Chương 2
TƯ TƯỞNG

A. TINH THẦN DÂN TỘC:
1. TÍNH BẤT KHUẤT VÀ ÐỘC LẬP.
Dân tộc Việt Nam đã sẵn truyền thống bất khuất của tổ tiên lưu lại. Người Việt Nam không chịu cúi đầu làm nô lệ ngoại bang. Dù có những khi thế cùng lực tận bắt buộc phải lệ thuộc họ, nhưng tinh thần bất khuất đã biến thành ngòi thuốc súng cứ cháy âm ỉ trong lòng chiến sĩ cách mạng. Người thanh niên Việt Nam sẵn sàng hy sinh mối tình riêng tư của mình để đem thân ra bảo vệ quê hương dân tộc.
Giặc Tây đánh tới Cần Giờ
Biểu đừng thương nhớ đợi chờ uổng công!
Quê hương xứ sở của mình dù nhỏ nhoi nghèo thiếu, nhưng người Việt vẫn yêu mến nó, quý trọng nó:
Ta về ta tắm ao ta,
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.
Vì sẵn tinh thần bất khuất nên người Việt Nam không chịu ỷ lại; tự mình phải gây dựng cho mình, dù gian nan cách mấy cũng vui:
Có vất vả mới thanh nhàn,
Không dưng ai dễ cầm tàn che cho.
2. TÌNH ÐOÀN KẾT
Nếu chỉ có tính bất khuất thì chưa đủ để chiến thắng quân thù, người Việt còn luôn luôn kêu gọi tình đoàn kết. Trong Hội nghị Diên Hồng, chúng ta thấy muôn người như một, quyết chung lưng đấu cật chiến đấu tới cùng. Tình đoàn kết đó, chúng ta đã nghe văng vẳng từ đồng quê vọng lại:
Khôn ngoan đối đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
Thực vậy, nếu người có tài khôn ngoan thì hãy đem tài mình ra chống cự ngoại xâm. Anh em trong nhà cùng chung máu mủ ai nỡ giết hại nhau. Nếu đứng riêng một mình thì người có tài giỏi đến đâu cũng không làm nên việc gì, cần phải góp tay chung sức mới làm nên việc lớn:
Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây giụm lại nên hòn núi cao.
Nước Việt Nam nằm bên cạnh nước Trung Hoa, một cường quốc nổi danh thời Trung cổ, người Việt lúc nào cũng lo lắng hồi hộp mình bị xâm lăng, nên lời kêu gọi đoàn kết không dừng. Do đó, tình đoàn kết đã thấm sâu trong tim não người Việt Nam.
3. BAO DUNG
Trên giải đất Việt Nam nhỏ bé, nhưng rất nhiều giống dân chung sống, nếu thiếu tâm lượng bao dung thì nội loạn sẽ dâng khởi liên miên. Vì thế tâm lượng bao dung của người Việt được biểu lộ cụ thể qua câu ca dao:
Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Cùng chung sống trong một đất nước thì khổ vui cũng đồng chịu, chúng ta phải thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Với tinh thần chị ngã em nâng, sự cứu giúp nầy sẽ làm lành mạnh hóa tổ chức xã hội. Ðây, tự đáy lòng người nông dân phát xuất ra những lời tha thiết:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Gặp cơn nguy biến hoạn nạn, tình đồng bào chúng ta đâu nỡ làm ngơ, mà phải ra tay cứu giúp nhau. Người biết chia sớt khổ đau cho nhau thật là một tình thương đáng kính đáng quý. Tình thương ấy đã phát ra ngôn ngữ, mà người Việt Nam chúng ta không có quyền quên:
Ðường xa xin chớ ngại ngùng,
Trèo non, xuống biển ta cùng đỡ nhau.
4. HIẾU KÍNH
Xã hội Việt Nam xây dựng trên nền tảng gia đình. Gia đình có an vui hạnh phúc thì quốc gia mới vững mạnh. Vì thế, trong gia đình người cha phải từ, người con phải hiếu. Muốn những đứa con khởi lòng hiếu kính, trước phải dạy chúng nhớ công ơn sanh thành khổ cực của cha mẹ. Công ơn cha mẹ được người bình dân hình dung rộng như biển, cao như núi.
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Những ai còn được cha mẹ sanh tiền là có cả một kho tàng quý báu, là được uống những dòng suối ngọt, ăn những thức bùi. Sự thơm ngon quý báu ấy còn dư vị trong cổ họng chúng ta qua lời ca chất phác của người bình dân:
Mẹ già như chuối ba hương,
Như xôi nếp một, như đường mía lau.
Ðã biết công ơn cha mẹ nặng nề như vậy, kẻ làm con lúc nào cũng hy vọng đền đáp. Có người cho sự học hành đỗ đạt, làm đẹp mặt nở mày cha mẹ là đền ơn:
Bao giờ? cá Lý hóa long,
Ðền ơn cha mẹ ẵm bồng ngày xưa.
Có người sống trong cảnh nghèo thiếu vất vả, nhưng lòng biết ơn cha mẹ không bao giờ quên. Họ phải nhịn ăn để nhường phần nuôi cha mẹ:
Ðói lòng ăn đọt chà là,
Ðể cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.
Khi cha mẹ gặp lúc trở trời trái gió, người con hiếu thảo lo sợ cha mẹ chết nên đến trước bàn Phật thắp hương lâm râm khấn vái, cầu nguyện Phật, Trời phò hộ cho cha mẹ sống đời với con:
Lâm râm khấn vái Phật, Trời,
Xin cho cha mẹ ở đời nuôi con.
Công ơn cha mẹ sanh thành nuôi dưỡng rộng sâu như trời bể, người con hiếu thảo lúc nào cũng canh cánh bên lòng, mong ngày đền đáp. Rồi được cha mẹ cho đi học hành, ông thầy sẽ thay thế cha mẹ dạy bảo văn chương chữ nghĩa và cách cư xử ở đời. Người con hiếu ấy đã thấy mang thêm một ơn nặng nữa:
Gươm vàng rớt xuống hồ Tây,
Công cha cũng trọng, nghĩa thầy cũng sâu.
Lớn lên được dịp đi chùa lễ Phật, hoặc nghe các sư giảng dạy, người con hiếu phát tâm ham mộ đạo đức, muốn dứt khoát cuộc đời thế tục, vào nương mình dưới bóng từ bi. Hoặc những lúc chiều về nghe tiếng trống công phu dồn dập, giọng chuông cảnh tỉnh ngân dài, khiến lòng khoan khoái nhẹ nhàng muốn gởi thân vào cửa Phật. Nhưng còn cha mẹ già yếu chưa đền đáp được chút ơn sanh thành, nên khó lòng cất bước ra đi. Thế là, người con hiếu bị dằng co giữa hai tâm niệm: vừa muốn tìm đường thoát tục, vừa lo đền đáp công ơn sanh thành:
Ðến chùa thấy Phật muốn tu,
Về nhà thấy mẹ đi tu không đành.
Nhưng rồi, quan niệm chữ hiếu nặng hơn. Người ta cho rằng đạo hiếu là đạo chơn chánh của con người. Người biết thờ cha kính mẹ là người đã tu đúng chánh đạo:
Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ mới là chơn tu.
Hoặc giả người ta đã thần thánh hóa cha mẹ, coi cha mẹ như Phật, biết thờ kính cha mẹ là thờ kính Phật. Cho nên người bình dân đã nói "Phật trong nhà không thờ, thờ Thích Ca ngoài đường".
Hiếu thảo là chất liệu thiết yếu trong xã hội Việt Nam. Vì thế, trong tinh thần dân tộc Việt Nam, ai cũng đặt chữ hiếu lên trên tất cả. Những đứa con bất hiếu luôn luôn bị dân chúng Việt Nam chê ghét, nguyền rủa.
B. PHẬT GIÁO THÍCH HỢP VỚI TINH THẦN DÂN TỘC VIỆT NAM
1.TÙYCƠ:
Dù ai quê dốt đến đâu cũng biết đạo Phật xuất phát từ nước Ấn Ðộ. Thế là, đạo Phật đã đầy đủ tính chất ngoại lai, sao được gọi là đạo của dân tộc. Muốn thấu hiểu điều này, chúng ta phải chín chắn chiêm nghiệm. Hiện tại, chúng ta thường nghe những danh từ Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Ấn Ðộ - Tại sao Phật giáo ở nước nào đều được mang tên của nước đó? - Vì Phật giáo không có giáo quyền chung, không lệ thuộc Giáo hội trung ương điều khiển, cho nên truyền bá đến địa phương nào, tùy sự thích hợp của dân tộc địa phương đó, Phật giáo hình thành theo phong tục tập quán của địa phương. Bởi không lệ thuộc Giáo hội Trung ương nên tất cả động sản, bất động sản của Phật giáo ở nước nào đều là của dân tộc nước đó. Cho đến cách kiến trúc chùa chiền, cách ăn mặc của các vị sư cũng đều tùy theo phong tục và tập quán của địa phương cả. Nếu chúng ta phàn nàn Phật giáo có nhiều hình thức phức tạp khó thống nhất, thì chúng ta phải phục Phật giáo đã khéo tùy dân tộc tính mà biến thành đạo của dân tộc từng quốc gia.
Lại nữa, nói đến Phật pháp là nói đến phương pháp hợp lý, hợp cơ. Ðem chánh lý áp dụng thích hợp nơi căn cơ con người hiện thời là Phật pháp. Hoặc nói "Phật pháp bất định pháp", tức là giáo pháp của đức Phật không cố định, không câu nệ một cách cứng nhắc, mà luôn luôn linh động tùy thời, tùy cơ. Nhưng không phải tùy cơ là biến mất bản chất Phật giáo. Chủ trương của Phật giáo là "Tùy duyên nhi bất biến", hoặc ngược lại, "Bất biến nhi tùy duyên". Bản chất từ bi, trí tuệ, giải thoát của đạo Phật không bao giờ thay đổi, nhưng phương tiện thực hiện từ bi. cần phải tùy thời, tùy cảnh và tùy căn cơ chúng sanh. Vì thế, Phật giáo đến nước nào liền có hình thái thích nghi với dân tộc nước ấy. Cho nên, Phật giáo ở nước nào là của dân tộc nước đó và cũng mang tên nước đó.
2. TỰ TÍN VÀ GIẢI THOÁT.
Bước chân vào chùa, chúng ta đã thấy trước chánh điện đề bốn chữ ÐẠI HÙNG BỬU ÐIỆN. Ðiện báu thờ đức Ðại Hùng. Phật được gọi là đấng Ðại Hùng, Ðại Lực, vì Ðức Phật đã cương quyết đập tan hết mọi xiềng xích: xiềng xích do xã hội tạo ra như chế độ giai cấp của Bà La Môn giáo đã đặt ra ở Ấn Ðộ, xiềng xích tại bản thân con người do ngũ dục trói buộc, xiềng xích ở nội tâm do tham, sân, si sai sử. Tất cả thứ xiềng xích đó, Ðức Phật đã phá vỡ, nên Ngài là bậc hoàn toàn giải thoát. Ðức Phật không bao giờ chịu khuất phục dưới một sức mạnh nào, dù là sức mạnh vô biên của nghiệp lực truyền kiếp lưu lại. Nghiệp lực ấy đã hiển hiện qua hình thức vô số ma vương bao quanh cây Bồ Ðề chiến đấu với Ngài, cuối cùng Ngài vẫn chiến thắng chúng và thành bậc Ðại Giác Ngộ.
Chủ trương giải thoát của đạo Phật là vượt ra ngoài vòng nô lệ, bất cứ loại nô lệ nào; từ ở ngoài đem đến hay từ ở trong phát sanh. Bởi quyết thoát nô lệ nên Phật giáo luôn luôn phá trừ tính ỷ lại, dạy Phật tử phải nỗ lực tự cường, như câu: "Các người phải tự thắp đuốc lên mà đi". Vì thế, tinh thần hùng lực và giải thoát của đạo Phật rất thích hợp với tinh thần bất khuất và độc lập của dân tộc Việt Nam. Biết đâu không do ảnh hưởng sâu đậm tinh thần Phật giáo mà người Việt Nam đã viết thành những trang sử oai hùng dưới triều Lý, triều Trần.
3. TINH THẦN ÐOÀN THỂ
Nói đến Tăng chúng là nói đến bản chất Lục hòa. Có hòa thuận mới có tin yêu và đoàn kết. Lục hoà là kích thích tố phát khởi hành động đoàn kết. Thiếu Lục hòa, dù chúng ta có lạc giọng kêu gọi đoàn kết cũng không khi nào có đoàn kết. Muốn thành một tu sĩ Phật giáo trước hết phải thành tựu Lục hòa. Cho nên tinh thần đoàn kết là then chốt trong đạo Phật. Trước tiên phải có hòa kính, nhiên hậu mới có đoàn kết. Ðoàn kết là một sức mạnh phi thường, không việc gì làm chẳng được. Câu chuyện ngài Mục Kiền Liên cầu Phật dạy phương pháp cứu mẹ đang mắc trong vòng Ngạ quỉ. Phật bảo Ngài đi thỉnh mười phương Tăng chúng cúng dường, nhờ sức chú nguyện của chúng Tăng, mẹ Ngài sẽ thoát vòng đau khổ. Tại sao ngài Mục Kiền Liên đầy đủ thần thông, Ðức Phật có vô biên công đức mà không đích thân ra tay cứu độ cho mẹ Ngài Mục Kiền Liên, phải đợi đến sức chú nguyện của Tăng chúng? Ðiều này đủ chứng tỏ Phật dạy đoàn kết là sức mạnh trên tất cả sức mạnh. Vì ý nghĩa nầy nên Phật chủ trương "Ðức chúng như hải". Bởi Phật giáo chủ trương hòa kính để đi đến đoàn kết nên rất thích hợp với tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
4. TINH THẦN BAO DUNG
Ðạo Phật thừa nhận tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Ðã có Phật tánh thì dù các chúng sanh do hành nghiệp bất đồng bị quả báo sai biệt, nhưng Phật tánh vẫn đầy đủ như nhau. Bởi hành nghiệp bất đồng nên chúng sanh chiêu cảm thân thể, ngôn ngữ, tư tưởng, hành động khác n. Xã hội Việt Nam được văn minh rực rỡ một thời, phần lớn do Thiền sư xây dựng. Ðể chứng tỏ tài
năng và công đức của Thiền sư, chúng ta có thể thấy qua bài kệ truy tán Vạn Hạnh Thiền sư của vua Lý Nhân Tông:
Vạn Hạnh dung tam tế,
Ưng phù cổ sấm thi
Hương quan danh Cổ Pháp
Trụ tích trấn vương kỳ
Dịch:
Học rộng làu ba cõi,
Lời in tiếng sấm xưa.
Quê làng tên Cổ Pháp
Dựng gậy vững kinh vua.
Nhà văn Lê Văn Siêu, khi nghiên cứu về văn minh Việt Nam, đã khen:
"Không còn có gì nữa để mà nghi ngờ. Nhà kiến trúc sư quan niệm đạo đức rộng rãi và uyên thâm này nhất định phải là Sư Vạn Hạnh.
"Sư Vạn Hạnh đã làm quan trong triều Lê. Ngài vừa sớm tối không sao nhãng những kinh kệ lại vừa đem tài ra giúp nước yên dân. Ngài là một vị sư đã thoát được mình ra lề thói tu hành chất nê của Ðạo Phật (cả Tiểu thừa lẫn Ðại thừa). Hẳn là Ngài đã thấy rõ cách tế độ chúng sanh hiệu quả nhất là ảnh hưởng đến chánh quyền. Ngài đã không theo gương của Khổng Tử xách một túi kinh luân đi khắp các nước mà chẳng được đâu trọng dụng, cũng không theo gương các nho sĩ chỉ ngồi trong lều cỏ dạy đạo cho các môn đồ, lại cũng không theo gương của các vị Bồ tát mà ngồi riêng một nơi thiền định.
"Ngài đã dấn mình vào cuộc sống xã hội, cố nhiên là với một dục vọng dù?g chính quyền để hành đạo"

(Văn minh Việt Nam trang 77 của Lê Văn Siêu)

Theo nhận xét của Lê quân, nền văn minh Việt Nam thời này có phần vượt hơn văn minh Trung Hoa cũng do Sư Vạn Hạnh. Ông viết:
Ở ý thức thâu thái thêm tinh hoa của Phật, Lão, Nho kết tinh lại với ý thức cố hữu để tạo thành một ý thức hệ mới và riêng biệt của mình.
1/ Vẫn hay Lão và Nho phát sinh ở Trung Hoa, vậy mà cả các nhân sĩ Trung Hoa, cũng như Cao Biền là một nho sĩ có tài, đại diện cho nền văn hóa nước mình, tất cả đều không có ai ứng dụng đạo vào trong nhân sinh. Duy một nhà sư Vạn Hạnh ở Việt Nam làm được việc ấy, mà làm với một ý thức dùng qui mô kiến thức vật chất ảnh hưởng trở lại tinh thần, để thúc đẩy thêm mối đạo và con đường tiến hóa mới.
2/ Những nhà nho đời Tống như Trình Di, Chu Hi v.v... dẫu có viết sách rất nhiều, suy lý rất nhiều nhưng cũng chỉ là ở lý thuyết và ở hoạt động tiêu cực về văn hóa (có khi vì địa vị, vì danh vọng người ta còn chống đối nhau kịch liệt nữa). Duy Sư Vạn Hạnh ở Việt Nam nhận thức ra mối tương quan giữa thái thần (genèse de l'ẻpit), thái sơ (genèse de l'énergie) và thái tố (genèse de matière) để tiến đến thái hòa (harmonie universelle).
"Tại sao nói như vậy?
"Tại Sư không cần viết sách mà chỉ lo kiến thiết; kiến thiết bằng những chất liệu để bắt nó nói ra một cái gì. Một quyển sách thì chỉ có một người xem, một kiến trúc thì có cả muôn triệu người và muôn đời phải biết đến ý nghĩa. Không viết sách mà chỉ kiến thiết đô thị để gói ghém một ý định, ấy tức là đã thông hiểu năng lực của vật chất, của tinh thần và của thần chất khi tất cả những năng lực ấy giao cảm với nhau, và đã thông hiểu phương thức giáo hoá vua quan và quần chúng theo tinh thần vô vi của Lão Tử vậy.
"3/ Ðạo Phật truyền qua Trung Hoa đã lâu và các kinh sách cũng đã rất nhiều. Vậy mà sự thâu thái Phật học của Trung Hoa cũng chỉ đến có nhiều chùa chiền mới dịch được ra nhiều kinh kệ.
"Cũng đạo Phật ấy truyền qua Việt Nam thì đã được Sư Vạn Hạnh cắm cửa Ô Kim Liên với đầm sen bảy mẫu vào thực đúng giữa chính điện của nhà vua trông ra, khiến vua ngày đêm, hễ mở mắt là thấy ngay biểu tượng của Phật giáo.".
(Văn minh Việt Nam, trang 81- 82 của Lê Văn Siêu)
Còn nhiều nữa, chúng tôi e trích nhiều quý độc giả sanh chán, xin dừng ngang đây.
Cứ theo đà tiến triển ấy, mỗi ông vua thời Lý lần lượt thay nhau kế vị, các Ngài đều là người Phật tử chân chánh rất thâm hiểu Phật pháp và luôn luôn bên cạnh có những vị Thiền sư làm cố vấn. Cho nên vua thường lấy đức trị dân và giáo hóa dân theo tinh thần Phật giáo. Ðây ta hãy nghe Vua Lý Thánh Tôn nói với thần dân lúc mùa đông giá rét: "Ta ở trong thâm cung, sưởi lò than thú, mặc áo hồ cừu mà khí lạnh còn như thế nầy, huống hồ những kẻ bị giam trong ngục, xiềng xích khổ sở, ngay gian chưa định, bụng không cơm no, thân không áo ấm, một khi gặp cơn gió lạnh thổi vào, há chẳng bị chết mà nguyên là vô tội ư? Ta rất lấy làm thương xót! ". Vua sai Hữu ti đem chăn chiếu trong kho vua ban cho tù nhân và mỗi ngày cho ăn hai bữa cơm. Vua ban cho trong nước một nửa số tiền thuế năm đó. V.S.L. II. 101 ( Nguyễn Ðăng Thục dịch). Nhờ ảnh hưởng Phật giáo nên thời Lý có nhiều vị vua nhân từ rất mực, nhưng không kém vẻ hào hùng. Vì thế, quốc gia hưng thịnh, dân chúng an vui, có thể nói là thời huỳnh kim ở Việt Nam vậy.
Nhà Lý mãn, nhà Trần tiếp tục truyền thống ấy. Phật giáo vẫn ở địa vị quốc giáo, vua chúa đều uyên thâm Phật pháp. Vua Trần Nhân Tôn sau khi truyền ngôi cho thái tử, xuất gia tu hành và là Sơ Tổ phái Trúc Lâm. Nhà Trần ở ngôi ngót hai thế kỷ (1225-1400), nước Việt Nam đã nổi tiếng hùng cường, chiến thắng quân Mông Cổ từ Bắc phương kéo sang xâm chiếm nước ta. Ðó là chiến công oai hùng nhất khiến thế giới phải nể danh.
Nhà Trần, trên từ vua chúa dưới đến quan dân, đều một bề sùng ngưỡng Phật giáo. Người Nho cho đó là thời mê tín dị đoan, nhưng đâu ngờ, do toàn dân tin Phật mới có hội nghị Diên Hồng, muôn người như một nhất tâm chống giặc. Khí thế hùng cường, tinh thần dân chủ đâu không nhờ Phật giáo mà có? Ta hãy đọc đoạn văn bi ký ở chùa Thiên Phước tại Bắc Giang của Lê Quát, một nhà nho, tức tối trước việc toàn dân tin Phật sau đây:
" Phật thị lấy điều họa phước mà động lòng người, sao mà sâu xa và bền chắc như vậy? Trên từ vương công, dưới đến thứ dân, hễ làm cái gì thuộc về việc Phật, tuy hết cả gia tài cũng không tiếc. Nếu hôm nay đem tiền của để làm chùa, xây tháp thì hớn hở vui vẻ, như trong tay đã cầm được cái biên lai để ngày sau đi nhận số tiền trả báo lại. Cho nên, trong từ kinh thành, ngoài đến châu phủ, đường cùng, ngõ hẻm, chẳng khiến đà theo, chẳng thề mà tin ; hễ chỗ nào có nhà người ở thì có chùa Phật ; bỏ đi thì làm lại, hư đi thì sửa lại. Lầu chuông đài trống cũng phân nửa của nhà thiên hạ ở, xây cất rất dễ và tôn sùng cũng đà lắm vậy. Ta từ lúc nhỏ đã đọc sách, chăm vào việc cổ kim, cũng rõ được nhiều ít đạo lý thánh hiền, để khai hóa từ dân, mà chưa được người trong một làng tin ta. Ta thường đi du lãm sơn xuyên, cùng Nam cực Bắc, tìm những chỗ gọi là học cung, gọi là văn miếu, thì rất ít thấy, vì vậy ta lấy làm hổ thẹn với bọn Phật đồ lắm vậy. Cho nên ta mới viết ra bài nầy".
(Trích truyện Lê Quát trong quyển Việt Nam Nhân Vật Chí Vựng Biên, trang 183 của Thái Văn Kiểm và Hồ Ðắc Hàm biên soạn).
Lê Quát, học trò Chu Văn An ở triều Trần Minh Tôn, ông trông thấy lòng tin mộ Phật giáo của vua chúa và dân chúng, đâm ra bực bội mà viết bài văn bi ký nầy. Nhờ đó, chúng ta càng thấy rõ Phật giáo đời Trần tràn khắp cả mọi nơi, đâu đâu cũng hiện màu sắc Phật giáo.
Tóm lại, ngót năm thế kỷ, Phật giáo luôn luôn có mặt trong guồng máy chánh quyền để tiếp tay xây dựng đất nước, bảo vệ quê hương. Sự có mặt của Phật giáo chẳng những giúp cho vua chúa một đường lối chánh trị sáng suốt, mà còn hướng dẫn dân tộc tiến cao trên con đường văn minh đạo đức. Những vị Thiền sư trong thời ấy, chẳng những thâm đạt về đạo lý giải thoát (xuất thế) mà còn thấu hiểu cách tổ chức xã hội, đem lại an lạc thực tế cho dân tộc (nhập thế). Vì thế, các ngành văn hóa, học thuật... đều do Thiền sư đảm trách. Sự vẻ vang, oai hùng của đất nước nằm trong sự hưng thạnh của Phật giáo thời ấy.
2. PHẬT GIÁO BỊ LOẠI RA KHỎI CHÍNH  TRƯỜNG
Tuy nhiên, theo luật vô thường, phàm có thạnh thì phải có suy, Phật giáo cũng không thoát khỏi cái luật chung ấy. Ðời Vua Lý Nhân Tôn, vì muốn văn hóa Việt Nam càng dồi dào phong phú, nhà vua cho mở khoa thi Tam giáo để chọn nhân tài. Khoa đầu tiên được mở năm thứ sáu niên hiệu Hội Phong (1097 T.L.), người chiếm thủ khoa là Thiền sư Viên Thông, sau được phong Quốc sư. Như thế, Nho giáo, Lão giáo đã có cơ tiến bộ và tư tưởng Tam giáo đồng nguyên dần dần phát đạt, mãi đến đời Trần mới cực thịnh. Cuối đời Trần, cái học khoa học cử đã thành hình; những người giỏi Nho được bổ dụng làm quan. Thế là trong chính trường, giới nho sĩ dần dần chiếm ưu thế. Giới nho sĩ cho Phật giáo là tư tưởng yếm thế, không đủ điều kiện xây dựng xã hội hùng mạnh, do đó các vị Thiền sư bị loại dần ra khỏi chính trường. Hoặc giả, những người lãnh đạo Phật giáo lúc bấy giờ kém tài, thiếu đức không giữ nổi địa vị quan trọng của mình, nên phải rút lui về thôn dã.
Nhất là từ đời Hậu Lê (1428) về sau, giới nho sĩ hoàn toàn nắm quyền lãnh đạo quốc gia. Phật giáo lúc này hoàn toàn bị bạc đãi, Chánh quyền muốn hạn chế giới tu hành nên mở những kỳ thi tuyển để loại bớt. Ông Ðào Duy Anh đã viết:
"Nửa triều Trần, từ đời Chu Văn An đã bắt đầu thắng Phật học mới chiếm địa vị độc tôn. Hai triều ấy đều có pháp luật nghiêm khắc đối với các nhà tu hành Phật giáo và Ðạo giáo. Tuy triều Lê có các khoa thi kinh điển riêng cho những nhà tu hành, nhưng đó chính là một cách hạn chế. Ðối với Nho học thì các đời vua Lê và Nguyễn đều hết sức tôn trọng". (Việt Nam văn hoá, trang 237 của Ðào Duy Anh). Chúng ta thấy rõ, lúc Phật giáo thịnh, đối với Nho, Lão vẫn được quí trọng. Ngược lại, khi Nho học cực thịnh thì Phật giáo bị kỳ thị hắt hủi. Nhưng nhờ đó Phật giáo có cơ hội sống gần gũi với đồng bào trong thôn dã và gieo rắc một tiềm lực hùng hậu trong toàn dân. Cũng nhờ đó, Phật giáo mới thành đạo của dân tộc Việt Nam và sau nầy không mang tội phản dân tộc.
Những vị sư lui về thôn dã, gần gũi thân mật với những người nông dân mộc mạc ở những thôn xóm hẻo lánh xa xôi. Ðể thích ứng với tính tình chất phác của họ và hòa nhịp theo tín ngưỡng cổ truyền của dân tộc, Phật giáo dần dần mất tính cách bác học, trở thành tín ngưỡng bình dân. Những vị sư phải biết chẩn mạch, bốc thuốc, xem ngày kiết hung. thậm chí phải rành bùa chú để trừ tà, ếm quỉ.
Hết Lê tới Nguyễn, đất nước lắm phen điêu linh vì nạn ngoại xâm, nội loạn, cho đến phải chia đôi Trịnh, Nguyễn. Sự tủi nhục, đau buồn của đất nước cũng là cái tủi nhục đau buồn của Phật giáo Việt Nam. Gia Long thống nhất sơn hà (1802) không bao lâu lọt vào tay người Pháp. Nước Việt Nam lại bị lệ thuộc Tây phương.
Ðến thời Pháp thuộc, chữ Hán phải thoái vị, nhường chỗ cho chữ Pháp thịnh hành. Phái Nho học bị loại khỏi chính trường, phái Âu học mang râu đội mũ bước ra, các ông Nho sĩ trở về vườn dạy học, chẩn mạch bốc thuốc, coi ngày cưới gả. Những khi nhàn rỗi, cụ đồ sang chùa cùng nhắp những hớp trà sen thơm ngọt, nói chuyện thân mật với các ông sư.
Tuy Tổ quốc đã trải qua bao phen thăng trầm vinh nhục, nhưng tinh thần dân tộc không bao giờ mất. Phật giáo Việt Nam đã bị loại khỏi chính trường, nhưng sức sống của đạo pháp vẫn còn tàng ẩn trong lòng dân tộc, chỉ chờ cơ hội thuận tiện là tinh thần dân tộc bùng khởi, đạo pháp sống động tràn trề.
3. PHẬT GIÁO VỪA CHỚM PHỤC HƯNG
Qua bao năm đen tối, dân tộc vừa quật khởi đập tan xiềng xích nô lệ (cuộc Cách mạng năm 1945), giành lại quyền tự chủ. Rồi đến đất nước bị chia đôi, tang tóc cứ mãi gieo rắc trên giải đất thân yêu nầy. Nhưng tinh thần quật khởi của dân tộc như sóng trào lên cuồn cuộn, không có sức mạnh nào có thể ngăn chặn được. Chính khi ấy, phong trào chấn hưng Phật giáo vừa chớm nở. Nhưng lại gặp sự ngăn cản của nhà Ngô gây thành tai nạn xảy ra năm 1963, Phật giáo vẫn bùng dậy như ngọn cuồng phong cuốn sạch tất cả. Bởi Phật giáo nằm sẵn trong lòng dân tộc, nên khi bị khích động mạnh tự dưng trỗi dậy một cách hùng hồn. Chúng ta tin chắc rằng Phật giáo đã gắn liền với dân tộc, nên nhịp tiến triển của dân tộc và Phật giáo đi đều nhau. Ngày mai kia, dân tộc được độc lập thống nhất thì Phật giáo cũng được vinh quang hưng thịnh, bởi sự tương quan mật thiết giữa Phật giáo và dân tộc trên dòng lịch sử cũng như trong tâm tư người Việt Nam.