đã hãnh diện trả lời rằng không, nhưng cậu lại hoang mang khi cha hỏi mình có chung đụng với súc vật không. Tháng năm, vào ngày thứ sáu đầu tiên, cậu chịu lễ ban thánh thể mà lòng quặn đau vì tính tò mò. Sau đó, cậu hỏi Pêtrômô, tu sĩ ốm yếu giữ kho đồ thánh, sống ở trên tháp chuông, và theo như lời đồn đại gã ăn đom đóm để sống, và Pêtrôniô đã trả lời cậu: "Là bởi vì có đạo hữu đê mạt đã ngủ với lừa cái đấy". Hôsê Accađiô Sêgunđô vẫn cứ ngạc nhiên hơn bao giờ hết, vẫn cứ đòi phải giải thích nhiều hơn nữa đến mức Pêtrôniô mất bình tĩnh.
- Tôi đi vào các tối thứ ba hàng tuần, - gã thú nhận. - Nếu cậu hứa không nói với ai thì ngày thứ ba tới tôi sẽ dẫn cậu đi.
Quả nhiên, ngày thứ ba tới, Pêtrôniô vác một chiếc ghế gỗ mà cho đến lúc này không một ai biết nó được dùng làm gì, đi xuống khỏi tháp chuông, dẫn Hôsê Accađiô Sêgunđô ra một vườn gần đấy. Cậu bé đam mê với những đêm phiêu lưu ấy, đến mức sau đó rất lâu người ta mới thấy cậu xuất hiện ở tiệm nhẩy bác Catarinô. Cậu trở thành người chơi gà chọi. "Hãy mang những con vật ấy đi nơi khác", Ucsula bảo khi lần đầu tiên cụ nhìn thấy cậu mang những con gà chọi đẹp về nhà. "Những con gà ấy từng mang m thấy mình giống hệt cụ cố nội mình, Phecnanđa đâm ra nghi ngờ bóng ma mình nhìn thấy hồi còn nhỏ, nhưng mẹ nàng đã mắng nàng về tội thiếu đức tin.
- Chúng ta vốn giàu có và có thế lực mạnh mẽ vô cùng, bà nói với nàng. - Rồi con sẽ là hoàng hậu mà.
Nàng tin điều đó mặc dù gia đình nàng hiện chỉ làm chủ một chiếc bàn ăn dài có đủ khăn và đồ dùng ăn uống bằng bạc, và cái bàn này chỉ được dùng để ăn bánh ngọt và uống nước sôcôla. Ngay đến ngày làm lễ thành hôn, nàng vẫn mơ thời làm vua. Huyền thoại ấy dẫu rằng cha nàng, đông Phecnanđô đã buộc phải cầm cố ngôi nhà để lấy tiền may sắm đồ cưới cho nàng. Không quá ngây thơ cũng chẳng hợm mình về danh giá gia đình, người ta đã giáo dưỡng nàng như thế đấy. Ngay từ thuở mới hiểu biết chút ít, nàng còn nhớ mình vẫn được ngồi trên chiếc bô bằng vàng có khắc gia huy dòng họ mình để ì đái. Lần đầu tiên bước ra khỏi nhà là lúc nàng đã mười hai tuổi, ch trên một chiếc xe ngựa chỉ cần chạy qua hai ô phố để đến tu viện.
Những cô bạn cùng lớp đều ngạc nhiên rằng người ta tách riêng nàng ra, cho nàng ngồi trên một chiếc ghế dựa rất cao, và rằng ngay cả trong lúc vui chơi nàng cũng không chơi chung với họ. "Cô ấy rất khác đấy", các nữ tu sĩ giải thích cho họ, "Cô ấy sẽ là hoàng hậu đấy". Các bạn gái của nàng tin điều đó, bởi vì ngay từ lúc ấy nàng đã là một cô gái xinh đẹp, khác thường và kín đáo nhất. Tám năm sau, sau khi đã học làm thơ bằng chữ Latinh, đã học chơi đàn clavơxanh(1) học đàm đạo với các công tử về nghề nuôi chim ưng, với các dực Giám mục về môn thần học chuyên biện giải cho tôn giáo, học tranh luận với các chính khách ngoại quốc về các vấn đề nhà nước và với Giáo hoàng về các vấn đề của Thượng đế, nàng trở về nhà cha mẹ mình để lại tết những chiếc mũ tang bằng lá cây palma. Nàng thấy nhà mình quang sạch đồ đạc. Hầu như chỉ còn những giường tủ không có giá trị, các ngọn đèn chùm, và bộ đồ ăn bằng bạc, bởi vì những đồ dùng có giá trị đều bị bán dần bán mòn để lấy tiền trang trải các khoản chi phí cho việc dạy dỗ nàng. Mẹ nàng đã từ trần vì cơn sốt lúc năm giờ chiều. Cha nàng, đông Phecnanđô, mặc đồ đen, với áo cổ cồn và một chiếc xà tích vàng vắt chéo ngang ngực, vào các ngày thứ hai đưa cho nàng một đồng tiền bạc để chi dùng ăn uống, rồi cụ mang đi những chiếc mũ tang tết lá cây palma vừa làm xong tuần trước. Phần lớn buổi ban ngày cụ ở lì trong phòng riêng, và trong những dịp hiếm hoi cụ mới đi ra ngoài đường cái nhưng lại vội trở về nhà trước lúc sáu giờ tối để cùng nàng đọc kinh Rôsariô. Không bao giờ chơi thân với một ai. Không bao giờ nghe nói về những cuộc nội chiến đang làm tổn thương đất nước. Không bao giờ bỏ nghe các buổi tập đàn pianô vào lúc ba giờ chiều. Vào lúc nàng bắt đầu vỡ mộng mình sẽ là hoàng hậu thì ở ngoài cửa chính vang lên tiếng vồ gọi cửa nện khẩn cấp, nàng vội mở cửa cho một quân nhân bảnh bao, điệu bộ khoan thai, trên má mang một vết sẹo và trên ngực gài tấm huy chương vàng. ông ta vào đàm đạo ở phòng riêng với cha nàng. Hai giờ sau, cha nàng đến phòng máy may tìm nàng. "Con hãy chuẩn bị đồ đạc của mình đi", cụ nói với nàng "Con cần phải đi xa". Nàng bị mang đến Macônđô như thế đấy. Chỉ trong một ngày thôi, cuộc đời đã trút xuống đầu nàng tất cả sức nặng của một thực tế mà trong
nhiều năm cha mẹ cố tình tránh cho nàng. Từ khi trở về nhà, nàng đóng kín cửa, ở trong phòng khóc, bất chấp những lời van xin và giải thích của đông Phecnanđô, để xoá đi vết nhục cháy bỏng thành sẹo trên da mình. Nàng vừa tự nhủ lòng sẽ không ra khỏi phòng cho đến khi chết thì cũng vừa hay Aurêlianô Sêgunđô đến nhà tìm nàng. Ðó là một vận may không thể dự tính trước được, bởi vì trong lúc hoang mang vì tức giận, trong lúc điên tiết vì xấu hổ, nàng đã nói dối anh để không bao giờ anh lần ra được tông tích đích thực của mình. Nhưng dấu vết thực tế duy nhất để Aurêlianô Sêgunđô lần mò theo khi đi tìm nàng là lối nói vùng thảo nguyên không trộn lẫn được và nghề tết mũ tang bằng lá cây palma của nàng. Anh nhẫn nại tìm nàng với quyết tâm lớn mà cụ Hôsê Accađiô Buênđya đã sử dụng để vượt núi thành lập làng Macônđô, với lòng tự hào mù quáng mà đại tá Aurêlianô Buênđya sử dụng để khơi dậy các cuộc chiến tranh vô bổ, với lòng kiên trì rồ dại mà Ucsula đùng để khẳng định sự trường tồn của dòng họ mình. Aurêlianô Sêgunđô đã đi tìm Phecnanđa như thế đấy mà không lúc nào anh tỏ ra chán nản. Khi anh hỏi ở đâu có bán mũ tang tết bằng lá cây palma thì mọi người dẫn anh về nhà họ để chọn những chiếc mũ đẹp nhất. Khi anh hỏi cô gái đẹp nhất trên mặt đất này ở đâu thì các bà mẹ lập tức đưa anh đi xem mặt con gái mình. Anh lạc lối trên những ngọn đèo mây phủ, trong những vùng bị lãng quên, và trong mớ bòng bong của sự thất vọng. Anh đã vượt qua một cao nguyên vàng úa nơi chỉ có tiếng vọng o o lắp lại những suy tưởng và chỉ có cơn khát làm mờ mắt. Sau nhiều tuần kham khổ, anh đã tới được một thành phố xa lạ mà ở đấy tất cả các tháp chuông đều dỗ hồi thê thảm. Dù chưa từng nhìn thấy, cũng chưa từng nghe ai miêu tả, anh đã nhận ra ngay những bức tường thành lở lói vì gió sương mang hơi mặn của xương người táp vào, nhận ra ngay những ban công gỗ ọp ẹp vì mọt đục khoét lâu ngày, nhận ra ngay tấm biển quảng cáo ở đây bán mũ tang, mà chữ viết của nó đã nhom đi trên tấm bìa các tông cũ. Kể từ lúc anh đến cho tới buổi sáng Phecnanđa để lại ngôi nhà cho Ðức mẹ Toàn năng trông nom, lúc nào anh và nàng cũng tất bật đến mức hầu như không đủ thời gian cho các cô nữ tu sĩ kịp may bộ đồ cô dâu. Họ bận rộn lo nhét những ngọn đèn chùm, những bộ đồ ăn bằng bạc, và những thứ vô dụng nhiều vô kể của cái gia đình quý tộc đã khánh kiệt từng tồn tại hai thế kỷ này vào sáu chiếc thùng lớn. Ðông Phecnanđô từ chối lời mời cùng đi với họ. Cụ hứa sẽ đi khi nào đã hoàn thành các lời hứa của mình. Kể từ lúc cúi mình làm dấu ban phức cho con gái, cụ lại đóng kín cửa để ở lý trong phòng, viết thư bằng thơ có kèm theo những hình trang trí bi thương và con dấu gia huy, vốn là những thứ qua đó Phecnanđa và cha nàng có quan hệ trực tiếp với đời thường. Đối với Phecnanđa, ngày ấy là ngày sinh đích thực của nàng. Đối với Aurêlianô Sêgunđô, ngày ấy là ngày mở đầu đồng thời là ngày kết thúc hạnh phúc của anh.
Phecnanđa mang theo mình một cuốn lịch quý và một chùm thìa khoá mạ vàng trong đó vị cha cố làm thầy giáo của nàng đã dùng mực luôn tươi màu đánh dấu những ngày kiêng nhập phòng. Nếu không kể tuần lễ Thánh, những ngày chủ nhật, những ngày buộc phải nghe kinh mixa, những ngày thứ sáu đầu tiên của một tháng, những ngày tế thần và những ngày hành kinh, là những ngày nhất thiết phải kiêng cữ, cuốn lịch bổ ích của nàng chỉ còn lại bốn mươi hai ngày được tự do nằm rải rác trong tấm mạng nhện những dấu gạch chữ thập còn tươi màu mực. Aurêlianô Sêgunđô cho rằng thời gian sẽ quật đổ bức rào trở ngại đó, đã kéo dài tiệc cưới quá thời gian quy định. Mệt mỏi vì còn phải sai đổ vỏ chai rượu Brandy và rượu sâm banh ra thùng rác để ngôi nhà được gọn gàng, và đồng thời tò mò thấy rằng cô dâu chú rể đã không đi ngủ cùng một giờ lại còn ngủ tại hai phòng biệt lập trong lúc pháo vẫn nổ, nhạc vẫn cử, gia súc vẫn bị giết, Ucsula nhớ lại kinh nghiệm sống của chính mình và tự hỏi không biết có phải Phecnanđa cũng thắt chiếc thắt lưng trinh tiết mà sớm hay muộn sẽ gây nên những lời bình phẩm độc địa của dân làng và là cội nguồn của tấn bi kịch hay không.
Nhưng Phecnanđa đã thú nhận với cụ rằng nàng chỉ phải đợi qua hai tuần trước khi được phép ăn nằm lần đầu tiên với chồng mình. Quả nhiên hai tuần qua đi, nàng mở cửa phòng mình trong sự nhượng bộ bắt buộc của một nạn nhân bị trừng phạt, và Aurêlianô Sêgunđô đã nhìn thấy người đàn bà đẹp nhất trần gian với đôi mắt rực vẻ kiêu hãnh của con vật hoảng sợ và những mớ tóc vàng màu đồng xoã trên gối. Anh sung sướng quá trước hình ảnh ấy đến mức một lúc sau mới nhận ra rằng Phecnanđa đã vận chiếc áo ngủ trắng muốt, che kín mắt cá chân và chùm cả mu bàn tay, ở ngang bụng mở một cửa mở to và tròn, được thêu viền cẩn thận. Aurêlianô Sêgunđô không thể kìm được một chuỗi cười giòn giã.
- Ôi, cái này còn khêu gợi hơn cả những cảnh anh từng nhìn thấy - anh gào, với tiếng cười khanh khách rền vang cả nhà. - Anh đã cưới một nữ tu dòng Xanh Vanh xanh đơ Pôn.
Một tháng sau, vì không làm sao thuyết phục được vợ mình cởi chiếc áo ngủ ấy, anh đã mò đến nhà Pêtra Côtêt để chụp cho ả bức ảnh vận xiêm y của nữ hoàng. Sau đó, khi anh thuyết phục được Phecnanđa thôi không bỏ về quê nữa để trở lại nhà mình, nàng đã nhượng bộ trước những yêu cầu làm lành tha thiết của anh, nhưng anh vẫn không biết cách sắp đặt việc nghỉ ngơi theo đúng như điều anh mơ ước khi đến thành phố ba mươi hai tháp chuông để tìm nàng. Aurêlianô Sêgunđô chỉ tìm thấy ở nàng một ý vị chán nản. Có một đêm, trước khi sinh cậu con trai đầu lòng ít bữa, Phecnanđa biết rằng chồng mình đã bí mật trở lại nằm cùng giường với Pêtra Côtêt.
- Ðúng thế đấy, - anh thú nhận. Rồi bằng một giọng nhượng bộ, anh giải thích: - Anh cần phải hành động như vậy để cho đàn gia súc của ta tiếp tục sinh sôi nảy nở nhiều hơn nữa.
Anh không mất nhiều thời gian để thuyết phục nàng về biện pháp lạ lùng ấy, nhưng khi anh đã thuyết phục được nàng bằng những chứng cứ dường như không thể bác bỏ thì điều kiện duy nhất mà Phecnanđa buộc anh phải hứa là không được để cho thần chết túm được mình ngay trên giường của tình nhân. Ba người sống vòi nhau như thế, không ai đả động đến ai. Aurêlianô Sêgunđô âu yếm và đúng hẹn với cả hai, Pêtra Côtêt hả lòng hả dạ với sự hoà thuận, còn Phecnanđa giả vờ không biết sự thật.
Tuy nhiên, sự hoà thuận lại không đạt được trong gia đình: Phecnanđa không sống hoà mình với mọi người. Ucsula cố sức la mắng để nàng ném đi cái khăn nỉ mà nàng dùng lót giường mỗi khi chung đụng với chồng rồi sau đó lại quàng lên vai và chính chiếc khăn này đã gây nên bao lời nhỏ to bàn tán của dân làng nhưng nàng vẫn không chịu ném nó đi. Cụ không tài nào thuyết phục nổi nàng khi nào cần ị đái thì đi vào. cầu tiêu và bán quánh chiếc bô bằng vàng cho đại tá Aurêlianô Buênđya để ngài làm những con cá vàng. Amaranta khó chịu trước cách nói năng thô bạo và thói quen gọi sai tên sự vật của nàng nên bà cũng thường xuyên nói lóng trước mặt nàng.
Có một ngày, cáu tiết trước lời báng bổ, Phecnanđa muốn biết Amaranta nói gì và bà này không dùng lối nói văn hoa bóng gió, đã trả lời nàng:
- Tao bảo, - bà nói, - rằng cháu là một trong những cô gái tôm đội cứt lên đầu.
Kể từ ngày đó hai người không nói chuyện với nhau. Khi bất đắc dĩ phải nói với nhau điều gì thì họ nhắn qua người khác hoặc nói một cách gián tiếp. Phớt lờ trước nỗi khó chịu của người nhà, Phecnanđa vẫn không từ bỏ ý định sắp đặt thói quen cho các bậc bề trên. Nàng đã quyết định bỏ lệ ăn cơm ở nhà bếp mà ai đói cứ việc đi ăn như trước đây, buộc mọi người phải ăn cơm vào đúng giờ quy định tại phòng ăn, phải ngồi vào bàn ăn lớn đã dọn dẹp tinh tươm có khăn lau, đèn chùm, đồ ăn bằng bạc. Tính chất nghiêm trang của cái việc vốn vẫn được Ucsula coi là một việc giản dị nhất của đời thường, đã tạo nên một không khí căng thẳng khiến Hôsê Accađiô Sêgunđô lầm lì đã là người đầu tiên chống lại nó. Nhưng thói quen vẫn cứ được thiết lập, chẳng hạn như thói quen cầu kinh Rôsariô trước khi ăn bữa tối và chính nó đã làm cho hàng xóm phải để ý và gây nên lời đồn rằng: nhà Buênđya không ngồi vào bàn ăn như mọi gia đình mà trái lại đã biến bữa ăn tối thành một buổi lễ mixa trang trọng. Ngay đến những niềm tin tôn giáo của Ucsula, nảy sinh từ hy vọng chốc lát của cụ hơn là từ truyền thống, cũng bắt đầu mâu thuẫn với những tín điều mà Phecnanđa đã thừa hưởng của cha mẹ. Trong lúc Ucsula còn chắc chân mạnh tay, thì một số tục lệ cổ vẫn còn được duy trì và cuộc sống gia đình vẫn tuân theo những cảm nhận tinh tế của cụ, nhưng từ khi cụ bị loà và sức nặng tuổi già buộc cụ phải ngồi yên một xó, thì cái vòng cương toả được Phecnanđa khởi xướng ngay từ khi nàng mới về nhà chồng đã hoàn toàn khép kín lại và không một ai ngoài nàng quyết định vận mệnh của gia đình. Nghề làm kẹo bánh từng được Santa Sôphia đê la Piêđat duy trì theo ý nguyện của Ucsula đã bị Phecnanđa coi là một nghề hèn mọn và chẳng bao lâu bị đình chỉ. C. "Vận may chẳng theo suốt đời mày đâu". Nhưng Aurêlianô Sêgunđô không nghe lời cụ. Trong lúc càng mở nút sâm banh thết bạn thì súc vật của anh càng đẻ như điên và anh càng tin rằng cái vận đỏ của mình không khởi sự ở việc làm ăn biết tính toán mà khởi sự ở ảnh hưởng của Pêtra Côtêt, nhân tình của anh, người có tình yêu đủ sức làm mủi lòng con tạo. Anh rất yên lòng rằng đó là cội nguồn của cải của mình và do đó không bao giờ anh để cho Pêtra Côtêt ở xa đàn gia súc, và ngay cả khi đã cưới vợ và có con, anh vẫn sống với ả trong sự đồng loã của Phecnanđa. Với thân xác rắn rỏi và vâm váp như thân xác của cố nội và ông nội mình, nhưng hơn họ ở tính tình vui vẻ và hồn nhiên, Aurêlianô Sêgunđô hầu như không có đủ thời gian để chăm nom đàn gia súc của mình. Chỉ cần anh mang Pêtra Côtêt đến các chuồng trại, để ả ngồi trên ngựa dẫn ả đi chơi các trang trại là đủ cho súc vật của anh phải sinh con đẻ cái rất nhanh.
Như tất cả các sự vật tốt đẹp từng xảy ra trong cuộc đời dài của mình, số của cải bất kham ấy dường như được con tạo định trước. Ngay trong thời kỳ cuối của chiến tranh, Pêtra Côtêt vẫn phát hành vé xổ số và đôi lúc Aurêlianô Sêgunđô vẫn phải ăn cắp tiền của Ucsula để trang trải mọi tốn kém. Bọn họ thoải mái chung sống với nhau, không hề bận tâm ngoài việc lo lắng để đêm nào cũng ngủ với nhau, ngay cả trong những ngày cần kiêng cữ, để hú hí với nhau cho tới khi trời sáng. "Cái con đàn bà ấy sẽ làm cho mày phải điêu đứng đấy", Ucsula mắng mỏ thằng chắt anh mỗi khi thấy nó bước vào nhà như một kẻ mắc chứng mộng du. "Nó đã làm cho mày ngớ ngẩn, rồi một ngày nào đó ta sẽ thấy mày quằn quại vì đau đớn với con cóc ôm trong bụng đấy". Hôsê Accađiô Sêgunđô, vốn phải mất rất nhiều thời gian mới phát hiện ra việc thằng em trai xỏ mũi mình, không thể hiểu được nỗi đam mê của em trai. Anh nhớ Pêtra Côtêt như một người đàn bà dễ dãi, đúng hơn là người ươn lười trên giường và hoàn toàn nhạt nhẽo đối với tình yêu.
Làm ngơ trước những lởi mắng mỏ của Ucsula, và trước những lời chế giễu của anh mình, Aurêlianô Sêgunđô chỉ nghĩ sẽ gặp được một nghề cho phép anh duy trì ngôi nhà cho Phecnanđa và để chết với nàng, trên nàng và dưới nàng trong một đêm xả láng cuồng nhiệt. Khi đại tá Aurêlianô Buênđya mở lại xưởng kim hoàn, do niềm vui thanh thản của tuổi già lôi cuốn ngài, thì Aurêlianô Sêgunđô nghĩ rằng nếu theo nghề chế tạo những con cá vàng cũng là một điều tốt. Anh ở trong căn phòng nhỏ nực nụa nhiều giờ liền xem những tấm kim loại cứng được ngài đại tá kiên trì rèn đục đã dần trở thành những cái vẩy óng ánh.
Anh thấy công việc rất tỉ mẩn trong khi đó nỗi nhớ Pêtra Côtêt lại hết sức thôi thúc và da diết đến mức chỉ ba tuần sau anh biến khỏi xưởng. Đó là thời kỳ Pêtra Côtêt đang phát tài bằng việc lấy thỏ treo giải để mở xổ số. Những con thỏ này sinh ra và lớn nhanh như thổi. Chúng nhiều vô kể. Dù có tăng vé và số lần quay số lên nhiều lần ả vẫn không dùng hết thỏ vào việc trả thưởng. Thoạt đầu, Aurêlianô Sêgunđô không nhận ra những con thỏ này đã sinh sản như thế nào. Nhưng có một đêm, khi không một ai trong làng muốn bàn tán về các cuộc xổ số lấy thỏ, anh cảm thấy có tiếng sấm động ngay bên tường. "Anh đừng có mà giật mình nhé!", Pêtra Côtêt nói, "đó là những con thỏ đấy!". Bọn họ không thể ngủ thêm được nữa, băn khoăn trán trở vì nỗi lo cho đàn gia súc. Vào lúc trời hửng sáng, Aurêlianô Sêgunđô nở cửa và nhìn thấy ở sân lúc nhúc những thỏ là thỏ, lông xanh mượt trong ánh bình minh. Pêtra Côtêt cười ngặt nghẽo, không hể kìm được ý muốn chòng ghẹo anh:
- Những con thỏ này là những con vừa sinh ra đêm quạ lấy - ả nói.
- Eo ơi, sợ quá? - anh nói - Vì sao mình không thử với bò cái xem?
Ít ngày sau đó, dọn dẹp lại sân nhà, Pêtra Côtêt nuôi ở sân một con bò cái thay cho đàn thỏ. Vài tháng sau, con bò cái đẻ đinh ba. Mọi sự đều bắt đầu từ đấy. Nhanh như chớp, Aurêlianô Sêgunđô đã trở thành ông chủ, nắm trong tay nhiều ruộng đất và nhiều đàn gia súc và hầu như anh không có đủ thời gian để mở rộng hơn nữa các chuồng gia súc và bãi thả gia súc. Đó là một sự giàu có ngây ngất mà ngay chính anh cũng phải buồn đời và không thể tự kiềm chế nổi thái độ quá trớn để bộc lộ nỗi tiềm vui sướng của mình. "Hỡi những con bò cái, hãy giạng đáng ra kẻo cuộc đời quá ư ngắn ngủi", anh gào lên. Ucsula tự hỏi không biết anh đã phạm tội gì, nếu không ăn cắp thì cũng một tên ăn trộm gia súc và cứ mỗi bận nhìn thấy anh mở nút hai sâm banh chỉ để xịt bọt nó lên đầu mình một cách thích thú thì cụ chửi bới anh vì tội phá gia chi tử. Cụ không để cho anh yên thân lấy một lúc, do đó có một ngày Aurêlianô Sêgunđô lúc dậy với niềm vui điềm tĩnh, cầm một sọt tiền giấy, một xô hồ và một chổi phết hồ, hát trong họng những bài hát cũ của cụ. Phranxixcô - Con Người, rồi dán những tờ bạc một đồng pêsô lên tường nhà, dán từ trên xuống dưới, cả bên trong lẫn bên ngoài. Ngôi nhà cũ, vốn được quét vôi trắng từ hồi mua cây đàn pianô tự động, nay có vẻ mặt lạ lẫm dễ lầm với giáo đường của đạo Hồi. Trong khung cảnh lộn xộn của gia đình, trong lúc Ucsula bực tức, trong niềm vui của dân làng đổ ra đường để chứng kiến cảnh hợm mình của kẻ vén tay đốt nhà táng, Aurêlianô Sêgunđô cũng vừa dán xong những đồng tiền giấy lên nhà, kể từ bức tường mặt tiền đến tận nhà bếp, kể cả cầu tiêu và phòng ngủ, rồi ném số tiền thừa xuống sân.
- Bây giờ thì, - anh nói, - ta mong rằng không một ai trong nhà này sẽ xỉ vả ta về tiền bạc nữa.
Chuyện xảy ra là như thế. Ucsula sai bóc các tờ bạc bê bết dính các mảng vôi tường, và quét vôi trắng tường nhà. "Hỡi Thượng đế lòng lành của con", cụ cầu khẩn, "hãy làm cho chúng con lại nghèo như cái thuở mới thành lập làng này, để ở cuộc đời khác ngài khỏi bắt tội chúng con vì đã hoang phí tiền của". Những lời cầu khẩn của cụ được nghe theo nghĩa ngược lại. Quả có thế. Một người làm công lột những tờ bạc khỏi tường đã vô ý đụng phải bức tượng thánh Hôsê, một bức tượng thạch cao khổng lồ do một người nào đó đã đem đến nhà vào lúc chiến tranh sắp kết thức, và nó vỡ tiếng ra khi chạm phải mặt đất. Bên trong nó đựng toàn tiền vàng. Không một ai còn nhớ người nào đã mang tới nhà bức tượng to bằng cỡ người thực. "Ba người đàn ông đã mang nó tới", Amaranta nói. "Người ta nhờ tôi nói lại với nhà ta sẽ trông bức tượng này cho đến khi nào mùa mưa qua đi, và tôi đã bảo họ là hãy đặt ở đấy, ở trong xó kia, để không ai va chạm phải, và bọn họ đã cẩn thận để nó ở đấy và cũng từ dạo ấy nó vẫn nguyên ở đấy, vì chẳng bao giờ thấy họ trở lại tìm nó". Gần đây, Ucsula đã thắp nến và quỳ lạy trước bức tượng thánh Hôsê mà vẫn không nghi ngờ rằng: bên trong bức tượng thánh ấy lại có gần hai trăm ki lô vàng. Sự hiển linh muộn màng của lòng tin đa thần giáo trong cụ càng khoét sâu thêm nỗi lo lắng của cụ. Cụ nguyền rủa đống tiền vàng đáng giá này, nhét chúng vào ba tải gai, rồi chôn chúng ở một địa điểm kín đáo, để chờ đợi ba người lạ mặt sẽ đến đòi nó. Mãi về sau này, trong những năm tháng vất vả của tuổi già, Ucsula vẫn thường xen vào các buổi nói chuyện của các vị khách lạ lúc ấy đến nhà để hỏi rằng trong lúc loạn lạc họ có để ở đây một bức tượng thánh Hôsê bằng thạch cao nhờ gia đình trông hộ trong thời kỳ mưa gió không?
Những sự kiện ấy, vốn thường làm cho Ucsula lo lắng nhiều, lại là chuyện thường tình trong thời kỳ này. Macônđô bị chìm ngập trong sự tàn phá màu nhiệm. Những ngôi nhà tranh vách đất của các bậc sáng nghiệp giờ đây được thay thế bằng những ngôi nhà gạch, sàn láng xi măng và có rèm chắn nắng đan bằng những phiến gỗ nhỏ. Những ngôi nhà này càng làm cho không khí vốn đã nóng càng oi nóng hơn vào lúc hai giờ chiều. Cái làng cũ của cụ Hôsê Accađiô Buênđya lúc này chỉ còn lại những cây hạnh đào phủ đầy bụi sẵn sàng chịu đựng những hoàn cảnh còn khó khăn hơn nhiều, và con sông nước trong như pha lê mà những tảng đá thời tiền sử của nó đã bị đập vỡ thành từng mảnh vụn dưới sức nện điên cuồng những cú búa quai xuống của Hôsê Accađiô Sêgunđô, khi anh khởi sự công việc nạo vét lòng sông để thiết lập đường thuỷ trên con sông này. Đó là một giấc mơ khùng khùng điên điên có thể so sánh với những ước mơ của các vị tiền bối mình, bởi vì lòng sông ngổn ngang đá tảng cũng như các thác ghềnh trên nó đã ngăn cản sự đi lại bằng tàu thuyền từ Macônđô ra biển. Nhưng Hôsê Accađiô Sêgunđô, trong quyết tâm táo bạo thiếu tính toán, đã say sưa lao vào công việc. Cho đến lúc này anh vẫn chưa hề bộc lộ khả năng tính toán của mình. Ngoại trừ mối tình ngắn ngủi với Pêtra Côtêt, chưa bao giờ anh quen biết phụ nữ. Ucsula coi anh là một điển hình cho sự kém thông minh mà gia đình mình, trong lịch sử trường tồn của nó, đã sản sinh ra. Anh hầu như không có khả năng tự làm nổi bật mình ngay cả khi anh là người sành sỏi chơi gà chọi. Khi đại tá Aurêlianô Buênđya kể cho anh nghe về chiếc tàu Tây Ban Nha nằm cách biển mười hai kilômét, mà mạn tàu của nó bị hoá thành than đã được chính mắt ngài nhìn thấy trong lúc còn chiến tranh, thì câu chuyện này đối với những người khác trong thời gian dài có vẻ ma quái nhưng đối với anh là một điều dễ hiểu. Anh bán hết gà chọi với giá cao nhất, tập hợp trai làng và bỏ tiền ra mua cưa đục rồi khởi sự công việc to lớn gồm việc phá đá, khoét lòng sông bạt ghềnh, vượt thác… "Cái đó thì ta biết tỏng", Ucsula nói. "Cứ như thể thời gian chạy vòng tròn và giờ dây chúng ta trở lại từ đầu". Khi anh tin chắc rằng có thể cho tàu bè đi lại trên sông dược, Hôsê Accađiô Sêgunđô liền trình bày thật tỉ mỉ các kế hoạch của mình và người em dã cho anh đủ số tiền chi dùng cho công việc. Anh vắng mặt một thời gian dài. Người ta đang bàn tán rằng kế hoạch mua một chiếc tàu thuỷ của anh chỉ là một thủ đoạn để lấy tiền của ông em thôi, cũng là lúc một tin được lan truyền rộng rãi: một chiến thuyền đang tiến về gần thị trấn. Dân Macônđô, vốn đã quên khuấy những kỳ tích của cụ Hôsê Accađiô Buênđya, ồn ào kéo nhau ra bờ sông và với con mắt nghi ngờ họ đã nhìn thấy một con tàu đầu tiên đang từ từ tiến đến. Đó là con tàu đầu tiên và cũng là con tàu cuối cùng đã cập bến ở đây. Thực ra nó chỉ là một bê gỗ được hai mươi người đàn ông đi bộ dùng dây chão to cùng hò nhau kéo đi. Đứng ở cuối thuyền, với ánh mắt sáng đầy hào hửng, Hôsê Accađiô Sêgunđô diều khiển chuyến đi tốn kém này. Cùng về với anh còn có một tốp gái làng chơi diêm dúa đội những chiếc ô lộng lẫy để che ánh nắng gay gạt, trên vai quàng những tấm khăn lụa quý giá mặt trét bự son phấn, đầu gài hoa, những con rắn vàng cuốn lấy cánh tay và hàm răng cấy hạt ngọc. Cái bè gỗ ấy là phương tiện giao thông duy nhất mà Hôsê Accađiô Sêgunđô đã có thêm đẩy ngược dòng về tới Macônđô và cũng chỉ một lần ấy thôi. Nhưng sẽ không bao giờ anh chịu thừa nhận đó là sự thất bại của mình trong công việc khởi đầu, mà trái lại, lúc nào anh cũng tuyên bố đó là chiến tích của mình, là "một thắng lợi của ý nguyện". Anh trút lên vai em mình tất cả những tốn kém của chuyến đi được tính toán chi li. Cái duy nhất còn lại trong chuyến khởi đầu bất lợi này là luồng gió mới do những gái làng chơi theo mốt Pháp mang đến thị trấn. Nghệ thuật chiều đàn ông tuyệt vời của họ đã làm thay đổi lối chơi gái truyền thống, và ý nghĩa phúc lợi xã hội của nó đã đánh đổ tiệm bác Catarinô, biến đường phố thành một cái chợ chung với những ngọn đèn pha kiểu Nhật Bản và những chiếc máy hát phát ra những bản nhạc buồn nhớ. Họ là động lực cổ vũ ngày hội Cacnavan dẫm máu từng dìm Macônđô trong sợ hãi liền ba ngày và kết quả duy nhất còn lại mãi mãi của nó là việc nó tạo điều kiện cho Aurêlianô Sêgunđô làm quen với Phecnanđa đên Cacpiô.
Rêmêđiôt - Người đẹp, dược chọn làm hoa hậu. Ucsula, từng run sợ trước sắc đẹp mê hồn của cô chắt gái, không thể làm gì để ngăn cản việc tuyển chọn này. Cho đến tận lúc ấy cụ vẫn tìm mọi cách để không cho cô ra đường, nếu như không phải đi lễ mixa cùng với Amaranta, nhưng cụ buộc cô phải dùng tấm mạng đen che kín mặt. Những người đàn ông ít thành kính, những kẻ giả danh thày tu để làm lễ mixa bất kính ở tiệm bác Catarinô, đã đi nhà thờ với mục đích duy nhất để xem, dù chỉ một thoáng thôi, khuôn mặt của Rêmêđiôt - Người đẹp, mà sắc đẹp huyền thoại của nàng từng dược bàn tán sôi nổi khắp vùng đầm lầy. Chuyện ấy xảy ra khá lâu trước khi họ tìm được dịp là đối với họ cái dịp này còn quan trọng huên và trong cảnh nghèo túng làm những con cá vàng của mình. Ðiều khiến ngài phẫn nộ hơn cả là tin tức nói rằng chính ngài Tổng thống nước Cộng hoà đã dự định sẽ đích thân tham gia các hoạt động quần chúng ở Macônđô để gắn Huân chương Công huân cho đại tá.
Ðại tá Aurêlianô Buênđya đã nhờ nói lại chính xác từng từ một với ngài Tổng thống rằng mình thật lòng khao khát đợi cái dịp tuy là muộn mằn nhưng rất quý này để cho ngài Tổng thống một phát súng, không phải để ngài chuộc tội vì những bất công và không hợp thời của chế độ mà để ngài chuộc lấy cái tội dám hỗn xược đối với một cụ già vốn không làm hại ai cả. Ðó là lời cảnh cáo đanh thép mà đại tá đã nói ra miệng, do đó ngài Tổng thống nước Cộng hoà đến phút chót đã hoãn chuyến đi và để cho lễ mừng thêm long trọng, ngài đã phái một đặc phái viên đi thay mình. Ðại tá Hêrinênđô Mackêt, hoàn toàn ở yên một chỗ, đã rời bỏ giường bệnh bại liệt, đến an ỉn người bạn chiến đấu cũ của mình. Khi thấy xuất hiện một chiếc ghế xích đu được bốn người đàn ông khiêng, và thấy người bạn từng chia sẻ với mình mọi nỗi vinh nhục ngay từ thời trai trẻ ngồi trên nó bên những chiếc gối, thì đại tá Aurêlianô Buênđya nhận ra ngay rằng đại tá Hêrinênđô Mackêt gắng gượng đến để bày tỏ tình đoàn kết của mình. Nhưng khi đã biết ý định thực của chuyến viếng thăm này, ngài đã ra lệnh đuổi người bạn cố tri của mình ra khỏi xưởng kim hoàn.
- Thật là quá muộn ta mới hiểu rằng, - ngài nối với bạn mình, - nếu để chúng bắn anh thì ta đã làm phúc cho anh nhiều đấy.
Thế là ngày lễ thượng thọ của ngài đại tá được tiến hành không có sự tham gia của bất kỳ thành viên nào trong gia đình Buênđya. Lễ mừng này đã ngẫu nhiên trùng với tuần lễ hội giả trang Cacnavan nhưng không một ai có thể cởi bỏ cho đại tá Aurêlianô Buênđya cái ý nghĩ dai dẳng cho rằng sự trùng hợp ấy cũng đã được chính phủ dự tính trước để làm cho lời bắng bổ đó càng thêm thô bạo. Từ xưởng kim hoàn vắng lặng, ngài nghe các bản hành khúc hùng dũng, nghe hăm mốt loạt đại bác nổ, nghe những hồi chuông vang lên bản thánh ca tạ ân, và nghe một vài câu trong cái bài diễn văn đọc trước nhà mình khi họ lấy tên ngài đặt cho một đường phố. Khi mắt ngài nhoè nước mắt, thứ nước mắt tủi hờn, thứ nước mắt căm giận và lần đầu tiên kể từ khi chịu thất bại đến nay, ngài cảm thấy đau khổ vì không còn chí cái thế và sức bạt núi thời trai trẻ để mở một cuộc chiến đẫm máu đặng quét sạch chế độ Bảo hoàng. Giữa lúc những tiếng ồn vui vang vọng của ngày hội chưa dứt thì Ucsula gõ cửa xưởng kim hoàn.
- Ðừng làm phiền nữa, - ngài nói. - Ta đang bận.
- Mở cửa mau, - với giọng nói thường ngày, cụ đòi mở. - Việc này chẳng can dự gì với ngày hội đâu.
Thế là đại tá Aurêlianô Buênđya mở then cửa và ngài thấy ở trước cửa mười bảy người đàn ông hoàn toàn khác nhau, từ vóc dáng đến màu da, nhưng tất cả đều mang vẻ cô đơn mà qua đó ở bất cứ xó xỉnh nào trên mặt đất này người ta đều có thể nhận ra họ là anh em. Ðó là những người con trai của ngài. Không hề bảo nhau, cũng không hề quen nhau, họ đã đến đây từ những xó xỉnh hẻo lánh nhất của vùng duyên hải đang rộn ràng trong ngày hội náo nhiệt. Tất cả đều tự hào mang tên Aurêlianô kèm với tên họ của mẹ mình. Trong ba ngày ở lại nhà đại tá, để làm hài lòng Ucsula và khiến Phecnanđa phải ngạc nhiên, đôi lúc họ gây ra những vụ ẩu đả. Amaranta lục tìm trong đống giấy tờ cũ cuốn sổ tay trong đó Ucsula đã tự tay ghi lại tên, ngày tháng năm sinh, ngày đặt tên của tất cả và bà chỉ cho từng người phòng ở hiện tại thuộc về mình. Danh sách ấy cho phép nhớ lại hai mươi năm chiến tranh. Với danh sách này người ta có thể dựng lại những hành trình ban đêm của đại tá, kể từ buổi sáng sớm chàng đi khỏi làng Macônđô dẫn đầu hai mươi mốt chàng thanh niên để gia nhập một cuộc khởi nghĩa đầy ảo tưởng, cho đến lần cuối cùng trở về mình lẩn trong chiếc áo khoác bê bết máu khô. Aurêlianô Sêgunđô không bỏ lỡ dịp chúc mừng các ông chú mình bằng việc ồn ĩ mở tiệc vui gồm rượu sâm banh và đàn phong cầm và tiệc vui này ồn ĩ vui nhộn đến mức được liệt hạng hay hơn cả vũ hội Cacnavan không thành vì trùng với lễ thượng thọ của đại tá do chính phủ tổ chức. Họ đập vỡ một nửa số cốc tách, xéo nát cả các vườn hoa để đuổi theo một chú bê non. Họ bắn súng để giết gà, buộc Amaranta phải nhảy những điệu van buồn của Piêtrô Crêspi, dỗ ngon dỗ ngọt Rêmêđiôt - Người đẹp để cô mặc quần đàn ông leo cột mỡ, rồi thả một chú lợn bôi dày mỡ chạy trên hành lang và con lợn này đã húc ngã Phecnanđa. Nhưng không một ai ca thán những trò nghịch ngợm quá trớn ấy, bởi vì ngôi nhà rung lên như một trận động đất trước trò vui trong đó sức khoẻ cường tráng của con người được tràn ra. Ðại tá Aurêlianô Buênđya, vốn lúc đầu tiếp họ hờ hững và thậm chí còn hồ nghi một số người có quan hệ máu thịt với mình, đã cùng vui với niềm vui sôi nổi của họ và trước khi họ ra đi ngài đã tặng mỗi nhời một con cá vàng. Ngay đến cả Hôsê Accađiô Sêgunđô vốn ngạo đời, cũng hiến cho bọn họ một buổi chiều chơi gà chọi mà tí nữa gây ra tai nạn, vì một số trong số mười bảy anh em Aurêlianô này vốn là những tay sành sỏi trong các sởi thi gà chọi, do đó mới thoáng nhìn cú đá đầu tiên họ đã lập tức phát hiện ra những thủ đoạn ma quái của cha Antôniô Isaben. Aurêlianô Sêgunđô, đứng xem những người anh em cùng chung một bát máu sôi nổi chơi những trò vui vô tận đầy lý thú, đã quyết định mời mọi người ở lại làm việc với mình. Người duy nhất chấp nhận lời mời là Aurêlianô Tristê, một thanh niên lai đen lực lưỡng vốn kế thừa được nhiệt tình hăng say và lòng ham tìm tòi khám phá của ông nội, người từng nếm trải đủ mọi gian truân ở khắp nới, do đó anh cho rằng mình sống ở đâu cũng vậy. Những người khác mặc dù vẫn còn chưa vợ, đã tự quyết định lấy vận mệnh của mình. Tất cả đều là thợ thủ công thạo nghề, đều là trụ cột của gia đình, đều là dân hiền lành. Ngày thứ tư Lễ tro, trước khi mỗi người một ngả đi khắp vùng duyên hải, Amaranta tìm mọi cách để họ mặc quần áo đẹp ngày chủ nhật và đưa bà đi nhà thờ. Thích thú hơn là sùng tín, họ đã để cho mình bị cuốn vào tận nơi làm lễ kiên tin. Chính tại đây cha Antôniô Isaben đã lấy tro vạch một chữ thập lên trán từng người. Về đến nhà, người nhỏ tuổi nhất muốn lau trán đã phát hiện ra vết tro không thể rửa sạch được, rồi ngay sau đó, cậu phát hiện ra vết tro của các anh cậu cũng không thể rửa sạch được. Họ thử lấy nước xà phòng, rồi lấy đất và bã cọ, rồi lấy đá kỳ và dung dịch kiềm, vẫn không tài nào xoá được chữ thập trên trán mình. Trái lại, Amaranta và những người khác đi dự lễ mixa đều dễ dàng chùi sạch chữ thập ấy trên trán mình. "Chúng ra đi như vậy càng tốt", - Ucsula nói, - "Từ đây trở đi không một ai có thể nhầm lẫn chúng". Họ ồn ĩ ra đi trong tiếng pháo và âm nhạc đưa tiễn, và để lại cảm giác rằng dòng họ Buênđya đã gieo giống ở khắp mọi nơi cho muôn đời. Aurêlianô Tristê, với chữ thập xám màu tro trên trán, đã lập ở ngoài bìa làng một nhà máy làm nước đá mà Hôsê Accađiô Buênđya từng mơ thấy trong những đam mê sáng tạo của cụ.
Ở được mấy tháng, nghĩa là khi đã là người quen thuộc và được mọi người trọng nể, Aurêlianô Tristê đi tìm một ngôi nhà để đưa mẹ và cô em gái chưa chồng (vốn không phải là con gái ngài đại tá) đến ở với mình và anh thích ngôi nhà cổ lỗ dường như bỏ hoang ở phố gần quảng trường. Anh hỏi ai là chủ ngôi nhà ấy. Có người bảo anh rằng đó là nhà vô chủ, rằng trước đây có một bà goá cô đơn chuyên ăn đất và vôi tường để sống đã ở ngôi nhà này và rằng trong những năm cuối đời, người ta chỉ hai lần nhìn thấy bà ra đường đội một chiếc mũ gài nhiều bông hoa giả nhỏ li ti và đi đôi giày cũ màu bạc khi bà đi ngang qua quảng trường để đến bưu điện gửi thư cho đức Giám mục. Người ta bảo anh rằng người bạn gái duy nhất của bà là một người ở gái rất ác vẫn thường giết chó, giết mèo và bất kỳ con vật nào dám bén mảng vào nhà, rồi vất xác chúng ra giữa đường cái khiến cả làng ngột ngạt trong mtù hôi xác con vật thối rữa. Kể từ độ mặt trời sấy khô bộ da con vật cuối cùng bị ném ra giữa đường cái đến nay đã trải qua một thời gian rất dài, đến mức cả làng thống nhất cho rằng bà chủ và người ở gái đã chết từ trước khi chiến tranh kết thúc rất lâu, và nói rằng ngôi nhà vẫn còn đứng vững được là vì trong nhiều năm gần đây chưa hề có một cơn lốc cũng như chưa có mùa đông ác nghiệt nào, các bản lề cửa đã rời rã hết vì gỉ; những cánh cửa hầu như vẫn đứng yên được là nhờ mạng nhện giăng chằng chịt, các cửa sổ vẫn bám vào nhau nhờ có hơi ẩm; nền nhà nứt nẻ hết bởi cỏ và hoa dại mọc um tùm, và những kẽ nẻ này là nơi để thằn lằn và đủ loại con vật ghê tởm làm tổ, tất cả những thứ đó dường như cùng phụ hoạ nói lên rằng tại ngôi nhà này ít nhất là từ nửa thế kỷ nay không có ai sinh sống. Aurêlianô Tristê, vốn thích mạo hiểm, không cần thêm nhiều bằng chứng. Anh lấy vai khẽ ẩy cửa chính, thế là cái khung cửa gỗ đã mọt bỗng đổ xuống không hề gây tiếng động trong một trận mưa bụi và cứt mọt. Aurêlianô Tristê đứng yên ở bậc cửa đợi cho đến khi luồng bụi mù mịt bay đi hết, và lập tức anh nhìn thấy ngay ở giữa phòng khách có một người đàn bà gầy guộc, vẫn ăn mặc theo mốt thế kỷ trước, trên cái đầu trọc vẫn còn vương một vài mớ tóc hung, đôi mắt to vừa tắt đi những tia sáng hy vọng vẫn còn đẹp, và da mặt nhăn nhúm lại bởi nỗi cô đơn chua xót. Ðang hoảng hốt trước hình ảnh của con người đã thuộc về một thế giới khác, Aurêlianô Tristê hầu như vẫn chưa hay rằng người đàn bà ấy đang chĩa nòng khẩu súng lục cũ về phía mình ngắm bắn.
- Bà thứ lỗi cho, - anh khẽ nói.
Bà ta đứng yên ngay giữa phòng khách mù mịt bụi, chăm chú quan sát người đàn ông to lớn có tấm lưng vuông vức, trên trán xăm bức hình cây Thánh giá màu xám tro, và qua làn bụi mù mịt này bà lại thấy. anh trong một làn sương mờ thuộc một thời khác, khoác chéo ngực một khẩu súng săn hai nòng và tay xách một xâu thỏ.
- Trời ơi? Vì tình yêu thương của Thượng đế, - bà ta khẽ thốt lên, - có lẽ nào giờ đây anh lại trở về với em bằng ký ức này?
- Thưa bà, cháu muốn thuê ngôi nhà này ạ, - Aurêlianô Tristê nói.
Thế là người đàn bà giương khẩu súng lên, nhắm thẳng vào chữ thập màu tro ở trán anh, rồi lên đạn một cách kiên quyết.
- Xéo ngay? - bà ra lệnh.
Ðêm ấy, trong lúc ăn tối, Aurêlianô Tristê kể lại câu chuyện này cho cả nhà nghe, Ucsula bật khóc nức nở. "Lạy Thượng đế thánh thần?", hai tay ôm lấy đầu, cụ thốt lên, "Nó vẫn sống ư".
Thời gian, chiến tranh, những nỗi bất hạnh thường ngày nhiều vô kể đã khiến cụ quên khuấy Rêbêca. Người duy nhất không lúc nào không ý thức rằng Rêbêca vẫn còn sống là Amaranta già nua và ương bướng. Amaranta nghĩ đến Rêbêca vào lúc trời sáng khi cơn băng giá của trái tim đánh thức bà dậy trên chiếc giường cô đơn, rồi nghĩ đến Rêbêca khi bà xoa xà phòng lên bộ vú teo và cái bụng nhăn nheo, khi bà mặc đồ lót của tuổi già, và khi bà thay tấm băng đen trên bàn tay mà bà đã tự mình nhúng vào bếp đang rực than hồng để trừng trị mình.
Amaranta nghĩ tới Rêbêca vào tất cả mọi giờ, dù ngủ hay thức, dù vui hay buồn, bởi vì nỗi cô đơn đã buộc bà phải lựa chọn những kỉ niệm, phải đất bỏ hàng đống rác rưởi buồn nhớ của cuộc đời đã dồn tụ lại trong trái tim mình, và mặt khác đã thanh lọc, đã nâng cao, đã vĩnh hằng hoá những kỉ niệm khác, những kỉ niệm chua chát nhất của đời mình. Qua bà, Rêmêđiôt - Người đẹp biết được sự tồn tại của Rêbêca. Cứ mỗi bận họ đi qua ngôi nhà rách nát, bà kể cho cô cháu nghe về một sự kiện nhàm chán, hay một câu chuyện ngụ ngôn tục tĩu, rồi thông qua hình thức này cố làm cho cô cháu chia sẻ với mình nỗi hận thù đã nguội đi và do đó cố kéo dài nó cho đến khi chết. Nhưng bà đã không thực hiện được các mực đích của mình, bởi vì Rêmêđiôt - Người đẹp hoàn toàn ngây thơ trước mọi thứ tình cảm dễ xúc động và hơn nữa cũng dửng dưng trước những tình cảm quá ư xa xôi đối với mình. Trái lại, Ucsula, người từng chịu đựng sự dằn vặt khác hẳn với sự dằn vặt của Amaranta, đã nhớ tới Rêbêca trong một kí ức thanh sạch hơn, bởi vì hình ảnh một con bé đáng thương được người ta mang đến nhà cùng với tải hài cất của cha mẹ nó dã chiến tcô chắt gái.
Tin đồn rằng Rêmêđiôt Buênđya sẽ làm chủ ngày hội đã lan đi khắp vùng đồng lầy, bay tới tận những hang cùng ngõ hẻm vốn là nơi sắc đẹp lừng danh của cô vẫn chưa được biết tới và nó gây nên nỗi lo lắng cho những ai đến lúc này còn nghĩ rằng tên họ của cô là biểu tượng cho sự bại hoại. Đó là một nỗi lo không có cơ sở. Nếu có ai trong lúc đó không còn đáng lo ngại nữa thì người đó là ngài đại tá Aurêlianô Buênđya, một cụ già buồn bã, ngày một để mất dần mối liên hệ giữa mình với thực tại đất nước. Giam mình trong xưởng kim hoàn, mối liên hệ duy nhất của ngài với bên ngoài chính là việc buôn bán những chú cá vàng. Một trong số những người lính từng canh gác ngôi nhà đại tá khi hoà bình mới lập lại, ngày ngày đi tới các làng lân cận bán cá vàng và trở về nhà khuân theo tiền vàng và tin tức.
Có tin nói rằng chính phái Bảo hoàng được sự giúp đỡ của phái Tự do đã làm lại luật pháp để mỗi vị Tổng thống có quyền ở ngôi trong khoảng trăm năm. Có tin nói rằng một bản thoả ước với toà thánh Vatican đã được ký kết và nói rằng một vị Hồng y Giáo chủ đội vương miện lấp lánh kim cương, cưỡi trên một ngai bằng vàng cũng đã từ thành Rôm đến và các vị bộ trưởng thuộc phái Tự do đã cho chụp ảnh buổi lễ họ quỳ gối hôn lên chiếc nhẫn của ngài. Có tin nói rằng cô đào cảnh của một gánh hát Tây Ban Nha, trong đêm nghỉ lại ở thủ đô, đã bị một toán người đeo mặt nạ bắt cóc ngay trong phòng ngủ và ngay ngày chủ nhật cô ta đã khoả thân khiêu vũ ở nhà nghỉ mát của ngài Tổng thống nước Cộng hoà. "Chớ có nói chuyện chính trị với ta?", ngài đại tá nói với người lính. "Vấn đề của chúng ta là bán cá vàng". Lời đồn đại nói rằng sở dĩ ngài đại tá không muốn hay biết gì về hoàn cảnh đất nước lã vì ngài đã làm giàu nhờ xưởng kim hoàn của mình, khi đến tai Ucsula đã khiến cụ phải bật cười với cảm quan thực tế rất sắc nhậy của mình, cụ không thể hiểu được công việc kinh doanh của ngài đại tá hết đổi những con cá vàng lấy những đồng tiền vàng, để rồi sau đó lại biến những đồng tiền vàng thành những con cá vàng và cứ như thế luân hồi mãi theo cách thức: càng phải lao động nhiều hơn khi bán được nhiều hơn để thoả mãn cái vòng luẩn quẩn vô vọng.
Quả thế thực, đối với ngài đại tá điều khiến ngài thích thú không phải là kinh doanh mà là lao động. Ngài phải tập trung tâm tưởng đến cao độ để xếp các vảy, để khảm con ngươi vàng bé tí hin vào đôi mắt, để dát mỏng các vảy trước vây sau, để cắm đuôi cho con cá, mà do đó trong tâm tưởng ngài không có chỗ trống để cho nỗi thất vọng vì chiến tranh lẩn vào. Cái nghề nghiệp kỳ khu tỉ mẩn đòi hỏi ngài phải dốc hết trí lực đã làm cho ngài già khọm đi rất nhanh, nhanh hơn tất cả những năm tháng chinh chiến gian lao cộng lại, tư thế ngồi làm việc đã vặn cong sống lưng ngài và con ngươi mắt ngài đã mờ đi mất hết sức nhìn, nhưng sự tập trung tư tưởng cao độ trong công việc đã trọng thưởng ngài, cho ngài một tinh thần thanh thản. Lần cuối cùng người ta thấy ngài quan tâm tới một vài vấn đề có liên quan đến chiến tranh, ấy là khi các cựu chiến binh của cả hai chính đảng đã cầu viện sự giúp đỡ của ngài để đòi chính phủ phải thông qua lương hưu chiến tranh, một thứ lương luôn luôn được hứa hẹn nhưng cũng luôn luôn ở tình trạng mới khởi sự công việc. "Các ngài hãy quên quách nó đi", ngài nói với họ. "Các ngài thấy đấy, ta đã từ chối nó để tránh phải đau khổ trong mỏi mòn trông đợi cho đến chết". Lúc đầu, đại tá Hêrinênđô Mackêt đến thăm ngài vào tất cả các buổi chiều, cả hai ngồi ở cửa nhìn ra đường để cùng nhớ lại quá khứ của mình.
Nhưng Amaranta lại đau khổ không thể ghìm được những kỷ niệm xưa được gợi lại do chính người đàn ông mệt mỏi mà cái đầu hói của ông ta đã đẩy ông ta vào vực sâu của sự già trước tuổi, và do đó bà đã làm khổ ngài bằng những cái không đâu, cho đến khi ngài chỉ đến chơi nhà vào những dịp đặc biệt rồi thì không đến nữa vì bệnh bại liệt buộc ngài phải nằm yên một chỗ. Lầm lỳ, lặng lẽ, không hề nhận ra luồng gió mới đầy sinh khí đang lộng thổi trong nhà mình, ngài đại tá Aurêlianô Buênđya hầu như mới chỉ lùểu được rằng cái bí mật của một tuổi già bình yên không phải là cái gì khác mà chính là sự gắn bó sâu sắc với cái cô đơn. Ngài thức dậy vào lúc năm giờ sáng sau khi ngủ giấc ngủ chập chờn, uống tách cà phê không đường vốn gắn với cả đời ngài, sau đó tự giam mình trong xưởng kim hoàn, rồi đến bốn giờ chiều, ngài kéo lê chiếc ghế đẩu đi dọc theo hành lang mà không hề nhìn vườn hồng đỏ rực hoa, không hề để ý tới vẻ kiên nhẫn đầy nghị lực của Amaranta mà mỗi buồn của bà đang dõi theo một tiếng động kêu u u được cảm nhận vào lúc chiều xuống, rồi ngài ngồi ở trước cửa nhìn ra đường cho tới khi muỗi đốt dữ dội mới thôi. Đôi lúc có người nào đó dám làm khuấy động nỗi cô đơn của ngài.
- Có khoẻ không, ngài đại tá? - họ hỏi ngài khi đi qua.
- Vẫn thế, - ngài trả lời. - Tôi đang đợi đám tang của mình đến.
Vậy là nỗi lo ngại được gây nên bởi sự xuất hiện lại một cách công khai của họ Buênđya qua việc phong hoa hậu cho Rêmêđiôt - Người đẹp đã mất đi những cơ sở thực tiễn của nó.
Tuy nhiên, rất nhiều người không tin như vậy. Ngây thơ trước thảm hoạ đe doạ mình, dân chúng đổ xô về quảng trường lớn trong niềm vin ồn ào khôn xiết. Vũ hội Cacnavan đã đạt tới đỉnh cao cuồng nhiệt, còn Aurêlianô Sêgunđô thoả chí với việc mình giả dạng con hổ, và anh sung sướng đi giữa đám đông tự buông thả, mà gào mà hát tới khản cả cổ họng. Ngay khi đó, trên con đường từ đầm lầy dẫn vào thị trấn xuất hiện một đoàn người giả trang đủ màu đủ vẻ, rước cỗ kiệu thếp vàng trên đó có một cô gái đẹp lộng lẫy đến mức người ta không dám nghĩ tới.
Những cư dân hiền lành của thị trấn Macônđô cùng một lúc gỡ bỏ mặt nạ để có thể nhìn rõ hơn cô gái lộng lẫy trong chiến vương miện gài ngọc bích và chiếc áo khoác bằng lông điểu thử, dường như cô là một hoàng hậu đích thực chứ không phải là một hoa hậu trong vũ hội giả trang Cacnavan. Không thiếu người có lý trì sáng suốt đủ để nghi ngờ rằng đoàn người đó đang định khiêu khích. Nhưng Aurêlianô Sêgunđô đã ngay lập tức vượt qua được tình trạng rắc rối phức tạp này, và anh tuyên bố rằng những kẻ mới đến là khách mời danh dự, rồi anh trịnh trọng đặt Rêmêđiôt - Người đẹp và hoàng hậu đóng giả cùng ngồi trên đài cao. Đến nửa đêm, những người lạ mặt giả trang người Bơđuyn(2) tham gia các trò vui ngây ngất của đêm hội và họ đã khiến trò vui thêm phong phú hơn với thuật hoả công rực rỡ và cả các trò ảo thuật leo dây khiến mọi người nghĩ đến các trò chơi màu nhiệm của người digan. Bỗng nhiên, trong lúc đêm hội đang náo nhiệt nhất, có một người nào đó đã phá vỡ không khí hội hè đầm ấm.
- Đảng Tự do muôn năm! - anh ta hô. - Đại tá Aurêlianô Buênđya muôn năm!
Những tràng súng nổ đã dập tắt ánh sáng rực rỡ muôn màu của pháo hoa, những tiếng kêu thất thanh đầy hoảng sợ đã bóp nghẹt âm nhạc rộn ràng, và nỗi sợ hãi đã xua tan niềm vui.
Nhiều năm sau này dư luận vẫn tiếp tục khẳng định rằng đội lính hoàng gia bảo vệ hoàng hậu đóng giả là một trung đội lính thường trực từng giấu vũ khí thông thường bên dưới bộ áo đẹp đẽ của người Bơđuyn. Trong một thông cáo đặc biệt chính phủ phản đối dư luận trên và hứa sẽ tiến hành điều tra dứt khoát vụ đổ máu này. Nhưng sự thật chẳng bao giờ được làm sáng tỏ, còn lời giải thích rằng đội cận vệ hoàng gia không hề có biểu hiện khiêu khích nào, đã tác chiến theo mệnh lệnh của viên chỉ huy và đã nổ súng không thương tiếc vào đám đông thì vẫn dai dẳng tồn tại mãi. Khi trật tự được lặp lại, cả thị trấn này không còn bóng dáng một người Bơđuyn giả dạng nào, trên quảng trường còn lại những kẻ bị thương và những xác chết, trong đó có ba thằng hề, bốn người đóng vai Côlông, mười bảy hoàng đế, một con quỷ, ba nhạc công, ba hoàng hậu Nhật Bản. Trong lúc hỗn độn đầy hoảng sợ, Hôsê Accađiô Sêgunđô đã kịp cứu thoát Rêmêđiôt - Người đẹp, và Aurêlianô Sêgunđô kịp ôm lấy cô gái đóng giả hoàng hậu với quần áo xộc xệch, chiếc áo khoác lông điểu thử đẫm máu để chạy trốn. Cô gái tên là Phecnanđa đên Cacpiô. Người ta đã chọn cô trong số năm ngàn cô gái đẹp nhất nước và mang cô đến Macônđô với lời hứa sẽ phong cô là hoàng hậu xứ Mađagasca. Ucsula chăm sóc cô như chăm sóc con gái mình. Dân làng, đáng lẽ sẽ hoài nghi vẻ ngây thơ của cô thì lại thương hại đức tính chân thực của cô gái. Sáu tháng sau vụ thảm sát, khi những người bị thương đã bình phục hẳn và những bông hoa cuối cùng để ở mộ chung đã héo, Aurêlianô Sêgunđô đã đi tìm cô ở một thành phố xa xăm, nơi cô đang sống với cha mình, rồi sau đó cưới cô ở thị trấn Macônđô trong một tiệc vui ồn ĩ kéo suốt hai mươi ngày.
 
Chú thích:
(1) El Cachorro, tiếng Tây Ban Nha, nghĩa: Cáo con.
(2) Người A-rập du cư thường sống ở nước họ hoặc sông rải rác ở Syri hoặc ở Châu Phi xích đạo

Truyện Trăm năm cô đơn Lời giới thiệu Cốt truyện và đề tài Nhân vật và thông điệp Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 a">Scan và Chuyển texte : Mọt Sách / Hiệu Định : Nguyễn Học ( MHN )
Nguồn: VNthuquan - Thư viện Online
Được bạn: ms đưa lên
vào ngày: 17 tháng 10 năm 2007

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--