Dịch giả: Hoàng Hữu Đản
Cuốn sách của những người Do Thái (3)

     ddy Thall mơ màng suy nghĩ. Còn một đêm nữa là nàng có thể cùng với Pierre Pillat đi thăm Tinka Neva trong nhà tù. Hôm ấy là tối thứ năm. Sau đó còn những bốn ngày nữa mới xuống tàu. Mọi thủ tục đã xong xuôi.
Trong căn nhà, các vali đã sẵn sàng. Nàng chỉ được phép mang theo một trăm kilô hành lý. Phải cho xuống tàu Adassa và Euxin một ngàn năm trăm người Do Thái. Muốn đi được người, tất nhiên phải hy sinh hành lý thôi. Max Reingold hiện còn đang ở Constantza trông coi công việc.
- Mình rất sung sướng được cứu Tinka Neva ra khỏi tù trước khi lên đường. Sau đó thì Pillat giúp đỡ cho bà. Mình để lại cho anh ấy tất cả những đồ đạc tiện nghi, tất cả những cái mình không thể mang theo.
Vừa có tiếng chuông gọi, người ta đã nghe thấy tiếng của Esther Reingold, con gái của Max, ngoài cửa.
- Ba em vừa ở Constantza về. - Cô ta nói và ngồi buông mình xuống chiếc ghế bành - Em có những tin tức mới. Em sung sướng quá. Chúng ta sẽ đi ngay ngày mai, lúc năm giờ - Cô ta nói - Ba em sai em báo cho chị. Chúng ta sẽ đi trước ngày dự kiến. Sớm được ba ngày. Kinh khủng thật. Ba nói đây là một điều may. Phía chân trời đang có dấu mây đen. Không phải chỉ ngoài khơi mà cả ở đất liền. Trong lĩnh vực chính trị, người ta dự kiến bão tố sắp sửa xảy ra. May quá. Chúng ta sắp đi!
Esther Reingold năm nay mười tám tuổi. Cô cũng muốn trở thành nghệ sĩ như Edđy Thall. Cô ôm hôn Eddy Thall.
- Em về đây, chị! Tối nay, em đi sẽ đi thăm hỏi và chào từ biệt. Em báo tin cho bạn bè em biết em sẽ đi. Chị tha lỗi cho. Em phải tạm biệt chị. Từ hôm nay trở về sau, chị em mình sẽ luôn luôn ở bên nhau, trên biển cũng như tại Palestine. Em đi thăm những bạn bè ở lại. Tất cả họ đều ghen tỵ với em đó chị ạ!
Esther cáo lui. Khi nào cũng chỉ chạy. Như lúc cô tới. Sung sướng mà!

XXII

Con tàu đi Constantza đã sẵn sàng chuyển bánh. Bên cửa sổ một buồng hạng nhì, Eddy Thall ngồi cùng Rebecca và Esther Reingold. Trời chưa sáng. Lúc này vào cuối tháng giêng. Max Reingold đang ở sân ga. ông nhìn đồng hồ: năm giờ kém năm phút.
- Tới Constantza nhớ đi nằm ngay. Tôi đã giữ trước mấy buồng ở khách sạn đối diện với tượng đài Ovide. Những căn buồng yên tĩnh dễ chịu. Hãy nghỉ ngơi. Chuyến đi không dễ dàng đâu. Israel xa lắm.
Max Reingold nhìn lên đồng hồ nhà ga rồi lại nhìn đồng hồ của mình.
- Tôi sẽ đi chuyến tàu chín giờ. Tới Constantza lúc nửa đêm.
Max Reingold có vẻ xúc động - Tôi cần phải giải quyết mọi công việc cần thiết của hôm nay.
- Max ạ! - Eddy Thall nói - Pillat năm giờ sẽ tới.
- Tôi biết. Đúng năm giờ, tôi gặp ông thẩm phán Pillat. Chúng tôi sẽ đi thăm Tinka Neva. Sẽ cho bà ta những thứ cháu dặn và phó thác bà ta cho Pillat. Ta sẽ chuyển lời của cháu xin lỗi ông ta vì đi không kịp chào từ biệt. Ta còn quên gì nữa không nhỉ?
- Không! - Eddy Thall nói - Bác không quên gì cả, Max ạ! Bác hôn Tinka hộ cháu. - Người ta loan báo tàu sắp chuyển bánh.
- Chịu khó nghỉ ngơi cả ngày nhé! - Max Reingold nói - Chuyến đi vất vả đó. Israel xa lắm.
Tàu bắt đầu lăn bánh. Qua cửa sổ toa tàu, Eddy Thall, Rebecca và Esther vẫy vẫy mùi xoa. Trên sân ga, Reingold đưa mắt trông theo. Ai nấy nước mắt đầm đìa. Và những bánh xe của con tàu như lặp đi lặp lại câu nói cuối cùng của Max Reingold: “Israel xa lắm! Xa lắm!”
Họ chỉ ngừng vẫy tay từ biệt khi không còn nhìn thấy nhau nữa và khi bánh xe con tàu đã chạy theo một nhịp độ càng ngày càng nhanh, càng mạnh. “Israelxa lắm! Israelxa lắm... xa lắm... xa... xa...!”

XXIII

Pierre Pillat nhìn đồng hồ tay của mình. Năm giờ. Anh nghĩ rằng Eddy Thall đang đợi anh để cùng nhau tới nhà giam. Anh nhìn tướng Roshu, Quốc trưởng Quốc gia Rumani. Vị tướng ngồi ở bàn giấy đang đọc bản báo cáo. Ông ngước mắt lên về phía Pierre Pillat và thấy anh đang đứng trước bàn giấy của ông.
- Cậu muốn xin phép ta đi à? - Vị tướng hỏi - Cậu không đi được. Cậu công tác ở văn phòng ta với tư cách thẩm phán quân sự. Cậu phải ở gần ta. Bao lâu cậu còn đây, cậu không có công việc nào khác. Tổ quốc trên hết!
Giọng nói của ông rắn rỏi.
- Hẹn gặp với ai? - Ông hỏi - Cậu có cuộc hẹn hò với một người đàn bà ư? Vào hồi mấy giờ?
Pierre Pillat đỏ mặt. Anh nghĩ tới Eddy Thall.
- Đúng, với một người đàn bà. Nhưng có những vấn đề quan trọng. Chúng tôi phải đi...
- Cậu không thể - Vị tướng bảo - Chỉ có Tổ quốc mới quan trọng. Gọi Aurel Popesco cho ta!
Một thanh niên da nâu, mặc đồng phục Thiên thần lửa bước vào buồng giấy của vị tướng. Y nhìn Pierre Pillat mà y không quen. Y chào vị tướng rồi đứng nghiêm chờ.
Tổ chức Thiên thần lửa chính là phong trào quốc gia đã nắm chính quyền. Trừ tướng Roshu - Quốc trưởng - và một vài tướng khác, còn thì các Bộ trưởng đều là thành viên của Thiên thần lửa.
Tướng Roshu đứng lên, tay đút túi, bước về phía Aurel Popesco.
- Anh có Mười điều răn của Chúa không, Popesco? - Vị tướng hỏi.
Ông Giám đốc sở Mật thám do dự.
- Không được giết người! - Vị tướng nói - Anh nhắc lại tôi nghe nào? Đó là lời răn của Chúa. Anh quên hết rồi, cả Mười điều răn. Trả lời đi. Anh quên cả rồi, phải không?
Tướng Roshu cầm lấy chiếc roi ngựa trên bàn và bắt đầu quất quất lên đôi ủng.
- Anh là chỉ huy. Hãy ra lệnh cho các Thiên thần lửa của anh không được chém giết. Nói với họ: đó là điều lệnh của ta, tướng Roshu, và là điều răn của Chúa: Không được chém giết. Nếu các anh không thi hành, Chúa sẽ trừng phạt. Nhưng trong lúc chờ đợi Chúa đổ sấm sét xuống đầu các anh, thì chính ta sẽ trừng trị các anh: đét vào mông đít ấy! Tất cả! Bắt đầu từ các Bộ trưởng, cho tới thằng lính cuối cùng. Ta sẽ đánh tóe máu các người ra mới thôi.
Chiếc roi ngựa của vị tướng đập mạnh lên bàn.
- Điện cho các Thiên thần lửa không được chém giết!
Giấy má rơi bay tứ tung dưới làn roi ngựa. Viên chỉ huy các Thiên thần lửa cúi xuống nhặt lên. Vị tướng ngăn ông ta lại.
- Nhặt giấy là phận sự của bọn đày tớ chứ không phải của ông, ông Giám đốc sở Mật thám!
- Thưa tướng quân, - Popesco nói - từ bốn tháng lên cầm quyền cai trị nước đến nay, chúng tôi yêu cầu Ngài thi hành Công lý. Ngài từ chối. Chúng tôi phải chuyển sang thực hành. Bắt đầu từ hôm nay, chúng tôi thôi cộng tác với Ngài. Các Thiên thần lửa chuyển sang hành động.
- Vậy là các anh chuyển sang tội ác? - Vị tướng thét lớn.
Mặt ông đỏ bừng lên, đỏ như tóc ông vậy. Ông lặp lại câu hỏi - Vậy là các anh chuyển sang tội ác?
Vị tướng đi đến bên bàn. Những chiếc đinh thúc ngựa bằng bạc của ông kêu lên leng keng. Những dây áo trên bộ quân phục của ông cũng vậy.
- Nhân dân giao quyền lãnh đạo cho chúng ta là để chúng ta giải quyết những vấn đề Do Thái. Aurel Popesco nói - Dân chúng đòi hỏi những việc làm cụ thể. Và chúng ta đã không làm gì tất.
- Vấn đề Do Thái sẽ được giải quyết. - Vị tướng nói - Nhưng nó sẽ được giải quyết bằng con đường pháp lý chứ không phải bằng con đường giết người. Không phải bằng tội ác! Nó sẽ không được giải quyết bằng vơ vét và hành động thổ phỉ. Người Rumani chúng ta, chúng ta là những người theo đạo Chúa Kitô.
Mà người theo đạo Chúa Kitô thì không giết người. Anh đã nghe chưa, Popesco? Người đạo Chúa Kitô không giết người.
Chiếc roi ngựa lại đập mạnh lên bàn.
- Người có đạo Kitô không giết hại đồng loại của mình dù họ là người ngoại đạo. Ta là Quốc trưởng quốc gia này và ta cấm không được ai đụng đến một mạng người. Ta biết các người đang sửa soạn một cuộc cách mạng để hủy diệt hết mọi người Do Thái đêm nay. Ta biết và ta đã ra lệnh cho quân đội ngăn chặn tội ác của các người. Giờ đây, ta kêu gọi các người hãy bình tâm, quân thù bên kia biên giới đang nhìn chúng ta. Và Chúa Trời cũng nhìn chúng ta. Anh có nghe ta không đó, Popesco? Hãy gửi ngay một bức điện cho các Thiên thần lửa phải tôn trọng lời răn của Chúa. Trước mắt chỉ có thế. Anh có thể trở về.
Popesco đứng yên không nhúc nhích. Vị tướng ngoảnh sang phía Pillat.
- Pillat! Cậu hãy ở lại đây, bên cạnh ta, cho tới lúc bọn lưu manh dịu bớt cơn điên loạn. Phải ngăn chặn tội ác. Ta muốn có một vị quan tòa bên cạnh ta. Cậu hãy bảo người ta mang đến cho cậu một chiếc giường. Cậu sẽ ăn tối luôn tại đây, trong buồng làm việc này. Cậu cũng sẽ ngủ ngay tại đây.
- Thưa Tướng quân, - Popesco nói - tôi muốn được trình bày rõ tình hình.
- Hãy đánh điện cấm không cho chém giết đi đã! Chúng ta nói chuyện sau.
- Thưa Tướng quân, nếu tôi đi bây giờ là không bao giờ tôi trở lại nữa. Bộ tham mưu Thiên thần lửa phái tôi đến đây thay mặt họ thông báo một số vấn đề. Để mọi sự thông suốt giữa chúng ta!
- Nói đi! - Vị tướng ra lệnh.
Ông đi tới cạnh cửa sổ. Quay lưng lại với Popesco.
Quay lưng lại với Pillat. Và tiếp tục quất chiếc roi ngựa vào ủng.
- Không thể nào giải quyết vấn đề Do Thái một cách hợp pháp được. - Popesco nói - Người Do Thái giống như là nước. Đuổi họ chỗ này, họ lại tìm một lỗ hổng dọc ngang nào đó mà trở lại. Y hệt như nước. Chúng ta đã đuổi họ khỏi lĩnh vực báo chí, thương nghiệp, nhà hát. Họ vẫn cứ mua được cổ phần nhờ cái tên mượn Công giáo. Chẳng có gì thay đổi cả. Chỉ riêng chuyện hối lộ thì gia tăng. Chúng ta cấm họ đi lại. Họ mua vé với giá tiền gấp đôi và tiếp tục đi lại bình thường. Cấm hoạt động sân khấu ư? Họ mua cổ phần. Cấm viết lách ư? Họ vẫn viết và ký những cái tên Công giáo. Không có gì thay đổi cả! Không có một giải pháp hợp lệ nào cho vấn đề Do Thái, cũng như gỗ và rơm không chống lại được với lửa bao giờ.
- Vì sao các người không để cho họ ra đi? - Vị tướng vẫn không quay người lại hỏi.
- Tôi vừa cho họ hai chiếc tàu Adassa và Euxin. Nhưng họ chỉ ra đi có một nghìn năm trăm người. Chúng ta sẽ làm gì những số còn lại? Gần một triệu!
- Số còn lại, gần một triệu, hãy để cho họ sống! - Vị tướng đáp - Nếu người Do Thái không tuân thủ pháp luật chúng ta, thì các người hãy bỏ tù hết đi. Nhưng bỏ tù đúng pháp luật, có xử án hẳn hoi. Không dùng bạo lực! Sự việc là như thế... Ta không dung thứ sự lạm dụng, tội ác và cướp bóc!
- Các Thiên thần lửa chấm dứt sự hợp tác với Ngài.
- Ta sẽ đưa các người ra trước tòa án về tội giết người, dù chỉ có một người bị giết đi! Dù người bị giết là Do Thái, Thổ hay Trung Quốc!
- Cho phép tôi lui - Aurel Popesco nói.
Và hắn rời buồng giấy sau khi đứng nghiêm chào.
Vị tướng nhìn qua khung cửa sổ. Ông ta suy nghĩ. Bỗng ông ta quay sang phía Pillat.
- Cậu có cuộc hẹn hò với ai? Hạng đàn bà nào đang chờ đợi cậu?
- Một người quen. Một nghệ sĩ. Chúng tôi phải can thiệp với cảnh sát giúp đỡ người đày tớ cũ của nàng.
Trước mặt tướng Roshu, không ai có thể nói dối được.
Pillat đã nói sự thật.
- Người Do Thái à? - Vị tướng hỏi, trầm lặng.
- Vâng, Do Thái! - Pillat đáp.
Anh ta mặt mũi tái xanh.
- Bảo cô ta trốn đi! - Roshu nói - Đêm nay bọn khùng ấy định giết sạch người Do Thái đó! Nói với người đàn bà Do Thái đang đợi cậu rằng cậu không đến chỗ hẹn đâu, nhưng cô ta phải trốn ngay đi, vì đêm nay sẽ xảy ra một cuộc tàn sát đẫm máu. Mỗi lần cậu có thể cứu được một mạng người thì hãy nên cứu lấy Pillat ạ. Và chỉ có như vậy cậu mới có thể đứng trước mặt Chúa trong Ngày Phán xét cuối cùng và nói: “Tôi là một người đàn ông, lạy Chúa, một người đàn ông chân chính!”. Bằng không cậu chẳng có cơ sở nào để nói lên như vậy được! Hãy sai tên lái xe bảo cô ta trốn đi!
Pillat không biết nên tin cái gì. Nhưng anh cứ làm theo mệnh lệnh. Một giờ sau, người lái xe trở về báo tin Eddy Thall đã rời bỏ thủ đô đi Palestine bằng chuyến tàu năm giờ sáng rồi. Nàng không ủy thác một việc gì cho ai cả.
Có tiếng súng ngoài đường. Những chiếc xe tăng chạy qua.
- Chúng ta cần ngăn chặn cuộc đổ máu. - Roshu nói.

XXIV

Max Reingold đã hoàn tất toàn bộ chương trình của ông. Ông đã đóng hết cửa ngõ ngôi nhà Eddy Thall và giao chìa khóa lại. Ông tiếc rằng Pillat không đến lúc năm giờ để cùng nhau đi thăm Tinka Neva. Nhưng ông đã làm tròn nhiệm vụ của mình. Bây giờ ông đang ở ngoài đường phố. Tám giờ đêm. Ông định ra ga. Chuyến tàu đi Constantza chạy vào lúc chín giờ. Ông tìm một chiếc ta xi.
- Đang có biến động đấy! - Một viên cảnh sát nói cho ông biết - Ta xi không chạy. Tàu điện cũng không. Chúng ta đang trong lúc báo động.
Max Reingold đi bộ ra ga. Ông hài lòng vì chẳng vướng víu một hành lý nào. Ông đã gửi tất cả các vali đồ đạc của ông đến Constantza sáng nay rồi, theo chuyến tàu mà Eddy Thall, Rebecca và Esther đi. Ông chỉ còn mỗi cái cặp. Và giờ đây, ông đang trên đường đi tới nhà ga. Trời tối mờ mờ.
Trong mười lăm phút nữa mình sẽ tới nhà ga phía Bắc. - Ông ta tự nói với mình và bước đi khoan thai, không vội vàng.
Ông biết là bọn Thiên thần lửa muốn phát động cuộc cách mạng. Cả thành phố biết. Nhưng khắp nơi đâu đâu cũng có quân đội, lính hiến binh và cảnh sát. Tướng Roshu với tư cách quân nhân là người biết làm cho trật tự an ninh được tôn trọng. Quân đội trung thành với ông. Max Reingold cứ dần bước đi một cách an toàn. Nhưng ông hài lòng được đi ngay tối đó.
- Có thể ngày mai thì đã quá muộn. Đêm nay vị tướng còn làm chủ tình thế, điều đó hiển nhiên. Nhưng ngày mai, ai mà biết được? Ngày mai, bọn nổi loạn có thể thắng thế. Có điều là ngày mai mình đã lênh đênh giữa biển khơi rồi. Max Reingold mỉm cười.
- Do Thái hả? - Một thanh niên hỏi.
Max Reingold nhìn người thanh niên vừa hỏi ông. Cùng lúc đó một người khác rọi đèn vào mặt ông, làm nổi bật cái mũi khoằm Do Thái, mái tóc hung và những vết đỏ trên mặt ông ta.
Max Reingold toan rút cái vé xe lửa của mình ra. Ông muốn nói với họ là ông lên ga, ngày mai ông đã xuống tàu ra biển. ông muốn cho họ xem chiếc vé tàu thủy của mình, giấy phép được rời bỏ đất nước. Tất cả đều có sẵn trong túi áo của ông. Nhưng ông chẳng có thời gian để nói, dù chỉ một câu.
- Nào, hấp! Bắt lão đi thôi! - Tên trẻ tuổi cầm đuốc nói - Lão là một tên Do Thái.
Max Reingold bị những gã thanh niên vũ trang bao vây bốn phía. Bên lề đường có một chiếc xe tải đậu sẵn. Max Reingold thấy mình bị những chiếc báng súng thúc lên xe.
Ông ta bước lên. Không có thời gian để chống lại hoặc để phát biểu ý kiến. Chiếc xe đầy ắp người. Lên xe rồi, Max cảm thấy người mình rã rời bại hoại.
Không có một tình thế nào là không có lối thoát cả. - Ông tự nhủ - Nếu người ta biết giữ bình tĩnh. Ta sẽ ra khỏi đây và lên kịp chuyến tàu chín giờ nếu ta giữ được nghị lực và bình tĩnh. Nếu như ta nhanh trí thì đáng ra ta đã phải nói với họ rằng: ta không phải là Do Thái. Bây giờ thì ta phải tự liệu lấy mà thoát thôi. Nhưng muốn thoát được, phải bình tĩnh.
Max Reingold tập trung toàn nghị lực nhằm làm chủ tình thế. Ông bắt đầu hít thở thật sâu. Ông dang cánh tay ra hòng hít thở được càng sâu càng tốt. Ông nghe có những tiếng súng bắn gần chiếc xe. Có ai đó kêu to: Quân giết người! Quân giết người! trước khi ngã xuống. Người ta nghe có tiếng một xác người lăn xuống bánh xe. Max Reingold nghĩ tới chuyện khác.
Ông phải trừu tượng hóa mọi việc đang xảy ra xung quanh và không thèm nghe những tiếng rên rỉ, than van vì tất cả những cái đó làm cho người ta mất tinh thần.
- Cần phải nhìn tình thế một cách khách quan như thể mình không phải người trong cuộc. Đó là điều cơ bản.
Max Reingold nghĩ rằng điều cần thiết nhất để thoát khỏi bước khó khăn này là phải có một chương trình, một kế hoạch.
Một kế hoạch có nghiên cứu tỉ mỉ, kỹ càng. Ông nhìn xung quanh ông rồi bằng một cách không để ai chú ý, ông rẽ một lối đi để xích dần tới cửa ra vào của xe. Nhưng lại có nhiều người bị ném thêm vào xe nữa. Ông đành lùi lại chút ít, rồi một lần nữa ông lại tìm lối xê dịch dần ra. Mọi người xung quanh đều khủng khiếp hoang mang. Riêng Max Reingold vẫn cứ lần dần một cách chậm chạp, từng li một ra phía cửa, qua đám người chật như nêm. Cùng lúc đó, chiếc xe bắt đầu chạy hết tốc lực.
Max Reingold lợi dụng lúc đó mon men ra gần được tới cửa. Ở bậc lên xuống có hai tên gác trẻ ôm tiểu liên đứng. Nhưng Max biết rằng một khi đã đứng kề bên cửa lên xuống thì cơ may có thể mỉm cười với ông bất cứ lúc nào. Đó là giai đoạn đầu của kế hoạch.
Khu phố mà lúc này họ đi qua đã lọt vào tay bọn nổi loạn.
Súng bắn, nhà cửa cháy. Khi chiếc xe tải đi chậm dần qua các ngã tư thì nghe tiếng người rên khóc. Súng đại liên nổ ầm ầm xé óc đinh tai.
- Ta đã từng đánh nhau trong các chiến hào năm 1916 - Max Reingold tự nhủ - Tiếng súng không làm ta sợ. - Ông lại lợi dụng những đoạn đường xóc để nhích ra gần cửa hơn.
Không còn thấy những đám cháy nữa, không còn nghe tiếng súng nữa. Chiếc xe đã đi xa thành phố. Max Reingold muốn xác định phương hướng. Chẳng có gì là khó khăn. Chúng ta đang trên đường đi tới trại giam quân đội Jilava. Ông tự nhủ - Nhưng trước khi tới trại giam phải băng qua một khu rừng dài khoảng năm trăm mét. Đến đó, ta phải trốn mới được. Phải nhảy xuống xe rồi lên tàu ở ga Jilava và sẽ tới Constantza...kịp chán.
Ông đã mon men gần đến cánh cửa. Xe đã vào rừng. Bỗng nhiên ánh sáng xuất hiện ven đường. Có ai đó thét to:
- Đứng lại!
Chiếc xe đột ngột dừng bánh và bị bao vây trong một hàng rào những thanh niên trẻ, mặc đồng phục, tay xách những chiếc đèn đuốc. Những Thiên thần lửa!
- Xuống xe! - Có tiếng ra lệnh. Rồi những tiếng khác - Xuống đất! Xuống đất!
Max Reingold xuống trước tiên. Trời tối đen. Ông tránh những ngọn đuốc làm cho ông lóa mắt. Ông nhìn bức tường nhà giam sừng sững trước mặt. Đằng sau chiếc xe là rừng. Một khu rừng dày. Max quen thuộc khu rừng này. Trời mưa lâm râm. Đất dưới chân nhão dính, cỏ ẩm ướt. Max Reingold nhìn cây cối, nhìn bọn thanh niên cầm đuốc và những người Do Thái đang gù lưng bước xuống xe.
Max Reingold cố nhìn mọi sự một cách khách quan như xem phim vậy. Phải biết lợi dụng thời cơ thuận tiện nhất, như ở thị trường chứng khoán. Đúng, như ở thị trường chứng khoán vậy, Max ạ! Nhớ phải bình tĩnh và kiên trì! Ông tự động viên mình can đảm hơn lên.
Bên phải, bên trái, còn có nhiều người xuống xe. Toàn đàn ông. Max Reingold vuốt vuốt lại chiếc mũ của mình bị bẹp dúm khi còn đứng trên xe. Ông sửa sang lại chiếc cà vạt và cài khuy áo khoác, chú ý không để đôi giày bị dây bẩn giữa đám cỏ ướt và cao. Nhất thiết phải giữ cho khỏi bẩn đôi giày. Ông phải luôn luôn áo quần tề chỉnh và đúng phép. Đây là một điểm quan trọng trong việc thực hiện kế hoạch trốn của ông. Tất cả những người Do Thái xuống xe đều cúi đầu, cúi đầu vì sợ sệt Max Reingold ngẩng cao đầu. Bây giờ thì ông đứng thẳng người. Ông đút tay vào túi áo. Ông không muốn mình như người khác. Ông không muốn cái sợ làm cho ông phải cúi đầu. Lát nữa thôi, Max Reingold ơi! Giờ của mi sẽ đến. Hãy ngẩng mặt - Ông tự nói với mình.
Xung quanh ông là bóng tối và mưa. Điểm duy nhất cho người ta phân biệt được người trong đêm tối, các tù nhân và bọn Thiên thần lửa, là tù nhân thì cúi đầu mà bọn Thiên thần lửa thì đứng thẳng, rất thẳng.
Max Reingold ưỡn mình ra, làm dáng điệu con người thượng võ. Ông bước tới một bước ra ngoài hàng.
Trước hết là phải đi thẳng người. Rồi sau đó phải can đảm bước những bước cần thiết giữa đám người ô hợp này để chuyển từ nhóm người còng lưng sang nhóm người thẳng lưng.
Max Reingold bước một bước. Ông tách ra khỏi đám người còng lưng. Nhưng cũng ngay lúc ấy, ông bị một báng súng giáng mạnh vào giữa ngực. Ông lùi lại và thân hình ông lại gãy gấp làm đôi. Một lần nữa, ông lại đi trong nhóm những người lưng còng đầu cúi. Và Max Reingold còn còng hơn tất cả mọi người khác. Một nỗi đau xé ngực, ông vẫn cố thẳng người.
- Nếu ta cố đứng thẳng lên được thì ta sẽ thoát.
Ông đã làm được. Ông đã trở lại con người đi thẳng lưng.
Nhưng cái đau trong ngực cứ nhói lên như cào như xé. Max Reingold áp sát mình vào tường. Ông muốn đứng vài phút như vậy để lấy lại hơi sức. Bức tường lạnh khiến ông thấy dễ chịu.
Ông lại áp sát người vào tường hơn nữa.
- Nhanh nhanh lên! - Có ai đó thét.
Đó là một cái giọng chỉ huy, nghe là biết ngay. Nó từ xa truyền lại, nhưng là một cái giọng khỏe và mạnh, trực tiếp.
Viên chỉ huy đi tới gần. Hắn đi giữa một đám thanh niên cầm đuốc vây quanh hắn.
- Ta phải nhảy sang hàng ngũ bọn chúng nó mới được. - Max Reingold tự bảo - Ta phải nhảy sang cái nhóm của viên chỉ huy. Sau đó ta sẽ được cứu thoát. Ta biến vào rừng. Một khi ta nhập được vào nhóm viên chỉ huy rồi, mọi việc sẽ dễ dàng. Nhưng muốn vậy, ta phải thẳng lưng. Như chúng nó. Sau lưng chúng nó là rừng. Xuyên rừng ta ra đến đường cái. Đi bộ năm phút là đến ga Jilava. Ta lên xe lửa. Xe lửa Constantza chưa tới. Đến Constantza ta xuống tàu biển. Đi Israel.
- Nhanh lên! Tên chỉ huy thét.
Trong hàng ngũ bọn thẳng lưng, người ta nghe tiếng nạp đạn. Sau đó, chỉ trong nháy mắt là tiếng vỏ đạn và tiếng bao đạn đóng vào, rồi tiếng thử cò súng. Max biết tận tường những thứ tiếng đó, ông đã trải qua cuộc chiến tranh ở chiến hào mà!
Ông đứng thẳng người. Ông nhích lên một bước, một bước nhỏ thôi. Chỉ cách hai mét là tới hàng ngũ những kẻ thẳng lưng.
Không có ánh sáng. Trời tối đen. Vấn đề đơn giản, không nên lãng phí một phút giây nào. Ông nhích thêm một bước nữa, nhưng ngay lúc đó, theo lệnh chỉ huy, bọn thanh niên đi cách xa thêm một đoạn vài mét. Giữa những người vũ trang và những người còng lưng đứng tựa vào tường, có một khoảng cách độ mươi mét. Và trong khu vực mươi mét đó, không có bóng dáng một ai. Vậy là hai bên cách nhau quá xa. Max biết giờ đây thì không còn cách nào chạy sang nhóm bên kia được nữa rồi. Thời cơ đã đi qua. Phải thay đổi kế hoạch. Ông kín đáo ngả lưng nằm xuống giữa đất ẩm. Ông biết bọn trẻ sắp sửa bắn. Ông phải đào cho mình một cái hầm trú ẩn, như ông đã phải đào bao nhiêu lần trong cuộc chiến tranh năm 1914. Một cái hầm cá nhân. Nhanh. Max bắt đầu moi đất, khẩn trương với đôi bàn tay đeo tất của mình. Ông cào xới vào đất ẩm ướt.
Bình tĩnh và quyết tâm! - Ông tự nhủ - Với sự bình tĩnh, người ta có thể ra khỏi bất cứ ngõ cụt nào.
Và ông vẫn tiếp tục đào xới bằng những ngón tay của ông.
Trong lúc đó, những phát súng bắt đầu nổ, đều đều, hết phát nọ tới phát kia. Max đào đất khẩn trương. Tất cả tùy thuộc mức độ khẩn trương của việc đào hầm trú ẩn. Ông biết vậy. Tất cả phụ thuộc điều đó. Ông đào cả hai tay. Đất mềm dễ đào. Bây giờ đây, Max đã cho được đầu mình xuống hố. Và ông vẫn đang đào, càng ngày càng nhanh. Với sự thất vọng trong lòng.
Những làn đạn bay vèo vèo về phía tường rồi bật tung trở lại.
- Mi đang làm chủ tình thế! - Ông tự nhủ - Nửa đêm mi phải có mặt ở Constantza. Vợ và con gái đang chờ. Sau đó, ngày mai, xuống tàu, dong thẳng sang Israel.
Ngón tay ông tuyệt vọng, thọc sâu xuống dưới đất bới lên.
Bọn trẻ vẫn bắn. Người ta nghe những tiếng kêu, những tiếng rên. Những tiếng khóc, những tiếng gào. Max Reingold không chịu để hòa mình theo những sự việc đang diễn ra xung quanh, ông chỉ duy nhất làm theo kế hoạch của mình, thực hiện kế hoạch của mình và làm chủ tình thế.
Cái đầu của Max đã được an toàn. Ông bèn nghĩ tới nhà ga, tới Constantza, đến chuyến đi Israel. Ông chỉ nghĩ tới những chuyện gì có tác dụng củng cố tinh thần của ông và giúp ông đứng bên trên tình thế. Ngoài sự sợ sệt, sự bắn giết và sự kêu la.
Ông nghĩ tới những điều có tác dụng khích lệ: đến nhà hát Eddy Thall, đến Tel Aviv, đến Mảnh đất hứa hẹn... Vì vậy mà Max Reingold vẫn cứ tiếp tục đào một cách khẩn trương, hết sức, tuyệt vọng. Ông chỉ làm một việc đó. Ông tìm hết cách để không đầu hàng. Và dù cả khi cái đầu của ông đã bị đạn xuyên qua, rũ xuống trên bàn tay đi tất đang thọc sâu vào lớp đất ẩm ướt và nhão dính, thì trong cái đầu óc ấy vẫn chẳng hề có bóng dáng của sự sợ sệt hay hoang mang nào, mà chỉ có một quyết tâm không chịu đầu hàng. Tất cả cái đầu của Max Reingold giờ đây chỉ vẻn vẹn có thế: mong muốn đêm nay tới Constantza, nơi mà vợ con đang đợi chờ ông. Rebecca, bà vợ mập mạp và tốt bụng của ông; Esther, cô con gái đẹp và lãng mạn của ông; Eddy Thall, người nghệ sĩ lớn của ông... hai chiếc tàu Adassa và Euxin, biển Đen và Palestine, mảnh đất quê hương hứa hẹn!
Max Reingold đã chết như vậy đó. Không nghĩ tới cái chết. Không chấp nhận cái chết. Bàn tay, cái đầu, cái ngực trên lớp đất ẩm ướt mà lòng vẫn hướng về Mảnh đất Quê hương mà Chúa đã hứa hẹn cho Dân Người.
Bọn trẻ còn bắn thêm một lúc nữa mới thôi.
- Ném xác chết vào xe. - Tên chỉ huy thét.
Max Reingold không còn nghe giọng nói của viên chỉ huy nữa, cái giọng nói khàn khàn của viên chỉ huy. Trời đang mưa, và mưa làm cho cái giọng nói bị khàn. Thời tiết xấu.
Bọn trẻ khoác súng lên vai. Nòng súng vẫn còn nóng hổi.
Chúng cứ hai người một khênh những xác chết đẫm máu nằm cạnh chiếc xe tải ném lên thùng xe như những khúc gỗ khô. Đèn pha của xe vẫn bật sáng và máy vẫn nổ.
- Lăn bánh đi! - Viên chỉ huy thét với cái giọng khàn khàn.
Men theo bờ đường, đèn bật sáng, những chiếc xe tải đều đến cả. Người ta làm việc trong bóng tối.
Một toán thanh niên tay cầm đèn đuốc kiểm tra lại xem còn sót xác nào không.
- Mang đi đâu? - Anh lái của chiếc xe đi đầu chất đầy xác chết, chiếc xe trên đó có thi hài Max Reingold, hỏi.
- Tới lò mổ! - Viên chỉ huy đáp - Các người cứ đổ xuống lò mổ.
Những chiếc xe chở đầy xác chết chuyển bánh chạy ven theo bức tường, chầm chậm tới lò mổ của xã. Khoảng đất rất trơn.
Bánh chiếc xe tải có thể trượt. Tài xế chú ý lái cẩn thận.
Từ thành phố, có nhiều xe tải đi về phía Jilava, xe chở người sống gặp xe chở người chết. Suốt đêm như vậy. Những chiếc xe chở đầy người sống đến khu rừng. Rồi những chiếc xe chở đầy người chết trở lại lò mổ.
Người ta đổ xác chết xuống những cái sân xi măng, chồng chất lên nhau, cho tới khi cái sân đầy ắp những thi hài. Khoảng ba giờ sáng, một viên chỉ huy tới kiểm tra. Hắn nhìn những xác chết của người Do Thái chất đầy sân lò mổ. Hắn cười.
- Ai ra lệnh chở về đây? - Hắn hỏi.
- Lệnh cấp trên! - Những thanh niên canh gác đáp.
- Vì sao đổ ở đây? Sao không cho thẳng tới nhà xác hoặc nghĩa địa, có phải là bình thường hơn không? - Tên chỉ huy tự hỏi. Không ai biết lệnh từ đâu tới.
- Đã trót mang tới đây thì hãy lột hết áo quần trên xác chết đã. - Viên chỉ huy bảo.
Người ta tổ chức nhiều kíp làm. Xác chết bị lột hết áo quần và đặt trần truồng dưới đất. Cảnh tượng thật rùng rợn, nhưng chẳng ai cần để ý. Bọn trẻ chỉ lo mải mê lột quần áo xác chết.
- Có phải treo lên móc không nhỉ? - Có tiếng của ai đó hỏi.
Người ta nhấc các xác chết lên và treo vào móc.
Nhưng xác nhiều hơn móc. Bởi thường ngày ở lò mổ người ta chỉ giết mổ vài trăm con vật, mà giờ đây thì xác người Do Thái lại đến mấy nghìn. Cho nên chỉ có vài trăm cái xác được treo lên những cái móc dùng để treo những con vật mổ xong. Trên bụng, trên lưng, trên ngực của mỗi một người cũng có đóng con dấu thường dùng đóng cho các con vật đã được mổ, theo phong tục người Do Thái. Kasher. Những thi hài dưới đất cũng được đóng dấu, nhằm nói cho mọi người biết đó là những người Do Thái.

XXV

Sáng thứ bảy, sau cái đêm cách mạng, tướng Roshu gọi Pillat tới và chỉ thị cho anh phải làm một số việc.
- Cậu hãy qua sứ quán Đức. Báo với nam tước Killinger rằng chúng ta đã ngăn chặn được nổi loạn. Có hàng nghìn người bị giết. Bọn thủ phạm do Aurel Popesco cầm đầu, mặc đồng phục sĩ quan Đức, đã có đứa trốn qua được nước Đức. Ta yêu cầu ông đại sứ cho bắt chúng, còng tay và giao trả lại để ta xét xử chúng. Còng tay. Có hay không có những bộ đồng phục Đức do sứ quán cung cấp.
Pillat ghi sổ. Anh đã thức trong một đêm. Mệt lử cả người.
- Ở sứ quán ra, cậu tạt qua lò mổ của xã. Ở đó có hàng ngàn xác chết của người Do Thái. Cậu hãy xác minh từng người, lập biên bản. Chụp ảnh lại, quay phim cái hành vi man rợ đó để có đủ tang chứng về bọn thủ phạm. Sau đó, cậu cho trả xác chết lại cho các gia đình để người ta chôn cất theo luật lệ của họ, hợp lý hợp tình.
Pierre Pillat đến sứ quán trao bản thông điệp nói trên rồi từ đó tới lò mổ.
Những nẻo đường xung quanh lò mổ chật ních người. Bọn hiến binh không cho ai tới gần. Pierre Pillat nhìn những xác chết chồng chất lên nhau, trần truồng, giữa sân xi măng, những xác chết khác thì treo trên móc bốn hàng ngang.
- Hạ những xác kia xuống! Chụp ảnh nhanh lên, rồi hạ xác xuống!
Anh khám xét người chết thứ nhất. Đó là một người đàn ông khoảng trong ngoài năm mươi tuổi, trần truồng. Mang ba cái dấu đóng lên ngực, lên bụng và lên lưng.
- Chúng tôi đã bắt đầu việc xác minh. - Viên sĩ quan hiến binh nói.
Hắn cũng nhìn những xác chết và chỉ vào cái xác mà Pierre Pillat đang khám xét.
- Người này chẳng hạn, dễ xác minh lắm.
Viên sĩ quan tra hồ sơ.
- Ông ta có trong mình một cái vé tàu hạng nhì đi Constantza, một vé tàu biển đi Tel Aviv trên chiếc Adassa, giấy phép được rời bỏ đất nước. Mọi giấy tờ đều hợp lệ. Ông ta lẽ ra đã đi rồi, vậy mà lại bị rơi vào chỗ này. Cuộc đời đến là lạ lùng. Tên ông ta là Max Reingold.
Pillat sững sờ tê dại, nhìn xác chết. Trong cuộc đời có những nỗi xúc động khiến cho con người trở thành mù quáng, câm điếc, hóa đá. Pierre Pillat đã trở thành như vậy và anh ta cứ nhìn, cứ nhìn hoài cái xác của Max Reingold treo trên chiếc móc lò mổ, trần truồng với những cái dấu đóng vào thịt da.
- Chúng ta có thể trả xác lại cho gia đình ông ta chăng? - Viên sĩ quan hiến binh hỏi - Bởi chúng ta đã xác minh được rồi, chúng ta lập biên bản và trả lại cho gia đình người ta chôn cất. Nếu như ngài thẩm phán cho phép.
Pillat chỉ nghe có một mẩu câu sau cùng “Nếu ngài thẩm phán cho phép”. Anh nhìn cái xác chết.
- Ngài có cho phép chúng tôi trả lại cho gia đình không ạ?
Viên sĩ quan lại hỏi.
Pierre cúi đầu, ra dấu hiệu đồng ý và nói:
- Tôi sẽ xin cấp trên gửi một thẩm phán khác thay tôi. Tôi mệt quá rồi. Cả đêm tôi không nhắm mắt một phút nào.
Sau đó anh rời lò mổ. Người anh loạng choạng, mất thăng bằng.

XXVI

Rebecca, Esther và Eddy Thall tới Constantza vào lúc giữa trưa. Hôm ấy trời nắng, biển xanh.
- Trước hết, chúng ta nên đi xem mấy chiếc tàu xem! - Eddy Thall nói.
Ba người đàn bà ra bến cảng. Chỉ có toàn những tàu chiến.
Trong số đó có hai chiếc con con mới sơn lại màu xám. Người ta đọc được tên của chúng, viết bằng màu đen: kề bên chiếc Adassa là chiếc Euxin.
Eddy thấy tim mình đập hồi hộp. Đó là những chiếc tàu của họ. Sáng ngày mai, họ sẽ xuống tàu này để đi Israel. Họ không được phép vào khu cảng. Nhưng họ nhìn rất lâu từ xa những toán thủy thủ chuyển những chiếc hòm, những chiếc thùng xuống hai con tàu Adassa và Euxin.
- Đừng quên lời dặn của Max! - Rebecca nói. - Chúng mình điểm tâm, sau đó thì nghỉ ngơi. Chuyến đi này sẽ dài đó. Israel xa lắm. Chúng mình phải nghỉ để lấy sức mà đi.
Ba người đàn bà còn muốn nhìn chiếc tàu của họ thêm một lần nữa. Nhưng họ phải về khách sạn. Họ ăn sáng và cố gắng chợp mắt. Qua cửa sổ họ nhìn ra cảng: Hai chiếc Adassa và Euxin hiện lên nhỏ xíu. Đó là những chiếc tàu cũ kỹ vừa mới được tu sửa lại, mà phải chở đến một nghìn năm trăm con người, toàn Do Thái. Thủy thủ đoàn là người Do Thái, nhằm cái thuận lợi là càng cho đi được nhiều người Do Thái càng hay. Các chỉ huy cũng là người Do Thái. Buổi tối, Eddy Thall có Rebecca và Esther cùng đi theo lại ra cảng lần nữa. Họ nhìn ngắm những chiếc tàu như tất cả đám đông. Rồi họ ra ga đón Max. Họ đi sớm những hai giờ và thơ thẩn dạo quanh sân ga.
Cuối cùng tàu đến, đầy ắp hành khách. Ba người nhìn từng hành khách từ Bucarest tới. Không có Max.
Max không bao giờ đi trượt tàu cả. Hai mươi bốn năm lấy nhau, Max bao giờ cũng đúng hẹn. Chắc là tới rồi mà ta không nhìn thấy đó thôi!
Ba người đàn bà trở về khách sạn. Max không có ở đó.
Rebecca định gọi điện sang Bucarest.
Liên lạc điện thoại với thủ đô đã bị gián đoạn. - Bưu điện cho biết vậy - ở Bucarest có cuộc nổi loạn.
Rebecca hỏi tin về những chuyến tàu sau đó.
- Đêm nay, không có chuyến tàu nào rời Bucarest. Nhưng ngày mai, sự lưu thông sẽ trở lại bình thường và đều đặn.
Mấy người đàn bà tin tưởng trở lại.
Lúc đó là ba giờ sáng. Họ về khách sạn và chờ. Vừa rạng đông, Rebecca đã có mặt tại ga. Bảng hướng dẫn thông báo chuyến tàu Bucarest sẽ tới vào lúc bảy giờ.
Cả ba người lại ra cảng. Những người Do Thái xếp hàng dài dằng dặc đang chờ đợi để xuống tàu. Máy đã khởi động.
Mọi người hốt hoảng. Người ta kể chuyện về vụ tàn sát dân Do Thái tại Bucarest. Lại thêm nỗi cảm xúc lúc ra đi. Thiếu bốn hành khách, trong đó có Max Reingold, người tổ chức chuyến đi này. Gia đình những người vắng mặt lâm vào tình thế tuyệt vọng. Đến trưa, các loa truyền thanh thông báo:
“Tàu Adassa là tàu cũ nên phải chạy chậm. Nó sẽ rời bến vào mười hai giờ trưa. Còn tàu Euxin sẽ đợi chuyến xe lửa năm giờ chiều để những người vắng mặt kịp xuống tàu. Sau đó, nó sẽ đuổi kịp chiếc Adassa ngoài khơi”.
- Thế là hoàn hảo! - Rebecca nói - Giải pháp hay đấy!
Bà quay sang phía Eddy Thall - Tất cả hành lý của chúng ta đưa xuống chiếc Adassa cả rồi. Chúng ta đi thôi. Cô ở lại trên tàu Euxin và sẽ đi cùng với Max. Cô nói với ông ấy rằng chẳng có gì xảy ra với chúng ta cả. Hãy cứ yên tâm. Chúng tôi sẽ trông coi hành lý cho cô. Rất đáng tiếc là phải để Max đi một mình. Chỉ tối nay là hai tàu chúng ta lại gặp nhau ngoài khơi và chúng ta sẽ lại đi cùng nhau rồi.
Eddy Thall xuống bến. Nàng vẫy vẫy chiếc khăn mùi xoa trong khi tàu Adassa chầm chậm rời bến. Mọi người đều khóc và giơ tay từ biệt nhau.
Chiếc Euxin chờ chuyến xe lửa Bucarest. Năm giờ chiều, Eddy Thall đã có mặt trên sân ga. Không có Max Reingold. Cả bốn người vắng mặt cũng không.
Báo chí và đài phát thanh loan báo những tin rùng rợn về cuộc tàn sát người Do Thái tại Bucarest. Eddy Thall lo sợ.
Nàng trở lại trên chiếc Euxin. Trên con tàu, nỗi ưu tư bao trùm lên tất cả mọi người. Máy móc bị trục trặc.
Chiếc Euxin đêm nay chưa rời cảng được - loa truyền thanh thông báo. Eddy nằm ngủ trên một chiếc võng trên boong tàu. Suốt đêm ấy và cả ngày hôm sau, người ta lo lắng sửa máy móc. Bốn người vắng mặt cũng không tới.
Lúc rạng đông lại có thông báo mới: Tàu Adassa bị bão, tàu Euxin không đi nữa. Theo lệnh Chính phủ, không một chiếc tàu nào chở người Do Thái được phép rời bến!

XXVII

Rebecca và Esther nhìn biển để theo dõi xem tàu Euxin đã theo kịp họ chưa. Biển động mạnh và sóng cồn dữ dội. Hành khách đều ẩn trốn trong những buồng riêng. Bà vợ của Max Reingold vẫn ở trên boong tàu. Esther cũng như bao nhiêu hành khách khác đều bị say sóng.
Tám trăm người Do Thái đã xuống tàu Adassa. Họ chen chúc nhau, chồng chất lên nhau. Người bệnh không sao ngã lưng được vì trong các buồng tàu chật ních bao nhiêu con người.
Còn trên boong tàu thì không sao chịu nổi vì sóng đánh tung tóe khắp mọi góc mọi nơi. Chiếc Adassa vừa tiến chầm chậm vừa kêu răng rắc. Vào khoảng chín giờ tối, có một ông già chết, càng làm cho ai nấy thêm kinh hãi. Hành khách nhao nhao lên án thuyền trướng không biết duy trì trật tự, không có kinh nghiệm. Trên tàu có khá nhiều thầy thuốc, nhưng họ chẳng làm gì được để giảm bớt say sóng cho hành khách. Nửa đêm, thêm một người nữa chết. Người ta đặt họ lên trên boong. Thuyền trưởng cũng bị say sóng. Thuyền phó phải thay thế ông ta, chỉ huy tàu. Thuyền phó là một kỹ sư chế tạo điện khí. Đó là một con người còn trẻ, đầy nghị lực. Anh ta ra lệnh ném hai xác chết xuống biển và động viên mọi người bình tĩnh, kiên gan.
- Sáng mai, chúng ta đến Istamboul. Người ốm sẽ vào viện. Chúng ta sẽ tổ chức chuyến đi theo một phương thức khác. Hành khách quá đông.
Trật tự có chiều ổn định, nhưng cơn bão ngày càng dữ dội thêm. Khoảng hai giờ sáng, tàu Adassa kêu răng rắc, sắp sửa vỡ tan vì bị những ngọn sóng cao bằng nó tới tấp dập vùi.
Người ta khóa kín hành khách lại trong các buồng tàu. Một người đàn bà phát điên. Để cách ly bà ta, người ta đã phải giải phóng đi một buồng. Tiếng la thét của người điên làm cho hành khách ngày càng nản lòng. Trẻ con thi nhau kêu khóc.
Trước lúc trời sáng, một động cơ tàu bị hỏng. Bão vẫn mạnh lên. Những người Do Thái ngồi sát lại bên nhau cầu nguyện Chúa. Một số phàn nàn kêu ca. Một số khác nguyền rủa những người tổ chức chuyến đi. Thuyền trưởng mới tàu Adassa lại phát đi một hiệu lệnh cấp cứu mới.
- Kẻ nào chống chọi nổi tới sáng, thì kẻ đó sống. - Thuyền trưởng thông báo - Hãy tiết kiệm sức lực. Hãy nâng cao giữ vững tinh thần! Người ta sắp sửa tới cứu. Từ trên boong tàu nước chảy vào các buồng, các khoang.
Người ta tổ chức những đội tát nước, nhưng hiệu quả ít ỏi không đáng kể. Nỗi kinh hoảng tăng lên.
- Kẻ nào gây hoang mang sẽ bị bắt giữ! - Loa truyền thanh lại thông báo - Chúng ta sắp sửa được cấp cứu. - Đài radio liên tục phát đi những tín hiệu S.O.S - Tàu Adassa không bị thiệt hại gì, nhưng bão quá lớn. Hãy cố giữ bình tĩnh đến cùng!
Vào lúc năm giờ sáng, cái giọng vẫn kêu gọi mọi người bình tĩnh qua loa phóng thanh, bỗng trở nên “đắc thắng”.
- Chúng ta sống rồi! Bờ không còn xa nữa! Tàu Adassa đã vượt qua cơn thử thách mặc dầu chỉ còn có một động cơ. Chúng ta đang tiến vào gần bờ.
Những ngươi Do Thái sinh bệnh vì sợ, vì tuyệt vọng, vì say sóng, mắt vẫn nhắm nghiền mà tưởng như đang nhìn thấy đất Không phải là Đất Thánh, mà chỉ là một mảnh đất nào đó mà thôi. Và hy vọng được cứu thoát nổ bùng lên như một đám cháy nhà. Đàn ông bất đầu hát những khúc thánh ca, những bài kinh ngợi khen Đấng phép tắc vô cùng.
- Hai chiếc xuồng cấp cứu đang tới gần rồi! - Loa phóng thanh truyền đi - Mọi người hãy bình tĩnh! Chiếc động cơ thứ hai của tàu Adassa vẫn hoạt động nhưng uể oải. Bão vẫn chưa dịu đi. Duy chỉ có niềm hy vọng là đã khắc phục được sự mệt mỏi và cả sự say sóng. Hai sà lúp màu trắng đã tiến sát chiếc Adassa trước lúc rạng đông. Nó chở những nhân viên cảnh sát và nhà chức trách của cảng.
- Tàu quốc tịch nào? - Một giọng nói qua loa phóng thanh.
- Chúng tôi đi Palestine! - Thuyền trưởng Adassa trả lời Chúng tôi bị hỏng máy. Người đông quá. Bệnh, ốm, kinh hoảng bao trùm.
- Chiếc tàu đó quốc tịch nào? - Cái giọng từ chiếc sà lúp lại hỏi.
- Chúng tôi là những người di tản Do Thái! - Thuyền trưởng đáp.
- Một tàu kéo sẽ tới ngay tức thời. Hãy giữ bình tĩnh. Tàu có những giấy tờ gì?
- Yêu cầu các ông chuyển một số hành khách lên sà lúp! - Thuyền trướng tàu Adassa thét - Sơ tán người bệnh.
Trong lúc chờ tàu kéo đến, chiếc Adassa sẽ chạy một mình chầm chậm.
- Trên tàu có bệnh dịch truyền nhiễm không? - Tên công chức hỏi.
- Chúng tôi ai cũng đau ốm tất. Say sóng. Những người già, phụ nữ, trẻ em cần được sơ tán ngay! Họ không chống chọi nổi nữa rồi!
- Hãy giữ bình tĩnh! - Tên công chức nói - Các người sắp sửa được cứu chữa! Các người bảo tàu không bị tổn thất gì. Vậy thì hãy cứ bình tĩnh!
Hai chiếc sà lúp lại rẽ sóng biển đi một cách quả quyết.
Cùng lúc với mặt trời lên, hai chiếc tàu tuần tiễu nhỏ lại xuất hiện với những nhân viên y tế, đàn ông lẫn đàn bà. Họ bước lên boong tàu Adassa. Họ vào trong các ca bin, phân phát rượu rum, thuốc lá, nước chanh. Họ có những hòm kim loại sơn trắng đựng thuốc men. Mỗi hành khách đều được thẩm vấn kỹ càng. Mất cả buổi sáng.
Tàu Adassa tiến lên một cách khó nhọc. Đất liền đâu phải đã gần kề như người ta thông báo đêm vừa qua. Tuy nhiên, bây giờ thì quả là không còn xa bờ lắm nữa. Đến trưa, lại xuất hiện một chiếc sà lúp với các nhà báo và đại diện các cường quốc. Đến lượt các vị lại lên boong tàu.
Số phận chiếc Adassa thì ai cũng đã rõ. Người ta nói đến sự dã man của bọn nazi đã ném ra khơi tám trăm mạng người Do Thái trên một chiếc tàu cỏn con giỏi lắm chỉ chở nổi một trăm người, thiếu hẳn thủy thủ đoàn và mọi phương tiện cấp cứu.
Các bà mặc đồng phục trắng tặng các hành khách những chiếc đai cứu hộ. Họ yêu cầu hành khách thắt vào người họ và kiểm tra xem thắt có chắc chắn hay không. Mỗi hành khách sau đó lại được nhận một chiếc đèn buộc đằng trước ngực bằng một đai da.
- Đây là những phương tiện cứu đắm hiện đại. - Một ông mặc áo trắng nói - Nếu tàu bị đắm ban đêm thì nhờ có đai này mà hành khách được cứu vớt trong đêm tối. Đai cứu hộ hiện đại bao gồm một chiếc đèn điện con con, như vậy các tàu cấp cứu mới thấy được người bị nạn mà vớt họ lên được.
- Bao giờ thì chiếc tàu kéo tới dắt chúng tôi vào bờ? - Thuyền trưởng hỏi - Chúng tôi chen chúc nhau chật chội quá đỗi và sóng gió lại...
Đây là tội ác kinh tởm nhất mà tôi được chứng kiến trong đời tôi! - Một người rất lịch sự nói.
Đó là một người Anh. Ông ta rất bối rối, run lên vì giận.
- Để cho tám trăm con người rời bến ra khơi trên một con tàu cỏn con mục nát, không cả máy móc, không cả phương tiện cứu hộ... Thực tình là sát hại họ. Đây là một cuộc giết người hàng loạt. Một chiếc tàu như vậy, bất chấp mọi luật lệ hàng hải, không có một đoàn thủy thủ lành nghề, không có thuyền trưởng... Chính phủ Rumani sẽ được gọi ra trước tòa án quốc tế về tội ác chống loài người vô cùng kinh tởm này!
Toàn thân dài, mảnh khảnh của người Anh run lên vì giận dữ. Một pháp sư Do Thái tiến tới gần và hỏi ông:
- Thưa Ngài, muốn đi từ Thổ Nhĩ Kỳ sang Palestine thường phải mất bao nhiêu ngày ạ?
- Các ông có giấy tờ hợp lệ để vào Palestine không? - Ông người Anh hỏi.
- Chúng tôi là người Do Thái. - Ông già đáp - Người Do Thái đâu cần giấy tờ gì để trở về đất nước của mình? Và Palestine là đất nước của người Do Thái.
Ông người Anh nhìn vào mắt của vị pháp sư. Việc người Do Thái trở về Palestine là ngược với lợi ích của Đại đế quốc Anh. Câu hỏi ông già đặt ra là một thách thức. Ông người Anh liền thay đổi nội dung câu chuyện.
- Những nước như Rumani không có đủ khả năng tự cai trị lấy mình. Những nước còn khả năng làm những hành vi man rợ như vậy cần phải đặt dưới sự bảo hộ của một nước khác. Kiểm soát các nước man rợ là sứ mệnh của những dân tộc văn minh.
- Ganz richtig! Rất đúng! - Một ông khác nói. Đó là một người tóc nâu, nhân viên Cơ quan báo chí Đức - Đó chính là nhiệm vụ của những dân tộc có văn hóa và văn minh.
- Tôi sẽ không đành lòng nhắm mắt trước khi được đặt chân lên Đất thánh của mình, dầu chỉ mới là đặt cái đầu mút ngón chân lên. - Một người đàn ông râu dài nói.
Ông ta rưng rưng nước mắt. Ông người Anh nhìn sang chỗ khác, về phía một người đàn bà đang bế một đứa trẻ tóc hung trên tay.
- Ngài có thể cho cháu nó lên cùng cùng với Ngài được không? - Người đàn bà hỏi - Tôi không thể cứu được cháu nếu phải đợi chiếc tàu kéo tới. Sẽ quá muộn!
- Bà hãy trình bày với những nhân viên hữu trách. Chỉ họ mới có quyền giải quyết. Tôi chỉ là một quan sát viên trung lập. Tôi có sứ mệnh theo dõi những sự việc xảy ra và báo động cho thế giới văn minh sau những hành vi dã man vô tiền khoáng hậu ấy!
- Ít nhất xin Ngài cho cháu nó được chuyển sang canô của Ngài! - Người đàn bà nói - Một mình cháu thôi!
Và bà ta bế đứa bé tóc hung bọc trong lớp tã vải xanh giơ lên.
Ông người Anh mở máy chụp ảnh một người đàn bà đang giơ đứa bé lên về phía ông ta trên đôi tay đang cầu khẩn.
- Thưa bà, tấm ảnh của bà sẽ chỉ rõ cho phương Tây thấy tình trạng nào sẽ xảy đến nếu như người ta trao trả độc lập cho một số nước chưa vượt qua khỏi giai đoạn dã man. Dư luận công chúng Anh và Mỹ sẽ xúc động sâu sắc, sâu sắc, sâu sắc! Tôi đảm bảo là như vậy.
Ông người Anh cao lớn tóc hung quay mặt đi. Ông ta chụp ảnh nhiều hành khách khác, chụp ảnh cái boong tàu. Sau đó bất bình và cô độc, ông xuống trở lại chiếc canô của ông ta và đi vào bờ. Cho đến tối, người ta mang lại nào thức ăn, nào thuốc men. Những chiếc xuồng nhanh qua lại liên tục với những ông nhà báo, những nhà ngoại giao, những thầy thuốc. Tất cả đều nhất trí cho rằng đây là một sự dã man chưa từng có bao giờ.
- Các người sẽ được cứu, ngay bây giờ! - Gã công chức hải quan bảo.
Những chiếc máy bay theo dõi từng động tác di chuyển của tàu Adassa.
Bão vẫn mạnh. Bây giờ giờ thì trời đã tối đen như mực. Ai nấy đều chờ đợi những tàu kéo tới di tản họ đi. Trên boong tàu có một ít ánh sáng.
Ngay lúc đó, người ta nghe một tiếng nổ như tiếng nổ của một quả bom. Hành khách giật mình. Một vài phút kinh hoàng.
Rồi chiếc Adassa chìm xuống nước rất nhanh, trước khi người ta nghĩ đến. Chìm thẳng một lèo.
Chỉ trong có vài giây đồng hồ mà chiếc Adassa đã hoàn toàn biến mất trên mặt biển. Phần lớn hành khách không kịp nhảy xuống nước, nhưng họ đều có những chiếc đai cứu hộ của các tổ chức quốc tế lớn cho. Và các hành khách Do Thái đã không chìm theo xác tàu. Họ đều nổi trên mặt nước.
Số phận đã không cho họ đến được với mảnh đất Palestine hứa hẹn - mảnh đất của bến bờ thứ nhất - giờ đây lại cấm không cho họ đến cả với mảnh đất thứ hai ở sâu trong lòng biển. Đất đã bị cấm cửa đối với những con người bị nạn của chiếc tàu Adassa - bất luận là đất nào, kể cả mảnh đất được phép đến của những người chết đuối! Họ cứ phải trôi dạt, xa đất, giữa biển, lênh đênh!
Những nạn nhân chìm tàu của chiếc Adassa là những người chết đuối duy nhất đứng ở ngoài quy luật phổ biến. Họ không chìm xuống đáy biển được vì ai cũng có thắt cái đai cứu hộ, quà tặng của những đại dân tộc văn minh!
Phụ nữ, trẻ con, những người chết rồi giờ đây vẫn cứ lềnh bềnh trên mặt sóng với chiếc đèn điện chiếu sáng trên ngực.
Khi các tàu cứu hộ tới nơi, họ chỉ còn thấy những xác chết lềnh bềnh trên mặt Biển Đen, trên ngực đeo một chiếc đèn điện sáng và những chiếc phao nổi!
Các đoàn thủy thủ bèn tiến hành - như vốn quen làm tại các nước có văn minh và văn hóa - việc vớt các tử thi và đưa lên đặt cả trên xuồng.
- Vì sao lại cho họ những cái đèn và những chiếc đai ấy làm gì? - Một thủy thủ Bungary hỏi - Hồi tháng giêng tại Biển Đen, bất cứ người nào bị nạn rơi xuống biển đều chết do có sự chênh lệch quá lớn giữa thân nhiệt con người và nhiệt độ nước biển. Cung cấp cho họ những chiếc đai kia quả là chuyện đáng buồn cười! Hơn nữa, lại còn cung cấp cho họ cả những ngọn đèn điện! Để cho người chết rồi vẫn còn trôi nổi trên mặt sóng với những ngọn đèn thắp sáng trên người.
Trước khi đặt xác chết vào xuồng, các thủy thủ tắt những chiếc đèn mà mỗi người chết còn mang trên ngực họ, không một người bị nạn nào quên thắp lên ngọn đèn sáng của mình.

XXVIII

Những người Do Thái lên tàu Euxin không được phép rời Constantza nữa. Một khu trại lính đã được tu bổ lại cho họ sử dụng, với một số giường và một căn bếp. Người ta bảo họ phải đợi. Một số người muốn quay trở lại Bucarest.
Nhưng quay lại Bucarest cũng bị cấm. Những cuộc thẩm vấn bắt đầu. Eddy Thall là một trong những người đầu tiên được hỏi đến.
- Bà không được quyền trở về Rumani nữa - Viên sĩ quan chịu trách nhiệm chỉ đạo điều tra nói.
Hắn trao cho nàng một tờ giấy. Nàng nhận ra chữ ký của nàng.
- Bà đã viết một lời tuyên bố cam kết từ bỏ quốc tịch Rumani. - Viên sĩ quan bảo - Chẳng ai bắt buộc bà làm như vậy cả. Bây giờ bà đâu còn là công dân Rumani nữa và bà không được phép trở lại Rumani.
- Tôi đã muốn ra đi cùng với chiếc Euxin.
- Chiếc Euxin à? Vấn đề đó đã được xếp lại rồi. Không thể nào cho nhiều người như vậy xuống một con tàu con đã mục nát như thế kia. Để cho các người ra đi trong tình trạng đó quả là điều man rợ nhất trần ai! Các người phải đi tìm một giải pháp khác. Khi cần lắm thì có thể làm một cái đơn xin khôi phục lại quốc tịch Rumani. Hợp pháp mà nói thì bà không còn là công dân Rumani nữa. Quả là bi kịch. Nhưng đời là vậy. Bà hãy tìm một giải pháp khác. Một giải pháp hợp lệ, dĩ nhiên!
Eddy Thall im lặng. Nàng rất quen biết với tình thế này.
Nàng không được phép ra đi và người ta cấm nàng ở lại!
- Bản thân tôi - Viên sĩ quan nói - tôi thấy có hai giải pháp: hoặc bà xin thị thực qua một nước khác, hoặc bà làm một cái đơn khác xin nhập lại quốc tịch Rumani. Hai đằng chọn một. Bà quyết định chọn đằng nào?
- Tôi xin sang Nga - Eddy Thall nói.
Một tạm ước mới đây cho phép các công dân Rumani ở Bessarabie được sang Nga nếu họ muốn.
Viên sĩ quan hé một nụ cười mỉa mai:
- Bà là Cộng sản à?
Eddy Thall mím chặt môi không đáp.
- Chuyến tàu sang Nga ngày mai lên đường. Sang Nga dễ thôi.
Eddy Thall rời bỏ văn phòng. Nàng nhìn biển. Ngày mai nàng sẽ đi Nga, cùng với vài trăm người Do Thái. Nàng không cần phải sửa soạn hành lý gì nữa, bởi tất cả các vali của nàng đã chìm xuống đáy biển cùng với chiếc Adassa.
Nàng ngồi, hai tay ôm đầu. Lần đầu tiên nàng bỗng nghĩ tới anh bạn Pierre Pillat, tới Boris Bodnar đã chạy sang Nga vì thi trượt.
- Hôm nay, mình cũng làm như anh ta. - Nàng tự bảo - Mình cũng ra đi vì những lý do ấy. Lúc nhỏ anh ta đã chọc thủng mắt em. Anh ta bị mọi người coi như một tên vong bản cần loại trừ ra ngoài xã hội. Còn mình, tuy không chọc thủng mắt ai, chỉ duy nhất mình là người Do Thái mà cũng coi như một kẻ vong bản mà xã hội phải loại trừ. Và cũng như Boris mình chẳng còn đâu một chỗ nương thân. Mình sẽ trốn sang Nga. Bên đó, người Do Thái sẽ như thế nào, ai mà biết được?
Eddy Thall khóc. Giai đoạn thứ nhất cuộc sống Do Thái của nàng đã chấm dứt: cuốn sách đầu của người Do Thái. Và nàng khóc cho thân phận mình, cho đời mình, mắt đắm nhìn biển xa.
Chú thích:
[1] Milostiva là tiếng tôn xưng một người đàn bà nhân hậu.
[2] Lêi: Tiền Rumani.
[3] Yiddish là tiếng Do Thái.