Người dịch: VĂN THỤ
Chương 6

I
Chúng tôi trở lại Orchid City vào quãng năm giờ, sau khi phải đối đáp với cảnh sát trưởng Dunnigan mười lăm phút. Câu chuyện tôi khai với Dunnigan không phải là sai hoàn toàn: ông Freedlander có cô con gái đã bị mất tích hai năm (cảnh sát điện hỏi phòng ghi nhận những người mất tích, được xác nhận là đúng). Tôi đã bắt gặp cô lang thang ngoài phố, bị mất trí nhớ nên đã trao cho cô thư ký của tôi săn sóc, rồi tới báo cho bố cô ta biết.
Dunnigan hỏi tại sao biết người con gái đó là Freedlander? Tôi trả lời đã đọc tin và coi hình ở tờ báo chuyên về các vụ mất tích nên còn nhớ hình dáng của cô gái.
Dunnigan nhìn tôi, nửa tin nửa ngờ rồi buông một câu: Tôi nghĩ rằng anh nên tìm những việc khác có ích mà làm hơn là đi dắt các cô gái lạc về gia đình!
Tôi kể tiếp khi chúng tôi tới nhà Freedlander, nghe tiếng súng nổ phát hiện ra người bị giết rồi bị tên sát nhân nhằm bắn nên phải chống trả để tự vệ. Tôi trình Dunnigan giấy phép mang súng của tôi và Kerman và khai là không hề biết gì về tên hung thủ, chỉ đoán hắn là tên cướp.
Qua nét mặt của cảnh sát trưởng, tôi biết ông ta không hề tin là tôi hoàn toàn nói thật. Nhưng kéo dài cuộc thẩm vấn, chỉ mất thời giờ cả hai bên, nên cuối cùng Dunnigan đành cho chúng tôi về, chỉ nói thêm: - Cứ mỗi lần có mặt các anh là thành phố này lại có thêm chuyện rắc rối, phiền nhiễu tới mọi người và cả cho tôi nữa. Tại sao các anh không chịu ở yên một chỗ? Không có các anh, tôi cũng quá đủ việc để làm rồi!
Chúng tôi mỉm cười kiểu ngoan ngoãn, hiền lành và lễ phép, rồi xin cáo lui. Khi xe chạy tới Oakland Bay, Kerman mới nói khẽ:
- Nếu ông ta biết tên này là một trong những tên bắt cóc quản gia Stewes thì chắc chắn chúng mình đã bị mất nhiều thời giờ hơn.
- Thế là bây giờ chúng ta lại phải thêm một gánh nặng phải vác: Đó là cô Anona. Lạ thật, trong vụ án này tất cả những ai hơi có liên quan đều lần lượt bị hại. Từ người hầu, lão quản gia, cô y tá... Tôi có cảm tưởng Anona cũng dính líu vào chuyện này, như vậy có nghĩa là tính mạng cô ấy cũng bị đe dọa. Kerman giật mình:
- Có thể bọn chúng sẽ âm mưu bắt cóc cô ấy chăng?
- Có thể lắm. Chúng ta phải tìm cho cô ấy một chỗ kín đáo. Tôi sẽ đề nghị bác sĩ Mansell để cô ấy nằm tại Bệnh viện tư của ông ta và nhờ một số người canh gác.
Như có linh tính báo trước những điều không hay sắp xảy ra, Tới San Lucac tôi đậu xe lại trước một cửa tiệm. Kerman ngạc nhiên, hỏi:
- Có chuyện gì vậy?
- Cần điện thoại cho Paula. Đáng lẽ chúng ta phải lo chuyện này trước khi đi. Tôi như có linh tính báo trước... - Kerman trấn an tôi:
- Anh giàu tưởng tượng quá đấy thôi!
Tôi vừa định bước vào phòng điện thoại, thì Kerman nắm cánh tay tôi, chỉ một chồng báo ở quầy, nói: "Trông kìa!".
Ngay trang đầu một tờ báo, có dòng tít lớn:
Vợ bác sĩ Salzer tự sát.
Tôi chạy vội vào phòng điện thoại, miệng bảo Kerman: "Mua đi".
Tôi quay số của Paula, nghe tiếng chông reo trong máy nhưng không có ai trả lời. Tôi đứng im, thấy nhói trong tim, ấn sát ống nghe vào tai. Mấy phút trôi qua, vẫn không có người nhấc máy phía bên kia đầu dây. Kerman lại gần, nhìn tôi qua cửa kính. Tôi lắc đầu, đặt máy xuống rồi lại nhấc lên quay số lại. Vẫn thế.
Tôi nhảy bổ ra ngoài, nhảy lên xe. Kerman bảo:
- Nhanh cũng phải một giờ nữa chúng ta mới tới nhà. - Tôi ấn bàn đạp sát xuống sàn xe, nói thầm:
- Không lâu đến thế đâu!
Trong khi lái, Kerman giở tờ báo, cho tôi biết tin tức:
- Sáng nay Salzer đã cho cảnh sát biết tin về cái chết của y tá Quell. Tới trưa, bà vợ Salzer đã tự tử. Không có một câu nào đả động tới hai cô y tá Gurney và Freedlander.
Tôi bảo:
- Mụ Salzer thấy động, biết không thoát được cái tội trạng nên đã mất tinh thần. Nhưng mặc xác bọn chúng. Việc trước tiên của chúng ta bây giờ là: Paula!
Tôi chạy xe với tốc độ một trăm bốn mươi lăm. Suốt chặng đường dài đồng hồ đo cứ quanh quẩn ở con số đó. Một xe tuần hành của cảnh sát giao thông bám đuổi xe chúng tôi một lát rồi bỏ. Chắc họ sẽ báo cho các trạm tiếp theo, tôi rẽ xuống đường tắt vào Orchid City và dừng trước nhà Paula, nhanh hơn dự kiến mười lăm phút. Paula ở lầu ba. Thang máy rì rì lên quá chậm. Chúng tôi nhảy qua cửa phòng thang máy chạy tới trước cửa căn hộ Paula và nhấn chuông. Không có ai mở cửa. Mồ hôi người tôi toát ra như tắm. Tôi bảo Kerman: "Huých". Cái cửa rất chắc, nhưng hai vai chúng tôi khỏe hơn. Khóa cửa bật tung, Kerman và tôi, súng trong tay, chạy bổ vào phòng của Paula.
Khăn trải giường và chăn vứt bừa bãi dưới đất. Phòng bên và buồng tắm không có ai: Paula và Anona đã mất tích!
Tôi chạy đến bàn điện thoại gọi về văn phòng. Có tiếng Trixy trả lời từ sáng không thấy Paula tới, cũng không có điện thoại của cô. Chỉ có một người đàn ông, không cho biết tên, đã gọi tới văn phòng hai lần.
Kerman đưa cho tôi một điếu thuốc, tôi châm lửa tự nhận thấy tay mình run, và ngồi xuống cạnh giường như người mất hồn. Kerman bảo:
- Phải tới ngay tàu "Mộng Mơ". Đi gấp mới được!
Tôi gật đầu, xác nhận:
- Nhất định chúng đã đưa Paula xuống tàu. Nhưng phải bình tĩnh mới hành động được. Cậu có thể nghĩ rằng mình xuống tàu như thế này, giữa ban ngày hay sao?
Kerman vung tay:
- Tôi đi ngay đây. Nếu chờ, sẽ muộn mất!
- Thôi, cậu kiếm cái gì uống đi, rồi ra đây, chúng ta bàn với nhau một lát. - Kerman vào phòng bếp mang ra một chai Scôt, một xô nước đá và hai ly, chờ Kerman ngồi xuống tôi mới nói:
- Nếu bọn chúng định hại Paula thì chúng đã lầm rồi. Mà nếu chưa hành động được, khi bọn ta tới, chúng lại càng phải làm gấp. Bởi vậy, chúng ta buộc phải chờ đến tối.
Kerman không trả lời, nốc cạn ly rượu. Chúng tôi còn phải ngồi như thế này để nhìn sàn nhà trong bốn giờ nữa.
Tới sáu rưỡi, cái gạt thuốc lá đầy tàn. Bỗng có tiếng chuông điện thoại. Tôi tới nhấc ống nghe. Có tiếng đàn ông hỏi:
- Malloy phải không?
- Đúng.
- Sherrill đây! Cô Paula của anh hiện đang ở dưới tàu.
Giọng nói của hắn nhẹ nhàng, thầm thì.
- Tôi biết rồi.
- Anh nên tới đón cô ta về, vào quãng chín giờ. Đừng tới sớm hơn. Một cái thuyền máy sẽ đợi anh ở bờ. Anh phải đi một mình và không được báo cho ai biết, nếu không cô ta sẽ bị xử trí và quẳng xuống nước. Anh hiểu chứ?
Tôi trả lời: "Rất hiểu" rồi buông máy.
II
Trung úy cảnh sát Bradley ở "Phòng chuyên về các vụ mất tích" đã đứng tuổi, hơi phệ, nét mặt đượm vẻ mệt mỏi của những người đã ngồi một thời gian quá lâu ở văn phòng. Suốt ngày kể cả đêm ông thường nhận toàn những cú điện thoại khẩn cấp báo tin người này, người nọ tự nhiên mất tăm hơi và người gọi điện cùng họ hàng gia quyến chỉ còn biết mong chờ vào khả năng của Sở cảnh sát để tìm thấy vết tích người thân của họ. Nhiệm vụ không dễ dàng gì. Nhiều khi chỉ là một người chồng hay người vợ, quá ngán ngẩm cảnh gia đình, muốn vỗ cánh tung bay cho nhẹ nợ. Trước khi đi, họ đã nghĩ chán tới vấn đề đi đâu, ở đâu để khó có ai tìm thấy được. Nếu bây giờ người ta trả cho tôi lương cao hơn Bradley và trao cho tôi chức vụ của ông, chắc tôi cũng xin kiếu. Nhìn thấy ánh đèn qua tấm kính mờ của phòng Bradley, tôi gõ cửa rồi bước vào sau khi nghe thấy tiếng mời có vẻ nồng nhiệt và lịch thiệp. Nhưng vừa nhìn thấy tôi, Bradley đã sừng sộ:
- Thôi, cút đi! Đang bù đầu lên đây này. Không có thì giờ nghe cậu kể con cà con kê đâu đấy nhé!
Tôi đóng cửa lại, rồi đứng tựa lưng vào tường nói:
- Tôi cần được anh giúp đỡ. Tôi đang vội đây. Có được không hay tôi lại đành phải đi gặp Brandon vậy?
Đôi mắt màu xám của ông ta ánh lên vẻ thông minh và giễu cợt.
- Này, làm gì mà quan trọng thế? Cần gì nào?
- Đơn giản thôi. Tôi muốn có những tài liệu chi tiết về cô Anona Freedlander mất tích ngày 15 tháng năm, cách đây hai năm, khi còn làm y tá trong viện an dưỡng của bác sĩ Salzer. - Đôi lông mày chổi xể của ông trợn lên nhìn tôi:
- Vừa rồi cũng có một người tới yêu cầu tôi cho coi hồ sơ của con bé này. Lạ thật, để mục đấy thì không sao, tới ngày linh ứng rồi xếp hàng theo đuôi nhau, đòi xem!
- Ai đã tới đây vậy?
- Việc đó không can gì tới anh. Ngồi xuống đi.
Tôi vừa ngồi xuống thì một nhân viên lại gần bàn. Brandley bảo:
- Lấy lại cho tôi tập hồ sơ về cô Freedlander. Mau lên, anh chàng này đang vội. - Người viên chức đi ra, Brandley châm thuốc hút và hỏi tôi:
- Cậu vẫn cắm mũi vào công việc của gia đình Crosby đấy à?
- Vẫn, - tôi trả lời ngắn gọn. Ông ta lắc đầu bảo:
- Bọn trẻ các anh lắm chuyện lắm. Nghe nói anh đã bị bọn Mac Graw lại thăm. Không ngán à?
- Không. Ông ta đang suy nghĩ về trạng thái nói năng hà tiện của tôi, nên tôi đành phải ra một câu hỏi có lời văn hơi dài một chút.
- Ông đã được báo tin về vụ cô y tá Gurney mất tích chưa? Cô ta làm cho bác sĩ Salzer.
- Chưa. Một cô y tá của Salzer à? - Đúng vậy. Một cô gái đẹp. Nhưng ở tuổi ngài, chắc ngài chẳng quan tâm.
Brandley đang lườm tôi, không dám đính chính rằng tôi nói sai, thì tôi lại tiếp:
- Vả lại, bây giờ cô ta đã chết và bị bà Salzer vứt xác ở khu đồi cát.
- Ai báo cho biết?
- Một mụ thày bói!
Brandley châm lửa vào píp thuốc, thở dài bảo:
- Các anh chúa là rắc rối. Đáng lẽ việc này phải báo cho Phòng hình sự. Nhưng được rồi, để đấy.
- Tôi báo cho ông để ông là người đầu tiên có thể nêu vấn đề trong Sở: "Tại sao bà Salzer tự tử". Hai việc có liên quan với nhau đấy. - Nhân viên giữ hồ sơ mang một cặp giấy vào. Brandley mở các dây buộc. Bên trong hai tấm bìa dày là một tờ giấy trắng tinh. Mặt Brandley đỏ bừng lên như người nghẹt thở. Ông ta nhấn chuông trên bàn. Nhân viên hồ sơ vội quay lại, đứng nghiêm, miệng há hốc nghe sếp chỉ vào tập hồ sơ, hỏi:
- Thế này là thế nào?
- Thưa sếp, tôi không biết. Vừa rồi tôi đã nhận lại tập hồ sơ này từ bàn của sếp, buộc dây kỹ càng như vừa rồi.
- Thôi, ra đi!
Khi anh nhân viên ra rồi, Brandley buồn rầu bảo tôi:
- Việc tuy nhỏ, nhưng nếu ở trên biết cũng có thể bị mất chức. Đúng là thằng buổi sáng nay đã lấy rồi thay vào đây mấy tờ giấy trắng. - Tôi suy nghĩ một lát rồi bảo:
- Thằng đó cao, da sạm, điển trai kiểu tài tử xinê phải không?
- Anh quen nó hay sao?
- Không, nhưng tôi đã gặp nó. Tôi sẽ mang tập hồ sơ về cho ông.
- Anh lấy ở đâu?
Tôi đứng dậy bảo:
- Tôi hẹn ông tới chín giờ sáng mai là cùng. Hoặc tôi lấy được cho ông tập hồ sơ về, hoặc là cái thằng điển trai ấy. Tôi đang muốn điều tra một vụ nhưng lại không muốn cho Brandon biết. Ông đừng thông báo vội việc mất tập hồ sơ này.
- Thế là thế nào?
- Thế là tôi sẽ tìm thấy nó. Xin chào ông.
- Xin mời... Tôi muốn chi cho anh một món chừng năm trăm đô la để đền bù những việc không may đã xảy ra, được không?
- Không biết chúng ta có nên bỏ qua chuyện cô Freedlander đi không. Riêng tôi, tôi còn do dự về việc tin hay không tin cô Maureen. Nếu cô Janet nhỡ nổ súng vào bố, và sau đó đã uống thuốc độc tự tử vì hối hận thì tại sao trước ngày chết cô ta vẫn thảnh thơi chơi quần vợt và dự các buổi khiêu vũ?
Willet để rớt rượu từ cái ly cầm trên tay xuống tấm giấy xốp lót tay ở mặt bàn và rủa thầm qua kẽ răng. Tôi nói tiếp:
- Chuyện cô Janet tự tử cũng được bịt kín nhưng cô gái hầu phòng Eudora Drew đã nghe thấy những lời trao đổi giữa bác sĩ Salzer và cô Maureen. Cũng vì vậy mà cô ta bị chết theo lệnh của bà bác sĩ tâm thần Salzer.
Willet nghẹn ngào, nốc thêm một li uýtki nữa như để tự an thần. Tôi lại tiếp:
- Vẫn chưa hết. Ông già quản gia John Stevens có những nghi vấn về cái chết của cô Janet, đã bị những tên tay chân của Sherrill bắt cóc và đối xử thô bạo đến nỗi bỏ mạng. Tiếp theo là vụ bắt cóc nữ y tá Gurney do bà Salzer thực hiện. Bà ta đã giấu xác cô Gurney ở vùng đồi cát dù rằng cô ta chết do trượt chân ngã.
Willet rên rỉ:
- Thật quá sức tưởng tượng!
- Theo tôi, có thể suy ra rằng: bà vợ ông Salzer và Sherrill đã nhúng tay vào ba vụ án mạng không kể hai vụ bắt cóc Anona và tôi, chẳng lẽ chỉ để tránh cho báo chí khỏi đụng đến tên của một cô gái?
- Báo chí đã làm họ lo sợ hộ cô Maureen. Sợ cô sẽ bị mất hàng triệu đô la!
- Còn việc này nữa. Sau khi ông Crosby chết, Sherrill đã lộ bộ mặt thật, dọa tố cáo mọi việc để tống tiền Maureen. Do đó, cô ta đã phải tậu cho hắn con tàu "Mộng Mơ".
Mặt Willet xanh như tàu lá.
- Maureen mua tàu "Mộng Mơ" à?
Cô ta thú thật với tôi như vậy. Giữa lúc cô ta đang nói chuyện với tôi thì Sherrill xuất hiện. Hắn dùng vũ lực đưa tôi vào khu điên trong viện an dưỡng của nữ bác sĩ Salzer và dọa đưa Maureen tới một địa điểm không ai có thể tìm thấy. Tôi đã được bạn đồng nghiệp giải thoát khỏi nơi giam giữ cùng cô Freedlander. Nhưng còn cô Maureen. Nếu ngày mai cô ta không tới, tức là cô ta đã bị Sherrill giam giữ trên tàu "Mộng Mơ". Còn nếu cô ấy tới đây có nghĩa là cô ấy đã âm mưu đưa tôi đến nhà để trao cho đồng bọn.
Willet rót thêm rượu vào ly. Tay ông ta run run. Ông nói như than vãn:
- Chẳng có lẽ lại như thế?
- Nếu cô ta bị giam giữ, ông có thể hãm lại mọi việc chi ở ngân hàng không?
- Không. Tôi chỉ có khả năng báo việc này với các ông chủ chính của công ty chúng tôi là các ngài Glynn và Coppley thôi.
- Có lẽ nên hỏi ý kiến họ.
Willet lại xoa cằm, rồi nói với tôi:
- Ông Malloy ạ, chúng ta bàn thành thật với nhau nhé. Những ông sếp của tôi ấy mà, họ chỉ chăm chăm muốn thực hiện một cách máy móc những điều trong chúc thư của ông Crosby, không cần nghĩ đến việc cô Maureen có thể bị oan ức hay không. Theo ý tôi, thì cái chúc thư ấy cũng chứa đựng nhiều điều vô lý. Đành rằng, khi còn sống ông Crosby cũng bị phiền lòng về lối sống của Maureen, nhưng ông ta cũng đã không dự đoán trước được cách đặt điều kiện với Maureen trong chúc thư của ông đã làm nảy sinh ra bao nhiêu kẻ muốn đặt điều ra để tống tiền cô gái.
- Nhưng còn ba vụ án mạng kia. Lí gì mà chúng ta phải giấu giếm chúng?
- Vai trò của Maureen trong những vụ án đó không có gì rõ rệt. Chúng ta không nên làm cô ta mất hàng đống của như thế một cách oan ức. Còn cô Freedlander thì sao? Theo anh, chừng bao lâu nữa cô ta có thể tỉnh?
- Tôi không biết. Có thể phải rất nhiều ngày nữa. Hiện tại cô ta không nhớ cả tên mình.
- Cô ta nằm ở bệnh viện à?
Tôi lắc đầu:
- Không. Cô ta được cô thư ký của tôi săn sóc. Tôi cũng nhờ thêm một bác sĩ. Ông ta bảo phải qua một thời gian. Hôm nay, tôi sẽ lại thăm ông bố cô ta ở San Francisco. Khi nhìn thấy bố, có thể cô ta sẽ khôi phục lại một phần trí nhớ.
Willet châm thêm một điếu thuốc và bảo:
- Tôi sẽ chịu mọi phí tổn về đi lại cho anh. Sắp tới anh sẽ làm gì?
- Để coi Maureen có tới hay không đã. Nếu cô ta không tới, tôi sẽ tìm cách lên tàu "Mộng Mơ" một chuyến xem sao. Cũng còn nhiều việc phải làm khác nữa. Hiện nay, tôi cũng chưa rõ phải làm gì trước, sau. - Có tiếng gõ cửa. Cô gái tóc bạch kim xuất hiện, uốn éo đi lại phía bàn Willet, đưa cho ông ta một tờ giấy nhỏ và nói:
- Bà Pollard đang mong được gặp ngài. Còn đây là nội dung lời nhắn qua điện thoại của một người khác.
Willet nhìn vào tờ giấy cô thư ký vừa đưa rồi nói với cô:
- Nói với bà Pollard là tôi sẽ tiếp bà sau năm phút nữa. Quay sang tôi, ông ta nói tiếp:
- Ngày mai cô Maureen không tới được. Cô ta có việc đi Mexicô.
Tôi hỏi cô thư ký:
- Ai đã gọi điện lại? - Thưa ông, người gọi không nói tên, chỉ nói phải đưa tin này ngay cho các ngài biết.
Willet bảo cô thư ký: - Được rồi, cô có thể lui ra.
Tôi cũng cầm mũ, đứng lên và nói: - Như vậy, tôi chỉ còn cách phải xuống tàu "Mộng Mơ".
- Tùy anh thôi. Nhưng phải hết sức thận trọng mới được.
- Ngài cứ yên tâm. - Cũng có thể cô ta ở Mexicô thật thì sao?
Tôi không trả lời, chỉ cười lạt chào ông ta và ra ngoài. Một bà khách người đẫy đà, đeo ở cổ chuỗi hạt ngọc, có hạt to như trứng chim bồ câu đang ngồi chờ được Willet tiếp kiến. Tôi đi qua mặt bà ta tới gần bàn cô thư ký tóc bạch kim và nở một nụ cười thật tươi. Cô ta ngẩng đầu lên nhìn vào cái mũ cũ tôi cầm ở tay và bộ quần áo tôi mặc, rồi lại lơ đãng cúi xuống tiếp tục ghi chép.
Tôi tắt nụ cười, đi ra đường, trong lòng thấy hơi buồn cho nhân tình thế thái.
Khi tôi bước vào văn phòng thì Kerman đang biểu diễn cho cô thư ký đánh máy của tôi biết tài tử Gregory Peck hôn các cô đào trên màn ảnh như thế nào. Thấy tôi, anh chàng vội buông cô Trixy ra, cụt hứng, đi theo tôi vào phòng làm việc.
Tôi mở ngăn kéo bàn lấy khẩu 38 cho vào túi rồi bảo Kerman:
- Cậu không thấy Trixy còn trẻ quá hay sao? Vả lại đây là chỗ làm việc.
Kerman bao giờ cũng có kiểu cười toe toét để làm lành.
- Tôi chỉ trao đổi nghệ thuật trong giờ giải lao một lát thôi. Tôi có tin tức mới cho anh đây.
- Lát nữa, ra xe sẽ nói sau. Cậu đi San Franciscô với tôi ngay bây giờ. Có súng trong người chưa?
Trong lúc Kerman đi lấy súng, tôi điện thoại cho Paula:
- Anona thế nào?
- Vẫn thế, Bác sĩ Mansell vừa ở đây về. Ông ta bảo việc chữa chạy cần phải một thời gian dài đấy.
- Bây giờ anh đi San Franciscô cùng Kerman. Nếu ông bố cô ấy nhận con gái về, thì công việc của chúng ta sẽ nhẹ hơn.
- Chúc anh đi may mắn. Sẽ gặp nhau lúc về. Tôi đặt máy xuống, ra gặp Kerman cùng xuống nhà, lên xe và bảo:
- Chiều nay, chúng ta phải làm thế nào để xuống được tàu "Mộng Mơ".
- Đàng hoàng hay bí mật?
- Bí mật. Có thể phải bơi đến tàu.
- Lát nữa có lẽ tôi phải viết chúc thư để lại, vì vùng đó rất nhiều cá mập.
Tôi mỉm cười, lái xe ra đường Fairview Boulevard, bảo Kerman:
- Có tin mới gì thì nói đi. - Anh phải cầm tay lái cho vững nhé. Vùng này cảnh đẹp, dễ xúc động lòng người thành ra cũng nguy hiểm đấy. Tôi phải đi lùng tin cả ngày hôm qua. Anh có biết mụ Salzer là ai không?
- Không.
- Vợ kế của ông Donald Crosby, mẹ của Maureen.
Tôi suýt đụng vào chiếc camiông đi ngược chiều, vội giảm tốc độ và cho xe chạy né thêm sang phải. Kerman bảo:
- Tôi nói rồi mà. Đi đường này nghe tin giật gân rất chi là nguy hiểm!
- Nói tiếp đi. Cậu biết thêm được những gì nữa?
- Cách đây hai mươi ba năm, mụ là bác sĩ chuyên tai - mũi - họng ở San Francisco. Vì chữa cho Janet nên quen và lấy ông Crosby. Cuộc sống chung không thành công, hai người ly dị và mụ lấy người thứ hai là Salzer. Khi ông Crosby mở văn phòng ở Orchid City, mụ cũng tới ở cùng khu vực để gần Maureen. Anh thấy thế nào?
- Điều này lý giải được nhiều sự việc. Lẽ dĩ nhiên, mụ Salzer muốn Maureen hưởng phần lớn gia tài. Nhưng cần gì phải gây ra bao nhiêu án mạng?
- Đúng vậy. Tôi đã hỏi thăm ở Liên đoàn các bác sĩ. Họ cũng giữ kín để bảo vệ cho nhau ghê lắm. Vậy mà tôi cũng biết được hai chuyện: Mụ ta có lần đã bị hoảng loạn tâm thần khi đang tiến hành một ca phẫu thuật. Một lần khác, mụ đã làm đứt cổ họng một bệnh nhân.
- Ông Salzer có tiền không?
- Không có tới một đồng!
- Vậy tiền đâu để tậu viện an dưỡng? Dù sao mụ sẽ không thể ngồi yên được.
Sau khi tìm thấy xác của cô Gurney, tôi sẽ bàn việc này với Mifflin.
Tôi im lặng lái xe được chừng mười phút. Kerman lại nói:
- Lẽ ra mình chỉ việc gọi điện thoại đến chỗ bố cô Freedlander. Như vậy đỡ mất thời giờ.
- Qua điện thoại không thể bàn kĩ vấn đề tình cảm và biết được liệu ông Freedlander có điều kiện nhận con gái về ở với mình để chữa bệnh hay không. Nói chuyện trực tiếp với ông ta vẫn hơn.
Chúng tôi qua cầu Oakland Bay để đi tới California Street.
Căn hộ của gia đình Freedlander ở phía phải, xa ngã tư, trong khu đông dân nghèo, trên lầu năm một cư xá. Kerman theo tôi ì ạch leo cầu thang vì không có thang máy. Chúng tôi đứng lại thở một lát ở hành lang, rồi đi tới cánh cửa căn hộ mang số hai mươi lăm. Không có chuông, Kerman giơ tay định gõ cửa. Bỗng nghe thấy tiếng "bụp"! Cái tai đã nghe nhiều tiếng nổ của chúng tôi nhận ra ngay đó là tiếng súng có bộ phận giảm thanh. Kerman nói khẽ:
- Tiếng súng?
Tôi vặn nắm cửa. Cửa không khóa. Chúng tôi rón rén vào một phòng khách rộng. Phía cuối có hai cửa đóng của hai phòng kế bên. Tôi lại áp tai vào cánh cửa bên phải, ra hiệu Kerman đứng né vào một bên, rồi mở cửa, đứng sát vào tường. Tôi cúi người nhìn vào bên trong. Dưới sàn, một người nằm sõng sượt, một tay co quắp để trên ngực. Máu chảy thành dòng rỉ qua những kẽ tay. Nạn nhân khoảng sáu chục tuổi. Tôi đoán ngay đây là bố của cô Freedlander. Trong khi tôi quan sát, ông già thở hắt ra một hơi dài rồi bàn tay trên ngực từ từ tuột xuống sàn. Tôi đứng im phán đoán, kẻ sát nhân chưa thể rời khỏi nơi đây. Kerman quỳ xuống bên cạnh cửa ra vào, tay cầm sẵn khẩu súng. Tôi hướng về một cái rèm cửa, quát to:
- Ra đi! Giơ tay lên!
Liền sau đó, một tiếng nổ, viên đạn bay sượt trán tôi. Kerman nâng súng, nổ luôn hai phát, làm rung kính các cửa. Tôi làm hiệu cho Kerman đứng tại chỗ, vén nhanh bức màn ra cửa. Cách cửa sổ này hơn một mét là một cửa sổ phòng bên. Dưới hai cái khung cửa chỉ có một cái gờ tường nhỏ. Tôi đoán tên sát nhân đã lọt vào cửa sổ kế bên nên đưa chân ra ngoài, đứng lên gờ tường, tìm cách trèo sang cửa sổ phòng bên. Kerman nhìn xuống đường cách cửa sổ chừng ba chục mét, lắc đầu rồi chạy ra ngoài hành lang.
Khi tôi sắp bước được lên khung cửa sổ kế bên thì có một tiếng nổ từ đám đông đứng dưới đường vọng lên. Bụi vôi bắn mù mịt quanh tôi. Tôi bước qua cửa sổ nhảy vội vào phòng và nhìn ngay thấy một bóng người đứng ở đầu giường, tay cầm sẵn súng. Lại một tiếng nổ lớn, cây súng bỗng biến mất. Tên Ý vẫn theo dõi tôi mấy ngày nh cửa dẫn lên một hành lang hẹp, có đèn sáng.
Tôi cầm sát khẩu tiểu liên vào người. Trong lúc bàn kế để lên được tàu tôi không muốn mang theo vũ khí, nhưng Kerman nhất định thuyết phục tôi mang theo khẩu súng này. Anh chàng đảm bảo nó có thể giúp tôi bắt cả nửa số nhân viên trên tàu đứng im theo lệnh tôi. Tôi cũng không tin tưởng lắm, nên mang nó theo, chủ yếu là chiều theo ý của Kerman hơn là để tự vệ.
Tôi bắt đầu di chuyển thận trọng, dọc theo hành lang tàu để tới chân một cái thang sắt. Chắc cái thang này sẽ đưa tôi lên trên boong tàu. Mới trèo lên được nửa chừng, tôi vội ngưng lại. Trên đầu tôi, nghĩa là phía trên thang, có hai cái chân, rồi đến hai cái cẳng trong hai ống quần rộng bằng vải trắng. Chỉ một giây sau đó, tay thủy thủ nhìn thấy tôi, hốt hoảng há hốc miệng. Tôi dí miệng súng về phía bụng hắn. Hắn nhanh nhẹn giơ hai tay lên trời. Tôi nói khẽ qua kẽ răng:
- Nếu mi kêu một tiếng, ta sẽ cho cả băng này vào bụng đấy. Quay lại! - Hắn ngoan ngoãn nghe theo. Tôi bước lên thêm mấy bậc, lấy miệng súng đánh vào gáy hắn rồi nhanh tay, đỡ hắn cho trượt nhẹ nhàng xuống dưới sàn. Có thế mà người tôi đã đẫm mồ hôi, lại còn phải kéo hắn vào một cabin ở gần đấy để giấu nữa.
Tôi vội vàng đổi quần áo của hắn cho mình. May mắn hắn cũng to ngang và cao bằng tôi. Đầu hắn hơi to hơn đầu tôi một chút nên cái mũ lính thủy hơi rộng. Tuy vậy cái lưỡi trai lại có tác dụng để che giấu nét mặt người đội trong bóng tối.
Tôi quấn tay thủy thủ vào khăn trải giường, lấy dây lưng trói lại, dùng thêm một sợi dây thừng nhặt được dưới sàn kéo hắn lên tầng trên của chiếc giường hai tầng rồi để lại khẩu tiểu liên, chỉ giắt vào túi khẩu súng ngắn.
Tôi tắt đèn trong cabin rồi nhẹ nhàng ra ngoài, khóa cửa lại.
Đồng hồ chỉ tám giờ hai mươi lăm. Tôi còn ba mươi lăm phút nữa để hành động trước khi đón Kerman lên tàu.

Truyện Cùng Tác Giả trước đây, ôm tay loạng choạng chạy ra ngoài hành lang. Hắn định bắn tôi nhưng lại bị trúng đạn của Kerman. Thấy Kerman đuổi theo tôi vội gọi:
- Kerman! Đứng lại! Có cảnh sát ở dưới đường. Họ đang lên đấy.
Quả nhiên có tiếng nổ liên thanh lẫn với tiếng hét của một người đàn bà. Có một vật gì đó đổ xuống sàn.
Tôi từng biết cảnh sát San Francisco phản ứng rất mau lẹ khi nghe thấy tiếng súng. Có tiếng quát:
- Đi ra hết ngoài này. Ai còn cầm súng, sẽ bị bắn hạ!
Tôi nói vọng ra:
- Đủ rồi, đủ rồi! Chúng tôi ra đây.
Tên người Ý nằm sấp xuống mặt đất, trên đầu có một vết đạn nhỏ đang rỉ máu.
Tôi bảo viên cảnh sát:
- Trong phòng còn có một xác chết nữa. Chúng tôi đến quá chậm nên không kịp ngăn chặn bọn giết người! Lần sau, xin ngài đừng bắn từ dưới lên thế. Đã biết ai là kẻ gian đâu?
Viên cảnh sát điềm tĩnh trả lời:
- Xin ghi nhận... để lần sau sẽ ngắm kỹ hơn!
--!!tach_noi_dung!!--

Nguyên tác: LAY HER AMONG THE LILIES Nhà xuất bản: Gallimard
Nguồn: VN Thư Quán - Thư viện Online
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 1 tháng 5 năm 2004

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- ---~~~mucluc~~~---