Chương 3
Bí mật kỳ diệu

    
riệu Dung nhanh nhẹn cuối xuống, xốc Văn Bình lên vai, chạy như bay xuống cầu thang, vào ca-bin. Chàng đặt bạn nằm ngay ngắn lên giường rồi trở lên boong.
Đội cứu hỏa của pháo đài ZZ đang hoạt động ráo riết. Những vòi ròng đua nhau phun tuyết thán khí vào đống lửa cao ngất. Một toán nhân viên mặc y phục đặc biệt bằng ma thạch trắng toát đã tiến sát phi cơ, khi ấy chỉ còn là đống sắt vụn méo mó khủng khiếp.
Hạm trưởng đầu trần, vai khọm xuống, có vẻ già thêm 10 tuổi, đang đứng điều khiển cuộc cấp cứu. Thấy Triệu Dung, ông lấy mù soa lau mồ hôi, miệng buông ra ba tiếng bi thảm:
- Thật không ngờ!!
Triệu Dung chỉ đống lửa:
- Có cứu ai được không?
Hạm trưởng lắc đầu:
- Chưa biết. Nhưng theo tôi nghĩ thì hy vọng rất mỏng manh. Vì lửa cháy rất nhanh và rất lớn. Vã lại, còn tiếng nổ...
- Tiếng nổ do thùng xăng hay là...?
- Không phải do thùng xăng. Vì nếu là thùng xăng thì không thể long trời, lở đất như vậy được. Tôi chắc là trên phi cơ có chất nổ.
- Chất nổ do nhà bác học mang theo hay là chất nổ do đối phương bí mật bỏ vào?
- Phải điều tra tường tận phải trả lời dứt khoát được. Trên nguyên tắc, các nhà bác học hoạt động thường ngày với chất nổ. Tuy nhiên, mỗi lần lên phi cơ, họ đều được yêu cầu thận trọng. Mỗi khi có chất nổ, tôi đều ra lệnh dùng trực thăng đặc biệt để vận chuyển.
- Như vậy thì chắc chắn có bàn tay phá hoại của đối phương rồi. Phi cơ đáp xuống tận nơi mới nổ, phải không hạm trưởng?
- Phải. Thoạt tiên, tôi tưởng phi cơ nổ trên không trung. Nhưng tôi đã hỏi lại nhân viên kiểm soát hạ cánh. Phi công đã thi hành đúng chỉ thị của phòng kiểm soát, và đã lái máy bay đúng vào phi đạo. Khi bánh xe vừa chấm xuống tàu thì nổ.
- Nghĩa là địch đã gài bom nơi bánh xe?
- Tôi chưa dám đoan quyết. Thứ nhất là đoan quyết do địch gây ra. Thứ hai là đoan quyết bom được gắn vào bộ phận đáp xuống. Song nếu ông muốn tôi đưa ra một lời phỏng đoán không chính thức thì tôi xin nói rằng vụ nổ này được tổ chức một cách vô cùng chu đáo.
Hạ thấp giọng, hạm trưởng nói:
- Hấu hết, các chuyên viên của pháo đài và đặc phái viên CIA đều có mặt trên phi cơ này. Tôi mang trên vai một trách nhiệm quá nặng nề. Tôi lại không phải là chuyên gia điều tra. Hy vọng ông sẽ cố gắng giúp tôi. Dầu sao...
Triệu Dung ngắt lời:
- Ông đã báo cáo lên Bộ Tư Lịnh chưa?
Hạm trưởng bâng khuâng nhìn đám mây xanh ngắt lơ lững trên vòm trời bát ngát:
- Rồi. Có lẽ Trung Ương đã phúc đáp. Mời ông về ca-bin với tôi.
Triệu Dung lặng lẽ theo sau hạm trưởng, hai tay chắp sau đít.
Một viên phụ tá đến trước mặt hạm trưởng, đứng lại, mặt ướt sũng mồ hôi và than đen, giọng hổn hển:
- Thưa hạm trưởng, đám cháy đã được dập tắt.
Hạm trưởng hỏi:
- Còn việc cấp cứu?
- Thưa, đang tiếp tục. Hầu hết đều thiệt mạng.
Triệu Dung xen vào:
- Người đàn bà có bị thiệt mạng không?
Viên phụ tá đáp:
- Thưa, tôi chưa biết rõ. Song, tôi không tin bà còn sống. Vì tất cả đều cháy ra than. Sau này phải phân chất mới có thể xác định được.
Hạm trưởng ngoắt tay:
- Phi hành đoàn?
- Thưa, khi phi cơ lâm nạn, nhân viên phi hành bấm nút cho ghế bắn ra ngoài. Có ba người, thì hai bị tử thương vì đụng vào mảnh thép nhọn. Còn người thứ ba thoát chết.
- Song, bị thương nặng?
- Vâng. Thân thể bị cháy xém, và dường như thần kinh hệ bị va chạm.
- Tỉnh hay mê?
- Thưa, mê.Y sĩ đang tận tình chăm sóc.
Triệu Dung lại xen vào:
- Nhân viên phi hành sống sót này hiện đang được điều trị tại đâu?
- Thưa, trong phòng hồi sinh.
Phòng hồi sinh là một ca-bin được trang bị dụng cụ máy móc y tế tối tân, trong bịnh viện của mẫu hạm. Nghe nói đến phòngp dữ.
Mà nàng dữ thật. Thanh niên nào xớ rớ đụng vào người nàng là ăn đòn ngay tức khắc. Tuy người mảnh khảnh, nàng là đai đen nhu đạo. Và không phải là đai đen đệ nhất, mà là đệ nhị.
Ông Hoàng cho phép Văn Bình vào bịnh viện hai tuần lễ. Kể ra thì một tuần là đủ rồi. Nhưng quá 3 tuần, chàng vẫn không ra. Quá 4 tuần, chàng vẫn còn đau. Đến tuần thứ tám, chàng vẫn chưa khỏi bịnh. Sang đến tuần thứ 10 thì bịnh cũ khỏi rồi, bịnh mới, một thứ bịnh kỳ lạ bộc phát. Từng đoàn y sĩ nối đuôi nhau, cố điều trị cho con cưng của sở Mật vụ song không tài nào tìm ra căn bịnh.
Vì căn bịnh kỳ lạ ấy chỉ riêng Văn Bình được biết.
Bịnh đào hoa...
Buổi trưa, buổi tối, nhất là buổi tối vắng vẻ, Văn Bình đều dành trọn vẹn cho người đẹp. Nàng chưa yêu ai, nàng lại thích hạ đàn ông đo ván bằng nhu đạo, nhưng đến khi đối diện Văn Bình, nàng bủn rủn tay chân.
Song việc phải tới đã tới.
Ông tổng giám đốc gọi điện thoại mới Văn Bình về, nhận công tác mới. Và chàng đành phải gạt lệ, bỏ dở công việc tu tiên.
Nói cho đúng, Văn Bình định chần chừ thêm hai, ba tuần nữa, vì công việc tu tiên đang đến thời kỳ sôi nổi nhất. Song ông Hoàng dường như có con mắt thông thiên, đọc thấy mọi việc xảy ra ngoài ngàn dặm, và đọc thấy tâm tư của chàng, nên bắt đầu ngay vào chuyện:
- Anh phải lên đường ngay mới kịp. Cô Nguyệt Hằng đã dự xong lớp huấn luyện người nhái.
Nguyệt Hằng!
Nếu là Nguyệt Hằng thì dù tu gần đắc đạo trên cõi tiên, Văn Bình cũng nhảy xuống hạ giới, để hòa mình với cát bụi ô trọc. Vì cô gái điều dưỡng rất đẹp, song Nguyệt Hằng lại lạ lùng hơn nhiều. Vả lại, sau lần đoàn tụ ngắn ngủi, chàng chưa có cơ hội được gặp nàng.
Khác mọi lần đã qua, bước vào văn phòng Tổng giám đốc, sau khi bị phá rối cuộc vui với bộ mặt đưa đám nặng nề và đầy oán trách, lần này Văn Bình mặt tươi như người trúng số cặp tư tám triệu bạc.
Mặt ông tổng giám đốc cũng tươi như hoa. Vừa thấy Văn Bình vào, ông Hoàng nhấc mục kỉnh xuống, rồi hỏi:
- LES đã nhận đơn của anh chưa [1]?
LES không phải là bí danh của một điệp viên lỗi lạc hoặc một tổ chức gián điệp địch đáng gớm. Mà là tên tắc của một công ty tư nhân mới được thành lập, chuyên kết nạp những hội viên trên thế giới muốn sống lâu như ông Bành Tổ. Sự thật là LES chưa tìm ra thuốc trường sinh bất lão, nhưng tin tưởng trong một tương lai gần, khoa học sẽ tìm ra, nên đề nghị hội viên được ủ lạnh, và đóng thùng để dành, chờ cơ hội thuận tiện sẽ mở ra, và hồi sinh lại.
Văn Bình không sợ chết, song lại không thích chết. Chàng thích sống trường sinh bất lão để hưởng lạc thú cuộc đời. Nên với sự đồng ý của ông Hoàng, chàng gởi đơn xin gia nhập hội LES, để sau khi chết, chàng sẽ không phải vào quan tài, mà là nằm trong thùng kim khí, chớ ngày hồi sinh.
Văn Bình gật đầu:
- Thưa rồi. Tôi là hội viên thứ 2.000 [2]
Ông Hoàng nói:
- Không riêng gì anh, nhiều nhân viên của sở, trong số có Lê Diệp và Nguyên Hương, đều xon gia nhập. Theo tôi ước lượng, chỉ độ vài năm nữa, khi công luận thế giới bắt đầu hiểu rõ tính chất quan trọng của hàn học [3], họ sẽ đua nhau gia nhập, và số lượng hội viên sẽ lên tới hànhg chục, hàng trăm triệu.
Văn Bình ngắt lời:
- Ông sắp mở phòng thí nghiệm hàn học trong Sở phải không?
Ông Hoàng đáp:
- Đó là điều dĩ nhiên. CIA đã có từ hai, ba năm nay. RU và KGB cũng vậy. Chúng ta bây giờ mới nghĩ kể cũng không còn sớm nữa. Tuy nhiên, muộn còn hơn không.
Như anh đã biết, hàn học là một bộ môn khoa học mới mẻ có rất nhiều triển vọng. Vì nếu cuộc thí nghiệm của bác sĩ Berdford [4] thành công, đời sống của nhân loại và thế giới sẽ hoàn toàn đổi khác. Nếu con người đã chết có thể sống lại thì chẳng bao lâu nữa, trái đất này sẽ đầy ứ, hàng ngàn vấn đề phức tạp được đặt ra, người ta bắt buộc sẽ phải di dân lên các hành tinh trong vũ trụ hệ. Riêng các lãnh tụ cộng sản lại quan tâm đến hàn học hơn mọi thành phần khác. Vì như vậy, họ có điều kiện sống mãi, sống mãi không bao giờ chết.
Theo tin riêng của tôi, RU và KGB đã đổ hàng ngàn triệu đô-la vào các phòng nghiên cứu hàn học. Tôi cũng muốn chi phí rộng rãi như họ, nhưng đáng tiếc là không có tiền, chưa có tiền...
Ông Hoàng ngồi yên, vẻ mặt bâng khuâng.
Hiểu ý, Văn Bình cất tiếng:
- Ông cần bao nhiêu?
- Trên địa hạt thí nghiệm tân tiến, thì bao nhiêu cũng không đủ, giống như muối bỏ biển vậy. Nhưng nghèo ra cũng phải có từ năm đến mười triệu đô-la.
- Ông vay CIA chưa?
- Rồi. Anh là người gần gũi tôi, và biết rõ công cuộc kín đáo của tôi hơn ai hết chắc không lạ gì những khó khăn về vay mượn. Dĩ nhiên, tôi ngỏ lời là họ cho vay ngay, nhưng vay thì phải trả, chúng ta không thể ăn quịt. Nhưng anh nghĩ coi, nước Việt Nam đói rách này kiếm đâu ra tiến để lấp khoảng trống mười triệu đô-la nghĩa là sấp xí một tỉ rưỡi bạc. Mới chi năm, mười triệu bạc, mà họ còn nói lên, nói xuống, đòi gửi phái đoàn đến xem xèt sổ sách, huống hồ... Đối với một tổ chức điệp báo nhược tiểu như như chúng ta chỉ có một lối thoát duy nhất. Mà lối thoát duy nhất này, anh đã biết, vì trong quá khứ, anh đã thí nghiệm nhiều lần.
- Thưa ông nghĩa là ta sẽ làm thuê... để trả tiền.
- Đúng.
- Và lần này bắc cóc các nhà bác học chuyên về hàn học của Nga-Sô?
- Không đúng hẳn. Cách đây 6 tháng, một trong các chuyên viên hàn học Hoa Kỳ bị mất tích. Dĩ nhiên, ông ta không thể chắp cánh bay khỏi Hoa Kỳ. Mà là bị KGB lén bắt. Sở dĩ nhà bác học này bị KGB lén bắt dễ dành vì hàn học chưa được coi là có tính cách quốc phòng, đúng ra, chỉ mới được coi như vậy từ giữa năm 1967 mà thôi.
Chụp lấy cơ hội bằng vàng này, tôi mở cuộc điều tra. Và gặp may mắn, tôi phăng ra nhà bác học Mỹ bị KGB mang về Nga-Sô, và giấu trong một cái hồ lớn ở miền Đông, trên đường Tây Bá Lợi Á.
- Giấu trong hồ?
- Phải, giấu trong hồ. Từ ít lâu nay, một phần cơ sở bí mật của Nga-Sô đều nằm sâu trong lòng đất. Riêng cơ sở sưu tấm nghiên cứu hàn học được giấu dưới đáy hồ. Ta đã có tay trong, nếu xoay xở nhanh chóng và kín nhẹm, có nhiều hy vọng thành công. Một mặt, ta sẽ có 15 triệu đô-la, trả ngay bằng tiền mặt; mặt khác, ta có thể phá hủy phòng thí nghiệm của họ, bặt họ phải đi lùi một thời gian. Vì vậy, tôi đã nghĩ đến anh.
- Thưa ông, tôi sẽ đi một mình?
- Không. Một mình sợ không nổi. Một người khác, đúng hơn, một nữ đồng nghiệp sẽ cùng đi với anh.
- Nếu tôi không lầm thì ông sẽ chọn Kathy vì trong Sở, chỉ có nàng là thông thạo tiếng Nga và có nhiều kinh nghiệm hoạt động tại đó.
- Kathy hội đủ điều kiện, song nàng không thể sang Nga được nữa. Nàng đã bị lộ. Tôi đã chọn người khác.
- Nguyệt Hằng?
- Đúng. Nguyệt Hằng từng sống ở Nga-Sô nhiều năm. Nàng có thể giúp ích được nhiều. Vả lại, nàng viết thư cho tôi, yêu cầu được hoạt động chung với anh. Nguyệt Hằng đang theo lớp huấn luyện đặc biệt người nhái trên pháo đài ZZ. Đã lâu, anh không hoạt động dưới nước. Có lẽ anh cũng nên dợt lại một thời gian. Phiền anh chuyển lời hỏi thăm của tôi cho cô Nguyệt Hằng.
Ông Tổng giám đốc ít khi hỏi thăm bạn bè và nhân viên. Lần này, ông lại tỏ thái độ vồn vã. Thành ra Văn Bình đâm ra lo ngại. Sau nhiều phen cọ sát với tử thần, chàng đâm ra dị đoan. Truớc kia, chàng không hề kiêng que diêm dùng hai, ba người, kiêng con số 13 trong bữa tiệc, kiêng đi dưới cái thang. Đột nhiên, tâm tính chàng biến đổi.
Sự thật, giác quan thứ sáu của chàng đã nhìn thấy những việc sắp xảy ra.
Nhưng đến bây giờ thì đã quá muộn.
Trước mặt chàng là một hỏa tiễn. Một hỏa tiễn phụt lửa da cam kinh dị đang phóng nhanh vào phi cơ giữa vùng trời rựt nắng và trên mặt biển, bập bềnh xanh ngắt.
Trên pháo đài nổi, ba người vẫn tiếp tục nín lặng. Hạm trưởng đội kết vào đâu, sửa soạn, bước ra ngoài. Triệu Dung cúi xuống đồng hồ tay. Không hiểu sao, chàng lại coi giờ. Chàng có cảm tưởng đây là thời khắc quan trọng nhất đời.
Nguyệt Hằng đứng thẳng như pho tượng. Một giọt lệ long lanh trên khóe mắt nàng.
Nàng chắp hai bàn tay vào nhau, miệng lâm râm:
- Lạy Trời phù hộ cho chàng.
Được nuôi nấng trong bầu không khí duy vật, Nguyệt Hằng không hề tin Trời. Song giờ phút này, nàng mới nhận thấy tất cả những điều nàng học đều sai lầm. Mọi việc trong đời đều là định mạng. Mọi việc trong đời đều do Đấng Tối Cao quyết định.
Triệu Dung nhìn Nguyệt Hằng cầu nguyện mà không nói năng gì hết. Vì khi ấy, chàng cũng đang cầu nguyện trong lòng.
Khi ấy, ở Đà Nẵng, một cô gái tuyệt đẹp cũng đang cầu nguyện. Nàng không biết chàng là ai. Nhưng nàng có ấn tượng là đã quen chàng, và trao thân cho chàng từ kiếp trước.
Chàng đã đi rồi...
Trên không phận Đà Nẵng, một cặp phản lực cơ xẹt qua như chớp sáng, kèm theo tiếng sấm. Hàng ngày, nàng đã quen nghe tiếng động long trời, lở đất của phi cơ xé bức tường âm thanh. Nàng đã quen nên cảm thấy thích thú. Bữa nào vắng tiếng phi cơ rầm rầm là nàng bâng khuâng như người đánh mất vật quý.
Nhưng hôm nay, ruột gan nàng lại nóng như lửa đốt. Nàng vụt đứng dậy, phóng tầm mắt về hướng đông, hướng chàng lái máy bay, rồi kính cẩn quỳ xuống:
- Lạy Trời, phù hộ cho chàng.
Định mạng của Văn Bình gắn liền với đàn bà đẹp, nên giờ ấy, ở Sàigòn, linh tính nguy hiểm đã làm cho một ngươì đàn bà bồn chò mở cửa nhìn ra vườn, rồi nhắc điện thoại, hỏi tin tức.
Nàng là Quỳnh Loan, nữ nhân viên ưu tú Ban Biệt vụ, người đàn bà đẹp duy nhất có con với Văn Bình [5]. Nàng được nghỉ phép một thời gian, và mang Văn Hoàng về nuôi. Hai mẹ con sinh sống cuộc đời thôn dã giản dị trong một căn nhà rộng thênh thang, trên đường đi Long Bình, giữa những bụi tre xanh ngắt kẻo kẹt, những cây bưởi cành lá xum xuê trái nhẵn chính mọng đầy nước ngọt.
Giây liên lạc duy nhất của Quỳnh Loan với đời sống náo nhiệt thủ đô là cái máy điên thoại siêu tần số. Về Long Bình được một tuần, song nàng chưa hề sử dụng. Lần này cầm lên, nàng lại đạt xuống. Dường như một tiếng nói huyền bí từ trên chín từng mây cao đang thì thầm vào tai Quỳnh Loan.
Nàng không nói gì hết, song ở đây, lòng nàng đang lâm râm cầu nguyện:
- Lạy Trời, phù hộ cho chàng.
Qua cửa phòng hé mở, Văn Hoàng nằm ngủ ngon lành. Trong giấc ngủ, miệng nó vẫn thoáng nụ cười tủm tỉm, nụ cười lôi cuốn nhưng ranh mảnh, giống bố như đúc.
Chắc chắn lớn lên, nó sẽ như bố. Nghĩa là trở thành hung thần trong nghề điệp báo, dọc ngang trên thế giới. Nghĩa là trở thành thiên thần trong tình yêu, làm hàng trăm, hàng ngàn người đàn bà say mê.
Khuôn mặt dĩnh ngộ của con trai hiện rõ dưới chiếc mền màu hồng khiến tâm can Quỳnh Loan xao xuyến. Từ ngày có con, nàng không còn hăng hái trong công tác nữa. Dĩ nhiên, sáng nào nàng cũng tập thể dục đều đặn để giữ vững sắc đẹp thân thể và không quên dợt lại cận vệ chiến. Nàng cũng không quên tập bắn súng thường xuyên, mỗi ngày cỡi ngựa, lái xe đua cho gân cốt khỏi tê cứng.
Song ngọn lửa cuồng nhiệt nghề nghiệp lại nhỏ dần, nhỏ dần trong lòng nàng. Nàng bắt đầu sợ sệt vẩn vơ. Nàng bặt đầu lo lắng tương lai. Nàng theo ông Hoàng ra ngoại quốc một thơi gian ngắn rồi đòi về. Ông Hoàng mỉm cười bảo nàng:
- Cô nhớ cháu, phải không?
Nàng lặng thinh không đáp.
Thật vậy. Văn Hoàng khi ấy được nuôi trong dưỡng đường đặc biệt của Sở. Thoạt tiên, Quỳnh Loan đinh ninh có thể xa con, dấn thân vào nhiệm vụ, nhưng mỗi lần xa con, nàng mỗi thấy là nàng không còn can đảm như ngày xưa nữa. Khi ấy, còn một thân, một mình, nàng có thể khưng nhận mọi sự nguy hiểm ghê gớm.
Nhưng sau khi có con, nàng trở về với thiên chức bất dịch của người mẹ, và người... vợ. Văn Bình đã nói dứt khoát: chàng không thể chung sống với nàng đến ngày răng long, đầu bạc. Vả lại, chính nàng đã cam kết là không phiền hà chàng nữa.
Bên ngoài, trời nắng rực rỡ.
Ngôi nhà mát lẻ loi này được ông Hoàng xây cất trước khi có xa lộ Biên Hòa. Tuy bề ngoài mộc mạc, nhưng bên trong lại gồm đây đủ tiện nghi tântiến. Quỳnh Loan sống một mình với con, với hai tủ lạnh khổng lồ, chứa đầy thức ăn có thể dùng nửa năm không hết.
Xa lộ Biên Hòa chạy phía dưới vì tòa nhà nằm trên ngọn đồi thoai thoải. Đứng trong vườn, nàng có thể nhìn thấy đoàn xe nối đưôi nhau trên con đường trắng xám. Song nàng không nghe được tiếng động, vì ở xa hơn nửa cây số.
Mộ vật cồm cộm ở ngực làm Quỳnh Loan nhớ đến bức thư của Văn Bình. Nàng nhận được hồi hôm, Lê Diệp đích thân mang tới. Chàng ở lại trò chuyện đến nửa đêm mới lái xe về Sài-gòn. Nàng đọc đi, đọc lại hàng chục lần đếm nổi thuộc làu. Lẻ ra, theo nguyên tắc báp mật, nàng phải phá hủy. Song nàng gập lại làm tám, rồi nhét vào xú-chiên, dường như để ấp ủ tuồng chữ của chàng trong da thịt nàng.
Cử chỉ trang trọng như tín đồ ngoan đạo vào nơi tôn nghiêm, sửa soạn cầu kinh, Quỳnh Loan rút thư ra rồi lẩm bẩm đọc:
“Hoa Quỳnh thân yêu,
Em nhận được thư này thì anh đã lên đường. Anh đã lên đường công tác, như đã lên đường rất nhiều lần trong quá khứ.
Trước kia, mỗi lấn lên đường, anh cũng bâng khuâng, vì phải tạm xa đơì sống phồn hoa náo nhiệt, tạm xa nhiều người thân. Nhưng rồi công việc đòi hỏi, anh phải lãng quên.
Trước kia, mỗi lần lên đường, anh chưa hề viết thư từ biệt. Đây là lần thư nhất, anh mang giấy bút ra năn nót. Hẳt.
Nghĩa là viên phụ tá hoa tiêu đã bị hạ sát. Hung thủ phải là võ sĩ nhu đạo cừ khôi. Nguyên nhân của vụ hạ sát rất dễ hiểu: hung thủ không muốn nạn nhân sống sót để trình bài một phần sự thật.
Nhưng hung thủ là ai?
Triệu Dung ngước đầu nhìn y sĩ. Đó là một người quá tứ tuần, dáng dấp đậm đà, vẻ hiền hậu - hiền hậu đến nỗi gần thành chất phát - nổi bật trong tia mắt chậm chạp. Tuy không phải là nhà tướng số, Triệu Dung có biệt tài quan sát diện mạo để phăng ra bề sâu tâm can. Chàng không thể nào lầm được: y sĩ của mẫu hạm chỉ là một nhân viên chuyên môn tận tụy, một người chồng gương mẫu, thích ăn ngon, thích tiêu khiển như mọi người đàn ông tứ tuần khỏe mạnh khác trên trái đất, nhưng không thể là kẻ giết người chớp nhoáng.
Và lại, lối đi bàng bạch, cái gật đầu nặng nề, và nhất là bàn tay trắng xanh, mềm nhũng như bàn tay con gái cấm cung - vì Triệu Dung đã có lần nắm chặt tay khiếng y sĩ nhăn nhó như nỡm ăn gừng - không phải là võ sĩ phi thường của cấp đai đen nhu đạo.
Tóm lại, y sĩ không phải là hung thủ. Song y sĩ đã theo bịnh nhân từ trên boong xuống khu ZA tất phải nhớ mặt, nhớ tên những kẻ đến gần. Sự kiện này sẽ giúp chàng phăng ra bí mật nhanh chóng.
Triệu Dung há miệng định hỏi, songlại nín thinh. Chàng nhận thấy bất lợi, tốt hơn giả vờ ngu xuẩn. Lặng lẽ, chàng đáp mền lên mặt xác chết. Rồi hỏi:
- Vụ giải phẫu tốt đẹp không, thưa y sĩ?
Y sĩ đáp:
- Xong rồi, hoàn toàn khả quan. Lúc này, bà ấy đã tỉnh. Theo lời ông dặn, tôi đã yêu cầu ban an ninh canh gát chu đáo.
Triệu Dung quay laị phía hạm trưởng:
- Xin lỗi, tôi cần về ca-bin một lát.
Dọc đường, chàng phập phồng lo ngại. Tuy hành lang không lấy gì làm dài, chàng có cảm tưởng là đi hàng 5, 10 phút chưa tới. Thật ra, ca-bin của chàng ở giữa hành lang, hầu như đối diện với phòng hạm trưởng. Khu ZA này được coi là cấm địa, không ai được bén mảng tới, ngoại trừ các phụ tá tin cậy của hạm trưởng, và y sĩ điều trị, các nhân viên khác phải xuất trình giấy phép đặc biệt.
Vậy mà Triệu Dung vẫn nóng ruột khác thường. Chàng cảm thấy ngu ngốc vì đã lừa đánh Văn Bình, để rồi mang xuống ca-bin. Mục đích của chàng là chế ngự sự xốc nổi của Văn Bình. Nếu đối phương lẻn vào ca-bin, lợi dụng chàng vắng mặt, Văn Bình còn bất động mà hạ độc thủ thì trọn đời chàng sẽ mang hối hận ghê gớm.
Mừng rỡ xiết bao, Văn Bình vẫn còn nguyên. Khi Triệu Dung xô cửa ca-bin thì Văn Bình đang ngồi trên ghế, xoay lưng ra ngoài. Nghe tiếng động, dĩ nhiên chàng phải nghe, vì tay chàng rất thính. Văn Bình không buồn ngoảnh lại.
Mùi thuốc Salam quyện lên thơm ngát. Triệu Dung đứng trên ngưỡng cửa, nhìn mớ tóc phiến loạn trùm xuống nửa gáy Văn Bình. Lẻ ra, Z.28 phải yết kiến thợ cạo từ nửa tháng trước, song chàng hẹn lần, khất lữa không đi. Đối với người khác thì tóc dài lỏm chỏm làm khuông mặt trở nên dữ tợn hoạc đểu cáng, nhưng Văn Bình lại thích hợp cả tóc ngắn lẫn tóc dài. Mớ tóc ngắn tạo cho chàng vẻ rắn rỏi của người chiến binh hồ hải ba sương một nắng. Khi để tóc dài, chàng lại biến thành nhà thơ luôn luôn trầm mặt, suy tư.
Văn Bình gạt tàn thuốc lá, giọng nhỏ nhẹ:
- Chào anh.
Triệu Dung giật bắn người:
- Anh. Té ra anh đã biết là tôi.
Vẫn không quay lại, Văn Bình nói:
- Tôi chờ anh từ lâu. Lúc anh ở đầu hành lang, tôi đã nghe rõ tiếng chân. Anh có lối đi đặc biệt, không đời nào tôi lầm được.
- Anh đã khỏe hẳn chưa?
- Cám ơn anh.
- Vạn bất đắc dĩ...xin anh bỏ lỗi.
Đột nhiên, Văn Bình phá lên cười:
- Vậy, tôi cũng xin anh bỏ lỗi một thể.
Triệu Dung nhìn bạn, ngơ ngác:
- Ồ, anh đánh lừa tôi. Anh không ngất, mà tôi cứ tưởng... Lạ thật.
- Anh đinh ninh làm tôi ngủ đi 10, 15 phút chứ gi? Anh quên rằng trong thời gian ở Đông Kinh, tôi đã học Ninjitsu. Giỏi Ninjitsu thì đạm mũi gươm vào cổ cũng không trầy da, huống hồ điểm huyệt. Tôi chưa đạt đến trình độ cao siêu này, nhưng ít ra cũng chịu nổi một phát atémi hạng nhẹ.
- Trời ơi!!
- Dạo này, anh hay la trời như Nguyên Hương. Không khéo anh trở thành đàn bà mất. Nếu tôi không lầm, tính tình anh đã thay đổi hoàn toàn.
- Có lẻ anh nói đúng.Thay đổi hoàn toàn vì sau nhiều năm sống cô đơn, tôi bắt đầu cảm thấy lạnh lẽo. Nhưng thôi, chuyện tầm phào trong lúc này không tiện. Ông Hoàng sắp đến...
- Tôi biết, tôi biết... Nhưng trước khi bàn đến tương lai, hãy cứu xét hiện tại. Tôi không muốn đặt câu hỏi mà muốn tự anh nói ra, vì dầu sao, tôi cũng còn hy vọng...
- Như Luyến ấy à?
- Phải.
- Cũng như anh, tôi đang cố gắng hy vọng.
- Người ta chưa tìm được xác nàng?
- Không. Không tìm được xác ai hết. Tất cả đều tan thành than. Vả lại, phần lớn đã rớt xuống biển hoặc bay tản mát dưới sức mạnh của chất nổ.
- Nói một cách cụ thể: nàng đã chết.
Triệu Dung im lặng không đáp.
Văn Bình xoay ghế về phía Triệu Dung đứng. Từ cặp mắt sáng rực của chàng tóe ra nhiều tia lửa soi mói, dữ tợn, tưởng chàng có thể dùng lửa trong mắt đốt cháy được ca-bin bằng thép.Chàng từ từ rút điếu Salem trong túi ra, đua lên mũi ngửi, giọng buồn buồn:
- Đây là thuốc Salem của nàng. Nàng đặt riêng để tặng tôi. Quỳnh Loan làm dữ, ông Hoàng phải lưu đày Như Luyến qua Tây bán cầu. Tuy vậy, nàng vẫn lén lút gởi thuốc lá về. Khốn nạn, nàng mầy mò từ Ba Tây lên tận Bắc Mỹ, tìm tới tận xưởng ché tạo thuốc Salem, thửa một loại đặc biệt. Ông Hoàng cũng thửa thuốc đặc biệt cho tôi, nhưng còn thua thuốc của Như Luyến một trời, một vực. Cụ già lẩm cẩm có khác Như Luyến đã mất nhiều ngày giờ trong phòng thí nghiệm để trộn chất thuốc Salem với một thứ lá thuốc Virginia, loại nhỏ và lùn. Nàng tự tay ủ lá, thái nhỏ ra, rồi đưa cho hãng Salem...Tội nghiệp. Đây là điếu Salem cuối cùng của nàng.
Văn Bình mân mê điếu thuốc có cái lọc trắng trong bàn tay run run, giọng lạt hẳn đi:
- Có lẽ tôi loạn trí, anh ạ.
Triệu Dung kéo ghế lại gần bạn:
- Hừ, trong đời ai chẳng có lúc đau khổ. Con người nổi tiếng có khối óc điện tử và trái tim bằng sắt như tôi mà cũng đau khổ ghê gớm, nữa là... Nhiều khi vào phòng ông Hoàng, tôi phải đứng yên, không dám động mạnh, vì anh biết không? Mắt ông Hoàng ươn ướt... Theo tôi, tất cả đều do định mạng. Cuộc đời của chúng ta cũng do định mạng an bài. Biết đâu, lát nữa, anh sẽ phải khóc tôi. Còn tôi, biết đâu, sẽ phải khóc anh...
Văn Bình thở dài:
- Tôi cũng muốn lý luận như anh, nhưng từ bao năm nay, tôi đã lý luận như vậy hàng chục, hàng trăm bận rồi. Lần này, đầu óc tôi rối beng, tôi không thể lý luận thêm nữa. Vì tôi biết là giả tạo. Trong quá khứ, tôi đã tìm cách đánh lừa lương tâm, đánh lừa tình cảm bản thân. Anh Dung ơi, tôi chán ngấy cái nghề điệp báo tàn bạo này rồi. Giờ đầy, không mãnh lực nào trên thế gian có thể giữ tôi lại nữa.
- Anh từ chức ư?
- Chưa biết.
- Từ chức sao được? Đang còn ông Hoàng, còn sở, còn anh, chị, em. Còn nhiệm vụ?
- Trước kia, mỗi lần định ra đi, tôi đều nghĩ đến ông Hoàng, đến sở, đến anh, chị, em, đến nhiệm vụ. Vì vậy, tôi chỉ dám nán lại Vạn Tượng 10 tháng rồi phải lao đầu vào cuộc sống phiêu lưu. Nhưng bây giờ thì mọi việc đã trở thành vô vị. Hoàn toàn vô vị đối với tôi.
- Anh đi đâu?
- Chẳng đi đâu cả.
- Trời, anh điên rồi.
- Thì tôi đã bảo là điên mà anh chưa chịu tin.
- Anh chẳng đi đâu thì định làm gì?
- Cũng chẳng định làm gì. Có lẽ tôi phải chết, anh ạ.
- Ồ, nếu anh muốn tự tử thì chưa điên chút nào. Vì kẻ muốn tự tử thường rất sáng suốt.
- Để tôi kể lại chuyện này anh nghe. Lâu lắm, tôi không thích lênh đênh trên tàu, vì mỗi lần ra khơi, tôi lại nhớ tới lần ôm xác một người đàn bà đẹp nhảy xuống nước.
- Luz?
- Phải, Luz [1]. Nàng chết vì tôi. Tôi hối hận mãi về cái chết của nàng. Lần này đến lượt Như Luyến. Cũng vì tôi mà nàng chết.
Văn Bình bâng khuâng đứng dậy. Giọng chàng vụt trở nên rắn rỏi và sắc như dao chém đá:
- Dầu sao, tôi cũng phải tìm ra. Tôi phải trả thù... Rồi sau đó, tôi sẽ...
Hạm trưởng vừa tiến vào phòng. Không để ý đến vẻ mặt khổ não của Văn Bình, ông nói:
- Trong vòng một giờ đồng hồ nữa, ông Hoàng sẽ tới mẫu hạm. Bây giờ, xin mời hai ông lên phòng thí nghiệm.
Triệu Dung hỏi:
- Để làm gì hạm trưởng?
Hạm trưởng đáp:
- Trong mật điện, ông Hoàng dặn tôi nói lại là hai ông phải vào ngay phòng làm việc của bà Như Luyến. Mặt khác, công việc sửa soạn cho đại tá Văn Bình lên đường với chiếc tàu ngầm bỏ túi đuợc hoãn lại vô hạn định.
Văn Bình bỏ điếu Salem nhầu nát vào túi áo trên;
- Thì đi.
Kh&oci.. Chàng phải sống... Mặt biển Thái Bình, biến thành bức tường bê-tông trắn xonh mênh mông, cón cách phòng phi hàng trong gan tấc. Bàn tay ướt sũng bồ hôi trong găng da. Chàng mím môi, thu hết sức lực để kéo cần lái.
Như có phép mầu nhiệm, mũi chiếc Crusader sửa soạn chạm mặt biển bỗng nhoài ngang ra. Khi ấy, hỏa tiễn sắp đâm vào đuôi phi cơ, bị mất trớn, rượt theo không kịp vì Văn Bình lái thẳng góc thước thợ, nên nhào luôn xuống nước...
Thoát nạn...
Nhưng vừa qua khỏi nạn này, Văn Bình lại rơi vào nạn khác. Phần vì bay quá nhanh, phần khác vì thay đổi áp lực không khí quá đột ngột, chàng bị tối sầm hai mắt. Hiện tượng này, giới phi hành gọi là “màn đen”, thường xảy ra đối với phi cơ siêu thanh [9].
Trước mắt chàng, mọi vật đều đen sì. Chàng cố mở mắt thật rộng, song dây thần kinh không tuân lịnh của óc nữa. Chàng có cảm giác như võ sĩ trên đài bị một loạt trái đìa-rết vào mặt nên bị loạng choạng, nửa tỉnh, nửa mê.
Thật ra, chàng vẫn tỉnh. Tỉnh, nhưng không nhìn thấy, nghe thấy gì hết. Chàng biết rằng trong vai ba giây đồng hồ ngắn ngủi nữa, nếu chàng không có phương pháp nào chế ngự được “màn đen” thì phi cơ không người lái sẽ đâm xuống biển.
Văn Bình muốn giảm bớt tốc độ, nhưng không nhìn thấy bộ phận điều khiển ga xăng nữa. Bàn tay chàng quờ quạng xung quanh ghế ngồi, như người mù, để tìm nút nhảy. Kéo nút này, ghế phi công sẽ bắn vọt ra ngoài, chàng có nhiều hy vọng sống sót, vì chàng được trang bị đặc biệt một loại dù riêng, dù B-5 [10], dầu chàng mê man, dù cũng mở ra tự động.
Tim chàng bỗng đập thình thịch như muốn phá toang lồng ngực. Chàng sực nhớ là hai chân chàng đang duỗi thẳng. Trong tư thế này, ghế phi hành được phóng ra sẽ có thể chạm cạnh nhọn của phi cơ, chân chàng sẽ bị tiện ngang đầu gối.
Văn Bình bèn gắng gượng co chân lại, rồi vận chân khí lên đầu. Nhờ nhiều năm tháng khổ công tập luyện, lại am tường những bộ môn vận nội ngoại công thần bí như Ninjitsu Nhật Bản và Thần Ảo Công Trung Hoa [11]. chàng dần dần trở lại mức độ bình thường.
Một lần nữa, gần kề cái chết, Văn Bình lại thoát nạn.
Phi cơ vẫn bay rà rà trên mặt biển rập rình. Trong phút bàng hoàng vừa qua, chàng không nghe tiếng động kinh hồn của hỏa tiễn hồng ngoại tuyến đâm đầu xuống đáy biển. Sau khi tỉnh lại, việc đầu tiên của chàng là liếc qua các đồng hồ trên táp-lô.
Chàng thở phào ra mõt cái. Lâu lắm, chàng mới có cơ hội bay ở độ thấp. Ngẫu nhiên, chàng nhớ lại lời dặn của huấn luyện viên trong trường Không quân: mỗi khi lâm trận, phải bay thật thấp để trán màn radar. Pháo đài nổi ZZ vừ phóng hỏa tiễn, tất không biết chàng tới. Có thể họ sẽ phóng tiếp hỏa tiễn thứ hai, và lần này thì vô phương tránh né [12].
Cũng trong giây phút căng thẳng ấy, mọi người trong phòng kiểm soát của hàng không mẫu hạm nguyên tử lênh đênh ngoài khơi Nam Việt đều nín thở.
Bỗng một nhân viên la lên:
- Trời ơi!
Trưởng phòng kiểm soát kéo máy vi âm lại gần mìệng, báo cáo bằng giọng mất bình tỉnh.
- Thưa hạm trưởng... Vệt sáng đã mất trên màn radar. Nghĩa là cả phi cơ lẫn hỏa tiễn đều mất cùng một lúc. Họ xuống quá thấp, thấm hơn các tia radar.
- Nghĩa là hỏa tiễn đã đâm vào phi cơ?
- Thưa, tôi tin là như vậy.
- Ra lệnh ngay cho trực thăng cứu cấp.
Cuộc đàm thoại ngừng bặt.
Rồi tiếng báo cáo lại tiếp tục:
- Thưa hạm trưởng...
Giọng hạm trưởng nhuộm vẻ khó chịu:
- Cho trực thăng bay nhanh lên. May ra, ta còn có hy vọng...
- Thưa, diệt lôi hạm 43 vừa mới gọi về.
- Tìm ra chỗ phi cơ bị nạn rồi ư?
- Thưa không. Diệt lôi hạm 43 vừa thấy phi cơ.
- Nhìn thấy phi cơ? Hừ, có lẽ toàn thể chúng ta đều điên... Ông vừa phúc trình là...
- Thưa, Diệt lôi hạm đã báo cáo một cách dứt khoát là phi cơ đang bay về hàng không mẫu hạm của ta là một chiếc Crusader II, FSU-2N, Chance Vought của hải quân.
- Cờ nước nào?
- Thưa, không mang phù hiệu. Duy dưới bụng có một vòng tròn màu vàng. Đúng là phi cơ của...
Tiếng báo cáo đột nhiên ngưng bặt. Rồi tiếp tục, đầy vẻ hân hoan và tin tưởng như chủ nhân vừa trúng độc đắc:
- Thưa hạm trưởng. Phi cơ vừa liên lạc vô tuyến với đài kiểm soát.
Hạm trưởng giật mình đánh thót:
- Phi cơ nào?
- Thưa, phi cơ Crusader có vòng tròn màu vàng dưới bụng.
- Phòng kiểm soát báo cáo là liên lạc vô tuyến bị gián đoạn rồi kia mà...
- Thưa, chúng tôi cũng không hiểu tại sao.
Hạm trưởng hừ một tiếng rồi dõng dạc:
- Sửa soạn cho phi cơ đáp xuống.
Quay nhìn ra khơi sóng vỗ, hạm trưởng nhún vai, buông ra tiếng thở dài:
- Ngày nào cũng gặp một phi công thục mạng như thế này thì chẳng mấy chốc đứng tim mà chết...
Khi ấy, lịnh chuẩn bị được ban ra trong phòng chỉ huy:
- Xã hết tốc lực... Quay mũi tàu theo chiều gió... Giữ tay lái đúng 180 độ... [13].
Cách hàng không mẫu hạm ZZ một quãng xa, Văn Bình từ từ cho phi cơ lên cao. Dường như mọi việc xảy ra đều do bàn tay định mạng trêu người, nên máy vô tuyến đã câm lặng giữa lúc chàng cần tới nhất, để rồi đột nhiên lại cất tiếng nói. Tiếng nói ấm áp và quen thuộc.
Phía trước, ở ba giờ [14], một khối thép khổng lồ đang bồng bềnh trên mặt biển bát ngát.
Văn Bình gọi đài kiểm soát của hàng không mẫu hạm:
- A lô, ZZ, a lô, ZZ đây là Bạch xà... Các bạn đã nhận ra tôi chưa? Cám ơn món quà hỏa tiễn của các bạn. Suýt nữa, vâng, chỉ suýt nữa là tôi xuống Thủy cung. Trân trọng hỏi thăm sức khỏa hạm trưởng.
Giọng nói ở hàng không mẫu hạm vẵng lên:
- A lô, Bạch xà. Đây là ZZ... Thật đáng tiếc... Yêu cầu cho biết vị trí.
Văn Bình đáp:
- Tôi đang bay về phía các bạn. Hướng 47. Tốc độ 600 dặm. Độ cao 3.000 bộ. Tôi xin phép và chỉ thị được đáp xuống. Hết [15].
- ZZ gọi Bạch xà. Chúng tôi đã nhìn ra bạn.
Im lặng một lát. Tứ phía, không gian mênh mông nhuộm nắng vàng. Bên dưới, mặt biển xanh biếc. Lòng Văn Bình lâng lâng. Chàng quên bẵng, cách đây mấy phút, thần Chết đã tới bên chàng trong gang tấc. Tâm trí chàng hướng về Nguyệt Hằng.
- A lô, a lô...
Giọng nói từ hàng không mẫu hạm lại dội vào tay chàng:
- A lô, Bạch xà. Bạn có thể đáp xuống [16]. QFF: 1.000 miliba [17]. Gió 35°, 20 gút. Hạ xuống 1.000 bộ. Tốc độ tối thiểu. Hướng 360.
Văn Bình thi hành đúng chỉ thị của phòng kiểm soát.
- A lô, Bạch xà gọi ZZ. Tôi đã xuống độ cao 1.000 bộ, tốc độ tối thiểu, hướng 360, hết.
- ZZ gọi Bạch xà. Giữ hướng 360 đúng 60 giây, rồi lái qua hướng 270. Thả bánh xe xuống. Giữ nguyên tốc độ và độ cao. Sau cùng, lái vòng 180 độ.
- Bạch xà gọi ZZ: Bánh xe đã thả xuống. Tôi đang hướng về phi đạo. Hết.
- ZZ gọi Bạch xà: bạn đã thi hành đúng.Giớ đây, bạn hảy đáp xuống an toàn. Thân ái, chúc bạn may mắn.
Trên sân hàng không mẫu hạm, Văn Bình thấy rõ một đường vàng lớn, chạy theo chiều dọc. Đường vàng này làm đích cho phi cơ hạ cánh. Về chiều cao, chàng sẽ dựa vào “kính sáng” [18].
Chiếc Crusader dưới bàn tay khéo léo, già dặn của Văn Bình hạ cánh êm ru. Chàng vừa nhảy xuống thì hạm trưởng đã nghiên đầu chào thân mật:
- Hân hạnh được gặp đại tá. Một lần nữa, tôi thành thật xin lỗi.
Văn Bình mỉm cười:
- Đúng ra, tôi mới có bổn phận xin lỗi. Vì tôi cất cánh không kịp báo trước.
Triệu Dung bắt tay chàng, vẻ mặt lầm lì. Văn Bình ghé tai vào bạn, giọng băn khoăng:
- Có chuyện quan trọng phải không?
Triệu Dung gật đầu:
- Phải. Nguyệt Hằng.
Văn Bình hốt hoảng:
- Nàng bị ám sát?
- Không.
- Nàng mất tích?
- Cũng không.
- Vậy thì nàng lâm bịnh nặng. Khổ quá, anh ỡm ờ mãi. Không chết vì hỏa tiễn thì lại chết vì thái độ nửa mạc nửa mỡ của anh.
- Nàng đang khóc trong ca-bin.
- Trời ơi, tưởng hàng không mẫu hạm sắp đám rồi.. Tại sao Nguyệt Hằng khóc?
- Nàng tưởng anh tan xác dưới biển.
- Tại sao nàng không ra đón?
- Anh quên rằng trên pháo đài ZZ này toàn đàn ông như anh và tôi. Nàng là phụ nữ duy nhất và phải cải nam trang. Vì vậy, ra ngoài này bất tiện. Công cuộc thụ huấn của nàng rất tiến bộ.
- Bao giờ tôi lên đường?
- Nay hay mai không biết chừng. Dầu sao, cũng còn đợi sự xác nhận của ông Hoàng.
- Kỳ quặc ghê. Nha Trang có căn cứ huấn luyện người nhái, mà ông cụ lại bắt tôi mò ra tận biển khơi, trên pháo đài phải gió này.
- Anh phản đối có lý, song mới có lý một nửa. Nha Trang có căn cứ huấn luyện người nhái, nhưng kh&ocm trưởng đáp:
- Hồi mới nhận chức chỉ huy trên mẫu hạm này, tôi cũng thắc mắc như anh. Những con toán khó khăn và phiền toái nhất, bộ óc IBM đặc biệt này chỉ giải đáp trong vòng 30 giây là chậm nhất. Chẳng qua, chúng phải chờ 5 phút là vì biện pháp trừng phạt. Máy điện tử trừng phạt 5 phút đứng mỏi chân ngoài cửa để từ đây trở đi khỏi táy máy. Đúng hơn, công ty chế tạo đã đạt ra lối trừng phạt lạ lùng này.
Văn Bình lại hỏi:
- Hệ thống ZBER là hệ thống bắn đạn thuốc mê, phải không anh?
Hạm trưởng gật đầu;
- Phải. Như anh đã biết. Z là tên của pháo đài nổi. B là tên khu vực trên tàu. Vòn ER là tên dụng cụ. Dụng cụ phòng thủ đều bắt đầu bằng chử E. Như ER là súng bắn đạn thuốc mê, ES là đại bác bắn đạn sa mù mỗi khi muốn ngụy trang mẫu hạm, không cho phi cơ lạ bay ngang qua, và lén chụp hình. Và như EQ là súng bắn tia laser. À, tôi quên chưa báo anh biết mẫu hạm này là con tàu thứ nhất trên thế giới được trang bị súng bắn tia laser. Tuy súng laser còn ở trong thời kỳ thí nghiệm, phải chờ nhiều năm nữa mới được hoàn bị, nó cũng đã là một vũ khí lợi hại. Nó co thể xuyên qua thân phi cơ, một cách quá dễ dàng như lưỡi dao đâm vào bơ vậy. Phi cơ chỉ bị tia laser xuyên qua một lần là đủ rơi xuống rồi, không cần phải sử dụng đại bác phòng không hoặc khu trục cơ phải cất cánh để tham dự không chiến nữa.
Cửa ca-bin reo lên một âm thanh êm ái rồi mở ra. Văn Bình có cảm giác như mùi thơm da thịt của Như Luyến đang thoang thoảng đâu đây.
Là ngươi đàn ông giàu kinh nghiệm, chàng đã biết phân biệt giữa hàng trăm mùi hương da thịt khác nhau. Thật vậy, đàn bà, nhất là đàn bà đẹp, cũng như bông hoa - vả lại, nhà thơ muôn thuở cũng đã ví đàn bà với bông hoa biết nói kia mà... đều có hương vị riêng. Nếu hoa thược dược thơm hắc, hoa quỳnh thơm lan man, hoa lê-dơn thơm kín hở, thì đàn bà cũng vậy, có những làn da thơm như suốt đời sức nước hoa đắt tiền, như vừa ở bồn tắm sửa tươi bước ra, như thoa xà-bông quế... Sau khi tắm, mùi thơm giai nhân mới có sắc thái độc đáo, có người thơm quyến rũ, như cơ thể toàn là phấn Elizabeth Arden, ngửi phải là muốn ôm chầm lấy, ngĩ đến cảnh thần tiên phản phất mùi rượu Uýt-ky trong hộp đêm thượng lưu thoát y vũ, nhưng lại có người chỉ thơm nhẹ nhỏm, thơm dịu dàng, thơm e lệ, trên mình như có mùi kẹo chuối, mùi va-ni loãng, hoặc mùi bạc hà... và phần nhiều mùi thơm khác thường này chỉ xuất hiện trên làn da trinh nữ, tâm hồn và thể xác còn trong sạch, tinh khiết như tờ giấy hoa tiên ngày Tết chưa viết chữ.
Mùi thơm của da thịt Như Luyến, Văn Bình không thể nào quên được, dầu ở chân trời góc biển, hoặc dầu thời gian đã biến chàng thành ông già lụ khụ. Thật vậy, Như Luyến đã gieo vào lòng chàng rất nhiều kỷ niệm sâu xa. Đàn bà một con thường đẹp nổi tiếng, Như Luyến lại đẹp một cách xuất phàm. Hơn nữa, nàng lại am tường bí quyết tạo lập hạnh phúc lứa đôi. Vì dầu sao, nàng đã có hai đời chồng, Túc Lăng và Đoàn Trung, cả hai đều là nhà bác học, mê mải chai lọ trong phòng thí nghiệm mà xao lãng báu vật nhan sắt, hoặc thiếu bản lãnh để làm chủ kho tàng vệ nữ, độc nhất vô nhị...
Văn Bình muốn dừng lại trên ngưỡng cửa để hít hương thơm kỳ dị này vào buồng phổi.
Nhưng chàng phải vẹo người sang bên. Một bóng đen từ trong phòng tối lao vút ra một cách nguy hiểm.
Triệu Dung thét lên:
- Văn Bình.
Song Văn Bình đã kịp thời tránh được đòn thứ nhất. Nhưng đòn thứ hai đã ào tới.
Trước đó một lát, ông Hoàng, Tổng giám đốc Mật vụ, đang trên đường từ trụ sở Công ty điện tử tới trường bay Tân Sơn Nhất.
Như mọi lần, xe hơi của ông vẫn là chiếc Ciroën 15 ngựa, cà rịch, cà tang, sơn tróc lung tung, riềm đen che kín kính sau, bánh xe lấm bùn bê bết, không có hông trắng sang trọng, và nệm xe cũng không lót vải trắng, như các xe hòm đen khác trong thành phố.
Phải là người trong nghề mới biết sự tồi tàn kia chỉ là bề ngoài ngụy trang. Vì chiếc Citroën cổ lỗ sĩ ấy được gắn động cơ đặc biệt. Đối vời cộng sự viên thân cận như Nguyên Hương, Lê Diệp và Văn Bình, thì chiếc Citroën của ông già lẩm cẩm vừa được tối tân hóa và trẻ trung hóa.
Động cơ của nó không còn là loại ọc ạch ngày xưa từ thời tiền chiến, mà là của loại DS-21 vừa được chế tạo tại Pháp và được giới chơi xe trên thế giới coi là thần diệu. Máy DS-21 kiểu Prestige đã chạy nhanh hơn DS-21 thường, mặc dầu với hơn 2 ngàn phân khối và 12 mã lực, ban chuyên mon của Sở lại nối thêm bình xăng đăc biệt, sửa lại bơm xắng, xút-báp và ống sẹt-măng, kết quả là tốt độ tối đa của xe DS-21 là 175 cây số giờ đã vọt tơí 220; nghĩa là hơn xe đua Porsche, và không kém thần mã cơ khí Ferrari, báu vật trong làng xe qua quốc tế tân tiến.
Hồi còn trẻ, ông Hoàng mê tốc lực cũng như Văn Binh mê đàn bà đẹp vậy. Nhưng ngày nay, ông không còn trẻ nữa. Ông muốn xe riêng của ông ngốn đường kinh khủng, không phải vì trong trái tim đang còn máu say tốc độ sùng sục, mà chính vì những đòi hỏi gắt gao về an ninh. Phàm địch muốn ám sát ông bằng lựu đạn hoặc bằng súng, họ phảo tính toán tốc độ xe hơi, và ông cần đánh lừa họ. Mặt khác, khi lâm sự tài xế chỉ cần đạp hết chân ga là ít có xe hơi nào ở Việt Nam theo kịp.
Vậy mà cách đây không lâu, một chiếc xe Fiat mui trần mảnh khảnh đã theo kịp và xả đạn qua cửa kính. Đạn của họ thuộc loại đặc biệt, có thể xuyên qua thép chiến xa, nên suýt nữa, nếu tài xế phản ứng chậm trễ một phần trăm giây đồng hồ và kém kinh nghiệm thì ông Tổng giám đốc đã ra người thiên cổ.
Hôm ấy, ông đang từ Bình Dương về, đường buổi trưa nắng chang chang, vắng tanh, vắng ngắt. Qua khút vòng, biết bị rược theo, tài xế xả hết ga. Song chỉ trong khoảnh khắc, chiếc xe Fiat đã bám sát và, tacata, tacata... loạt đạn gieo tan tóc đầu tiên được bắn ra.
Tài xế quẹo tay lái sang bên, rồi mở bình xăng phụ, chiếc xe hòm cũ kỹ chồm lên. Trong khi ấy, Lê Diệp mở kính xe, chĩa mùi súng ra ngoài. Chàng chỉ cần một băn đạn tiểu liên là triệt hạ được xe ám sát.
Đạn trúng hai bánh trước, chiếc Fiat mui trần loạng choạng giữa đường lộ rồi đâm sầm vào góc me, gây ra đám cháy. Ba người trên xe đều bị chết thiêu. Đúng ra, Lê Diệp đã thả thêm lựu đạn vào xe cho họ chóng chết. Sau này, nhân viên chuyên môn nghiên cứu máy xe Fiat thì được biết nó không phải là động cơ xe Fiat 1.500 phân khối thường mà là loại Dino-Ferrari. Từ đó, ông Tổng giám đốc gia tăng thận trọng, và dành mối quan tâm đặc biệt với xe hơi, mỗi khi công xuất [2].
Xe Citroën đã tới Tân Sơn Nhất.
Lê Diệp lái chiếc Peugeot ọp ẹp mở đường đã ngóac tay ra hiệu cho người lính gát cổng rạt sang bên. Cũng vì phương tiện an ninh, ông Hoàng ít vào sân bay bằng ngõ trước, hoặc bằng cửa VIP bên trái, dành cho yếu nhân. Ông thường vào cổng hông hoặc cổng Phi Long.
Trong chớp mắt, tài xế đã tới phi đạo. Chiếc phi cơ trắng của hải quân đã chờ sẵn.
Đột nhiên, chuông điện thoại siêu tần số reo lên. Xe hơi đậu lại, vệ sĩ mở cửa mời ông Hoàng xuống.
Song lời báo cáo trong điện thoại đã làm ông Hoàng thay đổi ý kiến. Người báo cáo là Nguyên Hương. Điệm đàm vô tuyền giữa ông Hoàng và trung tâm Nguyễn Huệ dùng một tần số riêng, không cơ quan nào biết, mặt khác lại có dụng cụ điện tử phá âm, khiến người ngoài cuộc, ngay cà đối phương được trang bị máy móc tân tiến, cũng không tài nào nghe nổi [3].
Lê Diệp đã tới bên cửa xe. Chàng mặc sơ-mi bỏ ngoài quần, thắt lưng hơi cợm, chứng tỏ túi dao lá liễu bá phát bá trúng với tài nghệ như Dưỡng Do Cơ ngày xưa vẫn kè kè trong người chàng.
Chàng thò đầu vào:
- Mời ông đi ngay mới kịp.
Ông Tổng giám đốc khoát tay:
- Anh nói với phi hành đoàn là tôi không đi nữa.
Đã quen với những thay đổi đột ngột giờ chót trong nghề, nhất là
đối với ông Hoàng, nên Lê Diệp không tỏ vẻ sửng sốt - dầu chỉ là sửng sốt hợp lý - và cũng không hỏi lại. Chàng vâng một tiếng ngắn rồi bước rảo vế phía phi cơ.
Giọng báo cáo của Nguyên Hương qua điện thoại siêu tần số vẫn thanh thót đều đặn:
- Thưa, họ đã phối kiểm tin tức kỹ lưỡng. Phòng thí nghiệm hàn học của RU vừa được di chuyển đến nơi khác, sau khi một điệp viên MI-6 đột nhập vào cấm khu và bị bắt giữ.
- Di chuyển tới đâu?
- Thưa, hiện thời chưa có tin tức rõ rệt. Họ xin ta một thời hạn tối thiểu là một tuần, đúng một tuần, kể từ 0 giờ hôm nay. Có thể họ sẽ khám phá ra trước thời hạn và sẽ cho ta biết.
- Tôi không tin...Rầy rà thật. Hành động vụng về và nông nổi của MI-6 đã làm hỏng kế hoạch của ta, sau bao nhiêu ngày tháng chuẩn bị, phiền nhất là ta mất cơ hội hãn hữu kiếm tiền.
- Thưa, dầu muốn, dầu không, đi ngay cũng không được nữa. Vì Nguyệt Hằng vừa bị giải phẫu, y sĩ trên pháo đài ZZ cho biết nàng phải dưỡng sức ít nhất một tuần lễ. Nếu ông không muốn đình hoãn, tôi xin báo tin tức thời cho hạm trưởng...
- Không. Công viêc ở nhà còn bề bộn kinh khủng. Tôi cần gặp mặt để dặn dò lần cuối. Nhưng như thế này thì Văn Bình vẫn chưa thể lên đường được. Này...
- Dạ.
- Điện ngay cho Triệu Dung, nói là tôiúp anh sống hàng ngày dưới nước, khi cần có thể biến thành tàu ngầm tí hon, phóng với tốc độ mấy chục cây số dưới đáy biển.
- Như Luyến được tin tôi đến chưa?
- Rồi. Như tôi đã nói hồi nãy, nàng đang ở đảo Hoàng Sa. Tuần dương hạm giao liên cho biết phi cơ chở Như Luyến và một số nhà bác học khác đã cất cánh. Chắc chỉ độ 10, 15 phút nữa thì phi cơ đáp xuống. Anh tốt số thật! Một lúc có hai người yêu, hai đệ nhất giai nhân bên cạnh. Chả bù với tôi. Nữ nhân viên Biệt vụ chê tôi già, anh ạ.
- Họ đùa đấy. Anh còn trẻ lắm.
- Còn trẻ gì nữa. Thấm thoát đã hai thứ tóc trên đầu rồi. Có lẽ tôi phải sống gần anh một thời gian. Vì thấy anh vô tư lự, tôi sẽ có thể bớt già được mươi tuổi.
Nghe bạn nhắc đến tuổi tác, Văn Bình sa sầm nét mặt. Thật ra, chàng cũng không còn là cậu thanh niên đôi mươi của tuổi vàng bay nhảy nữa.
Triệu Dung vùng cười lớn:
- Ồ, chúng mình tâm sự vụn với nhau như đàn bà. Thôi, để tôi dẫn anh đến ca-bin của Nguyệt Hằng. Có lẽ nàng đã khóc hết nước mắt.
Nhưng tiếng cười vụt tắt. Văn Bình cũng khựng người khi nhìn thấy hạm trưởng hấp tấp từ đầu hành lang tiến tới, với một người đàn ông đứng tuổi, xách nơi tay cái cặp da đen. Thoáng trông chữ thập đỏ trên cặp da và trên mũ, Văn Bình biết người này là y sĩ của mẫu hạm.
Linh tính báo cho chàng biết một chuyện bất thường. Chẳng nói, chẳng rằng, hạm trưởng lấy tay chỉ về phía ca-bin của Nguyệt Hằng.
Xô cửa vào, Văn Bình tê tái trong giây phút, Nguyệt Hằng đang nằm quằn quại trên giường sắt, bồ hôi ướt đầy khuông mặt tái mét. Có lẽ nàng đang chống cự với cơn đau đớn cực độ.
Văn Bình hỏi hạm trưởng:
- Thưa, nàng...
Y sĩ gạt phắt:
- Phiền ông chờ một lát.
Lệ thuờng, Văn Bình rất ghét lối ra lịnh cứng ngắc trong quân ngũ. Chàng cũng rất ghét cách phát biểu trịch thượng của kẻ muốn lên mặt quan trọng. Song lúc này, chàng bỗng cảm thấy tầm thường và nhỏ bé. Chàng nín hơi thở theo dõi phản ứng của y sĩ.
Nguyệt Hằng nằm ngửa, ngước mắt nhìn Văn Bình. Chàng đọc thấy tình cảm chan chứa trong đôi mắt đen láy tuyệt đẹp của nàng. Chàng đinh ninh sau thời gian xa cách, buổi gặp gỡ này sẽ là cơ hội cho hai người rủ nhau vào cõi mộng thần tiên. Ngờ đâu, chàng vừa thoát chết trên không gian thì Nguyệt Hằng lại lăn lộn trên giường bịnh.
Văn Bình nắm chặt bàn tay lạnh ngắt của nàng. Nàng mỉm cười nhè nhẹ. Nụ cười nửa tha thiết, nửa kiêu ngạo cố hữu người nữ điệp viên lỗi lạc nhưng đa tình của Smerch. Nụ cười trong đêm đầu tiên hai người chạm trán nhau trong căn phòng khách sạn gần chợ Bến Thành [20].
Y sĩ quay lại nói với hạm trưởng:
- Bịnh nhân cần được giải phẫu ngay. Tôi sẽ ra lịnh cho nhân viên khiêng băng-ca đến, đưa nàng tại phòng mỗ.
Hạm trưởng ngần ngừ một giây rồi nói:
- Thủy thủ không biết rằng bịnh nhân là đàn bà. Vì lý do đặc biệt, nàng phải cải nam trang. Bởi vậy, tôi muốn cuộc giải phẫu được thực hiện một cách kín đáo. Nếu cần, chúng ta sẽ đưa nàng lại phòng mổ.
Văn Bình nắm tay áo của y sĩ, khẩn khoảng:
- Thưa, nàng đau bịnh gì?
Y sĩ nhìn chàng bằng cặp mắt khó hiểu:
- Theo nội quy trên mẫu hạm ZZ, tôi không được quyền tiết lộ, chứng bịnh của thủy thủ đoàn và quan khách...
- Tôi là...
- Vô ích. Hạm trưởng cũng không thể hỏi tôi, huống hồ là ông. Mọi việc xảy ra ờ đây đều là bí mật quân sự. Phiền ông lên boong, đổi gió cho khỏe khoắn. Hạm trưởng và tôi lo liệu đủ rồi.
Máu nóng sôi trào, Văn Bình tiến lên một bước. Hiểu ý bạn, Triệu Dung hích cùi tay:
- Thôi, chúng mình ra ngoài.
Văn Bình thở dài, theo Triệu Dung ra ngoài hành lang. Trong ca-bin, Nguyệt Hằng chống tay ngồi dậy rồi ngà vật xuống nệm, nằm thiêm thiếp.
Bầu trời bỗng xanh ngắt và sang rực một cách dị thường.
Văn Bình vựa vào lan can mẫu hạm nhìn ra khơi mênh mông. Chàng có cảm tưởng đang trèo lên đỉnh núi cao ngất, tâm thần lâng lâng. Lòng chàng se lại khi thấy Nguyệt Hằng bất động trên giường, sửa soạn chịu giải phẫu. Song chàng chỉ buồn thoáng qua, vì cho tai họa này là định mạng, định mạng trớ trêu và tàn nhẫn của nghề điệp báo đầy nguy hiểm.
Đứng bên, Triệu Dung nhìn đồng hồ tay:
- Như Luyến sắp về đến nơi rồi.
Văn Bình vươn vai, như muốn thu hết dưỡng khí mằn mặn của biển cả bao la vào lồng ngực vạm vỡ. Ở chân trời phía đông chói lòa ánh nắng, một chấm sáng vừa hiện ra. Chấm sáng lớn dần, lớn dần mãi, và sau cùng biến thành một chiếc phi cơ vận tải đen sì.
Chàng bảo bạn:
- Phi cơ Convair R4 Y-2 phải không anh [21]?
Triệu Dung gật đầu:
- Anh nhớ dai thật. Đúng là Convair. Tôi tưởng lâu ngày sống trên mặt đất, anh không còn nhớ tên máy bay nữa. Hồi chúng mình vượt eo biển từ Luân đôn sang Pháp, phi cơ cũng thuộc loại Convair. Gớm, thằng cha phi công lái thật cừ khôi. Nếu không hôm ấy, chúng mình đã rớt xuống Đại Tây Dương, làm mồi ngon cho cá. Từ bấy đến nay, tôi thù loại Convair, không bao giờ chịu leo lên nữa.
Văn Bình nhíu lông mày:
- Ừ nhỉ, sau chuyến chết hụt ấy, chúng mình đã giao ước với nhau là không bao giờ chịu leo lên phi cơ Convair vì sợ sui. Tại sao anh không dặn Như Luyến?
- Dặn gì?
- Dặn nàng đổi phi cơ khác.
- Trời ơi! Chuyện hụt chết trên biển xảy ra hơn 10 năm rồi. Và lại, khi ấy gián điệp quốc xã lên gài bom nổ chậm trong phòng phi hành nên gây ra tai nạn, chứ phi cơ Convair có tội gì đâu. Hẳn anh đã biết nó là loại vận tải an toàn, phương chi kỹ nghệ chế tạo phi cơ đã tiến triển vượt bực từ ngày chúng mình gặp nạn trong Thế chiến đến nay.
Văn Bình không trả lời. Nếu tranh luận với Triệu Dung, chàng phải kiên nhẫn, vì Triệu Dung là người có biệt tài thao thao bất tuyệt hàng giờ, có khi hàng ngày. Thời hoạt động bên nhau trong tình báo OSS, nhiều khi rỗi rãi, hai người kiếm chuyện bàn cãi, và bao giờ Triệu Dung cũng thắng, phần vì kiến thức căn bản rộng rãi, phần khác vì có đức tính kiên nhẫn mà Văn Bình không bì kịp.
Huống hồ lúc này tâm thần Văn Bình lại nát như tương. Không hiểu sao trời càng đẹp bao nhiêu, chàng lại linh tính nhiều chuyện bất thường byấ nhiêu.
Trước mắt chàng, chấm đen đã hiện thành con chim sặt hùng hổ, động cơ nổ ròn, đang lượn vòng trên pháo đài ZZ.
Giữa phòng kiểm soát của mẫu hạm và phi công chiếc Convair, cuộc đàm thoại thường lệ đã diễn ra.
- A lô, ZZ gọi Sơn ca. A lô, ZZ gọi Sơn ca... Roger... Độ cao 7, dêrô, dêrô... Gió đông, một, năm gút hết.
- A lô; Sơn ca gọi ZZ, Roger... độ cao 7, dêrô, dêrô, hết.
Văn Bình quay lại:
- Nầy anh, Như Luyến đến đây từ bao giờ?
Triệu Dung nhìn bạn, dáng điệu sửng sốt:
- Tôi đã nói một lần rồi. Hôm nay, anh làm sao ấy. Nàng hoạt động với các nhà bác học của mẫu hạm vừa đúng 15 ngày, nghĩa là hai tuần lễ...
Giọng Văn Bình tuôn ra đều đều như người mơ ngủ:
- Lạ thật, nàng đến đây làm gì?
Triệu Dung sửng sốt hơn nữa:
- Điều này, tôi cũng đã giải thích hồi nãy. Nàng đến đây để hoàn bị chiếc tiềm thủy đỉnh bỏ túi để anh xử dụng.
- À, à! Thế mà tôi quên bẵng. Tại sao ông Hoàng nói với tôi là trên pháo đài ZZ còn thí nghiệm nhiều võ khí bí mật khác nữa?
- Kể ra thì nhiều. Nhưng riêng chúng ta chỉ quan tâm đến hai loại mà thôi. Thứ nhất là tàu ngầm tí hon. Thứ hai là một loại phi cơ lên thẳng đặc biệt.
Văn Bình lẩm bẩm một mình:
- Phi cơ lên thẳng đặc biệt...
Bỗng chàng choàng người tỉnh mộng. Phi công Convair đang lái con chim sắt thẳng tới vẹt vàng trên sân tàu, chuẩn bị đáp xuống.
- Alô, Sơn ca gọi ZZ... Gió hậu, yêu cầu trả lời.
- Roger.
- Tiếng Roger vừa rời kh ỏi máy vi âm của phòng kiểm soát, phi công trên không phận chưa nghe kịp, hoặc chỉ mới nghe mà chưa có phản ứng thì toàn thể hàng không mẫu hạm, toàn thể khu biển, toàn thể ngưởi và vật đều khựng lên trong giây phút.
- Ầm, ầm...
- Ầm, ầm...
Một tiếng nổ kinh thiên động địa nổi lên. Văn Bình cảm thấy như nhĩ tay bị xé nát, tứ chi run lẩy bẩy. Chàng đứng chôn chân trên boong tàu bằng thép.Một vùng sáng đỏ ói vụt lên trời, rồi tỏa rộng. Những mảnh sắt vụng bay lả tả. Văn Bình vội nằm rạp xuống. Suýt nữa, chàng bị trúng vào vai. Triệu Dung cũng phải thi thố nghệ thuật tránh né nhu đạo mới thoát chết trong đường tơ, kẽ tóc.Vì trong tiếng nổ, chiếc vận tải cơ Convair bị vỡ tan tành, đồ đạt, kim khí trên phi cơ tung tóe như sao sa..
Văn Bình thét lên:
- Như Luyến!
Rồi chàng phi thân lại nơi máy bay gặp nạn. Chàng không ngờ rằng Triệu Dung đã rình sẵn từ khi tiếng nổ kinh hồn phát ra. Hơn ai hết, là người bạn nối khố, nhiều năm tháng sống chung trong nguy hiểm nghề nghiệp, Triệu Dung đã biết tính bạn.
Đôi khi tình yêu làm Văn Bình mù quáng. Cách đây không lâu, chàng suýt tyle='height:10px;'>
- Thế cũng may. Tôi tưởng nó đã ăn gỏi anh. Loại chow-chow này dữ kinh khủng. Nó lại được tập luyện, nên cắn ai là phải gây trọng thương.
Văn Bình lại cười:
- Cũng chính tôi là huần luyện viên của nó. Nó thông minh đáo để, chỉ học một tuần là biết cắn áo và cắn cổ người lạ. Nhờ nó, Như Luyến đậu xe ngoài đường không cần khóa xe và nhất là ban đêm, không cần rút công-tắc. Mấy tay anh, chị bén mảng đến xe đua của nàng, định mượn chơi, bị nó làm cho một mẻ khiếp vía, vắt giò lên cổ mà chạy. Ly kỳ hơn nữa là có lần nàng về khuya, bị du đãng chận đường giật ví, conTiti rượt theo lấy lại và cắn toang quần áo. Nếu không có xe cảnh sát đậu xe ở đầu đường can thiệp, bắt tên giật sắc về bót thì chắc chắn đêm ấy, hắn trần như nhọng.
ConTiti như nghe được tiếng người, nghếch mõm và tai ra, vẻ chăm chú. Thỉnh thoảng, nó lại gật đầu, vẫy đưôi thành hình vòng tròn.
Hạm trưởng mở đèn trong phòng.
Đột nhiên, Văn Bình rợn người. Như Luyến bắng xương, bằng thịt dường như vẫn ở đâu đây. Lòng chàng rạo rực nỗi buồn vô hạn. Chàng chưa tái ngộ sau bao ngày tháng xa cách thì nàng đã chết. Chết thành than, rải rắc trên mặt biển vô tình...
Nếu không có hai người đàn ông ở bên, Văn Bình đã rơm rớm nước mắt. Trong cuộc sống khô khan tuyệt đối, nhiều khi chàng muốn trở lại những ngày hoa niên, để được tư do than thở cảnh đời ngang trái bằng giọt lệ ồn ào.
Tuy là ca-bin mẫu hạm, phòng của Như Luyến cũng khá rộng rãi và trang trí tươm tất. Bàn ghế bằng sắt đều sơn một màu, màu xanh quen thuộc của màu biển, song vẫn có vẻ kiểu cách, tươi trẻ, nhờ những con búp-bê Nhật Bản và những chiếc xe hơi nhỏ xíu bằng nhựa ngũ sắc được đặt ở hầu hết khắp nơi.
Giữa phòng chễm chệ bức hình thằng Lập. Chắc là ảnh mới, vì thằng Lập đã lớn vượt lên, nét mặt bầu bĩnh, rí rõm, cái rí rõm cố hữu của mẹ.
Trên bản giấy kê gần góc, Văn Bình thấy lồ lộ chân dung bản thân của Như Luyến, gọn ghẽ và hoa mỹ. Cái khuông bằng vàng tây cầu kỳ và đắt tiền này, chàng cũng tự tay mua cho nàng ở Hồng-Kông, cùng lúc với con chó chow-chow.
Hồi ấy, cầm cái khuôn, Như Luyến ứa nước mắt, rồi hôn lấy, hôn để. Tự dưng, nàng nhớ lại thân phận riêng của nàng, thân phận chung của hai người. Nàng đã trải qua hai đời chồng, chồng trước chết, chồng sau ly dị, thiên hạ sẽ dị nghị ghê gớm nếu nàng tái giá lần nữa. Dầu sao, Văn Bình cũng còn độc thân. Chàng vẫn có hàng tá người yêu, chàng lại có con với Quỳnh Loan, nhưng trong bộ đời, chàng là trai tân, chàng lại khôi ngô như minh tinh màn ảnh quốc tế, cường tráng như lực sĩ quán quân thế vận, võ nghệ tuyệt luân như thần tượng nhu đạo, và thông minh như nhà bác học bách khoa. Nghĩa là Văn Bình hội đủ điều kiện cần thiết để lọt vào mắt xanh của các cô gái đang xuân.
Trên thực tế, các cô gái đang xuân đã bám sát Văn Bình như hình với bóng. Tuy vậy, chàng vẫn yêu nàng. Như Luyến khóc vì sung sướng được gần gũi ông hoàng đẹp trai mà phái yếu trên thế giới hăng mơ ước, song phần nào, nàng khóc vì biết trước định mạng trớ trêu và tàn nhẫn không cho phép hai người thành vợ, thành chồng.
Quên bẵng thực tại, Văn Bình nhấc cái khuôn vàng lên ngắm nghía, cũng như Như Luyến, nhiều tháng trước, khi chàng mang quà về biếu nàng. Mắt chàng mờ hẳn đi. Cũng may, hạm trưởng còn bận giới thiệu nên không lưu tâm tới sự thay đổi ủy mị của chàng.
Giọng hạm trưởng vẵng vào tai Văn Bình, mơ hồ như từ một cõi trời xa xăm:
- Đây là phòng khách, lẫn phòng thí nghiệm. Phòng ngủ ở phía sau, tuy nhỏ hẹp nhưng tiện nghi, đây đủ không kém khách sạn sang trọng 50 đô-la một đêm ở Nữu Ước.
Rồi tiếng Triệu Dung:
- Chúng tôi muốn lục lọi giấy tờ một lát. Hạm trưởng có chìa khóa không?
Hạm trưởng đáp:
- Có. Cứ gọi tôi bằng anh cho thân mật.Theo tôi, ở bàn giấy không có giấy tờ quan trọng. Mọi tài liệu nghiên cứu đều được cát trong két sắt. Anh chờ tôi một phút.
Hạm trưởng tiến lại góc phòng, quì xuống, tra chìa vào ổ khóa gắn vào vách thép. Trong chớp mắt, cánh cửa kim khí dầy cộm được mở ra. Như thường lệ, giấy tờ đều bề bộn. Như Luyến có tật thiếu ngăn nắp, hoàn toàn trái ngược với thiên năng nữ gìới. Nàng cho rằng sự ngăn nắp làm cho đàn bà mất bay bướm và mơ mộng thì đàn bà sẽ trở thành đàn ông, khô khan và tàn nhẫn.
Triệu Dung lấy trong két ra một tập hồ sơ bìa đỏ, bên ngoài đề hai chữ tối mầy và phía dưới là chữ số:
Z B-605
Hạm trưởng cắt nghĩa:
- Như anh đã biết, ZB là khu vực này, còn 605 là tên kế hoạch thí nghiệm VTOL.
Văn Bình hỏi lại:
- VTOL, phi cơ lên thẳng đấy ư?
Chàng hỏi lại tưởng nghe lầm trong cơn bàng hoàng, nửa mê, nửa tỉnh. Song hạm trưởng đã gật đầu:
- Phải. Loại phi cơ lên thẳng đặc biệt.
- Hoa Kỳ và Nga Sô đã chế tạo phi cơ lên thẳng từ năm năm nay rồi. Theo tôi thì không có gì là đặc biệt và bí mật cả.
Rồi ngoảnh sang Triệu Dung:
-Anh nghĩ sao?
Triệu Dung lật một tờ giấy, giọng bình thảng:
- Tôi cũng vậy. Tuy nhiên, tôi chắc loại VTOL này còn chứa đựng nhiều chi tiết độc đáo nên mới cần được thí nghiệm ở đây.
Hạm trưởng tiếp lời:
- Anh nói đúng. Đồng ý là phi cơ lên thẳng đã được chế tạo từ lâu, song đó không phải là lý do để nó không còn hấp dẫn nữa. Động cơ pít tông xe hơi được lưu hành từ hơn nữa thế kỷ, vậy mà đến nay vẫn chưa được gọi là hoàn bị, và các công ty chế tạo vẫn giữ bí mật tuyệt đối trước khi sản xuất máy mới. Vả lại, theo chỗ tôi biết thì phi cơ lên thẳng có hai loại, STOL [5] và VTOL [6], Loại STOL mới được chế tạo từ 5 năm nay, còn VTOL hoàn toàn chưa ra khỏi giai đoạn thí nghiệm. Và ngay cả loại STOL nữa... bằng chứng là hiện nay chưa quốc gia nào trên thế giới dùng phi cơ STOL trong việc chuyển vận hàng hóa cũng như hoạt động quân sự.
Văn Bình nín lặng.
Số vốn khoa học của chàng chưa đũ phong phú để phản đối lý luận của hạm trưởng. Hơn nữa, hạm trưởng đã nói đúng. Hơn một lần, Văn Bình đã thấy tận mắt phi cơ lên thẳng ở Hoa Kỳ hoặc trong căn cứ bí mật ở bên kia bức màn sắt, song đó chỉ là dụng cụ thí nghiệm.
Hạm trưởng lại tiếp:
- Nếu hai anh cho phép, tôi xin nói rõ thêm một chút nữa. Loại STOL hiện hành là McDonnell 188 [7]và McDonnell ST20, có thể chở từ 30 đến 60 hành khách, cất cánh và đáp xuống trên một phi đạo rất ngắn từ 100 đến 150 mét là cùng. Hiện không quân Hoàng gia Anh quốc đã đặt mua 100 chiếc khu trục cơ Hawker-Siddeley P-1127, được chế tạo theo tiêu chuẩn tương tự.
Song về địa hạt lên thẳng như trực thăng, tất cả đều còn ở trong phòng thí nghiệm. Mãi chờ đến cuối năm 1966, lục quân Hoa Kỳ mới ký 6 khế ước nghiên cứu phi cơ VTOL, khả dĩ chở được 3 tấn binh sĩ và quân cụ. Theo các khế ước này thì sớm nhất là 1972, 1973, chiếc phi cơ lên thẳng thứ nhất sẽ được hoàn thành.
Còn loại VTOL, được thí nghiệm trên pháo đài ZZ là của CIA, hợp lực với các cơ quan điệp báo bạn. Có thể nói rằng nó sắp được hoàn thành. Hai anh thấy quan trọng chưa? Trong khi các công ty Hoa Kỳ chờ đến 1972 thì chúng ta đã đến thời kỳ thí nghiệm cuối cùng. Việc sản xuất phi cơ lên thẳng VTOL lúc này sẽ ảnh hưởng lớn lao đến chiến trường du kích địa phương. Tuy nhiên, điều làm phi cơ VTOL được coi là vô cùng quan trọng là một số võ khí và dụng cụ điện tử bí mật mà nó mang theo. Cũng như phi cơ, toàn thể đều đã được hoàn thành. Theo chương trình dự liệu, chỉ độ một vài tuần nữa là bác họ đoán có thể báo cáo tổng kết và các cơ xưởng có thể bắt tay vào giai đoạn sản xuất hàng loạt.
Sực nhớ ra, Văn Bình hỏi hạm trưởng:
- Chiếc VTOL thí nghiệm ở trên máy bay bị nổ hồi nãy, phải không?
- Phải.
- Nghĩa là đã bị hoàn toàn tan tành.
- Vâng. Bao công lao tan tành thành mảnh vụn. Địch vừa thành công một mẻ lớn. Không đến khi nào chúng ta mới thí nghiệm lại được nữa.
- Các nhà bác học mới chế tạo được một chiếc VTOL thì nghiệm thôi ư?
- Đúng ra thì có hai. Nhưng chiếc thứ hai còn quá thô sơ, chưa thể cất cánh được.
- Vậy anh yêu cầu mang tới đây. Tôi hy vọng sẽ giúp anh được phần nào.
Mặt hạm trưởng rực sáng:
- Ồ, té ra... Chiếc thứ hai đang ở trong kho.
Văn Bình nhún vai:
- Thế thì may lắm. Phiền anh đưa tôi lại kho.
Hạm trưởng mở cửa ca-bin. Cả ba người cùng tới thang máy xuống tầng dưới.
Một cánh cửa sắt đồ sộ được kéo ra.
Trước mặt Văn Bình là một nhà cầu rộng lớn, ba phía gắn kính dầy màu sữa đục, đứng trong có thể nhìn được ra ngoài, nhưng đứng ngoài không thể nhìn được trong.
Sừng sững giữa nhà cầu là tấm bạt sám che kính chiếc phi cơ VTOL. Không khí nhà cầu được điều hòa, tuy nhiên bồ hôi vẫn lấm chấm trên trán Văn Bình. Chàng vừa miên man nghĩ đến hoạt động thầm kín song vô cùng hữu hiệu của địch. Địch là ai, chàng chưa biết, mặc dầu chàng đã có thể ngầm đoán là RU, KGB, SMERCH. Hoặc biết đâu là một cơ quan điệp báo Tây phương, thôg chiến tranh Cao ly, không quân chiến thuật Mỹ TAC đã hạ 1.000 khu, trực cơ Mig-15 cộng sản mà chỉ tổn thất 80 Sabre F-86.
[8] Altimètre (altimeter), máy đo độ cao.
[9] Tiếng Pháp là “voile noir”.
[10] Dù B-5 là loại dù tự động, có một bộ phận tự động đặc biệt gỡ dù ra khỏi ghế, sau khi được phóng khỏi phi cơ.
[11] Về thuật Ninjitsu, xin bạn đọc Phù Tang Nổi Sóng, cùng một tác gỉa, đã sản xuất, hai cuốn trọn bộ. Còn về Thần Ảo Công, Văn Bình đã tập luyện trong thời gian thế phát quy y tại một ngôi chùa gần Vạn Tượng. Xin đọc Tia Sáng Giết Người, hai cuốn trọn bộ, đã sản xuất.
[12] Down on the deckis where you stay alive (chính ở gần mặt đất là nơi ta còn sống). Huấn luyện viên thường dặn phi công câu này khi tham dự oanh tạc ở độ thấp, và áp dụng kỹ thuật over the shoulder (ném bom qua vai). Để tránh radar, phi sông bay thấp ngang ngọn cây, rồi khi đến mục phiêu, bay vọt lên cao 2 ngàn thước, rồi thả bom, bat lên cao 2 ngàn thước nữa. Trái bom mất 55 giây mới xuống tới đất, nên phi sơ đã có thể bay ra khỏi khu vực.
[13] Trên thực tế, các danh từ chuyên môn đã được xử dụng. Tác giả cố gắng giản dị hóa để bạn đọc dễ hiểu. Xin cáo lỗi cùng bạn đọc hải và không quân.
[14] 3 giờ, tức là phía trước, bên mặt, giống như kim đồng hồ chỉ 3 giờ trên mặt đồng hồ.Không quân dùng cách này để định vị trí.
[15] Hết là Over. Hướng 47 là “cap” 47. Trên thực tế, sau khi nghe Văn Bình nói, phòng kiềm soát phải trả lời Roger, nghĩa là hiểu rồi. Nói xong thì chấm dút bằng chữ Over, nghĩa là hết rồi. Nhường cho người khác nói.
[16] Danh từ chuyên môn là clear: you are clear.
[17] QFF: áp lực phong vũ biểu ở ngang mặt biển.
[18] Kính sáng là “mirroir aux alouettes”, một dụng cụ tân tiến do người Anh phát minh, giúp phi cơ phản lực hạ xuống mẫu hạm (lệ thường, muốn hạ xuống, phải cần chuyên viên điều khiển bằng hiệu lịnh). Kính sáng gồm một cái kính cong (hình trục cắt đôi), ở giữa một giàn đèn pha nhiều màu được dùng làm đích. Kính sáng phản chiếu một điểm sáng mà phi công trên trời nhìn thấy, hoặc ở bên trên giàn đèn hoặc ở bên đưới giàn đèn làm đích, tùy theo vị trí phi cơ. Muốn đáp đúng phi đạo, hoa tiêu phải giữ cách nào làm cho điểm sáng luôn luôn ở ngang với giàn đèn pha làm đích.
“Kính sáng” được dùnh để giúp hoa tiêu ước lượng được chiều cao. Còn muốn lái thẳng vào phi đạo thì hoa tiêu dựa vào vêt dài màu vàng, dọc theo chiều dài của boong tàu.
“Kính sáng” được dùng trên các mẫu hạm có phi đạo nghiên, và có thể đạt ở bên tả hoặc bên hữu của tàu.
Một lần nữa, tác giả trân trọng xin lỗi bạn đọc nếu những giòng chú thích vẫn còn tối nghĩa, đồng thời xin lỗi những anh, em không và hải quân vì đã giản dị hóa vấn đề tới mức tối đa.
[19] Xin đọc Nữ Thần Ám Sát, đã xuất bản, để biết câu chuyện éo le gìữa Như Luyến, Quỳnh Loan và Văn Bình.
[20] Xin đọc Nữ Thần Ám Sát.
[21] Convair R4 Y-2 Tradewind nặng hai tấn rưỡi, phi hành đoàn gồm ba người, hai động cơ.
[22] Xin đọc Gián Điệp Nhị Trùng (hai quyển trọn bộ đã xuất bản).