Dịch Giả: Nguyễn Xuân Hiến
Sự xây dựng giấc mơ
Phần thứ hai: Giấc mơ

Nếu các bạn biết rõ sự kiểm duyệt và sự tượng trưng đã hoạt động như thế nào trong giấc mơ thì bạn có thể hiểu rõ sự hoạt động của các sự biến dạng. Muốn hiểu giấc mơ, các bạn dùng hai kỹ thuật bổ túc cho nhau: trước hết, gợi cho người nằm mơ nhớ lại nhiều điều cho đến khi dần dần tìm được thực chất của giấc mơ, rồi thay thế các kí hiệu tượng trưng bằng ý nghĩa thực của chúng. Thế nào bạn cũng sẽ gặp một vài điều không được chắc chắn, nhưng đó là điều chúng ta sẽ nói đến sau.
Đến đây chúng ta có thể tiếp tục công việc đã khởi đầu trước đây nhưng với phương tiện còn thiếu sót. Chúng ta đã có ý định sắp đặt các liên quan giữa những yếu tố của giấc mơ và thực chất của chúng; những liên quan này gồm có: liên quan giữa một phần và toàn thể sự phỏng chừng và ám chỉ, liên quan tượng trưng và sự biểu diễn bằng lời nói. Chúng ta sẽ làm lại công việc này trong một phạm vi rộng lớn hơn bằng cách so sánh nội dung rõ ràng với giấc mơ tiềm tàng những điều tìm ra được trong khi giải thích.
Tôi hy vọng là các bạn sẽ không lẫn lộn nội dung rõ ràng và những ý tưởng tiềm tàng nữa. Với sự phân biệt này, các bạn sẽ hiểu về giấc mơ hơn là những độc giả của cuốn sách “Đoán mộng” của tôi. Công việc biến đổi giấc mơ tiềm tàng thành nội dung rõ ràng gọi là “sự xây dựng giấc mơ”. Công việc, trái lại, biến đổi nội dung thành giấc mơ tiềm tàng gọi là “công việc giải thích giấc mơ”. Công việc giải thích tìm cách xoá bỏ công việc xây dựng. Những giấc mơ thuộc loại trẻ con, những sự thực hiện các ham muốn có một phần xây dựng, nhất là sự biến đổi lòng ham muốn cũng có một phần xây dựng, nhất là sự biến đổi lòng ham muốn thành sự thực, sự biến đổi những ý tưởng thành những hình ảnh thị giác. Đối với các giấc mơ này chúng ta không cần giải thích, chỉ cần xét qua loa về hai sự biến dạng thôi. Còn trong các giấc mơ khác, chúng ta phải làm công việc xây dựng, và sở dĩ phải làm việc này vì có sự biến dạng, sự biến dạng này chỉ có thể mất đi khi chúng ta giải thích xong.
Vì đã có dịp so sánh nhiều cách giải thích giấc mơ nên tôi có thể cắt nghĩa cho các bạn nghe công việc xây dựng một giấc mơ đã lợi dụng được những ý tưởng tiềm tàng trong đó như thế nào. Chỉ xin các bạn không nên đưa ra những lời kết luận quá vội vã. Tôi yêu cầu các bạn đặc biệt chú ý đến những điều dưới đây.
Công việc phải làm trước hết để xây dựng một giấc mơ là sự cô đọng lại giấc mơ. Tôi muốn nói là nội dung giấc mơ rõ ràng nhỏ hơn mục đích của giấc mơ tiềm tàng và chỉ là một bản tóm tắt thôi. Cũng có khi không có sự cô đọng nhưng trong thực tế sự cô đọng này bao giờ cũng có mặt và nhiều khi tỏ ra rất quan trọng. Chưa bao giờ người ta thấy nội dung của giấc mơ rõ ràng lại rộng và dồi dào hơn giấc mơ tiềm tàng. Sự cô đọng tiến hành theo ba phương pháp sau đây: 1/ Một vài yếu tố tiềm tàng bị gạt bỏ dễ dàng. 2/ Giấc mơ rõ ràng chỉ nhận vài mảnh nhỏ của một vài phương diện của giấc mơ tiềm tàng thôi. 3/ Những yếu tố trong giấc mơ tiềm tàng vì có một vài điểm đồng nhất được đồng hoá với giấc mơ rõ ràng.
Nếu muốn, bạn có thể dành cho phương pháp thứ ba này cái tên cô đọng. Hậu quả của phương pháp này rất dễ chứng minh. Chỉ cần nhớ lại giấc mơ của mình, bạn cũng dễ dàng tìm thấy trường hợp cô đọng của nhiều người thành sự cô đọng của một người. Từ một ông A, chúng ta có thể hiểu ông B, rồi ông này làm cho ta nhớ lại bà C, rồi với tất cả ta tìm ra D. Tất nhiên trong bốn người này có tính chất gì đó chung cho cả bốn. Cứ như thế chúng ta có thể thành lập một hợp thể gồm nhiều đối tượng, với điều kiện là các đối tượng này có một vài điểm chung nhau mà giấc mơ tiềm tàng nhấn mạnh đặc biệt. Gần như đó là một kỉ niệm mới mà điểm chung nhau chính là tâm điểm. Đem nhiều phần nhỏ hoà vào thành một hợp thể như thế, chúng ta sẽ có những hình ảnh mơ hồ giống như một tấm kính ảnh có thể được in thành nhiều tấm ảnh khác. Công việc xây dựng giấc mơ cần để ý đến những hợp thể đó thường do mình tạo ra khi chúng không có mặt, ví dụ như khi chúng ta tìm một chữ để diễn tả một ý. Chúng ta đã gặp những sự cô đọng và thành lập loại này, ví dụ như trong trường hợp lỡ lời. Các bạn hãy nhớ lại anh chàng trẻ tuổi muốn begleit – digen (do hai chữ beglei ten, đi cùng, và belei digen, thất lễ, họp thành) một bà. Có những gạch trí khôn cũng được họp thành bằng những kỹ thuật loại đó. Nhưng ngoài trường hợp này thì phương pháp cô đọng đó có vẻ kỳ lạ và kỳ khôi. Sự thành lập những hợp thể cũng giống những sự việc do trí tưởng tượng dồi dào của chúng ta sáng tạo ra bằng những yếu tố không hề có trong cuộc thí nghiệm: ví dụ như những con vật khổng lồ thời tiền sử trong thần thoại và trong các bức hoạ của Bocklin. Vả lại, trí tưởng tượng sáng tạo của mình thực ra chẳng sáng tạo được gì bao giờ, mà chỉ tập trung lại một nơi những yếu tố khác biệt thôi. Nhưng phương pháp dùng trong công việc xây dựng có đặc biệt là những vật liệu dùng để xây dựng toàn là những ý tưởng, trong đó có một vài ý thô tục không thể được chấp nhận nhưng tất cả đều được thành lập và diễn tả một cách đúng đắn. Công việc xây dựng gán cho những ý tưởng này một hình thức khác nhưng thực là một điều đáng chú ý và khó hiểu khi công việc này lại dùng sự dung hợp để diễn tả những ý tưởng này. Trong khi diễn dịch chúng ta đặc biệt chú ý đến những điểm đặc biệt trong nguyên bản và cố tránh không lẫn lộn những chữ có nghĩa giống nhau. Công việc xây dựng trái lại cố gắng có hai ý khác nhau để tìm ra một chữ có thể diễn tả được cả hai ý. Chúng ta không nên đưa ra những kết luận vội vã về điểm đặc biệt này, vì chính điểm đó có thể trở thành quan trọng trong khái niệm về công việc xây dựng.
Dù sự cô đọng lại có làm cho giấc mơ tối tăm hơn đi nữa, người ta cũng không cho đó là kết quả của kiểm duyệt. Nó có thể có những nguyên nhân có tính chất cơ khí hay kinh tế nhưng dù sao sự kiểm duyệt cũng có dự phần vào đó.
Những hậu quả của sự cô đọng có thể hết sức kỳ lạ. Sự cô đọng làm cho chúng ta có thể tập trung vào trong giấc mơ rõ ràng hai ý tưởng tiềm tàng khác hẳn nhau, và do đó giải thích được mà không cần một cách giải thích phụ nào khác nữa. Sự cô đọng còn có hậu quả làm cho liên quan giữa các yếu tố của giấc mơ tiềm tàng và của giấc mơ rõ ràng trở nên phức tạp. Vì thế nên một yếu tố trong giấc mơ rõ ràng có thể tương ứng với nhiều ý tưởng tiềm tàng và trái lại: như vậy tức là có một sự trao đi đổi lại. Trong khi giải thích giấc mơ người ta cần để ý rằng những ý tưởng xuất hiện tuần tự không nên đem ra dùng ngay mà phải chờ cho chúng ra hết rồi mới đem dùng.
Vậy công việc xây dựng diễn tả những ý tưởng trong giấc mơ một cách khác thường, không phải bằng cách dịch từng chữ một, hay chọn lựa theo một quy tắc nào đó, hay tìm cách thay thế một ý này bằng một ý khác. Công việc xây dựng là một công việc khác hẳn và phức tạp hơn nhiều.
Một hậu quả khác của công việc xây dựng là sự di chuyển, một công việc chúng ta đã có dịp được biết đến rồi và hoàn toàn là công việc của sự kiểm duyệt. Sự di chuyển, diễn tiến theo hai cách: một là thay thế một yếu tố tiềm tàng không phải bằng một yếu tố khác cùng loại nhưng bằng một yếu tố khác xa hơn, nghĩa là bằng một sự ám chỉ, hai là tính chất tinh thần được chuyển từ một yếu tố quan trọng đến một yếu tố bớt quan trọng hơn làm cho giấc mơ thành ra có một ý nghĩa khác hẳn.
Sự thay thế bằng một sự ám chỉ cũng xảy ra trong khi ta thức nhưng hơi khác. Trong tư tưởng trong khi thức sự ám chỉ cần dễ hiểu, giữa sự ám chỉ và ý tưởng thực sự phải có một liên quan về nội dung. Gạch trí khôn thường lợi dụng sự ám chỉ nhưng không theo điều kiện phải có sự liên tưởng giữa các nội dung. Sự liên tưởng này được thay thế bằng một sự liên tưởng bên ngoài ít khi dùng đến, đặt căn bản trên sự giống nhau giữa các thanh âm, các nghĩa khác nhau của một chữ. v.v…Nhưng gạch trí khôn lại theo thực sát điều kiện về sự dễ hiểu: gạch trí khôn sẽ không đạt được mục đích nếu người ta hay một sự cắt nghĩa gắng gượng. Sự kiểm duyệt trong giấc mơ chỉ đạt được mục đích khi làm cho người ta không thể tìm ra được con đường đưa từ sự ám chỉ tới thực chất của nó.
Sự di chuyển yếu tố tinh thần từ một yếu tố này qua một yếu tố khác trong giấc mơ là phương sách tốt nhất để diễn tả tư tưởng. Nhiều khi thức ta cũng dùng nó để có một ý nghĩa khôi hài. Tôi kể các bạn nghe câu chuyện sau đây: Trong một làng có một anh chàng đóng móng ngựa phạm một tội nặng. Toà án quyết định rằng anh ta phải đền tội, nhưng vì trong làng ngoài anh ta ra không còn người đóng móng nào khác, vì thế anh trở nên cần thiết không thể giết được, trong khi đó trong làng có tới ba anh thợ may, nên ba anh này bị treo cổ thay thế cho anh đóng móng.
Hậu quả của công việc xây dựng, về phương diện tâm lý là hậu quả thích thú nhất. Đó là sự biến đổi các ý tưởng thành những hình ảnh thị giác. Điều đó không có nghĩa là tất cả những yếu tố cấu thành đều bị biến đổi hết; nhiều yếu tố giữ nguyên tính cách và xuất hiện nguyên hình trong giấc mơ rõ ràng; ngoài ra không phải các ý tưởng chỉ xuất hiện dưới hình thức của hình ảnh thị giác. Dù sao thì những hình ảnh thị giác này cũng giữ phần chính yếu trong sự thành lập một giấc mơ. Phần việc này của công trình xây dựng không thay đổi: chúng ta biết điều này rồi cũng như chúng ta đã biết đến “sự biểu diễn bằng lời nói” của những yếu tố riêng biệt trong mơ.
Tất nhiên người ta không dễ dàng gì đạt được kết quả đó. Để hiểu những sự khó khăn đó bạn cứ tưởng tượng trong một bài luận thuyết về chính trị, nghĩa là thay những chữ in bằng những hình vẽ. Đối với người và vật nói trong bài đó việc thay thế bằng hình ảnh chẳng có gì là khó, nhưng khi muốn thay thế những ý tưởng trừu tượng hay những sự liên lạc giữa ý này và ý nọ thì quả là một công việc đội đá vá trời. Đối với những chữ trừu tượng bạn có thể dùng đủ mọi cách, ví dụ như có thể viết lại theo một lối nói có lẽ ít được thông dụng hơn nhưng chứa đựng nhiều hình ảnh cụ thể hơn. Các bạn sẽ nhớ lại rằng những tiếng trừu tượng này chính là những chữ cụ thể ngày xưa rồi bạn sẽ tìm đủ mọi cách để tìm lại được ý nghĩa cụ thể lúc đầu. Ví dụ bạn sẽ rất thích khi có thể diễn tả ý “có một đồ vật gì” (be sizen) bằng ý nghĩa cụ thể là “ngồi trên vật đó” (đa rua fsizen). Công việc xây dựng không làm gì khác hơn. Chúng ta không nên đòi hỏi một sự chính xác quá đáng đối với một sự biểu diễn tiến hành trong điều kiện như thế. Cho nên chúng ta không tránh công việc xây dựng này khi nó thay thế một yếu tố rất khó hình dung như sự ngoại tình (Ehebruch) bằng một hình ảnh cụ thể như “gãy một cánh tay” (Armburch). Biết những chi tiết đó bạn có thể sửa chữa lại những sự vụng về của hình vẽ khi dùng để thay thế lời nói.
Nhưng những phương tiện này thiếu thốn khi diễn tả những dây liên lạc giữa hai ý: bởi vì, vì lí do, v.v… Những yếu tố này không thể được diễn tả bằng hình ảnh. Cũng thế, công trình xây dựng trong giấc mơ rút gọn nội dung giấc mơ thành những đối tượng và hành động cụ thể. Các bạn sẽ hài lòng nếu có thể diễn tả những liên quan trừu tượng bằng những hình ảnh. Công việc xây dựng dùng những tính chất hình thức trong giấc mơ rõ ràng, những mảnh nhỏ, những mức độ rõ ràng hay tăm tối để diễn tả một vài phần nội dung những ý tưởng tiềm tàng trong giấc mơ. Những ý tưởng tiềm tàng được phân chia thành nhiều giấc mơ nhỏ và số những giấc mơ này cũng tương ứng với số chủ đề chính trong giấc mơ, với những loại ý tưởng có trong đó; một giấc mơ nhỏ diễn ra trước giấc mơ chính y như một bài mở đầu cho một cuốn sách; một ý tưởng phụ thuộc thêm vào ý chính được thay thế bằng một vài cảnh bao gồm các biến cố của giấc mơ tiềm tàng được diễn tả trong giấc mơ rõ ràng. Sự việc cứ tiếp tục như thế. Hình thức của giấc mơ không phải là không quan trọng và cũng cần giải thích. Nhiều giấc mơ có thể xảy ra trong một đêm, giấc mơ nào cũng quan trọng như nhau chứng tỏ rằng có một vài sự kích động càng ngày càng tăng cường độ cần phải bị chế ngự. Trong một giấc mơ, một yếu tố đặc biệt có thể được biểu diễn bằng nhiều ký hiệu tượng trưng.
Làm công việc so sánh những ý tưởng trong giấc mơ và giấc mơ thực sự diễn ra, chúng ta biết được những điều không chờ đợi, ví dụ như chúng ta thấy rằng ngay những điều khó hiểu trong giấc mơ cũng có một ý nghĩa đặc biệt. Về điểm này, sự trái ngược giữa quan niệm y học và quan niệm phân tâm học về giấc mơ tới một mức độ ghê gớm đến nỗi trở thành tuyệt đối không giải quyết được. Theo quan niệm trên thì giấc mơ chẳng có nghĩa lý gì cả, vì tinh thần mà giấc mơ là hậu quả mất hết khả năng phê phán; theo quan niệm sau thì giấc mơ trở thành vô nghĩa lý một khi ngay trong giấc mơ người ta đã phê phán là điều đó thực vô nghĩa lý. Ví dụ như việc mua ba vé giá 1 fl.50 mà chúng ta đã thấy. Sự phê phán trong dịp này: lấy chồng sớm quá là một điều không hiểu được (hay là một điều dại dột).
Trong công việc xây dựng giấc mơ, chúng ta cũng biết điều gì tương ứng với những sự nghi ngờ, bất định của người nằm mơ, nghĩa là có thực một yếu tố nào đã được diễn tả trong giấc mơ hay không, và yếu tố này có đúng như điều mà mình nghĩ hay không hay là một điều khác. Không có gì trong giấc mơ tiềm tàng cho ta biết về những điều nghi ngờ, bất định đó; chúng chỉ là hậu quả của sự kiểm duyệt thôi và phải được coi như một mưu toan gạt bỏ được sự dồn ép.
Một trong các nhận xét làm mình ngạc nhiên nhất là nhận xét liên quan đến các công việc xây dựng dùng để giải quyết những sự trái ngược nhau trong giấc mơ tiềm tàng. Chúng ta đã biết là những yếu tố tương tự trong giấc mơ tiềm tàng được thay thế bằng những sự cô đọng trong giấc mơ rõ ràng. Nhưng những sự trái ngược cũng được giải quyết như những sự giống nhau và cũng được diễn tả bằng một yếu tố như nhau trong giấc mơ rõ ràng. Vì thế nên một yếu tố có điểm trái ngược trong giấc mơ rõ ràng cũng có thể có ý nghĩa, chúng ta phải tuỳ theo ý chính mà giải thích. Vì thế cho nên chúng ta mới hiểu tại sao trong giấc mơ không hề có hình dung câu trả lời “không” bao giờ.
Cách làm việc kỳ lạ của công việc xây dựng có một điểm tương tự trong công việc phát triển ngôn ngữ. Nhiều nhà ngôn ngữ học nhận thấy rằng trong ngôn ngữ thời cổ có những sự trái ngược như: yếu – khoẻ, rõ ràng – tăm tối, lớn – nhỏ đều được diễn tả cùng một gốc (nghĩa trái ngược trong những tiếng cổ xưa). Ví dụ như trong tiếng cổ Ai Cập ý khoẻ và yếu đều được diễn tả bằng tiếng “ken”. Khi nói người ta dùng giọng cao hay thấp để phân biệt hai nghĩa; khi viết người ta thường vẽ thêm một hình ảnh không được đọc lên. Người ta viết chữ ken – khoẻ bằng cách vẽ bên cạnh một người đứng thẳng dậy; và ken – yếu bằng hình ảnh một người đang ngồi xổm. Mãi sau này người ta mới dần dần thay đổi và dùng những chữ riêng để diễn tả hai ý trái ngược. Vì thế người ta đã chia chữ ken ra thành hai chữ ken – khoẻ và ken – yếu. Một vài ngôn ngữ trẻ hơn và một vài sinh ngữ ngày nay còn giữ lại được dấu vết của sự trái ngược cổ xưa đó. Xin đơn cử một vài ví dụ theo C.Abel (1884).
Tiếng La Tinh có những tiếng nhiều nghĩa như sau:
Altus (cao, sâu, xa) và sacer (thiêng liêng và sự địa ngục).
Và đây là một vài ví dụ về những sự thay đổi trong chữ gốc:
Clamere (kêu); clam (yên lặng, dịu dàng, bí mật); siccus (khô) và succus (nước, đường).
Và tiếng Đức:
Stimme (giọng nói và stumm (câm).
So sánh những sinh ngữ có họ hàng với nhau chúng ta có nhiều thí dụ cùng loại:
- Anh: lock (khoá); Đức: loch (lỗ), lucke (lỗ hổng).
- Anh: cleave (bổ đôi); Đức: klenben (dán).
Tiếng Anh without theo nghĩa đen là với và không, bây giờ chỉ còn dùng một nghĩa: không; tiếng with không những chỉ được dùng theo nghĩa thêm vào (với) mà còn dùng với nghĩa loại trừ (sau straction) thí dụ như những chữ withdraw (rút lại, rút đi) withhold (từ chối, ngăn cản). Tiếng Đức wieder cũng thế.
Một điểm đặc biệt khác trong công việc xây dựng cũng có một điểm tương tự trong việc phát triển ngôn ngữ. Trong tiếng cổ Ai Cập cũng như trong một vài thứ tiếng trẻ hơn từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác cùng một tiếng, cùng một nghĩa có thể được diễn tả bằng những thanh âm trái ngược, ví dụ như những thí dụ sau đây lấy trong tiếng Đức và tiếng Anh:
Topt (dọ) – pot. Boat (tàu thuỷ) – tub. Hurry (vội vã) – Ruhe (nghỉ) – Balken (kèo) – Kloben (củi); wait (đợi) – tawen.
So sánh tiếng La Tinh và tiếng Đức ta có:
Capere (cầm) – packen; ren (thân) – Niere.
Những sự trái ngược như thế này xảy ra trong giấc mơ bằng nhiều cách khác nhau. Chúng ta đã biết những sự trái ngược về nghĩa, sự thay thế nghĩa bằng tiếng phản nghĩa. Trong giấc mơ có những sự đảo lộn trái ngược những tình trạng, những liên quan hai người hình như mọi sự đều diễc ra trong một thế giới đảo ngược. Trong giấc mơ nhiều khi chính chú thỏ rừng lại săn người thợ săn. Sự tiếp diễn của các biến cố khởi đầu nguyên nhân cho giấc mơ nhiều khi lại đi sau những biến cố đáng lẽ phải đến sau. Đúng như trong những vở chèo trong hội chợ người anh hùng ngã lăn ra chết trước khi tiếng súng nổ trong hậu trường. Có những giấc mơ trong thứ tự các biến cố bị đảo lộn hoàn toàn thành ra muốn hiểu người ta phải bắt đầu bằng biến cố xảy ra trước mắt. Hẳn các bạn còn nhớ những điều đã được trình bày trong chương nói về tính chất tượng trưng của giấc mơ, trong đó chúng tôi đã trình bày rằng nhảy xuống nước cũng đồng nghĩa với từ dưới nước đi lên, nghĩa là sinh ra hay cho ra đời cũng thế thôi, trèo thang hay xuống thang cũng có nghĩa như nhau. Người ta nhìn thấy dễ dàng đâu là những cái lợi mà sự biến dạng của giấc mơ có thể có được vì sự tự do biểu diễn này.
Những điểm đặc biệt này của công việc xây dựng phải được coi như cổ lỗ lắm. Chúng gắn liền vào với những lối diễn tả cổ xưa, những ngôn ngữ và chữ viết thời cổ, cũng gặp những khó khăn mà sau này chúng ta sẽ nói đến.
Để kết luận, chúng ta cần đưa ra một vài nhận xét phụ. Trong công việc xây dựng, tất nhiên giấc mơ phải biến đổi những ý tưởng tiềm tàng thành những hình ảnh cụ thể, có tính cách thị giác càng tốt. Vậy mà những ý tưởng này lại bắt đầu xuất hiện bằng những hình ảnh cụ thể; những vật liệu của chúng, giai đoạn đầu tiên của chúng là những cảm giác về giác quan hay nói đúng hơn là những hình ảnh kỷ niệm của các cảm giác đó. Chỉ mãi về sau những tiếng nói mới được gắn liền vào các hình ảnh và nối lại thành những ý. Vậy công việc xây dựng làm cho các ý tưởng phải đi thụt lùi, và trong sự thụt lùi này tất cả những cái gì mà sự phạt triển các hình ảnh kỷ niệm và sự biến đổi này thành ý tưởng đã đem đến cho giấc mơ như những cái gì mới thu thập được đều phải biến mất hết.
Công việc xây dựng trong giấc mơ diễn tiến như thế đó. Sự quan tâm của chúng ta đối với giấc mơ rõ ràng phải thụt lùi về sau hậu trường. Nhưng vì giấc mơ rõ ràng là điều mà chúng ta biết rõ hơn cả một cách trực tiếp, nên chúng ta sẽ dành cho nó một ít nhận xét nữa.
Giấc mơ rõ ràng dưới mắt chúng ta quả có mất đi nhiều phần quan trọng, điều này hết sức tự nhiên. Giấc mơ này có xếp đặt thành một khối hay không bị phân chia thành những mảnh nhỏ đối với chúng ta không phải là điều quan hệ. Ngay cả khi giấc mơ đó có một ý nghĩa gì chăng nữa thì ý nghĩa đó cũng bắt nguồn ở sự biến dạng của giấc mơ và không liên quan gì đến giấc mơ tiềm tàng như là bề mặt của một toà nhà thờ bên Ý, liên quan với sự kiến trúc và đồ bản của nhà thờ đó. Trong một vài trường hợp, bề mặt của giấc mơ có thể có một ý nghĩa lấy từ những yếu tố không biến dạng hay chỉ hơi biến dạng một chút nằm trong những ý tưởng tiềm tàng. Một khi chúng ta chưa giải thích được giấc mơ, chưa hiểu được mức độ của sự biến dạng thì chúng ta không thể thấy rõ điều này được. Có một điểm nghi ngờ khi hai yếu tố trong giấc mơ có vẻ như tiến lại gần nhau đến mức hoà được vào với nhau. Từ sự kiện này người ta có thể đi đến kết luận rằng, những yếu tố tương ứng của giấc mơ tiềm tàng cũng phải xích lại gần nhau hơn, nhưng trong nhiều trường hợp khác những yếu tố kết hơp với nhau trong giấc mơ tiềm tàng lại tách rời nhau ra trong giấc mơ rõ ràng.
Chúng ta không nên giải thích một phần của giấc mơ rõ ràng bằng một phần khác, coi giấc mơ như một cái gì có mạch lạc và hợp thành một sự biểu diễn có tính cách thực tế. Trong phần lớn các trường hợp, giấc mơ giống như hòn đá ngũ sắc được kết hợp lại bằng chất xi măng, do đó những hình ảnh muôn màu xuất hiện trong đó không phải là hình ảnh xác thực của những đường vòng quanh những hòn đá được kết hợp lại. Thực ra cũng có một sự xây dựng thứ hai phụ thuộc có nhiệm vụ làm cho những dữ kiện trực tiếp có ngay của giấc mơ trở thành hơi có mạch lac, nhưng xếp đặt lộn xộn không thể nào hiểu được, khi cần đến những dữ kiện này có thể được bổ túc.
Đằng khác, không nên gán cho công việc xây dựng này một tầm quan trọng quá đáng và chấp nhận nó không dè dặt. Sự hoạt động của nó biến mất dần dần do những hậu quả của chính nó: nào sự cô đọng, sự di chuyển, sự hình dung một cách cụ thể, rồi xây dựng tất cả trong một công việc xây dựng thứ hai, nó chỉ làm được có thế thôi chứ không làm được gì hơn. Nhưng sự phán đoán, phê bình, ngạc nhiên, những kết luận xảy ra trong giấc mơ không bao giờ là kết quả của công việc xây dựng, rất ít khi là hậu quả của một sự suy nghĩ về giấc mơ: đó chính là những mảnh nhỏ trong giấc mơ tiềm tàng xâm nhập giấc mơ rõ ràng sau khi đã được thay đổi chút ít. Công việc xây dựng cũng không thể tạo lập được những diễn từ. Trừ vài trường hợp rất hiếm còn những điều nghe thấy trong giấc mơ thường là tiếng vang của những điều nghe thấy hay đã nói trong ngày, những điều này được đưa vào trong giấc mơ tiềm tàng như những vật liệu kích động giấc mơ. Những sự tính toán cũng không chịu ảnh hưởng của sự xây dựng; những tính toán thấy trong giấc mơ chỉ là sự xuất hiện lộn xộn của những con số, không có nghĩa gì hay chỉ là những bản cóp lại của những sự tính toán trong giấc mơ tiềm tàng. Trong những điều kiện đó, chúng ta sẽ không ngạc nhiên nếu thấy người ta bớt quan tâm đến sự xây dựng này, dành sự chú ý cho những ý tưởng tiềm tàng do giấc mơ rõ ràng phát hiện ra trong một tình trạng bị biến dạng nhiều hay ít. Nhưng người ta sẽ lầm to nếu cứ theo chiều hướng đó mà cho rằng những ý tưởng tiềm tàng có thể được coi như chính giấc mơ rồi đem áp dụng cho nó những sự kiện thuộc về giấc mơ rõ ràng. Thực là kỳ khôi khi người ta lạm dụng những dữ kiện của môn Phân tâm học để lẫn lộn những sự việc này. Giấc mơ không là gì khác hơn là hậu quả của công việc xây dựng; vậy giấc mơ chính là hình thức mà công việc xây dựng bao quanh những ý tưởng tiềm tàng.
Công việc xây dựng là một sự hoạt động có tính chất đặc biệt chưa từng thấy trong đời sống tinh thần. Những sự cô đọng, di chuyển biến hoá thụt lùi của những ý tưởng để trở thành những hình ảnh cụ thể chính là những điều hết sức mới mẻ do công của môn phân tâm học tìm ra. Ngoài ra dựa vào sự kiện tương tự như công việc xây dựng, chúng ta nhận thấy có những dây liên lạc chặt chẽ giữa môn phân tâm học và các môn học khác, như sự tiến hoá của ngôn ngữ và tư tưởng, Các bạn chỉ thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề này sau khi biết rằng những sự hoạt động của công việc xây dựng sau này sẽ là nguồn gốc của sự phát sinh ra các chứng bệnh thần kinh.
Tôi biết là chúng ta chưa thể duyệt lại những điều ích lợi mà môn Tâm lý học có thể rút ra những nhận xét này. Tôi chỉ muốn các bạn để ý đến những bằng chứng mới của chúng ta về sự có mặt của những hoạt động tinh thần vô thức (những ý tưởng tiềm tàng trong giấc mơ chẳng khác gì hơn là những sự hoạt động tinh thần vô thức này), những cánh cửa mà sự giải thích giấc mơ đã mở cho những người nào muốn khảo cứu về đời sống tinh thần vô thức này.
Và bây giờ, tôi phân tích cho các bạn xem một vài thí dụ nhỏ về các giấc mơ để hiến cho các bạn những chi tiết những điều mà từ trước tới nay tôi chỉ nói về đại thể để sửa soạn trước, hay chỉ nói một cách khái quát và vắn tắt thôi.