Chương 17
Bị lừa

Trên boong đuôi của "Arabella", dưới những tia nắng mai rực rỡ, một cuộc họp được triệu tập vội vàng. Thuyền trưởng Blood chủ tọa, tinh thần chàng hoàn toàn sa sút. Nhiều năm sau chàng đã thổ lộ cho Pitt rằng đó là ngày nặng nề nhất trong cả cuộc đời chàng. Chàng đã tiến hành trận đánh với một tài nghệ đáng tự hào và đã đánh tan kẻ địch đông gấp bội. Mặc dù vậy Blood vẫn hiểu rõ sự vô ích của chiến thắng ấy. Chỉ với ba phát đạn rất trúng đích của một pháo đội mà họ không hề hay biết gì về sự tồn tại của nó, đã đủ để kẻ địch chuyển bại thành thắng. Họ thấy rõ rằng bây giờ họ phải chiến đấu để giành lấy tự do, mà nó chỉ có thể có được sau khi hạ xong cái pháo đài án ngữ lối ra biển.
Thoạt tiên thuyền trưởng Blood đã nóng nảy đề nghị bắt tay ngay vào việc sửa chữa các tàu và lập tức lặp lại cuộc đột phá ra biển. Nhưng các chiến hữu đã can ngăn chàng từ bỏ ý định liều lĩnh ấy: làm như vậy thì có thể mất hết. Rồi sau khi đã bình tâm, thuyền trưởng Blood phân tích lại tình hình một cách tỉnh táo: "Arabella" không thể ra khơi được, "Infanta" phải vất vả lắm mới không chìm, còn "San Felipe" thì đã hư hại nghiêm trọng từ trước khi bọn cướp chiếm được. Rốt cuộc Blood phải đồng ý rằng họ không còn cách nào hơn là quay về Maracaybo và trang bị lại các tàu trước khi thử đột phá ra biển một lần nữa.
Họ đã đi đến quyết định như vậy. Và thế là những kẻ chiến thắng vừa bị đánh bại trong một trận đánh ngắn ngủi nhưng rất tệ hại đã quay về Maracaybo. Sự tức giận của Blood bị thói bi quan đen tối của Cahusac kích động thêm. Chóng mặt vì chiến thắng dễ dàng và thần tốc trước một kẻ địch mạnh hơn hẳn, gã người Breton lại rơi ngay vào nỗi tuyệt vọng khủng khiếp, lan cả sang phần lớn bọn cướp biển người Pháp.
- Thế là hết, - hắn bảo Blood. - Lần này thì chúng ta đi đứt.
- Cái đó tôi đã được nghe anh nói từ trước rồi, - thuyền trưởng Blood cố nhẫn nhịn bảo hắn. - Mà hình như anh cũng biết có chuyện gì đã xảy ra. Không ai có thể phủ định được một điều là chúng ta đã quay về với nhiều tàu và nhiều súng hơn. Anh thử nhìn những con tàu của chúng ta xem.
- Thì tôi vẫn đang nhìn chúng đây.
- Thế thì tôi không thèm nói chuyện với giống sâu bọ đớn hèn như thế này đâu!
- Anh dám gọi tôi là thằng hèn hả?
- Tất nhiên!
Gã Breton thở hổn hển gườm gườm nhìn kẻ lăng nhục mình. Tuy vậy hắn không thể buộc chàng phải thỏa mãn lòng tự ái của hắn được vì tấm gương Levasseur vẫn sờ sờ ra đó, và vì biết cái cách mà thuyền trưởng Blood sẽ thỏa mãn hắn. Bởi vậy, hắn chỉ lầm bầm giận dỗi:
- Anh nói thế là quá đáng lắm đấy nhé! Anh lộng hành quá rồi!
- Này Cahusac, hễ mỗi khi có chuyện gì không được trôi chảy như bữa tiệc chiêu đãi là y như rằng anh lại mở mồm kêu ca, tôi đã ngấy đến tận cổ rồi. Nếu anh muốn tìm một cuộc sống êm đềm thì đừng đi biển, lại càng đừng nên đi biển với tôi, bởi vì với tôi chẳng bao giờ có chuyện êm đềm được. Đó là tất cả những gì tôi muốn nói với anh.
Cahusac chửi bới om sòm, bỏ về hội ý với đồng bọn để quyết định xem phải làm gì.
Còn Blood, vẫn không quên bổn phận thầy thuốc của mình, đến thăm thương binh và ngồi lại ở đó đến tối. Sau đấy chàng lên bờ, đến dinh thống đốc và ngồi vào bàn viết cho Don Miguel một bức thư đầy vẻ khiêu khích, nhưng hết sức lễ độ bằng thứ tiếng Tây Ban Nha bóng bẩy:
"Thưa quan lớn, sáng nay Ngài đã thấy rõ tôi có thể làm được gì, - chàng viết. - Mặc dù ngài trội hơn gấp đôi về người cũng như về tàu và pháo, nhưng tôi đã đánh chìm và bắt sống các tàu trong hải đội của Ngài đang tìm diệt chúng tôi ở Maracaybo. Bây giờ thì Ngài không thể thực hiện những lời đe dọa  của mình được, dù tàu "Santo Nino" mà Ngài đang chờ đợi từ La Guayra có đến kịp đi nữa. Đã có ít nhiều kinh nghiệm, Ngài có thể dễ dàng hình dung ra chuyện gì xảy ra sau đây. Tôi không muốn quấy quả Ngài bằng bức thư này, thưa quan lớn, nhưng tôi là người nhân đạo và rất ghét đổ máu. Bởi vậy, trước khi làm cỏ cái pháo đài mà Ngài cho là bất khả xâm phạm, cũng như mới vừa đây tôi đã xóa sổ cái hải đội mà Ngài cũng cho là vô địch, bởi lòng nhân ái sơ đẳng, tôi xin cảnh tỉnh Ngài một lần cuối cùng. Nếu Ngài để chúng tôi tự do ra khơi, nộp năm chục nghìn peso và một trăm đầu gia súc để chuộc thì tôi sẽ vị tình không hủy diệt thành Maracaybo và sẽ giữ nó nguyên vẹn với cùng với 40 tù binh mà tôi đã bắt được. Trong số này có những nhân vật rất quan trọng mà tôi buộc phải giữ như những con tin cho đến khi chúng tôi ra được ngoài khơi, sau đó họ sẽ được thả về trong những chiếc thuyền mà tôi đã tịch thu để dùng vào việc ấy. Còn nếu Ngài, thưa quan lớn, vì thiếu khôn ngoan mà cự tuyệt những điều kiện nhân nhượng của tôi và buộc tôi phải đánh chiếm pháo đài, dù việc đó có làm nhiều người phải thiệt mạng oan, thì tôi xin báo trước cho Ngài rõ chớ có chờ tôi nương tay. Tôi sẽ bắt đầu trước hết bằng việc biến thành Maracaybo kỳ diệu thành đống gạch vụn...".
Viết xong thư, Blood sai đưa viên phó thống đốc Maracaybo bị bắt ở Gibaranta đến chỗ mình. Sau khi thông báo cho ông ta rõ nội dung bức thư, chàng phái ông ta đem nó đến cho Don Miguel.
Blood đã tính rất đúng rằng viên phó thống đốc Maracaybo là người quan tâm đến việc này hơn hết trong tất cả dân chúng Maracaybo, chắc ông ta phải cứu thành phố bằng mọi giá.
Sự việc đã xảy ra đúng như thế. Viên thống đốc khi đưa thư của Blood gửi Don Miguel quả nhiên đã thêm thắt vào đó những yêu cầu tha thiết của mình.
Nhưng Don Miguel không thèm nghe những lời van xin cầu khẩn ấy. Quả thật hải đội của hắn phần bị bắt, phần bị đánh chìm, nhưng viên đô đốc tự an ủi mình rằng đó là hắn bị đánh úp và thề không bao giờ để xảy ra chuyện đó nữa. Không ai có thể chiếm nổi pháo đài. Dù thuyền trưởng Blood có san bằng Maracaybo đi nữa, nhưng rồi thế nào cũng bị đền tội một cách tàn khốc một khi dám mò ra biển (mà sớm muộn rồi tên kẻ cướp ấy cũng phải làm như thế)!
Viên phó thống đốc cực kỳ tuyệt vọng. Ông ta nổi nóng và to tiếng với đô đốc. Nhưng tên đô đốc lại còn nóng nảy hơn nhiều.
- Nếu ông là một trung thần của Đức Hoàng thượng và không để cho bọn cướp biển khốn nạn ấy đến được đây - cũng như tôi sẽ không để chúng thoát khỏi đó - thì chúng ta đâu có đến nỗi rơi vào tình thế khó khăn như thế này. Bởi vậy tôi yêu cầu ông đừng nói với tôi những lời nhút nhát ấy nữa. Không đời nào lại có chuyện thỏa hiệp với thuyền trưởng Blood, và tôi sẽ thực hiện bổn phận của mình trước Đức vua. Ngoài ra, tôi còn những món nợ riêng với thằng khốn kiếp ấy và tôi định thanh toán sòng phẳng với hắn. Hãy về mà bảo với đứa đã sai ông đến đây như vậy!
Viên phó thống đốc đã đem câu trả lời ấy của tên đô đốc về tòa nhà đẹp đẽ của mình ở Maracaybo mà thuyền trưởng Blood cùng đám đầu lĩnh cướp biển đang chiếm cứ. Tên đô đốc đã tỏ ra không chút nao núng sau tai họa  vừa xảy ra, đến nỗi viên phó thống đốc đã cảm thấy xấu hổ và lúc chuyển lời phúc đáp của hắn cho Blood, ông ta đã tỏ ra hết sức ngang ngược mà giá viên đô đốc được trông thấy hắn phải rất hài lòng.
- Ra thế kia đấy! Blood bình thản mỉm cười mặc dù trái tim của chàng nhói đau, bởi vì dù sao chàng vẫn đã tính sẽ nhận được câu trả lời khác. - Thôi được, tôi lấy làm tiếc là ngài đô đốc ương gàn như vậy. Chính vì thế mà ông ta đã mất hải đội của mình. Tôi ghét tàn phá và đổ máu. Nhưng biết làm sao được. Sáng mai chúng tôi sẽ đưa củi đến đây. Có lẽ đến lúc tận mắt trông thấy đám cháy thì ngài đô đốc mới chịu tin rằng Peter Blood biết giữ lời. Ông có thể lui, Don Francisco.
Mất nốt chút ít dũng khí còn lại, viên phó thống đốc bị bọn áp giải điệu ra, chân bước không vững.
Khi ông ta vừa ra khỏi, Cahusac mặt tái mét nhảy chồm dậy và vừa vung vẩy đôi tay run lẩy bẩy, vừa the thé gào lên:
- Trời tru đất diệt tôi đi! Anh nói sao bây giờ nào? - Rồi không đợi Blood trả lời hắn tiếp: - Tôi biết thừa rằng lão đô đốc ấy không dễ dọa  mà. Hắn đã dồn chúng ta vào bẫy và biết rõ điều đó, còn anh thì lại đi làm hỏng tất cả vì bức thư ngu xuẩn của anh.
- Nói hết chưa? - Blood ung dung hỏi khi gã người Pháp dừng lại để lấy hơi.
- Chưa.
- Thế thì đừng bắt tôi phải nghe những lời mê sảng của anh nữa. Anh chẳng có gì mới để mà nói cả.
- Nhưng còn anh thì nói sao? Anh có thể nói được cái gì nào? - Cahusac rít lên.
- Quỷtha ma bắt anh đi! Tôi tưởng anh có đề nghị gì đó kia chứ. Nhưng nếu anh chỉ lo mỗi một việc là cứu lấy mạng mình thì tốt hơn cả anh và đồng bọn của anh hãy xéo đi. Tôi dám chắc tên đô đốc Tây Ban Nha sẽ rất hài lòng được biết quân số của chúng tôi giảm bớt đấy. Để chia tay nhau, chúng tôi sẽ cấp cho các anh một chiếc thuyền. Hãy đến gặp ngay Don Miguel bởi vì đằng nào các anh cũng chẳng có ích gì.
- Để người của chúng tôi quyết định đã! - Cahusac rống lên rồi cố nén cơn điên, hắn trở về với nhóm của mình.
Sáng sớm hôm sau đến tìm Blood, hắn trông thấy chàng một mình ở sân trong. Blood đang đi bách bộ, đầu cúi gằm. Vẻ đăm chiêu của chàng bị Cahusac hiểu nhầm là sự chán nản.
- Chúng tôi quyết định chấp nhận đề nghị của anh đấy, thuyền trưởng! - hắn nói với giọng thách thức.
Tay vẫn chắp sau lưng, thuyền trưởng Blood dừng lại và hờ hững liếc nhìn tên cướp biển. Cahusac giải thích:
- Tối hôm qua tôi đã gửi thư cho đô đốc Tây Ban Nha và bảo rằng tôi sẽ ly khai anh nếu ông ta để chúng tôi rời khỏi đây theo đúng danh dự nhà binh. Tôi vừa nhận được trả lời của ông ta. Đô đốc đã chấp nhận đề nghị của chúng tôi với điều kiện chúng tôi không được mang theo gì. Người của tôi đã xuống thuyền và chúng tôi sẽ ra đi ngay bây giờ.
- Chúc thượng lộ bình an, - Blood gật đầu đáp rồi quay đi, tiếp tục những suy nghĩ bị gián đoạn của mình.
- Đó là tất cả những gì anh muốn nói với tôi đấy à? - Cahusac thốt lên hỏi.
- Tôi có thể nói thêm với anh vài câu, - Vẫn quay lưng về phía Cahusac, Blood nói, - nhưng tôi biết anh sẽ không hài lòng.
- Thật à? Thế thì vĩnh biệt, thuyền trưởng! - Rồi hắn cay cú nói thêm: - Tôi tin rằng chúng ta sẽ không còn trông thấy nhau nữa.
- Tôi không chỉ tin mà còn mong thế, - Blood đáp.
Cahusac rủa độc rồi chạy ra ngoài. Ngay sáng hôm ấy hắn và đồng bọn đã ra đi, cả thảy chừng sáu mươi tên. Xem ra chúng khá bực vì đã để Cahusac dụ dỗ được mình rút về với hai bàn tay trắng mặc dù Yberville đã hết sức can ngăn. Tên đô đốc đã giữ lới hứa và để chúng tự do đi qua, điều mà một người biết rõ bọn Tây Ban Nha như Blood thậm chí cũng không ngờ đến.
Bọn Cahusac vừa đi khỏi thì có người vào báo rằng phó thống đốc xin chàng tiếp ông ta. Những suy nghĩ ban đêm đã tỏ ra có ích cho Don Francisco. Những suy nghĩ ấy càng làm ông ta biết lo lắng hơn cho số phận của thành Maracaybo cũng như bực mình hơn với thái độ trơ như đá tên đô đốc.
Thuyền trưởng Blood tiếp ông ta rất lịch sự.
- Chúc ông một buổi sáng tốt lành, Don Francisco! Tôi hoãn buổi hoa đăng đến tối. Ban đêm trông sẽ ngoạn mục hơn.
Don Francisco, một ông lão còm cõi, dễ bẳn gắt, tuy dòng dõi cao quí nhưng dũng cảm thì chẳng bằng ai. Được Blood tiếp, ông ta vào việc luôn.
- Thưa thuyền trưởng Blood, tôi muốn xin ông lui việc tàn phá thành phố lại ba hôm nữa. Trong thời gian ấy xin phép để tôi đi thu góp tiền chuphải làm nguôi lòng Tây Ban Nha mà sự bất bình cực điểm của chính phủ nước này đã được sứ thần của họ bày tỏ nhiều lần. Thượng thư ngoại vụ Anh, huân tước Sunderland đã phải cử một người cương quyết làm thống đốc Jamaica. Con người cương quyết ấy là một chủ đồn điền có thế lực nhất Barbados - đại tá Bishop.
Tên đại tá nhậm chức thống đốc một cách đặc biệt hăm hở, bởi hắn đang nóng lòng trả món nợ riêng với Blood. Bỏ lại những đồn điền, nguồn thu nhập lớn của mình, ngay khi đặt chân đến Jamaica, Bishop lập tức tỏ ra cho bọn cướp biển biết rằng hắn không định giao du gì với chúng hết. Dân anh chị trên biển nhiều tay phải gian nan. Chỉ duy một tên cướp biển, cựu nô lệ của ngài cựu chủ đồn điền, là không chịu rơi vào tay hắn mà cứ luôn luôn tuột khỏi tay hắn. Chàng vẫn tiếp tục gieo rắc hoang mang cho bọn Tây Ban Nha trên biển cũng như trên bộ. Những cuộc tập kích và đột kích táo bạo của chàng đã làm quan hệ căng thẳng giữa Anh và Tây Ban Nha không sao cải thiện nổi, một việc đặc biệt khó chịu trong những năm mà tình trạng hòa hoãn ở Châu Âu được gìn giữ một cách khó khăn đến như vậy.
Phát điên phát dại không chỉ vì sự bực tức tích lại từ ngày này sang ngày khác, mà còn vì những lời khiển trách bất tận của Luân Đôn về sự bất lực đối với Blood, đại tá Bishop đã bắt đầu tính tới việc bắt sống địch thủ của mình ngay tại sào huyệt Tortuga. Thật may phúc cho chính Bishop là hắn đã từ bỏ ý định điên rồ ấy. Không chỉ các thành lũy thiên nhiên vững chắc của hòn đảo đã ngăn hắn lại mà những cân nhắc kỹ lưỡng cũng cho hắn thấy rằng ý đồ tảo thanh bọn cướp tại Tortuga rất có thể bị nước Pháp hiểu như một cuộc tập kích ăn cướp và một hành động có tính chất sỉ nhục nghiêm trọng đối với một nước bạn bè. Tuy nhiên, đại tá Bishop vẫn thấy rằng nếu không áp dụng biện pháp kiên quyết thế nào đó thì hoàn toàn không thể thay đổi được gì hết. Hắn đã bày tỏ ý nghĩ ấy trong bức thư gửi huân tước thượng thư ngoại vụ.
Bức thư mà về thực chất đã lột tả một cách chính xác tình hình thực tế ấy làm Lord Sunderland điên đầu. Ngài hiểu rằng một vấn đề khó chịu như thế này không thể nào giải quyết bằng những phương pháp bình thường và trong việc đó không thể không dùng đến những phương tiện đặc biệt. Ngài nhớ đến Morgan, kẻ trong thời Charles II đã được thu dụng phụng sự Đức vua, và ngài nghĩ rằng phương pháp giải quyết vấn đề theo kiểu phủ dụ tên cướp biển như vậy có thể là có ích trong đối sách dành cho thuyền trưởng Blood. Đức ngài đã tính rằng hành động đi ngược lại luật pháp của Blood hoàn toàn có thể giải thích không phải bởi xu hướng đồi bại bẩm sinh của chàng, mà chỉ vì sự cần thiết sống còn, và chàng buộc phải theo đuổi nghề nghiệp cướp biển chỉ vì những sự kiện đã buộc chàng phải tới Barbados, và rằng bây giờ có thể Blood sẽ vui mừng nếu có cơ hội để từ bỏ một nghề không phải là không nguy hiểm.
Xuất phát từ nhận định ấy, Sunderland mới cử người bà con của mình là Lord Julian Wade đến Jamaica, trao cho ngài những tấm chứng chỉ sỹ quan đã được hoàn tất nhưng còn để trống họ tên. Vị thượng thư đã cho ngài những chỉ dẫn tỉ mỉ nên xử sự như thế nào, đồng thời lại cho ngài toàn quyền hành động nhằm thực hiện những chỉ thị đó. Là một tay gian hùng lọc lõi và một chính khách cáo già, Sunderland khuyên người bà con của mình rằng nếu không thể lung lạc nổi Blood hoặc vì một lý do nào đó Wade thấy không bõ thu phục chàng về phụng sự đức vua thì nên làm việc với các sĩ quan của Blood và lôi kéo họ, làm suy yếu Blood đến mức Bishop có thể dễ dàng đánh bại chàng.
"Royal Mary", chiếc tàu đang chở vị sứ thần khá có giáo dục, hơi phóng đãng và cự kỳ lịch duyệt ấy của Lord Sunderland, đã bình yên đến được St. Nicholas - bến đỗ cuối cùng trước khi tới Jamaica. Ngay từ ở Luân Đôn, Lord Julian đã tính rằng trước hết là ghé thăm quan thống đốc ở Port Royal rồi sau đó mới đi gặp tay cướp biển khét tiếng ở Tortuga. Nhưng trước khi làm quen với quan thống đốc, Lord Julian đã may mắn làm quen được với cháu gái Bishop đang ở St. Nicholas thăm họ hàng và trốn cái nóng khủng khiếp không sao chịu nổi về mùa này ở Jamaica. Sau vài tháng lưu lại đây, bây giờ nàng trở về và lời yêu cầu của nàng xin được dành một chỗ trên tàu "Royal Mary", lập tức được chấp nhận ngay.
Huân tước Julian rất mừng với sự có mặt của nàng trên tàu. Cuộc hành trình vừa rồi rất lý thú, từ giờ thậm chí lại thêm màu sắc thơ mộng nữa. Số là đức ông cũng thuộc vào loại khách hào hoa, coi cuộc đời mà không được tô điểm bằng sự hiện diện của đàn bà thì chỉ là sự tồn tại lay lắt thảm hại và vô nghĩa.
Tiểu thư Arabella Bishop, một cô gái thẳng thắn, chân thực, không kiểu cách, với những cử chỉ thoải mái gần như của một cậu bé, giá như ở Luân Đôn thì dĩ nhiên nàng không thể lọt vào mắt xanh của Lord Julian hay kén chọn, một thanh niên hai mươi tám tuổi, có chiều cao hơn mức trung bình nhưng vì có thân hình gầy gò, nên trông lại càng cao. Mặt đức ông hơi dài, nhợt nhạt, với cái miệng lẳng lơ và những đường nét tinh tế đóng khung trong bộ tóc giả vàng óng, còn đôi mắt xanh nhạt thì làm cho đức ông có vẻ mơ mộng, hay đúng hơn là có vẻ buồn buồn. Sở thích tinh tế và sành sỏi trong khoản này đã hướng sự chú ý của ngài vào những cô gái kiểu khác - những cô õng à õng ẹo, yếu đuối nhưng đầy chất đàn bà. Sự quyến rũ của tiểu thư Bishop là không thể chối cãi. Tuy nhiên chỉ những ai có trái tim phúc hậu và lý trí sắc sảo mới có thể đánh giá hết được sự quyến rũ ấy, chứ đằng này huân tước Julian tuy không phải là một gã cục súc nhưng cũng không đủ chất tinh tế sắc sảo. Nói như vậy không phải tôi có ý ám chỉ điều gì có thể làm hoen ố thanh danh của đức ông đâu.
Nhưng nói gì thì nói Arabella Bishop vẫn là một gái trẻ trung hấp dẫn, nàng xuất thân từ một gia đình rất gia giáo, mà ở vĩ độ hẻo lánh nơi Lord Julian đang có mặt lúc này, thì bản thân sự kiện đó đã là một điều hiếm có rồi. Về phần mình, với tước hiệu và địa vị, vẻ hào hoa và những cử chỉ của một nhà quý  tộc cung đình sành sỏi, ngài là hiện thân của cái thế giới rộng lớn mà Arabella chỉ được nghe kể mà thôi vì chủ yếu nàng sống ở quần đảo Antilles. Có nên ngạc nhiên hay không về việc cả hai người cảm thấy quan tâm tới nhau ngay khi "Royal Mary" còn chưa kịp ra khỏi St. Nicholas? Mỗi người đều có nhiều điều mà người kia không biết để kể, Lord Julian có thể thỏa mãn trí tưởng tượng của nàng bằng những câu chuyện thú vị về cung đình St. James, mà nhiều chuyện trong số đó ngài đã dành cho mình một vài trò hào hùng hay ít ra thì cũng khá nổi bật. Còn nàng thì có thể làm phong phú thêm trí tuệ của ngài bằng những tin tức quan trọng về Tân thế giới, nơi ngài mới đến lần đầu.
St. Nicholas còn chưa kịp khuất hẳn thì họ đã trở thành những người bạn tốt và sau khi thay đổi ít nhiều ấn tượng ban đầu về nàng, đức ông nhận ra sức quyến rũ của tính thẳng thắn và chân thành đã cho phép nàng đối xử với mọi người đàn ông như đối với anh em mình. Và có nên ngạc nhiên không khi được biết rằng Lord Wade, vì đang mải nghĩ đến những việc liên quan đến sứ mệnh của mình, nên một lần ngài đã đem chuyện thuyền trưởng Blood ra nói với nàng.
- Không biết đã có bao giờ tiểu thư trông thấy tay Blood ấy chưa? - Ngài hỏi "Arabella" lúc hai người đi dạo ở đuôi tàu. - Trước đây có thời hắn đã là nô lệ trong đồn điền của ông chú tiểu thư mà.
Tiểu thư Bishop dừng lại, tựa vào lan can sau lái nhìn về bờ đất đã khuất dạng dưới chân trời. Một lúc sau nàng mới đáp bằng một giọng bình thản đều đều:
- Tôi rất hay gặp ông ta và biết ông ta rất rõ.
- Thế à?! Lẽ nào lại thế!
Trạng thái trầm tĩnh mà Lord Julian đã dày công rèn luyện cho mình có phần bị xáo động nên ngài không nhận thấy đôi má Arabella Bishop ửng hồng, mặc dù ngài vẫn tự cho mình là người tinh ý.
- Tại sao lại không? - "Arabella" hỏi bằng một giọng dửng dưng gượng gạo.
Nhưng vẻ bối rối ấy trong giọng nói của nàng Wade cũng không nhận thấy nốt.
- Phải rồi, phải rồi, - đang mải nghĩ ngợi về việc mình, ngài gật gù, - dĩ nhiên tiểu thư có thể đã biết hắn. Vậy thì theo tiểu thư hắn là người thế nào?
- Lúc ấy tôi đã kính trọng ông ta như một người hết sức bất hạnh.
- Tiểu thư biết chuyện của hắn à?
- Ông ta đã kể cho tôi nghe. Tôi đã quý  trọng ông ta chính vì sự kiên nhẫn kỳ diệu mà ông ấy đã chịu đựng nỗi bất hạnh của mình. Tuy nhiên, sau những việc ông ta làm, tôi bắt đầu thấy ngờ ngợ không biết có đúng như thế thật hay không.
- Nếu tiểu thư nghi ngờ về sự bất công của triều đình khi xét xử vụ bạo loạn Monmouth đối với hắn, thì tất cả những điều Blood kể cho tiểu thư nghe đều đúng sự thật. Người ta đã xác minh rõ rằng hắn không tham gia vào cuộc nổi loạn của Monmouth và đã bị xét xử theo điều luật mà có thể hắn không biết, còn các quan tòa thì lại coi phản ứng tự nhiên của hắn là sự phản nghịch. Nhưng xin lấy danh dự mà thề rằng ít nhiều hắn đã báo được thù.
- Vâng, - nàng đáp khẽ, - nhưng chính sự báo thù ấy đã làm hại ông ta đấy.
- Làm hại ạ? - Wade bật cười. - Chỗ này thì chưa chắc tiểu thư đã đúng đâu. Tôi nghe nói hắn đã phát tài, biến tất cả những của cải cướp được của Tây Ban Nha thành vàng của Pháp và đang cất giữ nó ở Pháp. Về chuyện ấy thì đã có ông bố vợ tương lai d’Ogeron của hắn lo cho rồi.
- Bố vợ tương lai? - "Arabella" hỏi, mắt mở to kinh ngạc. - D’Ogeron? Thống đốc Tortuga?
- Chính ông ta đấy? - Lord Julian khẳng định. - Tiểu thư thấy không, thuyền trưởng Blood có người bảo hộ chắc chắn đấy chứ. Phải thú thực rằng tôi hết sức thất vọng với những tin tức mà tôi thu thập được ở St. Nicholas, bởi vì cái đó sẽ gây khó khăn cho việc thực hiện sứ mệnh mà người bà con của tôi là Lord Sunderland đã ủy thác cho kẻ đầy tớ ngoan ngoãn của tiểu thư đây giải quyết. Tất cả chuyện ấy không làm tôi hài lòng, nhưng quả là đúng như thế thật. Nhưng tôi thấy hình như tiểu thư chưa được biết điều đó thì phải.
Nàng lặng lẽ gật đầu rồi quay mặt đi nhìn làn nước cuồn cuộn sau lái. Nhưng khi nàng lại lên tiếng thì giọng nàng đã trở lại bình thản và lãnh đạm.
- Tôi không biết phải hiểu chuyện này ra sao. Nhưng nếu như vậy thật thì bây giờ ông ta đã không phải đi ăn cướp nữa. Nếu ông ấy... nếu quả thật ông ta yêu một người đàn bà và định lấy người đó và nếu ông ta giàu có như ông nói thì việc gì ông ta lại phải liều thân và...
- Tiểu thư nói đúng. Tôi cũng nghĩ như vậy lúc chưa hiểu ra là có chuyện gì. - người bạn đàm đạo quý  phái của nàng ngắt lời. - Nhưng mọi việc ở đây đều do d’Ogeron thu xếp. Ông ta tham lam không chỉ cho mình mà còn cho con gái mình nữa. Về công nương d’Ogeron thì người ta đã cho tôi biết rằng đó là một ả tính nết hoang dã, hoàn toàn xứng đôi với một người như Blood. Tôi đang lấy làm lạ rằng tại sao hắn chưa cưới ả và đưa ả lên tàu mình để cùng đi ăn cướp. Ả đâu phải non nớt gì trong chuyện ấy. Và tôi cũng kinh ngạc trước sự kiên nhẫn của Blood đấy. Chẳng là hắn đã giết một người để tranh đoạt tình cảm của cô gái kia mà.
- Giết người? Vì cô ta? - Giọng "Arabella" lạc hẳn đi.
- Vâng, một tên cướp biển người Pháp tên là Levasseur. Gã người Pháp này là người tình của cô gái và đồng thời là đồng đảng của Blood. Trong một chuyến phiêu lưu nào đó, Blood nhăm nhe chiếm tình yêu của cô gái và để giành được nó, hắn đã giết Levasseur. Chuyện như thế này tất nhiên là rất đáng ghê tởm. Nhưng biết làm sao được? Dân ở đây có đạo lý khác chúng ta...
"Arabella" ngước khuôn mặt tái nhợt như xác chết lên nhìn ngài. Đôi mắt nàng sáng rực lên khi nàng gay gắt cắt ngang ý định thanh minh cho Blood của Lord Julian.
- Phải chắc là ngài nói đúng? Đây là một thế giới có đạo lý khác nếu bọn đồng đảng vẫn để hắn sống sau chuyện ấy.
- Ồ, tại sao kia? Tôi nghe nói vấn đề cô gái đã được giải quyết bằng một cuộc đấu công minh.
- Ai nói với ngài thế?
Tin chắc vào sự thành công của mưu kế, thuyền trưởng ra lệnh thả hết con tin và thậm chí cả các nô lệ da đen mà mọi người ai cũng coi là chiến lợi phẩm hợp pháp. Điều phòng ngừa duy nhất đối với các tù binh được thả là tất cả bọn họ bị nhốt vào ngôi nhà thờ rộng xây bằng đá và khóa trái cửa lại. Những tù binh này sẽ được dân chúng trong thành phố cứu ra lúc nào họ trở về.
Nhét tất cả những của cải đoạt được xuống hầm tàu, bọn cướp giương buồm tiến ra phía cửa biển, mỗi tàu kéo theo sau ba chiếc xuồng.
Trông thấy những cánh buồm của bọn cướp biển sáng rực lên trong ánh nắng trưa, tên đô đốc khoái trá xoa đôi tay dài ngoẵng, khẳng khiu và cười nham hiểm.
- Có thế chứ! - hắn đắc chí nói. - Chính chúa trời đã xua chúng vào tay ta. Sớm muộn gì chuyện đó cũng phải xảy ra. Nào, các ngài hãy nói xem, - hắn quay sang bọn sĩ quan đang đứng sau lưng mình - Chẳng phải ta đã liệu việc như thần đó sao? Vậy là hôm nay tất cả những tai ách mà tên khốn kiếp Don Pedro Sangre - như hắn đã một lần tự xưng với ta - gây ra cho các thần dân của Đức vua Công giáo sẽ chấm dứt.
Ngay lập tức, những mệnh lệnh cần thiết được truyền xuống và chẳng mấy chốc pháo đài đã biến thành một ổ ong nhộn nhịp. Bọn pháo thủ tập hợp bên những khẩu đại bác, những tên khẩu đội trưởng cầm trong tay những cây bùi nhùi nghi ngút khói, nhưng hải đội cướp biển đang trên đường tiến đến Las Palomas không hiểu sao lại đi chệch sang hướng tây. Bọn Tây Ban Nha lúng túng theo dõi kiểu hành quân lạ lùng của những tàu cướp biển.
Cách pháo đài chừng một dặm rưỡi và cách bờ đảo chừng nửa dặm, nghĩa là ở ngay mép bãi cạn, cả bốn chiếc tàu bắt đầu thả neo đúng vào chỗ bọn Tây Ban Nha vẫn còn nhìn rõ nhưng lại ngoài tầm của những khẩu pháo bắn xa nhất trên pháo đài.
Tên đô đốc đắc chí cười.
- A ha! Bọn chó Anh này hoảng rồi! Thề có Chúa chúng có đủ lý do để nghĩ như vậy!
- Chúng sẽ chờ ở đó đến tối, - cậu cháu hắn phán đoán, toàn thân run lên vì kích động.
Don Miguel mỉm cười nhìn cậu ta.
- Nhưng đêm tối thì có ích gì cho chúng trong cái lạch hẹp này, dưới những họng pháo của ta? Cháu cứ yên tâm, Esteban, đêm nay chúng ta sẽ rửa thù cho cha cháu, tức là cho em trai ta.
Hắn đưa ống nhòm lên và không dám tin ở mắt mình khi thấy những chiếc xuồng mà bọn cướp kéo theo sau bây giờ đã được lôi lại sát các tàu. Hành động ấy hắn không hiểu ra sao cả, nhưng bước tiếp theo lại càng làm hắn ngạc nhiên hơn: dập dềnh ở phía mạn bên kia những chiếc tàu một lúc, từng chiếc xuồng đầy lính có vũ trang đầy đủ lại lần lượt xuất hiện, rồi vòng qua con tàu, chúng tiến thẳng về phía đảo. Những chiếc xuồng chèo đến các bụi cây rậm phủ kín bờ đảo tới tận mép nước. Tên đô đốc trố mắt dõi theo những chiếc xuồng cho đến khi chúng khuất hẳn trong lùm cây ven bờ:
- Chuyện quỷ quái gì thế nhỉ?! - hắn hỏi bọn sĩ quan của mình.
Không ai đáp lại câu hỏi của hắn, cả bọn đều ngơ ngác nhóng mắt ra xa. Hai ba phút sau, vẫn không rời mắt khỏi mặt nước, Esteban kéo áo tên đô đốc rồi trỏ tay kêu lên:
- Chúng kia rồi, bác kìa!
Theo tay cậu ta chỉ, quả nhiên thấy những chiếc xuồng ló ra. Chúng đang chèo ngược về phía tàu, nhưng trong xuồng lúc này ngoài các tay chèo không còn thấy bóng dáng ai nữa. Bọn cướp biển có vũ trang đã ở lại trên bờ.
Những chiếc xuồng trở về tàu rồi lại chở sang Las Palomas một toán lính vũ trang khác. Cuối cùng một viên sĩ quan Tây Ban Nha phát biểu:
- Chúng định tấn công ta từ phía đất liền và chắc là muốn công phá pháo đài.
- Đúng thế - tên đô đốc mỉm cười. - Ta đã đoán ra ý đồ của chúng rồi. Nếu thánh thần muốn trừng trị ai thì trước hết Ngài làm kẻ đó mất trí đã.
- Hay là chúng ta kéo ra đánh phủ đầu chúng? - Esteban nói sôi nổi.
- Đánh phủ đầu? Qua các bụi cây kia ư? Để chúng tỉa dần ta đi hay sao?
Không, ta sẽ đợi chúng tại đây. Và một khi chúng vừa bắt đầu tấn công, ta sẽ diệt chúng ngay tức khắc. Các ngài chớ nghi ngờ điều đó.
Tuy nhiên đến chiều thì tên đô đốc không còn tự tin như vậy nữa. Trong thời gian đó những chiếc xuồng đã đi về sáu chuyến để đưa quân lên bờ và, như Don Miguel tận mắt trông thấy qua ống nhòm, chúng đã chuyển lên ít nhất là mười hai khẩu pháo.
Hắn đã thôi không dám cười nữa. Quay lại đám sĩ quan, hắn nói, nửa bực dọc, nửa lo lắng:
- Đứa chết tiệt nào dám bảo ta rằng bọn cướp biển không qua ba trăm tên? Chúng đã đưa ít nhất gấp đôi số đó lên bờ rồi.
Tên đô đốc ngạc nhiên, nhưng sự ngạc nhiên của hắn có lẽ phải tăng gấp đôi nếu có ai bảo hắn rằng trên bờ đảo Las Palomas không có lấy một tên cướp biển và một khẩu pháo nào. Don Miguel chịu không đoán nổi rằng những chiếc xuồng ấy chở vẫn chỉ những người ấy: lúc vào thì chúng đứa đứng đứa ngồi trên xuồng, nhưng lúc ra thì cả bọn nằm dán xuống lòng xuồng nên từ xa trông cứ như trong xuồng không có ai cả.
Cơn hoảng sợ mỗi lúc một tăng trong đám lính Tây Ban Nha trước trận đánh ác liệt không thể tránh khỏi đã bắt đầu lây sang cả tên đô đốc.
Bọn Tây Ban Nha sợ đánh đêm vì chúng biết rằng tay thuyền trưởng Blood đáng gờm ấy có trong tay một lực lượng lớn gấp đôi trước đó.
Và đến xẩm tối thì bọn Tây Ban Nha đã làm cái mà Blood trông đợi: chúng bắt đầu xúc tiến các biện pháp đánh trả một cuộc tấn công từ phía bờ mà đám cướp biển đã dàn dựng một màn chuẩn bị công phu như thế. Bọn Tây Ban Nha hùng hục như trâu kéo những khẩu pháo nặng nề vẫn được bố trí để khống chế lối đi hẹp ra biển.
Vừa kêu ca rên rỉ, mình mẩy nhễ nhại mồ hôi, bị thúc giục bởi những lời chửi rủa dậm dọa  và những ngọn roi của bọn sĩ quan, chúng vội vã và hốt hoảng kéo những khẩu trọng pháo của mình qua hết khu vực pháo đài chuyển sang hướng trông vào đất liền. Cần phải bố trí lại toàn bộ. Để chuẩn bị đánh trả cuộc tấn công đang sắp nổ ra bất cứ lúc nào.
Và khi màn đêm buông xuống, bọn Tây Ban Nha ít nhiều đã chuẩn bị phòng thủ xong. Chúng đứng bên những khẩu pháo của mình, lo sợ cuộc công thành sắp đến. Sự gan góc đến mức rồ dại của lũ quỷ điên trong toán cướp của thuyền trưởng Blood từ lâu đã lan truyền trên suốt dải bờ biển xứ Main...
Nhưng trong khi chúng đang chờ đợi cuộc tấn công thì hải đội cướp biển được màn đêm che chở đã lợi dụng triều xuống lặng lẽ nhổ neo. Mò mẫm dò đường bằng dây đo sâu, bốn chiếc tàu không đèn không lửa âm thầm kéo ra cửa biển hẹp. Thuyền trưởng Blood ra lệnh hạ hết buồm, trừ các buồm chính mũi được nhuộm đen vẫn giương lên để bảo đảm cho tàu cơ động.
Đi trước là "Elizabeth" và "Infanta" mạn áp mạn cùng tiến. Lúc chúng đi ngang qua pháo đài, bọn Tây Ban Nha vì đang mải theo dõi hướng trong bờ nên chỉ thấy hình dáng lờ mờ của những con tàu trong bóng đêm, chỉ nghe tiếng đập khe khẽ của mũi tàu cắt nước và tiếng nước xoáy ở đuôi tàu. Và ngay lúc ấy, giữa màn đêm tĩnh mịch bỗng dội lên tiếng gầm điên khùng bất lực mà chắc chưa ai được nghe kể từ ngày xảy ra cuộc náo loạn ở tháp Babel[4].
Để làm tăng thêm sự hoảng loạn của bọn Tây Ban Nha, đúng lúc được nước triều đang rút nhanh đẩy ngang qua pháo đài, "Elizabeth" nhằm thẳng vào pháo đài nổ một loạt đạn bằng tất cả những khẩu pháo mạn trái.
Mãi đến lúc ấy tên đô đốc mới hiểu rằng hắn đã bị lừa và con chim đã bình yên sổ lồng, mặc dù hắn còn chưa rõ việc ấy xảy ra như thế nào. Trong cơn giận dữ điên cuồng, Don Miguel ra lệnh đưa những khẩu pháo vừa phải vất vả lắm mới chuyển đi được kia về vị trí cũ. Trong toàn bộ số vũ khí hùng hậu nhưng bây giờ đã trở nên vô dụng hắn chỉ để lại mấy khẩu pháo yếu ớt bảo vệ lối ra biển. Tên đô đốc xua vội bọn pháo thủ đến những khẩu pháo đó. Và phải mất thêm mấy phút quý  báu nữa, rốt cuộc chúng cũng phát hỏa được.
Đáp lại là một loạt pháo kinh hồn của "Arabella" lúc này đã giương hết buồm. Bọn Tây Ban Nha đang tức điên, thoáng nhìn thấy thân tàu sơn đỏ của nó rực lên trong quầng lửa loạt pháo kích. Tiếng dây kéo buồm nghiến kèn kẹt chìm trong tiếng nổ, và "Arabella" mất hút như một bóng ma.
Lẫn trong bóng tối che chở mình tránh những phát đạn hỗn loạn hú họa  của bọn Tây Ban Nha, những chiếc tàu đang rút lui không bắn thêm một phát nào để khỏi lộ vị trí của mình đối với bọn Tây Ban Nha đang luống cuống và ngơ ngẩn vì bị lừa.
Các tàu hư hại không đáng kể. Nương theo gió nồm nhè nhẹ, hải đội của Blood đã vượt qua cửa biển và ra khơi.
Còn Don Miguel ở lại trên đảo thì hóa điên vì đã để mất một cơ hội tính sổ với Blood, một cơ hội tưởng như tuyệt vời nhưng bây giờ đã tuột khỏi tay, và nghĩ xem phải dùng lời lẽ như thế nào để báo cáo cho hội đồng tối cao của Đức vua công giáo về việc để Blood thoát khỏi Maracaybo với hai chiếc frigate hai mươi pháo vốn là của Tây Ban Nha, chưa kể đến hai trăm năm chục nghìn peso và đủ thứ của cải khác bị cướp đoạt. Blood đã đi thoát, bất chấp Don Miguel có trong tay bốn chiếc galleon và một pháo đài hùng mạnh cho phép quân Tây Ban Nha nhốt chặt bọn cướp trong một cái bẫy chắc chắn.
"Món nợ" của Peter Blood đã trở thành khổng lồ, và Don Miguel nghiến răng ngửa mặt lên trời thề rằng sẽ đòi bằng hết, dù có phải trả bằng giá nào.
Tuy nhiên, thiệt hại của đức vua Tây Ban Nha chưa phải thế đã hết. Chiều hôm sau hải đội của Blood đã gặp "Santa Nino" ở gần đảo Oruba. Con tàu đang giong hết buồm vội vã chạy đến Maracaybo tiếp ứng cho Don Miguel. Thoạt tiên bọn Tây Ban Nha cho rằng đó là hạm đội của Don Miguel đắc thắng trở về sau khi đánh tan bọn cướp. Nhưng khi nhóm tàu đến gần và trên cột buồm giữa của "Arabella" phấp phới lá cờ đuôi nheo của Anh - cảnh tượng ấy đã làm bọn Tây Ban Nha cực kỳ thất vọng - thì viên thuyền trưởng của "Santa Nino" nghĩ rằng, lòng dũng cảm không phải lúc nào cũng có ích, bèn hạ cờ trên cột buồm của mình.
Thuyền trưởng Blood ra lệnh thủy thủ đoàn của chiếc tàu Tây Ban Nha xuống xuồng và muốn ghé Oruba, muốn đến Maracaybo hay trèo lên chóp sừng quỷ sứ mặc lòng. Chàng tỏ ra đại lượng đến nỗi tặng luôn cho chúng những chiếc xuồng mà các tàu của chàng đang kéo theo.
- Ông sẽ gặp Don Miguel trong lúc ông ta đang không được vui lắm. Hãy chuyển giúp lời chào của tôi tới ngài đô đốc và bảo ông ta rằng tôi xin mạo muội nhắc nhở ông ta thế này: mọi tai họa  ụp xuống đầu ông ta đều do lỗi ở một mình ông ta mà thôi. Điều ác mà ông ta đã nhúng tay vào khi cho phép em mình tiến hành một cuộc viếng thăm không chính thức lên đảo Barbados đã quả báo gấp ba. Bảo ông ta hãy suy nghĩ hai ba lần trước khi để cho lũ quỷsứ của mình mò lên một khu dân cư nào đó của nước Anh.
Nói đoạn, chàng thả thuyền trưởng "Santo Nino" và bắt tay vào xem xét chiến lợi phẩm vừa chiếm được. Mở các cửa khoang, bọn cướp biển phát hiện thấy trong hầm tàu nhốt đầy người.
- Nô lệ, - Wolverstone thốt lên và lớn tiếng thóa mạ bọn Tây Ban Nha cho mãi đến khi từ trong đó chui ra Cahusac mắt nheo nheo chớp chớp lia lịa vì chói nắng.
Gã Breton nhăn nhó tất nhiên không chỉ vì nắng. Và bọn chui ra sau hắn - những gì còn sót lại từ thủy thủ đoàn của hắn - hết lời nguyền rủa Cahusac hèn nhát đã làm chúng phải một phen nhục nhã vì những người cứu chúng chính là những người mà chúng đã phản bội bỏ lại bất kể sống chết.
Ba hôm trước "Santa Nino" đã đánh đắm chiếc thuyền mà Blood đã hào hiệp tặng chúng. Cahusac suýt nữa thì bị treo cổ, nhưng hắn thoát được chắc chỉ để làm trò cười cho đám "hải hồ huynh đệ" trong nhiều năm sau đó mà thôi.
Và sau này, ở Tortuga người ta vẫn nhạo báng hỏi hắn:
Đằng sau lưng Don Miguel là mấy người đội mũ sắt, và chỉ chớp mắt Lord Julian đã hiểu ngay tình thế, ngài nhẹ nhàng bỏ tay khỏi đốc gươm, và lưỡi gươm lại nhẹ nhàng chui vào vỏ, Don Miguel mỉm cười, phô cả hai hàm răng trắng bóng và chìa tay về phía thanh gươm.
- Xin phép ngài! - hắn nói.
Lord Julian do dự nhìn Arabella.
- Tôi nghĩ như vậy sẽ tốt hơn, - nàng nói một cách hoàn toàn tự chủ.
Đức ông nhún vai và trao gươm.
- Còn bây giờ thì xin mời các vị sang tàu tôi, - Don Miguel bảo ngài và ra khỏi buồng.
Không ai nghĩ đến chuyện khước từ lời mời được nói bằng giọng sai khiến cả. Thứ nhất, tên Tây Ban Nha dùng vũ lực để bắt ép họ, thứ hai, ở lại con tàu đang chìm là một việc vô nghĩa. Họ chỉ nán lại vài phút để Arabella kịp thu dọn mấy thứ đồ đạc, còn Lord Wade thì vơ vội cái xắc tài liệu của mình.
Các thủ thủy sống sót còn lại trên đống gỗ vụn trước đó không lâu được gọi là "Royal Mary" được tùy nghi tự quyết định số phận. Họ có thể tự cứu bằng những chiếc xuồng, nếu xuồng không đủ thì họ còn cơ hội tóm được một mảnh cột buồm nào đó để giữ nổi trên mặt nước, cùng lắm thì chìm quách xuống đáy cho nhẹ nợ. Còn Lord Wade và Arabella Bishop bị đưa sang tàu Tây Ban Nha thì chỉ vì giá trị của họ quá rõ ràng dưới con mắt của Don Miguel. Hắn nhã nhặn tiếp họ trong ngăn buồng rộng rãi của mình và yêu cầu cho hắn được hưởng vinh hạnh biết tên họ của hai người.
Vẫn còn bị ảnh hưởng bởi điều khủng khiếp vừa trải qua, Lord Luliơn phải khó khăn lắm mới bắt mình xưng tên được. Nhưng ngay lập tức ngài yêu cầu cho mình biết ai đã tấn công "Royal Mary" và bắt giữ thần dân của Đức vua Anh. Wade rất khó chịu và bực tức với chính mình và với tất cả mọi thứ xung quanh. Ngài hiểu rằng không làm điều gì thất thố trong tình thế khó khăn mà số phận đã xô đẩy ngài đến ấy, nhưng đồng thời ngài cũng chẳng có gì hay ho để mà hãnh diện cả. Thực ra tất cả chuyện này sẽ không có ý nghĩa gì đáng kể nếu như người chứng kiến lối ứng xử của ngài không phải là một tiểu thư. Ngài quyết tâm ngay trong dịp thuận lợi đầu tiên phải thay đổi ấn tượng của nàng về mình.
- Tôi là Don Miguel de Espinosa, - tên Tây Ban Nha giễu cợt đáp, - thủy sư đô đốc của Đức vua Tây Ban Nha.
Lord Julian sững người vì ngạc nhiên.
Nếu Tây Ban Nha đã làm om sòm lên vì những cuộc cướp bóc của tên phản nghịch Blood thì bây giờ đến lượt nước Anh sẽ nói gì?
- Vậy xin ngài cho biết vì cớ gì ngài lại hành động như một tên cướp biển đê tiện như thế? - Wade lên tiếng hỏi, rồi sau đó nói tiếp: - Tôi nghĩ rằng ngài biết rõ hậu quả của việc ngài làm hôm nay như thế nào và người ta sẽ hỏi tội ngài một cách nghiêm khắc ra sao, vì xương máu mà ngài đã làm đổ và vì bạo lực mà ngài đã lạm dụng đối với quý  nương đây cũng như đối với tôi chứ?
- Tôi không hề lạm dụng bạo lực với các vị, - tên đô đốc cười khẩy như một kẻ đã nắm hết trong tay tất cả chủ bài. - Ngược lại, tôi đã cứu mạng các vị...
- Cứu mạng chúng tôi? - Mất một lúc Lord Julian không nói lên lời trước sự láo xược ấy. - Vậy ngài nói thế nào về những sinh mạng đã bị ngài sát hại? Thề có Chúa, ngài phải trả giá đắt về chuyện này cho mà xem!
Don Miguel vẫn tiếp tục mỉm cười.
- Có thể, - hắn nói, - mọi cái đều có thể. Nhưng đó là chuyện sau này. Còn bây giờ thì các vị phải trả giá đắt cho tính mạng của mình đấy. Đại tá Bishop có một tài sản lớn. Còn ngài, thưa quý  huân tước, chắc chắn ngài cũng giàu lắm. Tôi sẽ suy nghĩ về vấn đề này và sẽ định tiền chuộc cho các vị.
- Rốt cuộc thì ông vẫn là một tên cướp biển khát máu đáng nguyền rủa như tôi đã nghĩ! - Wade nổi nóng. - Thế mà bây giờ ông vẫn còn láo xược tự xưng là thủy sư đô đốc của Đức vua Tây Ban Nha! Để rồi xem Đức vua của các ông sẽ nói thế nào về chuyện này.
Đến đó thì viên đô đốc nhăn mặt và cái mặt nạ nhã nhặn của hắn bị xé toạc, để lộ ra cơn điên giận mà hắn vẫn cố nén từ nãy đến giờ.
- Ta đối xử với bọ chó Anh tà đạo như chúng đối xử với người Tây Ban Nha! - hắn gào lên. - Các người là bọn trộm cướp, là quỷsứ điạ ngục! Ta còn đủ dũng khí để hành động nhân danh cá nhân ta, còn các người... các người, hỡi bọn súc sinh phản phúc kia, các người suỵt bọn Morgan, bọn Blood, bọn Hagthorpe của các người đánh lén chúng ta, gỡ bỏ trách nhiệm mà các người phải chịu vì những trò bỉ ổi của bọn chúng! Các người rửa tay hệt như Pilate[2].- Hắn phá lên cười độc địa - Nhưng bây giờ Tây Ban Nha sẽ sắm vai Pilate. Nó sẽ không phải chịu trách nhiệm gì, tội vạ đâu đã có ta gánh hết, sứ thần của các người cứ việc tới Escurial kêu ca về những hành động cướp biển của Don Miguel.
- Thuyền trưởng Blood không phải là đô đốc nước Anh! - Lord Julian kêu lên.
- Nhưng làm sao ta biết thực hư thế nào? Làm sao Tây Ban Nha biết được? Chẳng nhẽ các người cũng biết nói thật ư, bọn Anh tà đạo kia!
- Thưa ngài! - Lord Julian tực giận kêu lên và cặp mắt ngài tóe lửa. Theo thói quen, ngài đưa tay đến chỗ thường đeo thanh gươm của mình, sau đó ngài nhún vai và mỉm cười khinh bỉ. - Tất nhiên ông có thể sỉ nhục một kẻ tay không, một tù binh của các ông mà không sợ bị trừng trị. Cái đó phù hợp với kiểu xử sự của ông và tất cả những gì tôi đã được nghe về sự trung tín Tây Ban Nha.
Bộ mặt tên đô đốc đỏ bầm. Hắn đã vung tay định đánh Wade nhưng lại ghìm được - có thể là do ảnh hưởng của những lời hắn vừa nghe, - hắn quay phắt đi ra khỏi phòng, không đáp lại một lời.