Dịch giả: Tĩnh Hà - Kiều Oanh
Chương 18
Tháo gỡ bế tắc

Tôi trở về từ Haverford qua Washington. Tại đó tôi lấy thêm tám tập của Bản nghiên cứu McNamara từ văn phòng Rand để mang về nhà tôi ở Santa Monica. Tôi quyết định chưa đọc vội những nghiên cứu đầu tiên trong giai đoạn 1945-1960 vì lúc đầu cho rằng những nghiên cứu đó không liên quan nhiều lắm đến tình hình hiện tại. Đó là sai lầm của tôi. Giờ đây tôi đọc tài liệu để chứng minh với các tài liệu chính thức, tuyệt mật nội bộ của chính phủ Mỹ những gì tôi đã đọc trong các báo cáo của các nhà báo và sử gia Pháp. Không một tập tài liệu nào trong nghiên cứu này có tác động tới quan điểm của tôi về cuộc chiến tranh sâu sắc như vậy. Những tập tài liệu tôi đọc sau này hầu như không khiến tôi ngạc nhiên(98).
Nhưng đối với tôi, ngoài những kết luận đạo đức mà tôi đã lý giải, còn có những kết luận nhận thức và chiến thuật rút ra được từ những gì tôi đọc được trong tháng chín này. Những kết luận này không những bổ sung cho những nghiên cứu trước đây của tôi mà còn khiến tôi tin rằng dòng chảy lịch sử sẽ thay đổi như thế nào trong những tháng tới. Mặt khác, những phát hiện này khép lại một điều bí ẩn "sa lầy" đối với tôi, một khái niệm mà các đời Tổng thống đã bị lừa dối vào những thời điểm bước ngoặt bởi tính lạc quan hão huyền của các cố vấn quân sự và dân sự. Rõ ràng là khi quyết định trực tiếp hậu thuẫn cho Pháp vào tháng 5-1950 (sau nhiều năm cho phép viện trợ của Mỹ được sử dụng gián tiếp để hỗ trợ cho chiến tranh), Harry Truman, giống như 4 người tiền nhiệm, phải chịu trách nhiệm vì đã để xảy ra "thập kỷ đẫm máu" do "khủng hoảng".
Tương tự như vậy, sự hỗ trợ của Eisenhower sau năm 1954 về một nhà nước cảnh sát nhằm bắt bớ, làm câm họng và thủ tiêu tất cả các phần tử chính trị tại Việt Nam, dù là Cộng sản hay phi cộng sản, những ai kêu gọi tuân thủ theo các điều khoản của Hiệp định Geneva đòi tổng tuyển cử thống nhất đất nước, bảo đảm rằng cuộc đấu tranh vũ trang sẽ tiếp tục. Chúng ta không có quyền thắng trong cuộc chiến đó hơn người Pháp đã làm, và đó là con số không tròn trịa. Hơn thế nữa, mặc dù giống như người Pháp với sự hậu thuẫn của người Mỹ, chúng ta có thể kéo dài cuộc chiến năm này qua năm khác nhưng triển vọng để chúng ta chiến thắng cũng chẳng sáng sủa gì hơn người Pháp. Lại một con số không tròn trịa nữa.
Luận điểm về triển vọng chiến thắng đã được các nhà cố vấn có thẩm quyền trình bày trước tất cả các vị Tổng thống từ đời Truman trở đi. Vị Tổng thống nào cũng được thông báo về khả năng rằng sự tiếp cận mà ông ta lựa chọn chắc chắn sẽ đi đến bế tắc hoặc nếu may lắm thì chỉ trì hoãn được sự thất bại mà thôi. Đó là thông điệp hàng năm của riêng tôi kể từ năm 1966; nhưng từ năm 1946, cá nhân các vị Tổng thống đều nhận được bức thông điệp này từ những nguồn đáng tin cậy hơn nhiều. Tuy nhiên ai trong số họ cũng quyết định "khăng khăng làm theo ý mình", lừa dối dư luận về những gì họ đang làm hay về triển vọng chiến thắng.
Những dự đoán nội bộ về thời điểm đưa ra các quyết định cũng không làm thay đổi tới quyết định của Tổng thống. Như tôi đã hy vọng và chờ mong, tháng 3-1969, Tổng thống Mỹ, Nixon phần nào nhận thức được tình hình thực tế từ những câu trả lời cho Tài liệu nghiên cứu An ninh quốc gia 1 (NSSM l) hoàn toàn phù hợp để ông ta quyết định hành động khác đi so với quyết định hành động mà Halperin đã tiết lộ cho tôi biết vào tháng tám. Dựa trên cơ sở những tài liệu có được từ năm 1946, việc "nói sự thật riêng và bí mật với Tổng thống - những gì mà tôi và các bạn đồng nghiệp coi là cơ hội lớn nhất và cao quý nhất để phục vụ cho quốc gia - hoàn toàn không phải là cách nhiều triển vọng để kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam.
Kết luận đó đã thách thức giả thuyết vốn là kim chỉ nam cho toàn bộ sự nghiệp của tôi. Để đọc được liên tục các tài liệu đánh giá tình báo và những dự đoán về chiến tranh Việt Nam từ năm 1946 trở đi cũng có nghĩa là đánh mất đi ảo tưởng rằng cung cấp thông tin cho ngành hành pháp là chiếc chìa khoá để kết thúc chiến tranh - hoặc hoàn thành nghĩa vụ công dân. Dường như chỉ khi quyền lực gây ảnh hưởng đến ngành hành pháp với những tác động quan trọng chia sẻ trách nhiệm về sau này thì Tổng thống mới hết muốn tiếp tục leo thang chiến tranh Việt Nam và chấp nhận "thất bại". Bằng sự im lặng đó - dù sự tư vấn riêng có khôn ngoan và thẳng thắn đến đâu đi nữa - nó ủng hộ và tham gia vào cấu trúc quyền lực hành pháp trực tiếp mà trong những hoàn cảnh như của Việt Nam nó dẫn đến cách ứng xử cứng nhắc và vô vọng. Tiếp thu và làm theo khái niệm đó không thống nhất với ý định làm việc lâu dài cho Rand mà tôi sẽ quay lại với ước muốn và kỳ vọng sẽ làm việc hết đời tôi ở đó.
Đó không phải là tất cả. Cùng với những ẩn ý về tính bất hợp pháp trong chính sách của chúng ta và nhu cầu cấp bách thay đổi chính sách đó, những tập đầu tiên của Hồ sơ Lầu Năm Góc khẳng định với tôi những gì mà tôi đã bắt đầu nghi ngờ khi tôi đọc hai tập tiếp theo trong vòng hai năm sau đó: Tổng thống là một phần trong những rắc rối. Đây rõ ràng là vấn đề liên quan tới vai trò của ông ta, chứ không phải tính cách hay đảng của ông. Khi tôi bắt đầu nhìn nhận ra vấn đề, sự tập trung quyền lực trong ngành hành pháp kể từ chiến tranh thế giới lần thứ hai đã tập trung tất cả trách nhiệm khi chính sách thất bại vào một người, đó chính là Tổng thống. Đồng thời nó cho phép Tổng thống có khả năng trì hoãn hoặc chối bỏ thất bđi của bản thân bằng cách gian lận hay dùng thế lực của mình. Khi gặp phải sự kháng cự quyết liệt từ bên ngoài, như trong trường hợp của Việt Nam, quyền hành đó đã làm hư hỏng con người nắm giữ nó.
Cách duy nhất để có thể thay đổi hành động của Tổng thống là gây sức ép đối với ông ta từ bên ngoài, từ Quốc hội và dư luận.
Cơ may duy nhất để huy động điều đó là cho những người ngoài biết Nixon thích hành động như thế nào. Rất tiếc tôi không có tài liệu để chứng minh điều đó là đúng, để bác bỏ sự hào nhoáng bề ngoài lừa dối người khác mà người ta hy vọng Nhà Trắng sẽ trưng ra như cách không leo thang chiến tranh và rút toàn bộ quân Mỹ khỏi Việt Nam. Không có những tài liệu này, báo cáo của tôi thiếu sức thuyết phục, thậm chí không thể tin được.
Halperin và Vann biết sự thật, nhưng tôi lại không nảy ra ý định hối thúc họ công bố công khai những gì họ đã nói với tôi. Họ cũng không có tài liệu để chứng minh được điều đó, và thực ra (cũng giống như tôi), họ vốn dĩ không được biết điều này và cũng không muốn tiết lộ nguồn thông tin tuyệt mật của họ. Vì lý do tương tự, tôi không hề có ý định tiết lộ nguồn thông tin tuyệt mật của họ, khiến họ mất việc. Có những người sẽ đáng giá cao và trân trọng quan điểm của tôi, mặc dù như tôi đã dự đoán (và phát hiện ra) thậm chí họ biết những gì tôi đòi hỏi là "cực đoan", gieo rắc hoang mang lo sợ, hầu như không thể tin nổi: rằng Nixon đang theo đuổi chính sách không thực tế, không được lòng dân trong hoàn cảnh cuối năm 1968. Tất nhiên chưa ai trong số họ đã đọc Hồ sơ Lầu Năm Góc cả.
Nếu người Mỹ không được tiếp cận với các tài liệu chứng minh tất cả những gì Tổng thống chuẩn bị làm hoặc được nghe những bản báo cáo từ các thành viên hiện nay của chính quyền Tổng thống, thì có lẽ cách tiếp cận tốt thứ hai là cho họ thấy những kiến nghị công khai của các quan chức có quyền hành lớn trước đây hoặc các nhà phân tích cho rằng họ được tiếp cận với thông tin tuyệt mật, cho dù không được tiếp cận với các kế hoạch cấp cao nhất hiện nay. Trong phương án đầu tiên là các nhân sĩ mà tổ chức quyền góp Camegie đã tập hợp tại Bermuda hai năm trước đó. Theo phương án thứ hai sẽ có những người đồng nghiệp trong Công ty Rand của tôi, những người mà đã hơn một năm nay hối thúc việc Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Có lẽ bằng cách công khai với các quan điểm "chuyên môn cao" của chúng tôi, chúng ta có thể mời nhóm thứ nhất tham gia cùng, cụ thể là mời các đảng viên Đảng Dân chủ kêu gọi rút quân khỏi Việt Nam. Bằng cách làm việc đó công khai, trước khi Nixon cam kết bản thân với chính sách mà ông ta thích, họ không những có thể gây sức ép với ông ta mà còn trấn an với ông ta rằng họ sẽ chia sẻ trách nhiệm đối với việc rút quân. Đặc biệt là vào tháng chín sau khi đọc xong về toàn bộ quãng thời gian 23 năm trong nghiên cứu McNamara, tôi dần dần nhận ra sự trấn an của các chính trị gia đối thủ với nhau là cực kỳ quan trọng đối với sự sẵn sàng của Tổng thống để đối mặt với những cáo buộc "đã thua cuộc trong chiến tranh".
Các nhà lãnh đạo trong phe đối lập của Đảng Dân chủ, bao gồm các quan chức trước đây phải chấp nhận, trái ngược với bản năng của họ, rằng việc rút quân và tránh sa lầy tại Việt Nam bây giờ là chính sách thích hợp, là lợi ích tối cao và sự bất đồng quan điểm công khai của họ đối với chính sách của Tổng thống là quan trọng và đáng làm. Thậm chí có thể khó khăn hơn đối với họ, họ sẽ phải chịu búa rìu dư luận về tình huống khó xử bắt buộc đối với tân Tổng thống và thuyết phục ông ta về việc họ sẵn sàng chia sẻ trách nhiệm khi thay đổi chính sách và những hậu quả sau này của nó. Làm được điều đó không phải là dễ. Nhưng đối với tôi dường như đó là việc cần làm ngay, và đó là công việc tôi quyết tâm làm.
Gây sức ép với Tổng thống đương nhiệm, một phần bằng cách khuyến khích đảng đối lập với Tổng thống tự lên án, là không nhất quán với cuộc đời của một nhà phân tích của Rand.
Tôi cũng nhận ra sự thù địch giữa lãnh đạo hai đảng Dân chủ và Cộng hoà. Sau khi tôi đi Haverford về, cả hai mối quan ngại này đều giảm đi. Dường như tôi không thể có cơ hội nào một lần nữa được hỏi ý kiến của chủ tịch một trong hai đảng, cho đến bây giờ đó vẫn là tham vọng lớn nhất của tôi. Nhưng đọc Hồ sơ Lầu Năm Góc về cách xử sự của bốn đời Tổng thống tại Việt Nam, và nhớ lại những kinh nghiệm của cá nhân tôi với vị Tổng thống thứ tư và thứ năm, đột nhiên khiến tôi dễ chấp nhận việc tham vọng của mình không thực hiện được. Tôi đã không còn mong muốn làm việc cho Tổng thống, nếu hiểu theo một cách nào đó thì là phụ tá của Tổng thống.
Điều đó nghe có vẻ ngạo mạn và kiêu căng, nếu xét theo cấp bậc thấp mà tôi phục vụ trong quân đội. Xét cho cùng, tôi chưa bao giờ gặp một vị tổng thống nào (trừ một lần vào năm 1967 khi Tổng thống Johnson trao huy chương cho Frank Scotton, một người bạn của tôi vì anh đã có nhiều sáng kiến khi làm việc với Cơ quan thông tin của Mỹ (USAI). Nhưng thậm chí khi làm đại uý hải quân, tôi luôn coi mình là vệ sĩ của Tổng thống, sẵn sàng chiến đấu bất kỳ khi nào và chống lại bất cứ ai mà Tổng thống muốn. Tôi nghĩ rằng trách nhiệm trực tiếp trước Tổng thống khi làm việc phục vụ ông ta là đặc điểm nổi bật của phần lớn, hoặc nhiều, quan chức trong ngành hành pháp. Nhưng trong tháng đó, cảm giác hài lòng đó biến mất trong tôi, sau khi tôi biết những gì mà năm đời Tổng thống đã làm trong cuộc chiến tranh lâu dài này.
Tôi không còn liên quan gì đến Tổng thống, không còn coi mình là người phục vụ ông ta theo cách hiệu quả nhất để gây ảnh hưởng đến chính trị hay phục vụ xã hội.
Tuy nhiên, sự vỡ mộng này luôn luôn mang lại một cảm giác tự do mới. Tôi không còn đợi Nhà Trắng hay một quan chức nào phục vụ cho Tổng thống gọi nữa. Đó là cảm giác tự do như có thêm nhiều sự lựa chọn để phản kháng, giống như sự thoải mái vô tư mà tôi mới tìm thấy. Giờ đây tôi thấy mình có thể dễ dàng cân nhắc những hình thức phản kháng khác nhau để trình bày chính sách có khả năng ngăn cản không cho phép tôi được làm việc trong ngành hành pháp. Nỗi lo sợ không được làm việc trong ngành hành pháp, chứ không phải bị đi tù, là yếu tố răn đe khiến cho phần lớn các đồng nghiệp của tôi, cả trong quá khứ lẫn hiện tại, không cân nhắc các hành động chính trị đi quá xa mức cho phép. Riêng tôi thì không còn lo sợ gì về điều đó nữa. Từ quan điểm của họ, tôi trở thành một phần tử nguy hiểm khi biết nhiều chuyện.
Giữa tháng chín, tôi nói với đồng nghiệp của tôi, anh Konrad Kellen, rằng tôi đã sẵn sàng hợp tác cùng các cán bộ của Rand, những người đã hai năm liền hối thúc để có được chiến lược đơn phương gỡ rối thoát khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam. Tôi gợi ý chúng tôi nên tổ chức cuộc họp để bàn bạc xem chúng tôi nên làm gì. Chiều hôm đó, anh ta đi họp cùng với 4 đồng nghiệp nữa: Mel Gurtov, Paul Langer, Amold Horelick, và Oleg Hoeffding. Gurtov là chuyên gia phụ trách về Trung Quốc và Đông Nam Á, Langer về Nhật Bản, Horelick và Hoeffding về Nga. Tôi thông báo cho họ biết những gì tôi biết được từ Halperin và Vann về chính sách của Nixon. Tổng thống đã thử nghiệm cách tiếp cận muốn cả hai bên cùng rút quân thông qua đàm phán nhưng cách đó đã thất bại. Ông ta dường như hy vọng rằng điều này sẽ xảy ra nếu quân Mỹ tiếp tục ở lại Việt Nam, nhưng tôi không trông đợi điều đó, và tôi cũng không muốn tiếp tục ném bom và giao chiến khi chúng ta chờ đợi điều đó. Bây giờ, tôi chấp nhận lập luận của nhóm làm việc rằng cách duy nhất để chúng ta thoát khỏi chiến tranh Việt Nam là đơn phương rút quân Vì Nixon không nói gì nhiều tới chính sách của ông ta kể từ khi ông ta thông báo hy vọng cả hai bên cũng rút quân vào mùa xuân, tôi nghĩ vẫn còn có cơ hội thuyết phục ông ta nên có kế hoạch khác trước khi việc binh lính Mỹ thương vong và những tuyên bố công khai sẽ khiến cá nhân ông ta phải chịu trách nhiệm về hậu quả của cuộc chiến mà ông ta không thể chấp nhận được nếu không phải là sự thành công.
Chúng ta đều nhất trí rằng điều đó có khả năng xảy ra, thậm chí cả với đề xuất vào tháng 7-1969 của Clark Clifford trong Tạp chí Ngoại giao (bây giờ anh ta đã thôi việc) để rút hết bộ binh của Mỹ ra khỏi Việt Nam vào cuối năm 1970, và sau này căn cứ vào những diễn biến tiếp theo sẽ quyết định rút toàn bộ các đơn vị hậu cần, hỗ trợ không quân và cầu hàng không.
Mặc dù điều đó đi đúng hướng, so với chiến lược hiện nay và đi xa hơn cả những gì các quan chức chính phủ chỉ ra, cuộc chiến sẽ không kết thúc, và cũng không chấm dứt được sự can thiệp trực tiếp của lính bộ binh Mỹ - với sự yểm trợ của không quân - vào một thới điểm xác định rõ ràng. Tuy nhiên, Clifford đã đúng khi anh ta đề xuất rằng Mỹ nên đề ra kế hoạch hành động ngừng tham chiến không phụ thuộc vào ý nguyện hay những thích nghi của Sài Gòn hay Hà Nội. Nhưng những người khác tại cuộc họp lại muốn những gì diễn ra trong vòng 2 năm qua đi xa hơn những gì anh ấy đề xuất và tôi đồng ý với họ.
Kể từ khi Martin Luther King chết, các quan chức chính phủ duy nhất muốn nói với chính phủ "Hãy rút quân khỏi Việt Nam" là những nhà hoạt động chống văn hoá như Abbie Hoffman, những người cấp tiến được coi là ủng hộ Bắc Việt Nam, và chủ trương hành động trực tiếp, không chịu tuân thủ công dân. Những gì họ kêu gọi đều bị phớt lờ, không ai thèm đếm xỉa đến. Thực ra, chủ trương rút hết quân của họ là nhằm doạ những nhân vật chính trị quan trọng. Minh chứng duy nhất và hùng hồn nhất cho sự tiếp cận này là tờ truyền đơn của nhà hoạt động dân quyền kiêm sử học Howard Zinn, có tựa đề "Việt Nam, logic của việc rút quân". Nhưng lập luận cứng cỏi của Zinn, được Noam Chomsky tán thành trong một bài bình luận(99) đã không nhận được sự đồng tình ủng hộ của các học giả và các nhà trí thức chủ đạo.
Các cố vấn trước đây của Tổng thống Lyndon Johnson, những người đã công khai chỉ trích chính sách của ông ta, ví dụ như Arthur Schlesinger, Jr., Richard Goodwin, và John Kenneth Gallbraith, trong năm cuối cùng khi Johnson làm Tổng thống đã kêu gọi giảm bớt sự can dự của Mỹ vào chiến tranh Việt Nam, chấm dứt ném bom và tiến hành đàm phán. Nhưng họ quyết định không liên quan và cũng không chê bai gì những đề xuất "cực đoan hơn". Họ đành ngậm bồ hòn làm ngọt để nói rằng họ không đề xuất trên thực tế là họ phản đối, những đề xuất đó. Điều đó cũng đúng đối với các chính trị gia như Eugene McCarthy, George McGovern, Frank Church và thậm chí cả Bobby Kennedy trước khi ông này chết. Không ai trong số này đi quá xa vào năm 1969; và người ta cũng không nghe thấy ý kiến gì của họ cả. Khi họ kêu gọi đàm phán, họ không nói rõ ai sẽ là đối tượng tham gia đàm phán và mọi người hy vọng sẽ chấp nhận kết quả đàm phán như thế nào. Trước đó chỉ có duy nhất một trường hợp ngoại lệ của Bobby Kennedy vào đầu năm 1966.
Ông ta cho rằng chúng ta nên đàm phán với Mặt trận dân tộc giải phóng và mặt trận này cần có một vai trò nhất định trong chính phủ tương lai, nhưng phản ứng của chính quyền Tổng thống gay gắt đến nỗi ông ta đành nhượng bộ và không bao giờ còn dám công khai đề xuất việc làm này nữa. Đầu năm 1967, Bobby đã hối thúc một đề xuất tương tự riêng với Tổng thống Johnson và một tháng sau đó Robert McNamara cũng đề xuất tương tự, nhưng cả hai ông này đều không tiết lộ đề xuất đó trước công chúng và trước quốc hội sau khi Tổng thống đã bác bỏ đề xuất.
Trong tình hình này, nếu tân Tổng thống phải làm những gì mà tôi nghĩ là ông ta phải làm - ví dụ những gì mà Kennedy và McNamara đã kiến nghị riêng, trong trường hợp phải rút quân - ông ta sẽ phải công khai tuyên bố với trước các quan chức, những người chỉ trích gay gắt chiến tranh Việt Nam, thậm chí có nguy cơ ông ta còn bị họ chỉ trích vì đã áp dụng cách tiếp cận quá giản đơn và cực đoan. Đó sẽ là cách lãnh đạo nguy hiểm nhất, một sự thay đổi lớn trong chính sách và bác bỏ những giả thuyết về chiến tranh lạnh, đó là điều cuối cùng mà bất kỳ một Tổng thống nào muốn làm.
Vẻ đẹp quyền lực và mục tiêu của các nhà phân tích của Rand khi đưa ra lời tuyên bố công khai giống như lời tuyên bố của những người chống chiến tranh được thể hiện ở chỗ nó không thể hiện rằng bạn phải cấp tiến hay hippie, bạn không cần phải là người không yêu nước hay người ủng hộ Hà Nội, và trên hết bạn không phải không biết về những thông tin bí mật để chủ trương rút nhanh quân Mỹ ra khỏi Việt Nam. Zinn và Chomsky có thể bị coi thường không chỉ như những người "cấp tiến" mà như những ai không biết gì về thông tin bí mật gửi tới Tổng thống hay các cố vấn của ông ta. Những "nhà trí thức quân sự" của Rand khi được chính phủ cấp giấy phép và ký hợp đồng để làm nghiên cứu và tư vấn không thể bị coi thường như vậy được.
Chúng ta hy vọng tuyên bố công khai của chúng ta sẽ khuyến khích ý kiến của các nhà lãnh đạo trên các phương tiện truyền thông đại chúng và Quốc hội, những người đã đồng ý về trực giác với cách tiếp cận này nhưng không phải là những chuyên gia về Việt Nam để cảm thấy tự tin về tính sáng suốt của cách tiếp cận đó để công khai ủng hộ nó. Khi đối mặt với những lời cáo buộc của các đồng nghiệp rằng cách tiếp cận đó quá đơn giản và cực đoan và phản ánh sự vô tội trong những xem xét ở cấp chính trị cao, họ sẽ dựa vào chúng tôi để được bảo vệ. Cùng với chúng tôi, họ sẽ chứng tỏ sự tự tin tương tự với công chúng và với đại diện của họ trong Quốc hội. Ít nhất thì chúng ta cũng có thể nhằm vào việc mở rộng quy mô của cuộc tranh luận đầy tính trách nhiệm này để bao gồm việc rút quân toàn bộ như là một sự lựa chọn hay quan điểm hợp pháp.
Thậm chí nếu Nixon không chấp nhận cách tiếp cận này vào năm sau đó thì những tranh luận hay chủ trương từ cách tiếp cận đó sẽ có tác dụng gây ảnh hưởng tới ông ta để rút quân ra khỏi Việt Nam nhanh hơn là những gì ông ta đang bí mật lên kế hoạch, có thể là kế hoạch gần giống với những gì Clark Clifford đã đề xuất vào tháng bảy (rút hoàn toàn quân đánh bộ của Mỹ trước cuối năm 1970). Điều đó sẽ không giúp chúng ta thoát khỏi sa lầy và trong mắt chúng ta nó còn tồi tệ hơn những gì chúng ta đề xuất, nhưng tốt hơn nhiều so với chính sách hiện thời của Nixon và có lẽ dễ được chấp thuận hơn là kế hoạch của chúng ta.
Tôi rất vui được tham gia vào công việc đó. Tốc độ là quan trọng. Chúng tôi cần phải thể hiện quan điểm trước công chúng trong một vài tuần, trước khi Nixon công khai bày tỏ quan điểm của ông ta. Một cân nhắc khác là những cuộc biểu tình lớn chống chiến tranh theo kế hoạch sẽ được tổ chức vào ngày 15-10. Những cuộc biểu tình này sẽ diễn ra trên cả nước vào cùng một ngày làm việc trong tuần, dưới hình thức một cuộc tổng đình công. Thay cho việc mô tả mang tính khiêu khích, chiến dịch này sẽ được gọi là "giai đoạn tạm ngừng hoạt động".
Nếu gây ra áp lực mãnh liệt, Nixon sẽ có phản ứng vào mùa thu, có thể tích cực, có thể tiêu cực. Chúng tôi sẽ cố gắng gây ảnh hưởng tới những quan điểm thể hiện trong "giai đoạn tạm ngừng hoạt động" này, chỉ còn một vài tuần nữa thôi, cũng như là gây ảnh hưởng tới sự phản ứng của Nixon tới những quan điểm đó.
Chúng tôi thảo luận những phương án khác nhau, cả trong nội bộ lẫn bên ngoài, để bày tỏ suy nghĩ của chúng tôi.
"Chúng ta có thể làm được điều này dưới hình thức một bức thư" - một ai đó trong nhóm làm việc nói. Đó là cách duy nhất chúng ta có thể xuất bản ngoài khuôn khổ của Rand mà không phải xin phép một cách chính thức. Thậm chí cả những bình luận trên giấy trắng mực đen chúng tôi định đọc bên ngoài các cuộc hội nghị cũng phải xin phép. Theo như những quy định của công ty chỉ có những lời nhận xét bột phát, ngẫu hứng, không chuẩn bị trước tại cuộc họp hoặc một bức thư gửi tới báo chí và tạp chí (lỗ hổng trong quy định của công ty) mới không cần phải xin phép. Tôi nghi ngờ không biết một bức thư có đủ và hợp lý để thực hiện được mục đích của chúng tôi hay không. Tôi nghĩ chúng tôi cần một công trình nghiên cứu trong đó phác thảo. ra những điều thực tế như chúng tôi thấy và trình bày quan điểm của chúng tôi thấu đáo hơn là một bức thư ngắn gọn. Một bức thư sẽ không thể thuyết phục được những ai đã vốn không đồng ý với chúng tôi.
"Hoặc là viết thư, hoặc là không viết gì cả" - những người khác nói. Nếu chúng ta muốn xin phép về an ninh thì chúng ta có thể lập luận rằng chúng ta đang gián tiếp trình bày quan điểm dựa trên thông tin tuyệt mật mà chúng ta có được. Tới chừng mực nhất định thì đúng như vậy. Thậm chí chúng ta muốn mọi người hiểu rằng chúng ta thực sự đã nhìn thấy những tài liệu như vậy Nhưng thật mỉa mai, phần lớn mọi người trên thế giới đều biết tới thực tế mà dựa vào đó chúng ta rút ra các kết luận của mình. Thực tế đó chỉ bị che giấu trước những ai tin vào sự lừa dối công khai của chính phủ Mỹ. Điều bí mật mà chúng ta tiếp cận cho thấy tài liệu mà chỉ chính phủ Mỹ có không thể làm mất giá trị của kiến thức và những kết luận thực tiễn mà phần lớn mọi người bên ngoài chính phủ đã biết về sự ngu xuẩn khi chúng ta sa lầy tuyệt vọng tại Việt Nam.
Những gì cần tiết lộ thể hiện ở chỗ có thể theo đuổi công việc của một nhà nghiên cứu và nhà tư vấn đầy trách nhiệm, tài ba và uyên thâm được tiếp cận với những ước đoán, kế hoạch và những mật báo nội bộ rằng các quan chức cấp cao của chính phủ đã dựa vào đó, cũng có thể đạt được những kết luận tương tự như Abbie Hoffman và số lượng ngày càng nhiều các nhà quan sát trên toàn thế giới mà không có những thông tin đặc biệt rằng Mỹ không còn chỗ dung thân tại Việt Nam.
Một bức thư không thể làm được điều đó. Bức thư không cần nhiều lập luận; bức thư cũng không cần thuyết phục những ai chống lại kết luận. Bức thư sẽ có chức năng quan trọng nếu như nó tạo được sự tự tin cho nhiều người đồng ý và nếu cuối cùng nó đạt được khái niệm trong chương trình làm việc thảo luận công khai như một phương án nghiêm túc, "có trách nhiệm".
Gurtov và Kellen xung phong viết bản thảo thứ nhất của bức thư. Chúng tôi hẹn gặp lại nhau và cùng xem lại bản thảo đó.
Trong khi đó, tôi bắt đầu viết bức thư thứ hai của riêng tôi, không phải là để xuất bản mà là để gửi cho tổ chức hiến tặng Carnegie vì hoà bình quốc tế. Tổ chức này đã kêu gọi một nhóm các nhà tư vấn và quan chức cố gắng gây ảnh hưởng tới chính sách của Tổng thống Johnson hai năm trước đó. Tôi muốn nhóm này hoặc một nhóm tương tự họp lại lần nữa cũng vì mục đích làm thế nào để thoát khỏi sa lầy ở Việt Nam, giống như trong bức thư của Rand (mặc dù không nhất thiết bị ràng buộc bởi cùng một kiến nghị). Tôi gọi điện cho Joe Johnson, người đứng đầu tổ chức hiến tặng Camegie vì hoà bình quốc tế. Ông ta nói giọng rất lạc quan và bảo tôi viết một bức thư với đề xuất của tôi cho Charles Bolté, Giám đốc điều hành.
Đây là một bức thư dài hơn và phân tích sâu hơn, bởi vì tôi thực sự muốn thuyết phục các độc giả, tất cả trước đây đều là những người trong cuộc cấp cao, làm một điều gì đó trái ngược với bản năng của họ: gây sức ép dư luận lên Tổng thống đương nhiệm. Tuy nhiên, ngôn ngữ tôi sử dụng có thể khiến họ thất vọng vì tôi muốn chuyến đi một thông điệp cấp bách và thách thức. Tôi kiến nghị triệu tập một nhóm làm việc để tuyên bố một chính sách "nhằm vào rút quân Mỹ không điều kiện ra khỏi Việt Nam" và rằng việc thảo luận trong nhóm đó sẽ chỉ giới hạn tới những đề xuất rõ ràng. Cuối thư tôi viết như sau: "Đã đến lúc chúng ta. cần chấm dứt sự can thiệp đẫm máu, vô vọng và phi đạo đức của chúng ta tại Việt Nam".
Câu chữ của câu cuối cùng trong bức thư, đặc biệt tính từ "phi đạo đức", không được trịnh trọng cho lắm, nhưng người đọc chắc chắn sẽ chú ý. Sau này Bolté nói với tôi rằng Joe Johnson đã đọc rất kỹ bức thư và mang trả lại Bolté, nhấn mạnh vào từ "phi đạo đức". Anh ta nói với Bolté: "Chúng ta không thể tiếp tục mời Ellsberg họp cùng chúng ta được nữa. Anh ta đã đánh mất tính khách quan rồi".
Tôi gửi nhiều bản sao bức thư tới các thành viên trước đây của các nhóm nghiên cứu Carnegie cũng như gửi tới các quan chức cấp cao trong chính quyền Johnson và các đảng viên Đảng Dân chủ trong Quốc hội Mỹ. Câu trả lời của họ nhìn chung giống câu trả lời của Uỷ ban điều hành của Carnegie, đó là khó thấy "điều gì hữu ích" mà việc hiến tặng ủng hộ có thể đóng góp trong thời điểm này. Những thành viên khác cũng đồng ý rằng bây giờ không phải là thời điểm thích hợp.
Cảm giác của riêng tôi là có một điều gì đó mà họ có thể làm được và thời gian thì sắp hết rồi. Tôi muốn có những tuyên bố bất đồng quan điểm rõ ràng, không khoan nhượng đối với chính sách hiện nay của chính quyền" được trình bày trước Tổng thống bất kỳ hôm nào và muốn Tổng thống phải cam kết với chính sách đó. Để có được những tác động mà tôi mong muốn, một số lời tuyên bố phải được trích dẫn chính xác từ những đảng viên Đảng Dân chủ, là những quan chức trước đây của Johnson, những người trên hết sẽ bảo vệ Tổng thống. Họ cần phải trấn an các đảng viên đảng Cộng hoà càng nhiều càng tốt chống lại sự tấn công của đảng đối lập để thay đổi chính sách mà đáng nhẽ ra chính sách này sẽ bị thách thức nếu từ bỏ cam kết của Kennedy và Johnson.
Để làm được điều đó, họ cần đi xa hơn là một tuyên bố bất đồng quan điểm. Những gì họ có thể làm một cách thật hữu ích rất quan trọng nếu muốn thay đổi chính sách là cuối cùng phải công nhận trước người Mỹ, trách nhiệm của họ đối với chính sách mù quáng và thất bại trong quá khứ cũng như hiện tại. Họ phải cho thấy họ sẵn sàng chia sẻ trách nhiệm của tân Tổng thống để thay đổi chính sách và đón nhận bất kỳ hậu quả nào có thể xảy ra.
Tôi quyết định đưa lập luận này ra trước hai đảng viên Đảng Dân chủ, các quan chức trước đây trong chính quyền Johnson mà tôi nghĩ rất có thể hai người này sẽ đáp lại lời kêu gọi của tôi.
Tôi biết cả hai đảng viên này đều rất muốn Mỹ rút khỏi Việt Nam. Cả hai ông đều làm việc cho Uỷ ban Cố vấn chính sách của Đảng Dân chủ, một nhóm quan trọng đề ra chính sách và cương lĩnh của Đảng này, do vậy họ có uy tín và vị thế thuận lợi để tập hợp xung quanh mình các đảng viên Đảng Dân chủ cấp cao. Đối với người đầu tiên tôi tiếp cận khi gọi điện, tôi vạch ra những gì tôi nghĩ là Nixon sẽ phải giải quyết trước, trong một tuyên bố công khai của các quan chức trước đây, những người trên thực tế chịu trách nhiệm về cuộc chiến tranh Việt Nam mà Nixon thừa hưởng từ những người tiền nhiệm, nếu như ông ta muốn kết thúc cuộc chiến đó. Tôi nói với ông ta những gì tôi tin từ quan điểm chiến thuật.
Tôi không nghĩ bất kỳ Tổng thống nào trông đợi chỉ một mình chịu trách nhiệm về kết quả của một cuộc chiến muốn kết thúc mà lại không gặt hái được thành công. Đó là lý do tại sao không thể chậm trễ hơn nữa việc công chúng muốn sẵn sàng chia sẻ trách nhiệm với ông ta để ông ta thay đổi chính sách và hành động của mình. Chẳng bao lâu, việc tiếp tục cuộc chiến sẽ được xác định với nhiệm kỳ của ông ta mà ông ta không thể trốn tránh trách nhiệm chính của mình được. Tôi biết rằng những gì tôi đang yêu cầu là rất khó thực hiện, hoặc thậm chí rất khó cân nhắc nữa. Có thể bởi vì trước đây chưa hề có tiền lệ như vậy. Tôi sẽ rất vui khi bản thân mình được góp sức tham gia vào tuyên bố đó nhưng những gì mà chúng ta thực sự cần là tuyên bố của những người cấp cao hơn rất nhiều, như Tổng thống. Tôi nói:
"Ông không phải dùng chính xác đến những ngôn từ này, nhưng đây là nội dung những gì cần nói: "Thưa Ngài Tổng thống, đây không phải là cuộc chiến tranh của ngài. Đây là cuộc chiến tranh của chúng tôi. Đừng biến nó thành cuộc chiến tranh của Ngài. Chúng ta đã phạm sai lầm khi chúng ta tham chiến. Đừng phạm thêm sai lầm nữa. Chúng ta phải thoát ra thôi. Chúng tôi sẽ đứng bên cạnh Ngài nếu Ngài quyết định rút quân về nước".
Ở đầu dây bên kia, không thấy có tiếng người nói. Sau đó giọng nói cất lên: "Dan, chúng ta không thể làm như thế được.
Bây giờ không phải là lúc. Điều đó sẽ phá hoại Đảng Dân chủ. Đảng Cộng hoà họ sẽ nói: "Chính các ông đã tham chiến và bây giờ các ông định rũ bỏ trách nhiệm". Chúng ta sẽ bị lên án vì đã bắt đầu cuộc chiến và bây giờ thất bại ngay trong cuộc chiến đó. Điều đó sẽ như một nhát dao đâm vào lưng vậy".
Tôi lập luận thêm với ông ta. Tôi chỉ ra rằng có sự thật trong lời buộc tội rằng chúng ta đã bắt đầu cuộc chiến; nhưng phải chăng điều đó không có nghĩa rằng chúng ta không có bổn phận phải có những hành động để rút quân về nước? Nhưng ông ta không chịu thua. Ông ta không bác bỏ tính logic trong lập luận của tôi nhưng cái giá mà Đảng Dân chủ phải trả quá cao và điều đó cũng không mang lại ích lợi gì cho đất nước cả. Đây không phải là thời điểm chín muồi. Thời điểm này quá sớm sau khi một số quan chức vừa mới nghỉ việc. Nghe có vẻ rất chua chát. (Cảm giác chua chát giống như khi người Pháp nói với chúng tôi năm 1964: "Những gì chúng tôi không chiến thắng được thì các ông cũng không thể chiến thắng nổi" và người Pháp đã nói đúng. Tôi nghĩ những gì ông ta thực tâm định nói là ý ưởng tôi đề xuất rằng đảng viên Đảng Dân chủ phải chịu hết trách nhiệm vì bắt đầu một cuộc chiến không thể thắng được và phải chịu phần lớn trách nhiệm khi thua cuộc. Đó là những gì tôi đề xuất. Ông ta không hoàn toàn nhất trí. Ông ta nói có lẽ về sau này. Khi chúng tôi gác máy, tôi nghĩ, sau này, sau này là khi nào. Sau này thì đã quá muộn.
Từ những phản ứng tôi quan sát được, tôi dần dần hiểu ra rằng có một số đảng viên Đảng Dân chủ thực sự muốn cuộc chiến vẫn tiếp tục một thời gian dưới thời Nixon cho đến khi nó thực sự trở thành "cuộc chiến Nixon". Tôi hoài nghi không biết là họ bí mật trông đợi điều đó, trông đợi thời điểm khi thất bại không còn là trách nhiệm của cá nhân họ. Lúc đó họ có thể nói với bản thân họ rằng, họ sẽ cộng tác với Tổng thống để kết thúc cuộc chiến, hay tốt hơn thì họ sẽ theo sự lãnh đạo của ông ta khi ông ta quyết định giành được sự ủng hộ của họ để kết thúc cuộc chiến. Ông ta sẽ phải là người đưa ra sáng kiến, xuất phát từ kinh nghiệm cay đắng, chứ không phải sáng kiến có được vì sự thừa nhận tội lỗi của mình. Rắc rối là ở chỗ sau này họ không bao giờ kêu gọi Nixon chia sẻ trách nhiệm làm thay đổi chính sách. Một khi cuộc chiến trở thành cuộc chiến Nixon, ông ta không muốn mất đi hy vọng thành công, cho dù lúc đó đảng viên Đảng Dân chủ có muốn nói gì đi nữa. Lúc đó đã quá muộn rồi. Cuộc chiến đã kéo dài hàng năm trời.
Những ý tưởng cay đắng như vậy một lần nữa được khẳng định chắc chắn khi tôi gọi người thứ hai, trước đây ông này làm phụ tá cho Lyndon Johnson. Tôi đã nói chuyện vài lần với ông ấy khi tôi từ Việt Nam trở về và xem chừng chúng tôi rất hợp cạ với nhau. Đầu năm 1968, ông ta cộng tác chặt chẽ với người đầu tiên mà tôi gọi điện thoại và với Clark Clifford nhằm cố gắng thuyết phục Tổng thống Johnson chấm dứt ném bom Bắc Việt Nam để khởi động đàm phán. Tôi biết ông ta quen biết nhiều người trong Đảng Dân chủ. Tôi trình bày đề xuất của mình và ông ta phản ứng y hệt như người đầu tiên. Hai người dùng ngôn từ rất giống nhau. Ông ta kết thúc bằng một giọng đầy kịch tính: "Dan, nếu chúng ta làm những gì như anh đề xuất thì chúng ta sẽ tắm máu chính trị, cả anh và tôi. Đó là một cuộc tắm máu anh chưa bao giờ thấy".
Tôi rất sốc trước những lời lẽ này của ông ta. Tôi nói với một giọng bình tĩnh rằng ông ta có thể đúng về điều đó. Chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn. Nhưng tôi nghĩ chúng ta phải chấp nhận điều đó Tôi nói tôi không thực sự nluốn bảo vệ tương lai chính trị của mình, hoặc của Đảng Dân chủ bằng sinh mạng của lính Mỹ và người dân vô tội Việt Nam. Ở Việt Nam, chính tại thời điểm này cũng đang diễn ra một cuộc tắm máu. Tôi không muốn nghĩ rằng chúng ta sẽ kéo dài cuộc tắm máu đó thêm một ngày, hay một tháng, hay một năm để bảo vệ lợi ích chính trị của tôi hay của ông ta.
Ông ta không nói gì. Chúng tôi chào tạm biệt và gác máy.
Chú thích:
(98) Những phát hiện này đã chấm dứt băn khoăn của tôi về một sự sa lầy tưởng tượng: "Ellsberg, Leo thang khi đang sa lầy", tài liệu không xuất bản; Ellsberg "Sự sa lầy tưởng tượng và cỗ máy ngưng trệ".
(99) Bài phê bình của Chomsky về cuốn sách của Zinn: Chomsky, trang 221-94 (được viết lần đầu tháng 7-1967).