Cuộc thẩm vấn thứ hai (tt)

Dịch giả: Quốc Ấn
Cuộc thẩm vấn thứ hai (tt)

    
ực sống của Roubachof vẫn tiếp tục tăng tiến. Sáng ngày thứ mười một, lần thứ nhứt ông được đưa xuống sân để vận động.
Viên ngục tốt già tới tìm ông sau bữa ăn sáng ít lâu, cùng với người vệ binh đã hộ vệ ông lúc đi đến thợ hớt tóc. Lão ngục tốt báo cho ông hay kể từ hôm nay ông có quyền hoạt động hai mươi phút mỗi ngày trong sân. Ông được đưa vô tốp đầu sau bữa điểm tâm. Rồi viên ngục tốt kể một hơi luật lệ: cấm nói chuyện với người bên cạnh hay bất cứ tù nhân nào khác trong lúc đi dạo; cấm ra hiệu với nhau, trao cho nhau thơ từ hay ra khỏi hàng; mọi vi phạm quy lệ sẽ bị trừng trị bằng cách hủy bỏ ngay ưu quyền tham dự cuộc vận động; những trường hợp vô trật tự nặng nề có thể bị phạt bốn tuần trong hầm tối. Kế đó, viên ngục tốt đóng ập cửa lại và cả ba lên đường. Bước đi ít bước, viên ngục tốt dừng lại mở cửa phòng số 406.
Roubachof đứng bên người vệ binh đồng phục cách cửa không xa, thấy chân của Rip Van Winkle ở trong xà lim lúc hắn nằm trên giường. Hắn mang giày “bốt” đen có nút, và mặc quần ô vuông, đã tưa lai, nhưng có vẻ được chải kỹ lưỡng. Ngục tốt lại kể quy lệ; hai chân trong quần ô vuông bước khỏi giường, và một cụ già nhỏ thó nháy mắt hiện ra ở cửa. Mặt lão đầy những râu hoa râm tám ngày không cạo; với chiếc quần bệ vệ, ông mặc áo gi-lê đen có dây đồng hồ bằng kim khí và áo ngoài bằng nỉ đen. Lão đứng ở cửa, nhìn Roubachof với một sự hiếu kỳ trịnh trọng, rồi lão gật nhẹ đầu chào một cách thân thiện, và bốn người cùng đi. Roubachof tưởng mình sẽ đứng trước một người loạn óc, nhưng ông đổi ý. Mặc dầu chân mày lão giựt dữ dội, có lẽ vì bao nhiêu năm bị nhốt trong một xà lim tối tăm, đôi mắt của Rip Van Winkle vẫn sáng và bộc lộ sự hảo tâm ngây ngô. Lão bước có vẻ khó khăn, nhưng với những bước ngắn và cương quyết, thỉnh thoảng lại liếc nhìn Roubachof một cách thân ái. Khi xuống thang, cụ già nhỏ thó bỗng vấp chân suýt té nếu người lính không giữ tay lão kịp. Rip Van Winkle lẩm bẩm mấy tiếng, vì quá nhỏ nên Roubachof không nghe, nhưng có lẽ lão cám ơn bằng những lời lẽ lễ phép; người lính cười với dáng điệu xuân ngốc. Họ do một cánh cửa rào mở sẵn đi vào sân, nơi đã có nhiều tù nhân khác đứng sắp hàng hai. Hai tiếng còi ngắn xuất phát từ đám lính ở giữa sân, và cuộc đi dạo mở đầu.
Trời trong với một màu xanh tái ngắt, và không khí trong suốt đầy một mùi cay cay của tuyết. Roubachof quên mang mền theo nên run rẩy. Rip Van Winkle phủ lên vai một chiếc mền xám sờn rách mà người ngục tốt đã trao cho lão khi lão vừa tới sân. Lão yên lặng đi cạnh Roubachof với những bước ngắn chắc chắn; lão nhấp nháy đôi mắt nhìn trời xanh trong trên đầu họ; chiếc mền xám trùm tận đầu gối lão, bao bọc lão như cái chuông. Roubachof tính thử xem chiếc cửa sổ của xà lim mình ở đâu; cửa ấy dơ và đen tối như những cái khác; không thể thấy gì sau cánh cửa đó. Ông nhìn giây lâu lên cửa sổ của số 402, nhưng cũng chỉ thấy lớp kiếng tối đen sau các chấn song. Số 402 không được phép đi dạo; họ cũng không đưa hắn tới thợ hớt tóc hay đi thẩm vấn; Roubachof chưa bao giờ nghe người ta đưa hắn ra khỏi xà lim.
Họ đi trong yên lặng, bước chậm chạp quanh sân. Giữa đám râu hoa râm, môi lão lay động mãi; lão lẩm bẩm những gì với chính lão. Roubachof ban đầu không hiểu; nhưng rồi ông nhận ra lão già hát nho nhỏ: “Bứng lên, những kẻ bị đầy ải trên địa cầu”. Điên, hẳn là không, nhưng bảy ngàn ngày và bảy ngàn đêm trong ngục tù đã làm cho lão có hơi kỳ dị. Roubachof quan sát lão và thử tưởng tượng một người bị biệt lập với thế giới bên ngoài suốt hai thập niên thì bị ảnh hưởng gì. Cách đây hai mươi năm, xe hơi rất ít và có những hình thức cục mịch; thuở ấy không có ra-điô, và tên của các chánh khách hiện nay lúc bấy giờ không ai biết. Không ai đoán trước được những phong trào quần chủng mới mẻ, những cuộc xê dịch vĩ đại mảnh đất của chánh trị, cả những con đường khúc khuỷu mà Quốc gia Cách mạng đã đi trong những giai đoạn khủng khiếp; trong thời đó, người ta tưởng các cửa của không tưởng sắp mở và người ta từng tưởng tượng nhân loại đã đứng trên thềm của thời vàng son...
Roubachof nhận thấy dầu trí tưởng tượng của ông có cố gắng đến đâu đi nữa cũng không thể hình dung được trạng thái tinh thần của người lân cận, tuy kinh nghiệm về nghệ thuật “nghĩ bằng đầu óc kẻ khác” của ông rất dồi dào. Ông đã thành công không khó nhọc lắm trong trường hợp nghĩ thay cho Ivanof, hay Người số I, hay ngay cả viên sĩ quan mang kiếng một tròng; nhưng đối với Rip Van Winkle, ông thú nhận chịu thua. Ông nhìn ngang sang lão; lão vừa quay đầu về phía ông; ông mỉm cười với lão; hai tay nắm cái mền trùm từ vai xuống, lão đi bên ông với những bước nhỏ, hát gần như không thể nghe được “Bứng lên, những kẻ bị đầy ải trên địa cầu”.
Sau khi được đưa trở về tòa nhà, đến cửa xà lim, lão già còn quay lại gật đầu chào Roubachof; đôi mắt lão chớp lia với một sự thay đổi cảm giác bất ngờ, lão có vẻ khủng khiếp và thất vọng; Roubachof tưởng chừng lão sắp kêu cứu với ông, nhưng viên ngục tốt đã đóng cửa số 406. Khi Roubachof vào tới xà lim, ông đi thẳng tới bức tường; nhưng Rip Van Winckle nín không trả lời những tiếng gõ của ông.
Số 402, ngược lại, đã nhìn họ qua cửa sổ của hắn, muốn ông kể lại cuộc đi dạo với tất cả chi tiết. Roubachof phải nói với hắn không khí ra sao, trời lạnh hay chỉ mát thôi, ông có gặp những tù nhân khác trong hành lang hay không và chót hết, ông có trao đổi được vài lời với Rip Van Winkle hay không. Roubachof phải kiên nhẫn trả lời tất cả những câu hỏi của hắn; so với số 402, kẻ không bao giờ được phép ra khỏi xà lim, ông cảm thấy mình được ưu đãi hơn, ông tội nghiệp hắn và cảm thấy gần như một mặc cảm tội lỗi.
Hôm sau và hôm sau nữa, họ đến tìm Roubachof để đi dạo vào giờ đó sau bữa ăn sáng. Rip Van Winkle luôn luôn là kẻ đồng hành với ông. Họ đi cạnh nhau, mỗi người với cái mền trên vai, cả hai đều im lặng: Roubachof, chìm đắm trong suy tư, thỉnh thoảng nhìn chăm chú xuyên qua kiếng kẹp mũi những tù nhân khác hay các cửa sổ của khám đường; lão già, với bộ râu xồm xoàm mỗi ngày một dài thêm, và nụ cười dịu dàng như trẻ con, hát nho nhỏ câu hát muôn thuở của lão.
Đến phiên dạo thứ ba cạnh nhau, họ vẫn không trao đổi một lời nào cả, mặc dầu Roubachof nhận thấy các ngục tốt không áp dụng triệt để lịnh im lặng, và những cặp khác nói chuyện không ngớt, họ vừa trò chuyện vừa giả bộ nhìn thẳng tới trước, môi gần như không động đậy.
Ngày thứ ba, Roubachof mang theo sổ và viết chì; Quyển sổ ló cao lên ở túi trái của chiếc áo ngoài. Độ mười phút, lão già nhận thấy; đôi mắt lão sáng lên. Lão lẻn nhìn bọn ngục tốt đứng ở giữa sân đang nói chuyện ầm ĩ với nhau không để ý đến các tù nhân rồi lão rút mau quyển sổ và cây viết chì ở túi Roubachof hí hoáy viết, vừa giấu dưới cái mền. Viết xong lão xé tờ giấy nhét vào tay Roubachof; lão vẫn giữ viết và quyển sổ tiếp tục viết nữa. Roubachof xem thấy bọn ngục tốt không nhìn mình liền đọc trang giấy. Không có chữ nào trong đó, mà là một hình vẽ: bức địa đồ của quốc gia họ đang ở, vẽ với một sự chính xác đáng ngạc nhiên. Người ta thấy những thành phố quan trọng, núi non và sông ngòi, và một cây cờ cặm ở giữa có mang biểu tượng của Cách mạng. Khi họ đi vòng trở lại, số 406 xé trang thứ hai trao sang tay Roubachof và chờ đợi với một nụ cười để xem Roubachof có thái độ nào. Roubachof cảm thấy bối rối trước cái nhìn đó và thì thầm mấy lời cám ơn. Lão già nháy mắt.
- Tôi có thể vẽ mà không cần mở mắt.
Roubachof gật đầu.
- Ông không tin, - Lão già nói vừa mỉm cười - nhưng mà tôi tập vẽ như vậy đã hai mươi năm qua.
Lão liếc mau về đám lính canh, mắt nhắm lại, không chậm bước, bắt đầu vẽ trên trang giấy trắng, dưới vòm mền. Hai mắt lão hoàn toàn nhắm lại, và lão hất hàm lên với một cử động cứng ngắc như kẻ mù. Roubachof nhìn đám lính canh một cách lo ngại; ông sợ lão già vấp chân hay đi ra khỏi hàng. Nhưng chỉ nửa vòng, bức vẽ đã xong, nét hơi run hơn những bức kia, nhưng cũng gần đúng như vậy; chỉ có biểu tượng trên lá cờ ở giữa bức địa đồ có kích thước không tương xứng thôi.
- Bây giờ ông tin tôi phải không? - Số 406 thì thầm với một nụ cười rạng rỡ.
Roubachof ra dấu nhìn nhận. Bấy giờ gương mặt lão già tối sầm lại; Roubachof nhận thấy đáng khủng khiếp mà lão thường có mỗi lần người ta nhốt ông trở lại trong xà lim.
- Tôi bất lực trong vụ này - Lão nói nho nhỏ - Họ đưa tôi lên một chuyến xe lửa không đúng.
- Sao vậy? - Roubachof hỏi.
Rip Van Winkle mỉm cười với một cách dịu dàng và buồn thảm.
- Lúc khởi hành, họ dẫn tôi tới một nhà ga không đúng như tôi muốn, - Lão nói - và họ tưởng là tôi không biết. Đừng nói với ai là tôi biết. - Lão thì thầm, vừa láy mắt chỉ đám lính canh.
Roubachof gật đầu. Một lúc sau tiếng còi vang lên cho biết cuộc di dạo chấm dứt.
Kế đó có kẻ giựt nước, và nước tuôn xuống ống với một âm thanh đều đều.
4.
Chiếc xe đưa các nhân viên tới đây đậu trước cửa: một chiếc xe hiệu Mỹ, mới toanh. Trời còn tối; người tài xế mở đèn pha; con đường đang ngủ hoặc giả bộ ngủ. Họ lên xe, trước tiên là tên trẻ, rồi Roubachof, kế đó là người lớn tuổi trong số hai viên chức. Người tài xế cũng mặc đồng phục, mở máy. Nhựa đường dừng lại ở một góc đường; họ hãy còn ở trung tâm thành phố; chung quanh họ vươn lên những tòa nhà tân thời chín mười từng, nhưng đường sá là những con lộ gồ ghề như ở nhà quê, đầy bùn sình đông đặc, lấm tấm tuyết ở những nơi nứt nẻ. Người tài xế lái thật chậm và các ống nhún sang trọng của chiếc xe nghiến ken két và rên rỉ như một chiếc xe bò.
- Lái mau đi - Người trẻ tuổi bảo, vì không chịu nổi sự yên lặng trong xe.
Người tài xế nhún vai, không quay lại. Khi Roubachof lên xe, y đã nhìn ông một cách lạnh lùng, không hảo ý. Trước kia, Roubachof gặp tai nạn; người lái chiếc xe cứu thương cũng đã nhìn ông như vậy. Sự gập ghình chậm chạp trên những con đường vắng ngắt, với ánh đèn pha chập chờn trước họ thật khó chịu.
- Còn xa không? - Roubachof hỏi mà không nhìn những kẻ đồng hành. Ông suýt thêm - Từ đây đến bịnh viện.
- Cũng phải nửa giờ. - Người lớn tuổi mặc đồng phục bảo.
Roubachof rút gói thuốc, lấy một điếu đặt lên môi và đưa gói thuốc mời mọi người do thói quen. Tên trẻ từ chối hẳn, người lớn tuổi lấy hai điếu, trao một điếu cho tài xế đặt một tay lên vành nón kết, quẹt lửa cho mọi người, chỉ lái một tay. Roubachof cảm thấy nhẹ nhàng hơn; đồng thời, ông tự trách mình đã có cảm giác ấy. Đây đúng là lúc gây cảm tình, ông tự bảo. Nhưng ông không thể ngăn ý muốn nói lên và đưa ra quanh mình một ít hơi nóng của con người.
- Tiếc cho cái xe - Ông nói - Xe hơi ngoại quốc làm tốn vàng của ta không ít, vậy mà sau sáu tháng chạy trên đường của ta là kể như bỏ.
- Cái đó thì đúng, ông có lý. Đường sá của chúng ta quá lạc hậu - Tên lớn tuổi nói.
Giọng nói của người này cho Roubachof thấy rằng y hiểu cảm giác bị bỏ rơi của Roubachof. Roubachof cũng có cảm tưởng con chó được người ta quăng cho khúc xương; ông nhứt định không nói nữa. Nhưng tên trẻ nói với giọng rừng rú:
- Đường sá ở các nước tư bản tốt hơn hả?
Roubachof không thể nén cái mỉm cười:
- Anh chưa bao giờ ra khỏi nhà à?
- Nhưng tôi dư biết đường sá của chúng nó ra sao mà - Tên trả lời - Ông đừng giở trò lòe tôi.
- Nhưng thật sự anh cho tôi là người gì? - Roubachof hỏi một cách bình tĩnh. Tuy nhiên ông cũng phải nói thêm - Anh cần phải học chút đỉnh lịch sử của Đảng.
Tên trẻ nín lặng và nhìn trân trối lưng người tài xế. Không ai nói tiếng nào nữa. Lần thứ ba, người tài xế thắng bớt làm máy xe khịt khịt mấy cái rồi cho vọt tới, vừa chửi thề. Họ vượt qua vùng ngoại ô trên con đường gập ghềnh; ở đây không có gì thay đổi với những ngôi nhà cây tồi tàn. Trên cao, ánh trăng lợt lạt và lạnh lẽo rọi xuống khung cảnh đổ nát ấy.
5.
Trong mỗi hành lang của khám đường kiểu mẫu đều có ánh đèn điện. Ánh sáng tái nhợt ấy kéo lê thê trên những hàng song sắt, trên tường trống trải quét vôi, trên những cánh của xà lim có lỗ nhìn đen thui mang những bảng tên tù nhân. Thứ ánh sáng buồn cười ấy, những bước chân không tiếng vang của tù nhân trên nền gạch gây cho Roubachof cái cảm giác đã thấy qua rồi và trong vài giây đồng hồ, ông chìm đắm trong ảo ảnh mình hãy còn trong cơn mơ. Ông cố tự thuyết phục rằng không có gì trong quan cảnh trước mắt là sự thật. “Nếu ta tin tưởng được rằng mình đang mơ, ông nghĩ, thì thật sự đây là một giấc mơ”.
Ông cố tự dối mình nồng nhiệt đến nỗi cảm thấy chóng mặt; kế đó ông suýt nghẹt thở vì hổ thẹn. “Đâm lao phải theo lao, và phải theo tới cùng”, ông nói với mình. Họ đi tới xà lim số 404. Trên lỗ nhìn, có một mảnh giấy cứng mang tên ông, Nicolas Salmanovitch Roubachof. “Họ đã chuẩn bị đầy đủ cả”, ông nghĩ; nhìn tên mình trên tấm giấy làm ông có một cảm giác kỳ lạ. Ông muốn xin người gác khám thân mật cái mền, nhưng cánh cửa đã đóng ập lại.
6.
Cách khoảng đều đều, người gác khám nhìn qua lỗ dòm vào xà lim của Roubachof. Ông bình thản ngủ trên giường; chỉ có bàn tay ông thỉnh thoảng nắm chặt lại trong giấc ngủ. Trên nền gạch cạnh giường ông để cái kiếng kẹp mũi và đoạn thuốc hút còn lại.
Vào bảy giờ sáng, hai giờ sau khi bị đưa đến xà-lim số 404, một hồi kèn đánh thức Roubachof. Ông đã qua một giấc ngủ không mộng mị, và cảm thấy đầu óc sáng suốt. Kèn lặp lại ba lần một đoạn nhạc chát chúa. Những nốt nhạc chói tai vang lên rồi tắt dần; chỉ còn lại một sự yên lặng khó chịu.
Trời chưa sáng hẳn; chiếc bồn vệ sinh và bồn rửa mặt tượng hình lờ mờ trong ánh bình minh. Những song sắt cửa sổ thành những vệt đen trên kiếng dơ dáy; phía trên, bên trái, một mảnh báo dán vào mảnh kiếng bể. Roubachof ngồi lên, vói tay lượm cái kiếng kẹp mũi và khúc thuốc điếu cạnh giường rồi nằm trở lại. Ông gắn kiếng lên sóng mũi rồi đốt khúc thuốc tàn. Yên lặng vẫn kéo dài.
Trong mỗi ngăn quét vôi của cái ổ ong bằng xi-măng này, nhiều người phải ra khỏi giường cùng lúc, vừa chửi thề vừa mò mẫm trên nền gạch; thế mà nơi đây, trong các xà lim giam giữ những tù nhân bí mật, người ta không nghe gì cả, chỉ thỉnh thoảng có những bước chân xa dần trong hành lang. Roubachof biết ông bị bắt một cách bí mật, và ở đây đến bao giờ bị bắn mới thôi. Ông đưa những ngón tay xuyên qua chồm râu nhọn dưới cằm, hút đoạn tàn thuốc và nằm dài bất động.
“Tôi sẽ bị bắn”. Roubachof tự nói với mình. Ông nheo mắt quan sát sự cử động của ngón chân cái dựng đứng dưới chân giường. Trong hơi ấm áp, ông cảm thấy được yên ổn vc;y chú ý cho bất cứ ai: sự chết với địa vị là yếu tố trong một phương trình hợp lý đã mất tất cả đặc điểm nhục thể thân mật.
Roubachof nhìn trong bóng tối qua chiếc kiếng kẹp mũi. Chuyện đó đã khởi đầu? Hay nó còn phải làm? Ông đã tháo giày vớ; ở đầu mền dưới kia, hai chân trần của ông dựng lên, tái ngắt trong bóng tối. Sự yên tĩnh càng có vẻ bất thường. Không phải là sự vắng âm thanh thường lệ và thoải mái; đó là một thứ vắng lặng đã nuốt chửng mọi âm thanh và dập tắt chúng nó, một thứ vắng lặng rung động như da trống căng thẳng. Roubachof nhìn hai bàn chân trần và lay động chầm chậm những ngón chân. Chúng có vẻ cục mịch và siêu nhiên, như hai chân trắng của ông sống một đời sống riêng rẽ. Ông ý thức với một cường độ bất bình thường về sự hiện diện của cơ thể ông, ông cảm thấy sự đụng chạm ấm áp của cái mền trên đôi chân và sức ép của bàn tay dưới cổ. Sự “thanh toán vật chất” được thực hiện ở chỗ nào? Ông có cảm tưởng lờ mờ rằng việc ấy được thực hiện dưới kia, dưới cầu thang khu ốc, sau phòng hớt tóc. Ông cảm thấy mùi da dây nịt của Gletkin và nghe bộ đồng phục của ông ta cọ xào xạt. Ông ta nói gì với nạn nhân? “Quay mặt vào tường”? và thêm: “xin mời ông”? Hay ông ta nói: “Đừng sợ gì cả. Việc đó không làm ông đau đâu...”? Có thể ông ta bắn mà không báo trước, từ sau lưng tới lúc đang đi? - nhưng nạn nhân hay quay mặt lại luôn. Có thể ông ta giấu cây súng sáu trong tay áo, như nha sĩ giấu chiếc kềm? Có thể còn những nhân vật khác ở đó nữa? Họ có dáng điệu ra sao? Người chết ngã sấp tới hay ngã lui? Hắn có kêu lên không? Có thể ông ta phải bắn viên đạn thứ nhì để kết thúc?
Roubachof hút thuốc và nhìn các ngón chân. Đâu đó đều lặng yên đến nỗi ông nghe tiếng giấy thuốc xoắn lại. Ông hít một hơi thuốc dài. Nhảm, ông tự nói với mình. Một loại tiểu thuyết dành cho các cô gái bán hàng thuê trong các hiệu buôn. Sự thật, ông không bao giờ tin cái thực tế kỹ thuật của “sự thanh toán vật chất”. Cái chết là một cái gì trừu tượng, nhứt là cái chết của chính ông. Phải chăng giờ đây mọi việc đều chấm dứt, và cái gì thuộc dĩ vãng là không có sự thật. Đâu đó đều tối om và im phăng phắc, và số 402 cũng chẳng còn gõ nữa.
Ông ao ước có kẻ nào hét lên bên ngoài để xé tan sư yên lặng to rộng này. Ông hít không khí và nhận thấy tự nãy giờ ông có mùi dầu thơm của Arlova trong mũi. Cả thuốc cũng có mùi của cô, cô đã để những điếu thuốc của cô trong một túi da trong xắc tay, và tất cả những điếu thuốc móc trong đó ra đều thơm mùi phấn của cô... Sự lặng lẽ tiếp nối. Chỉ có cái giường rít lên nhè nhẹ khi ông lay động.
Đúng vào lúc Roubachof định ngồi lên đốt thêm một điếu thuốc thì có những tiếng gõ vào tường:
Họ tới.
Roubachof lắng tai. Ông chỉ nghe tiếng mạch máu gõ ở màng tang. Ông chờ đợi. Sự yên tịnh vẫn dày đặc. Ông mở kiếng và gõ:
Tôi không nghe gì hết...
Một lúc lâu, số 402 không trả lời. Thình lình hắn gõ, mạnh và rõ ràng:
Người số 380. Chuyển dùm.
Roubachof vội ngồi dậy. Ông đã hiểu: tin tức này được chuyển qua mười một xà lim, bởi nhưng ngươi lân cận của số 380. Những kẻ chiếm ngụ các xà lim từ số 380 đến 402 họp thành một trạm âm thanh xuyên qua đêm tối và yên lặng. Bị nhốt trong bốn bức tường, họ không tự vệ; đó là một hình thức đoàn kết cua họ. Roubachof nhảy xuống giường, chạy chân không đến tường trước mặt, đứng gần cái bồn vệ sinh và gõ cho số 406:
Coi chừng. Số 380 sắp bị bắn. Chuyển dùm.
Ông lắng nghe. Chiếc bồn vệ sinh xông mùi hôi thay thế cho mùi dầu thơm của Arlova. Không có tiếng trả lời. Ông chạy gấp sang giường. Lần này ông gõ không phải bằng chiếc kiếng mà bằng nắm tay:
Số 380 là ai?
Vẫn không có tiếng trả lời. Roubachof đoán rằng số 402, cũng như ông, phải làm con thoi chạy từ bức tường này sang bức tường khác của phòng giam. Trong mười một xà lim bên trái, các tù nhân chạy không tiếng động, chân không, từ tường này sang tường nọ. Kìa, số 402 đã trở lại bức tường phía ông; hắn báo tin:
Chúng đang đọc bản án. Chuyển dùm.
Roubachof lập lại câu hỏi trước:
Hắn là ai?
Nhưng số 402 đã đi. Chuyển tin cho Rip Van Winkle vô ích, nhưng Roubachof vẫn chạy về phía chiếc bồn vệ sinh và đánh tin; ông bị một ý niệm mơ hồ về bổn phận thúc đẩy để khỏi làm đường dây gián đoạn. Mùi hôi từ chiếc bồn làm ông muốn mửa. Ông chạy về giường mình chờ đợi. Bên ngoài vẫn không có một tiếng động nhỏ nào. Chỉ có bức tường tiếp tục âm vang:
Hắn kêu cứu.
Hắn kêu cứu; Roubachof chuyển cho số 406. Ông lắng tai. Không nghe gì cả. Roubachof sợ phải ói lần tới khi đến gàn chiếc bồn.
Họ đưa hắn đi. Hắn la và giãy giụa. Chuyển giùm.
Hắn tên gì? - Roubachof đánh nhanh, trước khi số 402 dứt câu. Lần này ông được trả lời:
Bogrof. Đối lập. Chuyển giùm.
Hai chân Roubachof bỗng dưng nặng chĩu. Ông qua bên kia, tựa mình vào tường đánh cho số 406:
Michel Begrof, cựu thủy thủ của thiết hạm “Potemkine”, Tư lịnh hạm đội Đông phương, được thưởng Cách mạng bội tinh đệ nhứt hạng, sắp bị hành quyết.
Ông lau mồ hôi ướt đẫm trán, mửa vào bồn và chấm dứt câu:
Chuyển dùm.
Ông không thể gợi lại dược dung mạo Bogrof, nhưng ông thấy rõ dáng dấp đồ sộ của ông ấy, hai cánh tay ve vẫy vụng về, những nốt đỏ trên gương mặt trẹt và rộng, mũi hơi hỉnh. Hai người đã sống lưu đày cùng một phòng sau 1905; Roubachof tập ông ta đọc, viết và dạy ông những căn bản về tư tưởng lịch sử; từ đó, dẫu ở đâu, mỗi năm hai lần ông đều nhận được bằng câu bất di bất dịch: “Người đồng chí của anh, trung thành cho đến chết, Bogrof”.
Họ tới, số 402 hấp tấp gõ, mạnh đến nỗi Roubachof vẫn đứng bên chiếc bồn, đầu tựa vào tường, nghe được từ phía bên kia xà lim.
Đứng ở lỗ dòm. Đập tay vào tường. Chuyển dùm.
Roubachof cứng người. Ông chuyển tin cho số 406:
Đứng ở lỗ dòm. Đập tay vào tường. Chuyển dùm.
Ông chạy trong tối đến cửa và chờ. Đây đó đều lặng lẽ như trước.
Vài giây sau, có tiếng đập vào tường:
Họ tới rồi.
Dài theo hành lang, tiếng động thành hồi trầm trọng và âm vang như trong hang thẳm chạy tới gần. Không phải gõ cũng không phải đập: những người bị nhốt trong các xà lim từ số 380 đến 402, họp thành một chuỗi âm thanh và đứng sau cửa như một hàng rào danh dự trong bóng tối, bắt chước thật giống tiếng trống đổ hồi bị trấn áp bớt âm lượng nhưng vẫn trịnh trọng, do gió đưa từ xa tới. Roubachof, mắt dán vào lỗ dòm, hưởng ứng bằng cách đập cả hai tay một cách nhịp nhàng vào cánh cửa xi-măng. Ông ngạc nhiên nghe lượng sóng âm thanh đục ấy tiếp nối ở phía mặt ông bởi số 406 và liên kế; Rip Van Winkle đã hiểu và cùng đập từng hồi vào cửa. Cùng lúc ấy, Roubachof nghe từ bên trái, ở một khoảng còn cách nhãn tuyến của ông, nhưng cánh cửa sắt lăn trên các khe trượt. Phía bên trái ông, trống đổ hồi lớn hơn khi nãy; Roubachof hiểu rằng cửa sắt phân cách tù bí mật và các xà lim thường vừa được mở. Những chiếc chia khóa chạm vào nhau và bây giờ cửa sắt được đóng lại; ông nghe tiếng chân đến gần, lẫn với tiếng kéo lê vật gì trên nền gạch. Hồi trống bên trái to phồng lên như một làn sóng âm thanh bỗng liên tục nhưng đục. Tầm mắt của Roubachof, giới hạn bởi các xà-lim số 401 đến 407 vẫn còn trống. Tiếng vật gì đó bị kéo chuồi trên nền gạch đến gần rất nhanh, và bây giờ, ông phân biệt được tiếng rên rỉ và tiếng khóc, có thể bảo là của một đứa trẻ. Tiếng chân bước mau hơn, hồi trống nhỏ dần bên trái, còn bên mặt thì to lên.
Roubachof đập vào cửa. Ông đã mất hết quan niệm về thời gian và không gian, và chỉ nghe tiếng trống âm vang như từ hang sâu trong rừng thẩm; người ta có thể bảo là đàn khỉ đừng sau song sắt của những cái chuồng, vừa đấm ngực vừa đập trống; ông dán mắt vào lỗ dòm, nhón chân lên xuống vừa đổ hồi trống. Như trước đây, ông chẳng thấy gì khác hơn là những cánh cửa sắt của các số từ 401 đến 407, nhưng hồi trống to hơn, tiếng chân xéo trên nền gạch cùng tiếng khóc gần dần. Bỗng nhiên, nhiều bóng đen bước vào tầm mắt ông: họ đây rồi. Roubachof ngưng đập cửa để nhìn. Thoáng cái, họ không còn ở đó nữa.
Những điều trông thấy trong mấy giây ấy được khắc bằng sắt đỏ vào tâm khảm Roubachof. Hai bóng người không rõ ràng đi qua, họ mặc đồng phục, to lớn và lờ mờ; hai kẻ ấy xốc nách một người thứ ba. Bóng người ở giữa rũ xuống nhưng với sự cứng ngắc như búp bế giữa hai cánh tay, hai chân hắn thỏng dài ra sau, mặt úp xuống, bụng cong về phía mặt đất. Hai chân hắn lết phía sau, mũi giày chạm trên nền gạch gây ra một âm thanh đinh tai mà Roubachof đã nghe từ xa.
Trên gương mặt úp xuống lòa xòa mấy lọn tóc bạc. Miệng mở to. Mặt đầy những giọt mồ hôi lấm tấm, và một giòng nước miếng chảy từ miệng dọc theo cằm. Khi họ lôi người ấy ngoài tầm mắt của Roubachof, sang phía tay mặt và đến tận cùng hành lang, những tiếng rên siết và khóc lóc tắt lần lần trong xa xăm; những âm thanh đó chỉ đến tai Roubachof như tiếng vọng từ xa gồm ba mẫu âm rền rĩ: “u-a-o”. Nhưng trước khi họ đến khúc quanh ở đầu hành lang, gần phòng hớt tóc, Bogrofhạn trong một quên sót văn phạm mà người ta gọi là “ngôi thứ nhứt số ít”. Những câu hỏi thẳng hay những lời lý luận không làm cho hắn cất tiếng; những câu chuyện của hắn hiện đến không có lý do rõ ràng và, điều lạ, là luôn luôn tiếp theo bằng một cơn đau răng dữ dội. Bối cảnh tinh thần của hắn hình như được cấu tạo bằng những yếu tố rời rạc không liên hệ nhau, như những bàn tay chấp lại trong tranh Pietà, những con mèo của chú bé Loewy, một điệu nhạc, một nhịp điệu trong câu thơ như: Hỡi Thần chết, vị Thuyền trưởng già nua... Hay một câu do Arlova nói lên một hôm nào đó. Phương tiện diễn tả của hắn cũng từng đoạn: thí dụ sự cần thiết chùi kiếng mắt vào tay áo, sự cần thiết rờ vào vệt sáng trên tường trong văn phòng Ivanof, những cử động không dằn được của đôi môi để thì thào những câu vô nghĩa như “Tôi sẽ trả”, hay tình trạng si dại gây ra bởi những cơn mơ về những thời khoảng đã qua trong đời ông.
Trong những cuộc đi bách bộ trong xà-lim, Roubachof cố nghiên cứu tận gốc cái thực thể mà ông vừa khám phá; ngại ngùng với sự e thẹn thường lệ trong Đảng trong việc dùng ngôi thứ nhứt của số ít, ông đặt tên cho ngôi này là sự “giả tưởng văn phạm”. Ông có thể chỉ còn sống trong vài tuần nữa, và nhận thấy bị thúc đẩy phải tìm cho ra lẽ, theo đuổi tận cùng giòng tư tưởng của mình. Nhưng biên cương của cái “giả tưởng văn phạm” hình như khởi điểm đúng vào nơi chấm dứt cái “tư tưởng được theo đuổi tận cùng”. Một khía cạnh quan yếu của bản thân ông có lẽ là phải ở ngoài tầm của lý luận để rồi xuất kỳ bất ý, như trong một cuộc phục kích, nhào ra tấn công ông với những cơn mơ và những cơn nhức răng. Do đó, Roubachof dùng suốt ngày thứ bảy trong tù, tức là ngày thứ ba sau cuộc thẩm vấn, để sống lại một đoạn đời đã qua - đoạn đời gồm những liên hệ giữa ông và Arlova, cô gái bị xử bắn.
Vào lúc nào, mặc dầu những quyết định của ông, ông tự đắm mình trong mơ mộng, cũng khó mà biết lúc nào thức cũng như khó biết lúc nào mình ngủ. Trong buổi sáng của ngày thứ bảy, ông ghi chú, và hình như ông đứng lên để bớt cóng cẳng. Rồi khi nghe tiếng chìa khóa trong ổ khóa, ông mới nhận ra lúc ấy đã giữa trưa, và ông đã đi bách bộ trong xà-lim suốt mấy giờ đồng hồ. Ông cũng đã liệng chiếc mền lên vai, có lẽ cũng vì, trong mấy giờ đó, ông bị một loại sốt lay chuyển từng chặp và nghe đập trong màng tang cái gân của chiếc răng, ông đã lơ đãng uống cạn chén sữa mà mấy người lao công đã đồ đầy bằng cái muỗng to, và tiếp tục đi. Người ngục tốt, thỉnh thoảng quan sát ông qua chiếc lỗ dòm, thấy ông rút đầu vào vai như kẻ bị lạnh rung, môi mấp máy.
Roubachof thở trở lại không khí trong văn phòng cũ của ông tại Phái bộ thương mãi, đầy mùi dầu thơm riêng biệt quen thuộc từ thân thể to lớn hòa hợp và uể oải của Arlovj; ông thấy lại trên chiếc áo choàng trắng lằn cong của chiếc cổ nghiêng xuống quyển sổ của cô, trong khi ông đang đọc, và đôi mắt tròn của cô nhìn theo ông lúc ông đi đạo trong phòng trong những khoảng cách giữa hai cầu. Luôn luôn cô mặc áo choàng trắng như các em gái ông ở nhà, những chiếc áo choàng có thêu hoa nhỏ, trên cổ cao, và luôn luôn những đôi hoa tai rẻ tiền rời xa đôi má mỗi khi cô cúi xuống quyển sổ. Với những dáng điệu chậm chạp và thụ động, hình như cô được sanh ra cho công việc này, và cô có một ảnh hưởng làm dịu cân não của Roubachof khi ông làm việc quá sức. Ông đã đến nhậm chức Trưởng Phái bộ Thương mãi ở B. ngay sau vụ chú bé Loewy; và ông xung phong ngay vào công việc; ông cám ơn Trung ương đã cung cấp cho ông loại công việc văn phòng như thế này. Ít khi nào các lãnh tụ thuộc Quốc tế lao động lại được chuyển sang ngành ngoại giao. Chắc hẳn Người số I có những chủ định riêng biệt, vì thường thường, hai hệ thống được giữ hoàn toàn cách biệt, không được phép tiếp xúc nhau, và lắm khi tuân hành hai chánh sách trái ngược nhau. Chỉ có nhãn quan của các giới cao cấp thân cận Người số I mới thấy được và giải quyết các mâu thuẫn hiện ra và làm sáng tỏ các nguyên cớ.
Phải qua một thời gian, Roubachof mới thích nghi được với lối sống mới; ông thấy thin thích khi được một thông hành ngoại giao, một giấy thông hành thật sự được lập với tên thật của ông; ông thấy thin thích khi phải tham dự những cuộc tiếp tân trong lễ phục; khi thấy những cảnh sát viên thẳng người chào ông, và cũng thấy thin thích khi nghĩ rằng các ông này, ăn mặc kín đáo và đội mũ quả dưa đen, lắm khi theo dõi ông chỉ với một lo âu khả ái cho sự an ninh của ông mà thôi.
Ông cảm thấy ban đầu có hơi lạc lõng trong không khí các văn phòng của Phái bộ thương mãi, được đặt bên cạnh sứ bộ. Ông biết rằng trong thế giới trưởng giả, phải cư xử tương xứng với chức vị, phải hòa hợp với những lề lối của họ, nhưng ông nhận thấy cho đến nay họ đóng trò quá hay, hay cho đến nỗi chẳng biết đâu là màu mè, đâu là sự thật. Khi viên Đệ nhứt Tham vụ sứ quán lưu ý Roubachof về một vài thay đổi cần thiết trong lối phục sức và nếp sống - viên Đệ nhứt Tham vụ này, trước cách mạng, đã làm bạc giả cho Đảng - ông ta đã không có thái độ của một đồng chí là làm một cách hài hước, mà lại trình bày thật kính cẩn và với một dáng điệu lịch sự được nghiên cứu tỉ mỉ cho đến nỗi cảnh ấy làm Roubachof bối rối và khó chịu.
Nhân viên của ông gồm mười hai cộng sự viên, mỗi người đều thuộc thứ bực quy định rõ ràng; có các Phụ tá hạng Nhứt và hạng Nhì, những Kế toán viên hạng Nhứt và hạng Nhì; các Tham vụ và Phó tham vụ cũng vậy. Roubachof có cảm giác tất cả xem ông như anh hùng dân tộc pha lẫn với đầu đàn. Họ xử sự với ông một cách kính nể quá độ và một sự khoan dung ngạo mạn. Khi viên Tham vụ của sứ bộ cần phải báo cáo với ông về một tài liệu gì, ông ta cố gắng diễn tả bằng những từ ngữ giản dị mà người ta dùng để nói với kẻ dã man hay một đứa trẻ con. Cô thơ ký riêng của Roubachof, Arlova, là người làm ông ít khó chịu nhứt; nhưng ông không hiểu tại sao, với những áo choàng tuyệt đẹp và những cái váy giản dị, cô ta lại mang giày vẹt-ni với gót cao một cách kỳ dị.
Một tháng trôi qua trước khi ông đưa ra một nhận xét cá nhân. Ông mỏi mệt vì vừa đọc vừa đi tới đi lui, và thình lình ông nhận thấy sự lặng lẽ ngự trị trong văn phòng.
- Tại sao không bao giờ cô nói gì hết vậy, đồng chí Arlova? - Ông hỏi vừa ngồi vào chiếc ghế bành đầy tiện nghi sau bàn làm việc.
- Nếu Ngài muốn, - Cô trả lời với giọng như ngái ngủ - tôi sẽ lặp lại chữ chót của mỗi câu.
Mỗi ngày cô ngồi trước bàn, với áo choàng thêu, đôi vú nặng và thật đẹp nghiêng xuống quyền sổ, đầu cúi xuống và đôi bông tai song song với hai má. Một phần tử duy nhứt không hòa hợp là đôi giày vẹc-ni gót nhọn, nhưng không bao giờ cô tréo chân như phần đông phụ nữ mà Roubachof được biết. Vì lúc nào cũng đi tới đi lui để đọc, ông thường thấy cô từ phía sau hoặc ba phần tư, và cái mà ông nhớ rõ ràng hơn hết là lằn cong của cái ót nghiêng nghiêng. Chiếc ót ấy không nhiều tóc măng cũng không cạo sạch; làn da trắng và thẳng trùm lên các xương cổ: phía dưới, có những hoa thêu trên cổ của chiếc áo choàng trắng.
Khi còn trẻ, Roubachof không liên hệ nhiều với phụ nữ; gần như lúc nào ông cũng chỉ tiếp xúc với các đồng chí, và gần như lúc nào sự tiếp xúc đó cũng bắt đầu bằng một cuộc thảo luận kéo dài đến khuya làm cho kẻ đến nhà người khác phải trễ xe lửa.
Mười lăm ngày nữa trôi qua sau khi cuộc toan tính bắt chuyện với Arlova thất bại. Ban đầu, Arlova lặp lại với giọng như buồn ngủ tiếng chót của câu được đọc; rồi cô không làm nữa, và khi Roubachof ngưng, thì văn phòng lại lặng lẽ và đầy mùi thơm thân thiết. Một chiều nọ, chính ông cũng ngạc nhiên về chuyện này, Roubachof dừng lại sau ghế Arlova, đặt hai tay một cách êm đềm lên vai cô và hỏi cô có muốn tối ấy đi chơi với ông không. Cô không giựt nẩy mình và hai vai cô vẫn bất động dưới bàn tay ông; cô gật đầu trong im lặng và cũng chẳng quay lại. Roubachof không quen bỡn cợt, nhưng tối lại, ông không ngăn được vừa cười vừa nói với cô: “Có thể nói em đang viết những điều tôi đọc”. Hình thức tròn đẹp của đôi gò đảo vun chùng hình như cũng thân thiết trong bóng của gian phòng, làm như cô vẫn ở đó từ bao giờ; nhưng hiện thời, đôi bông tai đã nằm sát trên gối. Đôi mắt cô vẫn không thay đổi khi cô nói câu này, cũng như hai tay chấp lại trong tranh Pietà và mùi rong biển trong hải cảng nhỏ bé, không bao giờ ra khỏi trí nhớ của Roubachof:
- Ngài muốn gì đối với tôi lúc nào cũng được.
- Mà tại sao vậy? - Roubachof hỏi, ngạc nhiên và có hơi hoảng hốt nữa.
Cô không trả lời. Có lẽ cô đã ngủ rồi. Trong giấc ngủ, hơi thở cô vẫn lặng lẽ như khi cô thức. Roubachof không bao giờ nhận thấy cô thở. Ông cũng chẳng bao giờ thấy cô nhắm mắt. Điều đó gây một dáng điệu khác lạ cho gương mặt cô, vì gương mặt diễn tả nhiều với đôi mắt nhắm hơn là mở. Cũng lại lạ lùng những bóng đen của nách cô; cằm cô, thường cúi xuống ngực, giờ đưa thẳng lên như cằm một xác chết. Nhưng mùi thơm nhẹ nhàng thân thiết tiết từ thân cô vẫn thân mật đối với ông, dẫu lúc cô ngủ.
Hôm sau và những ngày nối tiếp, cô vẫn ngồi đó trong áo choàng trắng, cúi xuống bàn; đêm sau và tất cả các đêm, bóng dáng nhợt nhạt của đôi vú cô vươn thẳng lên nền sậm của cái màn trong phòng ngủ. Đêm và ngày, Roubachof song trong cảnh giới ảnh hưởng của thân hình to lớn uể oải của cô. Trong lúc làm việc, cô không hề đổi thái độ, giọng nói và ánh mắt vẫn như cũ, không hề mang bóng dáng một ảo vọng. Thỉnh thoảng, khi Roubachof mệt mỏi vì đọc, ông ngừng sau lưng cô và đặt hai tay lên vai cô; ông không nói gì, và dưới làn áo choàng, đôi vai ấm áp của cô không lay động; khi tìm được ý, ông đi bách bộ trở lại trong phòng và tiếp tục đọc.
Có khi ông thêm vào lời đọc những câu phê bình chua chát thì cô ngưng viết chờ cho đến khi nào ông chấm dứt; nhưng không bao giờ cô cười về những lời chua chát đó, và Roubachof không thể khám phá được cô nghĩ thế nào về những lời ấy. Chỉ một lần thôi, sau một lời diễu cợt đặc biệt nguy hiểm, Roubachof ám chỉ đến vài thói quen riêng biệt của Người số I, thì cô bỗng nói với giọng buồn buồn thường lệ: “Ngài không nên nói như vậy trước những kẻ khác; Ngài cẩn thận trọng hơn một chút...”. Nhưng thỉnh thoảng, nhứt là khi có chỉ thị hay thông điệp “từ trên cao” gởi đến, ông vẫn thấy cần tuôn thả cửa những tiếng dí dỏm bất kể quân thần của ông.
Lúc này, vụ án đối lập lớn thứ hai đang chuẩn bị. Không khí trong sứ bộ trở thành hiếm hoi một cách kỳ lạ. Hình ảnh và chân dung biến mất khỏi các bức tường chỉ trong một tối; những vật ấy được treo từ bao nhiêu năm nay, không ai thèm nhìn, nhưng bây giờ, những vệt sáng lại nổi bật trước mọi con mắt. Nhân viên giới hạn các cuộc đàm thoại trong công việc của sở; họ nói chuyện với nhau một cách lễ phép thận trọng và rào trước đón sau cẩn thận. Trong các bữa ăn ở câu lạc bộ của sứ quán, những cuộc đàm thoại không thể tránh được, thì người ta xào lại những luận điệu của chánh quyền thành thử các cuộc chuyện trò trở thành vụng về, cục mịch, nhứt là trong cái không khí thân mật như ở nơi này; làm như sau khi nhờ nhau lấy muối và hột cải, người ta lại gọi nhau bằng những biểu ngữ trong tuyên ngôn chót hết của Trung ương. Thường xảy ra những việc như một người phản đối kẻ khác vì kẻ này diễn địch sai câu nói của hắn và phân chứng với những người ngồi gần một cách hấp tấp và thiết tha: “Tôi đâu có nói như vậy”, hoặc: “Không đúng như ý tôi muốn nói”. Tất cả những cái ấy cho Roubachof cảm giác một đám hát hình nộm dị kỳ và trang trọng, trong đó, những hình tượng múa rối theo sự chỉ huy của dây sắt, thay phiên nhau trả thuộc lòng hàng chuỗi lời kich. Chỉ có Arlova, với dáng điệu trầm lặng và buồn ngủ, có vẻ không thay đổi.
Chẳng những các chân dung trên tường, mà cả các tủ sách cũng trống bớt nhiều. Nhiều quyền sách biến đi một cách kín đáo, thường thường sau ngày nhận được một thông điệp từ thượng từng. Roubachof xem thông điệp vừa đọc những lời bình luận chua chát; Arlova nghe mà không nói tiếng nào. Phần lớn những quyển sách về ngoại thương biến khỏi các ngăn sách, vì tác giả là một ủy viên nhân dân về tài chánh vừa bị bắt; phần lớn những quyển về lịch sử Cách mạng cũng vậy; phần lớn những quyển về thủ tục tố tụng và triết học của các tác giủa ta”. Ông áp trán vào kiếng cửa sổ. Lần lần ông nhận ra một âm thanh nhẹ; nhưng liên tục trong xà lim.
Ông quay lại, lắng nghe. Có kẻ gõ quá nhẹ đến nỗi mới đầu ông không phân biệt tiếng ấy đến từ bức tường nào. Trong khi ông lắng tai thì tiếng đó đứt. Ông bắt đầu gõ, khởi thủy vào tường phía trên bồn vệ sinh, liền với phòng 406, nhưng không thấy trả lời. Ông thử vào bức tường khác, ngăn phòng 402, cạnh giường ông. Nơi đây người ta trả lời ông. Roubachof ngồi thoải mái trên giường, nơi ông có thể xem chừng lỗ dòm; tim ông đập mạnh. Cuộc tiếp xúc đầu tiên bao giờ cũng gây xúc động.
Người bên phòng 402 gõ rất đều; ba lần với những khoảng cách ngắn, rồi dừng lại, rồi ba lần nữa. Roubachof lặp lại y như vậy để chứng tỏ ông đã nghe. Ông gấp muốn biết người kia hiểu “mẫu tự vuông” chăng - bằng không phải mò mẫm lâu để dạy y. Tường dầy và âm vang rất tệ; ông phải tựa đầu vào mặt tường để nghe rõ, đồng thời canh chừng lỗ dòm. Người bên phòng 402 chắc hẳn thực tập nhiều; anh ta gõ rõ ràng và không gấp gáp, có lẽ bằng một vật cứng như cây viết chì. Ôn lại số tiếng gõ, Roubachof đã hơi lụt về môn này, phải cố gợi ra trước mắt cái hình vuông trong đó các mẫu tự được chia thành hai mươi lăm ô - năm hàng ngang, mỗi hàng năm chữ. Người số 402 ban đầu gõ bốn tiếng - tức là hàng thứ tư: P - T; kế đó hai tiếng; tức là chữ thứ hai của hàng thứ tư: Q. Ngưng một lúc; rồi năm tiếng - hàng thứ năm: U - Z; rồi một tiếng - chữ thứ nhứt của loạt đó: U. Rồi hai tiếng và chót hết bốn tiếng; tức chữ thứ tư của hàng thứ nhì: I. Anh ngừng lại.
QUI? (Nghĩa là: Ai đó?)
Con người thật tế, Roubachof nói. Anh muốn biết ngay người đối thoại là ai. Theo nghi thức cách mạng, đáng lý anh ta phải bắt đầu bằng một khuôn sáo chánh trị nào đó; rồi anh ta có thể nói về chuyện về ăn uống, thuốc hút; và chỉ sau đó thật lâu, nhiều ngày sau, người ta mới tự giới thiệu, cũng có khi không bao giờ xưng tên tuổi. Nhưng đến nay, kinh nghiệm của Roubachof giới hạn ở những nước mà đảng bị đàn áp chớ không phải đảng đàn áp kẻ khác; đảng viên là những người mưu loạn, chỉ biết nhau qua tiểu danh - và hơn nữa họ thay đổi tên thường cho đến nỗi cái tên trở thành vô nghĩa. Ở đây, nhứt định không đúng như vậy. Roubachof tự hỏi có nên cho biết tên mình hay không. Số 402 nóng ruột. Anh lặp lại. Ai đó?
Coi, tại sao không? Roubachof tự nói. Ông gõ cái tên dài của ông: Nicolas Salmanovitch Roubachof, và chờ kết quả.
Trong thời gian rất lâu sau, ông không nhận được câu trả lời. Roubachof mỉm cười; ông ở vào tâm trạng hưởng thức sự ngạc nhiên của người láng giềng. Ông chờ trọn một phút, rồi phút nữa; chót hết, ông nhún vai và đứng lên. Ông trở lại cuộc đi dạo trong phòng giam, nhưng ở mỗi lần quay gót, ông ngừng lại lắng tai nghe. Tường vẫn câm lặng. Ông chà kiếng mắt vào tay áo, tiến bước chậm chạp, mệt nhọc về hướng cửa, nhìn hành lang qua lỗ dòm.
Hành lang trống trải; các đèn điện đưa ra thứ ánh sáng giả tạo tái nhợt; không có một tiếng động nhỏ. Sao số 402 lại câm như hến?
Có lẽ hắn sợ; sợ liên lụy với Roubachof. Có thể số 402 là một bác sĩ, hay một kỹ sư chánh trị, đang run sợ trước ý nghĩ có một kẻ láng giềng nguy hiểm. Chắc chắn anh ta không có kinh nghiệm chánh trị, đáng lẽ hắn không nên khởi đầu bằng cách hỏi tên. Chắc hắn ở trong tù một thời gian, anh ta tiến triển trong nghệ thuật gõ tường, và đang muốn chứng minh sự vô tội của hắn. Hắn còn thấm đầy sự tin tưởng đơn giản rằng có tội hay vô tội chỉ có hắn biết không quan trọng; hắn không có ý kiến nào về những quyền lợi cao cả thật sự đang lâm nguy. Có lẽ hiện giờ hắn ngồi trên giường, viết đơn phản kháng thứ một trăm cho nhà cầm quyền để không bao giờ được họ đọc, hay bức thơ thứ một trăm cho vợ để chẳng bao giờ vợ hắn nhận được; sự thất vọng xui anh để một bộ râu - một bộ râu nhọn như Pouchkine - anh không tắm rửa nữa và mang tật cắn móng tay cùng tật tự thỏa mãn dâm tính quá lố. Trong khám không có gì tệ hại hơn là có ý thức về sự vô tội của mình; sự kiện đó ngăn trở tù nhân thích nghi với đời sống trong tù và phá hoại tinh thần tù nhân... Bỗng tiếng gõ nổi lên trở lại.
Roubachof vội vã ngồi lại trên giường; nhưng ông cũng mất hết hai mẫu tự. Số 402 bây giờ gõ rất mau và không được rõ ràng; chắc chấn anh ta rất xao xuyến. Đáng đời ông lắm.
“Đáng đời ông lắm”.
Thật là chuyện bất ngờ. Người số 402 là một kẻ theo công thức chủ nghĩa. Anh ta ghét bọn đối lập là lẽ dĩ nhiên, anh ta tưởng rằng Lịch sử lăn trên đường rầy theo một lược đồ bất di bất dịch nhờ ở một anh bẻ ghi không hề lầm lỗi, là Người số I. Anh tin rằng việc anh bị bắt là kết quả của một sự hiểu lầm, và tất cả những tai biến từ mấy năm sau này - từ Trung Hoa đến Tây Ban Nha, từ nạn đói đến cuộc tiêu diệt đoàn Lão Vệ binh - đều do hoặc những chuyện ngoài ý muốn đáng tiếc, hoặc do hậu quả của những âm mưu quỷ quái của Roubachof và các bạn hữu của ông ấy thuộc phe đối lập. Bộ râu kiểu Pouchkine của số 402 biến mất; hiện nay anh ta có bộ mặt nhẵn nhụi cụa kẻ cuồng tín; anh siêng năng rửa xà-lim và tuân hành gắt gao quy lệ khám đường. Cần gì cãi cọ với hắn? Những kẻ như vậy vô phương cải hóa. Nhưng không thể bỏ sự tiếp xúc duy nhứt và cuối cùng với thiên hạ.
Ai? Roubachof gõ rất rõ ràng và chậm chạp.
Câu trả lời đến liền và có vẻ bị khích động:
Không dính dáng gì đến ông.
Cũng được, Roubachof trả lời, và cho rằng câu chuyẹn đã chấm dứt, nên đứng lên đi bách bộ trở lại trong phòng. Nhưng những tiếng gõ nổi lên trở lại, lần này thật mạnh và âm vang rõ ràng - chắc hẳn số 402 dùng chiếc giày để nhấn mạnh lời lẽ của y:
Vạn tuế Đức Hoàng Đế!
À! hiểu rồi, Roubachof tự nhủ. Thì ra còn những tên phản cách mạng thật sự và chánh cống - vậy mà chúng mình cứ tưởng ngày nay người ta chỉ thấy bọn chúng trong những diễn từ của Người số I, dưới hình thức những con vật tế thần để che đậy những thất bương tâm gặm nhấm đầu óc ta như bịnh ung thư, cho đến bao giờ nó ăn hết chất xám trong óc ta. Sa-tăng thua và rút lui - nhưng ta không nên tưởng tượng nó nghiến răng và phun lửa trong cơn thịnh nộ. Nó nhún vai; nó ốm và khắc khổ; nó đã từng thấy nhiều kẻ yếu đi và ra khỏi hàng ngũ của nó với những cớ nghiêm trọng...
Ivanof ngừng lại để tự rót cho mình một ly rượu mạnh. Roubachof đi tới đi lui trước cửa sổ. Một lúc sau, ông hỏi:
- Tại sao các người hành hình Bogrof.
- “Tại sao? Vì vấn đề tiềm thủy đỉnh. - Ivanof nói - Đó là vấn đề trọng tải - một cuộc tranh chấp xa xưa mà anh đã không quên lúc khởi đầu.
Bogrof chủ trương kiến tạo những tiềm thủy đỉnh hạng nặng có tầm hoạt động lớn. Đảng chọn loại tiềm thủy đỉnh nhỏ có tầm hoạt động ngắn. Cùng một số tiền, người ta có thể đóng tàu nhỏ ba lần nhiều hơn tàu lớn. Hai phe đưa ra những lập luận kỹ thuật hữu hiệu. Các chuyên viên tung ra vô số đồ thức và công thức đại số; nhưng vấn đề thật sự khác hẳn. Tiềm thủy đỉnh lớn có nghĩa: chánh sách xâm lăng với mục đích làm cuộc Thế giới cách mạng. Tiềm thủy đỉnh nhỏ, nghĩa là chánh sách tự vệ; tức là dời cuộc cách mạng thế giới lại sau này. Hắn chậm tiến những hai thập niên. Hắn không muốn hiểu rằng thời cơ nghịch với ta, rằng Âu châu đang đi qua một thời khoản phản ứng, rằng chúng ta ở trong chỗ trủng của lượng sóng và chúng ta phải chờ lúc được lượng sóng kế tiếp nâng lên cao. Trong một vụ án công khai, hắn sẽ chỉ gây ra sự hỗn độn trong nhân dân. Phương pháp duy nhứt là thanh toán anh ta theo lối hành chánh. Phải chăng anh cũng làm như vậy trong trường hợp tương tự?”
Roubachof không trả lời. Ông ngừng đi và lại tựa lưng vào tường chung với số 406, cạnh chiếc bồn vệ sinh đang xông lên những luồn hơi hôi thúi buồn mửa. Ông gỡ kiếng mắt và nhìn Ivanof bằng cặp mắt đầy tia máu của con thú bị dồn đến bước đường cùng.
- Anh không nghe hắn rên siết sao? - Ông hỏi.
Ivanof đốt thuốc bằng cái tàn thuốc; chính ông ta cũng khó chịu vì mùi hôi của cái bồn.
- Không, - Ông nói - tôi không nghe. Nhưng tôi đã từng thấy và nghe những loại tương tự. Rồi sao?
Roubachof nín thinh. Giải thích làm gì vô ích? Như một tiếng vang, sự rên siết và tiếng trống đổ hồi điếc tai lại vang lên trong tai ông. Sự kiện đó không thể diễn tả được. Giống như nét cong của đôi vú Arlova với những điểm nóng và gần như dựng đứng cũng không diễn tả được. Không có gì có thể diễn tả được. Mảnh giấy của người thợ hớt tóc nói gì? “Hãy chết trong yên lặng”.
- Rồi sao nữa? - Ivanof lặp lại.
Ông đưa thẳng chân và chờ đợi. Không được trả lời, ông tiếp:
- Nếu tôi có một chút gì tội nghiệp anh, tôi để anh yên thân ngay. Nhưng tôi chẳng có chút gì tội nghiệp anh. Tôi uống rượu; gần đây, như anh biết, tôi dùng cả ma túy, nhưng thói xấu được gọi là lòng thương hại, cho tới bây giờ tôi đã tránh nó được. Chỉ cần một liều nhỏ thương hại thôi, là tiêu đời anh. Khóc lóc cho loài người và thở than - anh biết giống người chúng ta mang chứng bịnh đó đến bực nào. Những thi sĩ vĩ đại nhứt của chúng ta bị tiêu diệt bởi thứ thuốc độc đó. Cho đến bốn mươi, năm mươi tuổi, họ là những nhà cách mạng - Kế đó họ tự để cho lòng thương hại ăn tươi nuốt sống, và thế giới xem họ là những bực thánh. Hình như anh cũng có tham vọng như vậy, và anh tưởng đó là một hiện tượng cá nhân, nó sẽ dành cho anh một cái gì vô tiền khoáng hậu...
Ông nói khá to và thở ra một vầng khói.
- Hãy coi chừng những cảm hứng đó - Ông nói - Mỗi chai tinh tửu chứa đựng một trọng lượng tửu tinh đo lường được. Khốn thay, chỉ có một số ít người, nhứt là trong số đồng bào ta, biết ngờ vực rằng những cảm hứng về sự khiêm tốn và sự đau khổ là một loại hàng xấu như những loại mà người ta tự cung cấp cho mình bằng những phương tiện hóa học. Khi tôi tỉnh lại sau lúc bị đánh thuốc mê, và nhận thấy cơ thể mình chấm dứt tới đầu gối trái, tôi cũng cảm thấy một loại cảm hứng về bất hạnh tuyệt đỉnh. Anh nhớ những lời kinh mà anh mang ra thuyết tôi thời đó?
Ông rót một ly rượu nữa và uống một hcri.
- Đây là điểm mà tôi muốn đi tới, - Ông nói - ta không được phép xem thế giới là một loại bọt-đền để hưởng thụ những cảm giác siêu hình. Sự kiện đó, đối với chúng ta, là quy điều đầu tiên. Thiện cảm, lương tâm, nhờm gớm, thất vọng, ăn năn, đền tội, những cái ấy đối với chúng ta chỉ là một loại trụy lạc ghê tởm. Ngồi và tự để cho mình bị thôi miên bằng cái lỗ rún của mình, nhìn lên và đưa ót một cách khiêm cung trước họng súng sáu của Gletkin - đó là một giải pháp giản dị. Sự cám dỗ mạnh nhứt đối với những con người như chúng ta, là tránh bạo động, là ăn năn, là muốn được b&iy hoa dán tường. Ông biết ngay bức ảnh có những gương mặt nhiều râu và những cái tên có đánh số trước kia máng ở đó. Ivanof nhìn theo mắt bạn nhưng không thay đổi sắc mặt.
- Lý lẽ của anh đã hơi quá thời rồi - Roubachof nói - Điều anh lưu ý tôi rất đúng, chúng ta đã quen dùng số nhiều “chúng ta” và cố gắng tránh ngôi thứ nhứt của số ít. Tôi lại mất đi thói quen của cách nói chuyện đó; anh còn giữ nó. Nhưng ai là “chúng ta” mà anh nhân danh để nói chuyện ngày nay? Cần phải định nghĩa rõ ràng tiếng đó.
- Tôi đồng ý với anh - Ivanof nói - Tôi rất vui niừng thấy mình đi rất mau tới trung tâm điểm của vấn đề. Nói cách khác: anh nhìn nhận rằng tiếng “chúng ta” - nghĩa là Đảng, Nhà nước và quần chúng đứng sau lưng - chỉ đại diện cho quyền lợi của cách mạng.
- Tôi không đề cập tới quần chúng trong vụ này. - Roubachof nói.
- Từ bao giờ anh có thái độ khinh khi giới bình dân như vậy? - Ivanof hỏi - Phải chăng điều đó cũng có liên hệ ít nhiều đến sự thay đổi văn phạm nghiêng về ngôi thứ nhứt của số ít?
Ông ngả người tới trước với một dáng điệu đùa cợt hảo ý. Hiện thời, đầu ông đã che khuất vết sáng của tường; và bỗng nhiên cái màn tại bảo tàng viện đến trong óc của Roubachof; đầu của Richard ở giữa ông và hai tay chấp lại trong tranh Pietà. Ngay lúc đó, một cái đau nhói xuyên qua hàm, trán và tay. Trong một giây, ông nhắm mắt lại.
“Bây giờ, tôi trả”, ông nghĩ. Ngay sau đó, ông không nhớ gì nữa nếu ông đã chẳng nói to lên.
- Anh muốn nói gì? - Giọng Ivanof hỏi: Hình như giọng đó ở sát bên tai ông, bỡn cợt và hơi ngạc nhiên.
Sự đau đớn đi qua; sự yên lặng và bình an đến trong tâm trí ông.
- Đừng xen quần chúng vào - Ông lặp lại - Các người chằng biết gì về họ. Có lẽ cả tôi cũng vậy. Xưa kia, khi hãy còn tiếng “chúng ta” lớn, chúng ta hiểu rõ quần chúng hơn ai cả. Chúng ta đã đi vào chiều sâu của họ, chúng ta hoạt động trên chính chất liệu của lịch sử...
Ông rút một điếu thuốc trong cái bao để mở trên bàn của Ivanof mà không nhận thức được cử động của mình. Ivaaof chồm tới đốt cho ông.
- Vào thời đó, - Roubachof tiếp - người ta gọi chúng ta là Đảng của Bình dân. Những kẻ khác, họ biết gì về lịch sử? Những cái nhăn mày thoáng qua, những cơn xoáy nho nhỏ, và những lượn sóng tràn bờ. Họ ngạc nhiên về những hình thức đổi thay trên mặt mà chẳng biết giải thích. Nhưng chúng ta đã lặn xuống dưới sâu, trong những khối không hình thức nhứt định, những khối không tên mà ở thời nào cũng hợp thành chất liệu của lịch sử; và chúng ta là những người đầu tiên đã tìm ra các quy luật chi phối những vận chuyển đó - những quy luật về sự bất động của nó, về những chuyển biến chậm chạp trong cách cấu tạo phân tử và quy luật về những đợt phún xuất bất ngờ. Đó là sự vĩ đại của học thuyết chúng ta. Đám Jacobins là những nhà luân lý học; chúng ta là những nhà kinh nghiệm học. Chúng ta đã đào trong lớp bùn sơ khai của lịch sử và tìm ra được những quy luật của nó. Chúng ta biết rõ nhân loại hơn bất cứ kẻ nào khác; vì vậy mà cuộc cách mạng của chúng ta thành công. Bây giờ, các người đã chôn tất cả trở lại đất đen...
Ivanof, ngồi sâu vào ghế bành, chân vươn đài ra, vừa nghe vừa vẽ trên giấy chậm.
- Tiếp đi - Ông nói - Tôi hiếu kỳ muốn biết anh muốn đi tới đâu.
Roubachof hít thuốc lá một cách sảng khoái. Chất nicotine làm ông hơi cháng váng sau một thời gian vắng thuốc.
- Như anh thấy, tôi nói khá đủ để người ta chặt đầu tôi. - Ông nói với một nụ cười, vừa nhìn vào khoảng vuông sáng trên tường, nơi mà trước kia đã treo bức hình đoàn lão vệ binh. Lần này, Ivanof không theo dõi ánh mắt ông nữa - Nhưng được - Roubachof nói - Thêm hay bớt một người có nghĩa gì? Tất cả đều bị chôn vùi, con người, sự khôn ngoan và những mơ ước của họ. Các người đã tiêu diệt nó. Các người thật sự cho rằng quần chúng đứng sau lưng các người à? Những tên soán nghịch khác ở Âu châu cũng quả quyết như vậy với sự chứng minh như các người.
Ông lấy một điếu thuốc nữa và tự đốt lấy vì Ivanof ngồi bất động:
- Xin lỗi về sự tự mãn của tôi, - Roubachof tiếp - nhưng thật sự anh có tin rằng dân luôn luôn ở sau lưng các người không? Họ chịu đựng các người, câm nín và nhẫn nại, như họ đã chịu đựng những kẻ khác ở những nước khác, nhưng họ không phản ứng nữa trong các từng lớp của họ. Quần chúng đã trở lại điếc và câm, họ lại trở thành khối vô danh im lặng của lịch sử, dửng dưng như biển cả đối với thuyền bè mang trên mặt. Tất cả ánh sáng đi qua đều được phản chiếu trên mặt, nhưng dưới sâu là bóng tối và yên lặng. Từ lâu rồi, chúng ta đã xốc lên những chiều sâu, nhưng việc đó đã dứt rồi. Nói cách khác - Ông ngừng lại và đặt kiếng lên sống mũi - hồi thời ấy, chúng ta đã làm lịch sử; giờ đây, các người làm chánh trị. Đó là tất cả sự khác biệt.
Ivanof ngồi sâu vào ghế bành và phun những vòng khói:
- Rất tiếc, nhưng sự khác biệt không được rõ ràng trước mắt tôi. Có lẽ anh nên vui lòng giải thích thêm.
- Đúng rồi - Roubachof nói - Một nhà toán học có lần nói rằng đại số là khoa học của những kẻ lười biếng - Người ta không tìm biết xem X đại diện cho cái gì, mà lại giải toán với ẩn số đó như đã biết rõ giá trị của nó. Trong trường hợp của chúng ta, X đại diện cho những khối người vô danh tức là nhân dân. Làm chánh trị, tức là giải toán với ẩn số X mà không cần biết tính chất thật sự của nó. Làm lịch sử, tức là nhìn nhận ẩn số X với cái giá trị thật sự của nó trong phương trình.
- Hay, - Ivanof nói - nhưng có hơi trừu tượng. Để trở lại những sự việc cụ thể hơn: vì những lẽ đó, anh muốn nói rằng “chúng ta” - nghĩa là Đảng và Nhà nước - không còn đại điện các quyền lợi của Cách mạng, của quần chúng, hoặc theo ý anh, không đại diện được cho sự tiến hóa của nhân loại được nữa.
- Lần này anh đã hiểu. - Roubachof cười nói.
Ivanof không đáp lại nụể tự thuyết phục chính họ và kẻ khác rằng họ còn sống. Họ lẫn lút ngày đêm trong các đường nhỏ hẹp ở ngoại ô và viết lên tường những khẩu hiệu cũ để chứng minh họ còn sống. Bình minh, họ leo lên các ống khói nhà máy treo cờ, để cho biết họ còn sống. Ít ai thấy truyền đơn của họ, và được là họ mau mau liệng bỏ, vừa run sợ mà thấy thông điệp từ cõi chết hiện về; khi gà gáy, những chiến từ trên tường bị xóa, những lá cờ bị rứt khỏi các ống khói, nhưng chúng vẫn tái xuất hiện không ngớt. Vì khắp nước vẫn còn những nhóm nhỏ tự mệnh danh là “Kẻ chết đang nghỉ hè” và tận dụng đời sống của họ để chứng minh họ hãy còn sống.
Họ thiếu phương tiện liên lạc các nhóm với nhau; sợi dây thần kinh của đảng bị đứt và mỗi nhóm chỉ đại diện cho chính mình. Nhưng lần lần, họ dò đường trở lại chung quanh họ. Những tay chào hàng đáng kính từ ngoại quốc đến, với những chiếu khán giả và những rương hai đáy; đó là các vị Đại biểu. Họ thường bị tra tấn và bị chặt đầu; những kẻ khác thay chân họ. Đảng chỉ còn là một thân thể không sự sống, không thể cựa mình hay hô hấp, nhưng tóc móng vẫn tiếp tục mọc dài ra; các lãnh tụ gởi qua biên giới các giòng điện để tráng lại cái thân thể vô tri và khích động trong tứ chi những trận động kinh.
Pietà... Roubachof quên số 402 và tiếp tục đi sáu bước rưỡi mỗi hướng; ông thấy mình trở lại chiếc băng vòng tròn bọc nhung trong bảo tàng viện thoảng mùi bụi bậm và sáp đánh sàn gỗ. Từ nhà ga, ông đi thẳng tới nơi hẹn bằng xe tắc xi, và ông đã đến sớm vài phút. Ông gần như chắc chắn không bị ai quan sát. Chiếc va-li đựng đầy hàng mẫu mới nhứt của một nhà sản xuất Hòa Lan về dụng cụ cho các nha sĩ, được gởi ở nơi giữ đồ vật. Ngồi tại chiếc băng tròn bọc nhung, ông chờ đợi vừa nhìn qua chiếc kiếng kẹp mũi những khối thịt mềm trải trên các bức tường.
Người trẻ tuổi mang tên Richard lúc này là Trưởng nhóm của đảng trong thành phố này, đến trễ vài phút. Anh chưa hề thấy Roubachof và Roubachof cũng chưa thấy anh bao giờ. Anh đã đi xuyên qua hai phòng vắng người mới thấy Roubachof trên chiếc băng tròn. Một quyển sách nằm trên gối của Roubachof: cuốn Faust của Goethe do nhà Xuất bản quốc tế của Reclam ấn hành. Thanh niên nhìn quyển sách, liếc nhanh chung quanh, và ngồi xuống cạnh Roubachof. Anh rụt rè, ngồi ghé vào chiếc băng, cách một quãng xa Roubachof, chiếc mũ cát kết trên đầu gối. Anh là thợ sửa ống khóa và mặc một bộ y phục đen dành cho ngày chủ nhựt; anh biết rằng một người ăn mặc theo lối thợ thuyền sẽ bị chú ý trong một bảo tàng viện.
- Chào ông - Anh nói - Xin thứ lỗi đi trễ cho tôi.
- Được rồi - Roubachof nói - Trước tiên là danh sách các chiến hữu. Anh có mang theo đó không?
Thanh niên tên Richard lắc đầu.
- Tôi không mang danh sách theo mình - Anh nói - Tôi có tất cả trong đầu, địa chỉ và những gì cần biết.
- Tốt lắm. Nhưng nếu anh bị chúng bắt thì sao?
- Vì vậy, Richard, nên tôi có đưa cho Annie một bản danh sách. Annie, anh biết, là vợ tôi.
Anh ngừng lại, nuốt nước bọt, trái cổ động đậy; rồi lần đầu tiên, anh nhìn thẳng vào mặt Roubachof thấy đôi mắt anh đỏ ngầu; đôi tròng hơi lộ mang nhiều gân đỏ; trên chiếc cổ áo đen, một bộ râu hai ngày chưa cạo phủ cằm và gò má.
- Annie bị bắt hồi chiều hôm qua, anh biết không? - Anh nói, vừa nhìn Roubachof; và Roubachof đọc trong mắt anh niềm hy vọng ấu trĩ rằng ông, Đại biểu của Trung ương Đàng bộ, có thể làm một phép lạ để giúp đỡ anh.
- Thật vậy à? - Roubachof vừa nói vừa chùi kiếng vào tay áo - Vậy thì cảnh sát có cả bản danh sách sao?
- Không, - Richard bảo - bởi vì chị vợ tôi cũng ở trong căn nhà khi họ tới tìm vợ tôi vài chị ấy đã lén lấy được bản danh sách trong người vợ tôi. Đối với chị ấy thì không có gì nguy hiểm, anh biết không. Chị ấy là người của ta.
- Tốt lắm - Roubachof nói - Khi vợ anh bị bắt thì anh ở đâu?
- Chuyện như vầy - Richard nói - Anh biết không, từ ba tháng nay tôi không ngủ ở nhà. Tôi có người bạn thân làm nghề chiếu phim trong một rạp chớp bóng; tôi có thể đến với ảnh và khi trình diễn phim xong, tôi có thể ngủ tại phòng chiếu. Từ đó xuống thẳng dưới đường bằng một cầu thang an ninh. Lại có phim trước mắt... - Anh ngừng lại và nuốt nước bọt - Annie luôn luôn có giấy xem hát do bạn tôi tặng, anh biết không, và khi tắt đèn trong rạp thì nó nhìn về phòng chiếu. Annie không thấy tôi, nhưng nhiều lúc tôi thấy rõ mặt nó khi có nhiều ánh sáng trên màn ảnh.
Hắn ngừng nói. Ngay trước mặt hắn là bức tranh: “Phán xét cuối cùng”: những thiên sứ tóc quăn, mông và chân mập mạp bay giữa cơn giông tố vừa thổi kèn. Phía trái Richard là một bức tranh vẽ bằng nét bút của một họa sư Đức. Roubachof chỉ thấy một phần tranh, phần còn lại bị cái dựa lưng của băng nhung và đầu của Richard che khuất: hai tay gầy của Đức Mẹ ngửa lên trời, chụm lại thành hình cái chén rượu, và một khoảng trời trống trải vẽ bằng những nét ngang. Không thể thấy nhiều hơn nữa vì trong lúc nói chuyện, Richard giữ cái đầu bất động trên chiếc cổ đo đỏ, hơi cúi xuống.
- À này! - Roubachof nói - Vợ anh mấy tuổi?
- Mười bảy.
- Vậy à! Còn anh mấy tuổi?
- Mười chín.
- Mấy con? - Roubachof hỏi đầu hơi vươn lên, nhưng cũng không thấy bức tranh thêm bao nhiêu.
- Mới có thai đứa đầu. - Richard nói, bất động như một khối chì.
Yên lặng một lúc, rồi Roubachof bảo anh kể hết nhân viên của Đảng theo danh sách. Độ ba mươi cái tên. Ông hỏi vài câu và ghi nhiều địa chỉ trong quyền sổ đặt mua những dụng cụ nha khoa của nhà sản xuất Hòa Lan. Ông ghi trên những khoảng trống danh sách dài gồm những nha sĩ và những công dân lương thiện trong vùng, chép ra theo niên giám điện thoại. Khi ông viết xong, Richard nói:
- Bây giờ, thưa đồng chí, tôi muốn báo cáo vắn tắt về công tác của chúng tôi.
- Tốt lắm - Roubachof nói - Tôi nghe đây.
Richard báo cáo. Ngồi cười của ông.
- Anh có quan niệm đó từ bao giờ.
- Tuần tự: trong những năm sau này. - Roubachof nói.
- Anh có thể nói rõ hơn không? Một năm? Hai? Ba năm?
- Đó là một câu hỏi đần độn - Roubachof nói - Anh thành niên hồi mấy tuổi? Mười bảy? Mười tám tuổi rưỡi? Mười chín tuổi?
- Chính anh giả bộ đần độn - Ivanof nói - Mỗi giai đoạn mở mang trí thức của ta là kết quả của những biến cố nhứt định. Nếu thiệt sự anh anh muốn biết: tôi thành nhân hồi mười bảy tuổi, lần đầu tiên tôi bị đày.
- Thời đó, anh là một con người khá đàng hoàng - Roubachof nói - Mà thôi, đừng nghĩ tới vụ đó nữa.
Ông liếc nhìn khoảng trống sáng trên tường và liệng tàn thuốc.
- Tôi lặp lại câu hỏi - Vừa nói, Ivanof hơi ngả người tới trước - Anh thuộc tổ chức đối lập từ bao giờ?
Điện thoại reo. Ivanof giở ống nghe, nói: “Tôi bận việc”. Và gác máy. Ông lùi trở lại trên ghế bành, đưa thẳng chân, chờ đợi câu trả lời của Roubachof.
- Anh biết rõ cũng như tôi, rằng chưa bao giờ tôi tham dự một khối đối lập có tổ chức nào cả.
- Cũng được - Ivanof nói - Anh buộc tôi phải làm cái công việc khổ sở của người cạo giấy.
Ông rút trong hộc tủ ra một tập hồ sơ.
- Ta khởi sự từ năm 1933 - Vừa nói, ông vừa mở những giấy tờ ra trước mặt - Khởi đầu nền độc tài tiêu diệt Đảng trong quốc gia mà sự chiến thắng của ta rõ rệt đến rất gần. Anh được gởi đến đó một cách bất hợp pháp với nhiệm vụ thanh trừng và tổ chức lại các cấp cán bộ...
Roubachof dựa lưng vào ghế nghe tiểu sử mình, ông nghĩ tới Richard, vào lúc hoàng hôn trên thông lộ trưác bảo tàng viện, nơi đó ông đã gọi tắc xi.
-... Ba tháng sau: anh bị bắt. Hai năm tù. Tánh hạnh gương mẫu, họ không tìm được bằng chứng nào về anh. Anh được phóng thích và hồi hương vinh quang...
Ivaaof ngừng lại, liếc nhìn bạn và tiếp:
- Người ta tổ chức các lễ mừng anh trở về. Chúng ta không gặp nhau, có lẽ anh quá bận... Nhưng không vì vậy mà tôi phiền anh. Dầu sao, không ai mong anh đi viếng từng bạn cũ. Nhưng tôi thấy anh trong hai buổi họp trên diễn đàn. Anh còn chống nạng và có vẻ mệt đừ. Đáng lý anh phải vào một viện bài lao nào đó dưỡng sức vài tháng, rồi giữ một ghế trong chánh phủ - sau bốn năm công cán ở ngoại quốc. Nhưng trong vòng mười lăm ngày, anh lại xin một sứ mạng mới ở hải ngoại...
Thình lình, ông chồm tới sát mặt Roubachof:
- Tại sao? - Và lần đầu tiên giọng Ivanof chua chát - Tôi cho rằng anh không thấy thoải mái nơi đây phải không? Trong khi anh vắng mặt, có những thay đổi trong nước mà anh không tán thành.
Ông chờ Roubachof nói một điều gì; nhưng Roubachof ngồi yên trên ghế và chùi kiếng vào tay áo, không trả lời.
- Ít lâu sau, bọn đối lập đầu tiên bị nhìn nhận là phạm tội rồi bị thanh toán. Có nhiều bạn thân của anh trong số đó. Khi được biết phe đối lập mục nát đến mức độ nào, thì sự phẫn nộ trong nước nổ bùng. Anh không nói gì cả. Mười lăm ngày sau, anh đi ngoại quốc, dầu anh vẫn còn phải chống nạng...
Roubachof tưởng như uế khí ở các bến tàu trong hải cảng nhỏ bé, gồm mùi rong biển mục thúi pha lẫn với mùi dầu hỏa đang quanh quẩn trước mũi ông; Paul đô vật lay động hai vành tai; chú bé Loevvy chào với cái ống điếu... Chú ấy đã tự treo cổ vào cây đà của gian phòng sát nóc nhà. Cái nhà cũ kỹ rung động mỗi khi một chiếc xe cam nhông chạy ngang qua; sáng ngày tìm thấy chú bé Loewy, người ta nói với ông rằng thây của hắn quay chầm chậm dưới sợi dây, đến nỗi mới đầu họ tưởng hắn còn động đậy.
- “Sứ mạng anh thành công vẻ vang, anh được cử làm Trưởng phái bộ thương mãi ở B... Lần này, anh cũng làm tròn nhiệm vụ một cách hoàn toàn. Hiệp ước thương mãi với nước B... là một thành công cụ thể. Bề ngoài, hạnh kiểm của anh luôn luôn gương mẫu và không chê trách vào đâu được. Nhưng sáu tháng sau khi anh giữ chức vụ đó, thì hai cộng sự viên thân cận nhứt của anh trong đó có nữ bí thư của anh là cô Arlova, bị triệu hồi, tình nghi âm mưu hoạt động cho phe đối lập. Cuộc điều tra xác nhận những sự hoài nghi đó. Người ta chờ đợi anh công khai phủ nhận hành động của họ. Anh vẫn giữ yên lặng.
Sáu tháng sau nữa, chính anh bị triệu hồi. Vụ án đối lập thứ hai đang xúc tiến. Trong vụ án đó, tên anh được nhắc nhở nhiều lần; cô Arlova mong chờ ở anh để được giải tội. Trong những trường hợp như vậy, im lặng đồng nghĩa với thú tội. Anh biết vậy mà vẫn từ chối đưa ra lời tuyên bố công khai trước khi Đảng gởi tối hậu thư cho anh. Chỉ đến lúc cái đầu của anh bị hăm dọa, anh mới chịu chiều ý Đảng đưa ra một tuyên ngôn trung thành, do đó Arlova bị kết án ngay. Anh biết chuyện gì đã xảy ra cho cô ấy...”
Roubachof nín lặng; ông nhận thấy cái răng của ông nhức trở lại. Ông biết rõ chuyện gì đã xảy ra cho Arlova. Chuyện gì ra cho Richard, cho chú bé Loewy và cho chính ông sau này nữa. Ông nhìn lên cái khuôn sáng trên tường, dấu vết duy nhứt còn lại của những người mà đầu được đánh số. Một lần nọ, Lịch sử đã chọn một con đường ít ra cũng đã hứa hẹn với nhân loại một hình thức của đời sống xứng đáng hơn; giờ đây là hết rồi. Như vậy, cần gì những lời lẽ, những nghi lễ như thế nữa? Cô Arlova cao lớn hiện ở một nơi nào đó trong không gian trống rỗng, ngắm nhìn bằng đôi mắt bò cái tơ đồng chí Roubachof, đã là thần tượng của cô và cũng đã đưa cô đến cõi chết. Chiếc răng của ông càng lúc càng đau thêm.
- Anh có muốn tôi đọc bản tuyên bố công khai của anh lúc đó không? - Ivanof hỏi.
- Không, cám ơn. - Roubachof nói và nhận thấy giọng ông khàn khàn.
- Anh nhớ bản tuyên bố của anh - mà người ta có thể xem như lời thú tội - chấm dứt bằng những lời kết án quyết liệt phe đối lập, và xác nhận sự ủng hộ vô điều kiện của anh đối với chánh sách của Đảng cũng như đối với cá nhân của Người số I.
- Đủ cách Roubachof chừng mấy tấc, trên chiếc băng hẹp, hắn hơi nghiêng ra trước, hai bàn tay to và đỏ đặt trên gối của cái quần dành cho ngày chủ nhựt; chưa lần nào anh đổi cách ngồi trong lúc nói chuyện. Rắn rỏi và chính xác như một kế toán viên, anh nói về những lá cờ trên mấy cái ống khói nhà máy, những khẩu hiệu trên tường và truyền đơn đặt trong các phòng của những nhà máy. Trước mặt anh, các thiên thần thổi kèn giữa cơn giông, sau cái đầu nghiêng nghiêng của anh, Đức Mẹ bị che khuất đưa hai bàn tay gầy; chung quanh hai người, trên các bức tường, những hông, đùi, vú khổng lồ đang ngắm họ.
Những cái vú vàng hực như những quả bôm trở lại trong trí Roubachof. Ông đứng sững lại ở viên gạch đen thứ ba kể từ cửa sổ của xà lim để nghe xem số 402 có còn gõ nữa không. Không có tiếng động nào cả. Roubachof nhìn qua lỗ dòm tìm người ở phòng số 407 đã ngửa tay lấy bánh mì. Ông thấy chiếc cửa sắt xám của xà lim 407 với cái lỗ dòm đen ngòm. Ánh đèn điện vẫn rọi sáng trong hành lang; một sự yên lặng chết chóc trùm phủ; người ta khó tin có những con người sống sau mấy cánh cửa đó.
Trong khi Richard báo cáo, Roubachof không ngắt lới anh lần nào. Trong số ba mươi đảng viên đàn ông và đàn bà mà Richard đã gom lại sau tai biến, hiện chỉ còn mười bảy. Hai trong số đó, một người thợ ở xưởng và người bạn gái của hắn, đã nhảy qua cửa sổ khi lính tới tìm họ. Một người khác đã đào nhiệm, bỏ thành phố, biến mất. Có hai người mà họ nghi là mật báo viên của cảnh sát, nhưng chưa chắc. Trong số ba người đã bỏ Đảng để phản đối Trung Ương đảng bộ, hai đã thành lập một nhóm đối lập và người thứ ba gia nhập vào đảng Ôn hòa. Năm người, trong đó có Annie mới bị bắt chiều hôm qua; người ta biết ít ra cũng hai người trong bọn họ không còn sống. Chỉ còn mươi bảy người tiếp tục phát truyền đơn và viết nguệch ngoạc lên tường.
Richard kể chuyện ấy với đầy đủ chi tiết vụn vặt để Roubachof hiểu rõ đầu đuôi gốc ngọn và những giao dịch cá nhân của hắn; hắn không biết rằng trung ương cục có đặt người tín nhiệm trong nhóm của hắn từ lâu, và người ấy đã cho Roubachof phần lớn những hoạt động của hắn. Hắn cũng chẳng biết người đó chính là bạn hắn chuyên viên chiếu phim điện ảnh mà hắn đã ngủ trong phòng chiếu; cũng chẳng biết từ lâu người đó là tình nhân của vợ hắn, Annie, kẻ bị bắt hôm qua. Richard chẳng biết gì hết, mà Roubachof lại biết rõ. Phong trào đổ vỡ nhưng cục tình báo vẫn còn hoạt động; có lẽ chỉ ngành này còn hoạt động, và lúc ấy do Roubachof chỉ huy. Chuyện đó, thanh niên mặc y phục đẹp có cái ót như bò mộng cũng chẳng hay biết. Tất cả những gì hắn biết, là Annie bị bắt đưa đi và bọn anh vẫn phải tiếp tục rải truyền đơn và viết lên tường; và anh cần phải trông cậy vào Roubachof như đối với cha đẻ anh, người đồng chí này được Trung ương Đảng phái đến; nhưng không nên để lộ tình cảm này cũng không nên cho thấy một chút yếu ớt nào của mình. Kẻ nào tỏ ra dịu dàng và tình cảm thì không xứng đáng với nhiệm vụ, phải bị loại khỏi phong trào, rơi vào sự cô độc và tối tăm.
Trong hành lang, những bước chân tới gần. Roubachof bước đến cửa, gỡ kiếng, đặt sát mắt vào lỗ dòm. Hai viên chức mang dây nịt da to bảng hộ tống một nông dân trẻ tuổi, theo sau là người già nhỏ thó thường mang xâu chìa khóa. Người nông dân có một con mắt sưng húp và một vệt máu đọng đen ở môi trên; lúc đi ngang, anh dùng tay áo chùi máu mũi, cái mặt trẹt của anh mất cả thần sắc. Cách đó không xa và ngoài tầm mắt của Roubachof, một cánh cửa xà lim mở ra rồi đóng sầm lại. Hai viên chức và ngục tốt trở lại.
Roubachof đi bách bộ trong xà lim. Ông thấy lại mình ngồi gần Richard trên chiếc băng bọc nhung; ông nghe trở lại sự yên lặng đè nặng trên hai người khi thanh niên phúc trình xong. Richard không nhúc nhích; hắn chờ đợi, hai tay đặt lên đầu gối. Hắn ngồi đó như kẻ xưng tội và chờ đợi sự phán quyết của vị Giáo đạo. Sự yên lặng kéo dài khá lâu. Kế đó, Roubachof nói:
- Tốt lắm. Hết rối hả?
Thanh niên gật đầu; trái cổ động đậy.
- Có nhiều điều không rõ ràng trong phúc trình của anh - Roubachof nói - Anh nói nhiều lần về những truyền đơn và tài liệu do chính anh thảo ra. Chúng tôi đã thấy rồi, và nội dung bị đả kích nghiêm khắc. Có nhiều ý kiến trong đó mà Đảng không thể nào chấp nhận.
Richard nhìn ông có dáng sợ hãi; hắn đỏ mặt. Roubachof thấy da ở gò má anh đỏ rần lên và đám gân máu đỏ lòm ở hai mắt anh dầy đặc thêm.
- Hơn nữa, - Roubachof tiếp - chúng tôi đã gởi cho các anh nhiều lần những bản văn in sẵn để phân phối, có cả ấn bản đặc biệt khổ nhỏ của cơ quan chánh thức của Đảng. Các anh cũng đã nhận được.
Richard gật đầu. Màu đỏ vẫn không rời mặt hắn.
- Nhưng các anh không phân phối tài liệu của chúng tôi; anh cũng không đề cập tới điều đó trong báo cáo của anh. Thay vào đó, các anh đã cho luân lưu những bản văn do các anh sáng tác - không có sự kiểm soát và đồng ý của Đảng.
- Nh... Nhưng phải l... làm vậy.
Richard đã cố gắng lắm mới thốt được lời ấy. Roubachof nhìn hắn rất kỳ xuyên qua kiếng mắt kẹp mũi; ông đã không nhận thấy tật cà lăm của hắn trước đó. Lạ chưa, ông tự bảo, đây là trường hợp thứ ba trong mười lăm ngày. Những bất thường nho nhỏ mà chúng ta có trong Đảng lên tới một số lượng đáng ngạc nhiên! Phải chăng vì những hoàn cảnh trong đó chúng ta làm việc, hay chính tính chất của phong trào đã tán trợ cho sự tuyển chọn những bất thường ấy?...
- A... Anh ph... phải hiểu, thưa đồng chí - Richard nói với dáng điệu thống khổ càng lúc càng tăng gia - Gi... Giọng của các tài liệu tuyên truyền của các anh không hợp, b... bởi vì...
- Nói nhỏ một chút, - Roubachof bỗng nói với giọne cụt ngủn - và đừng quay đầu về phía cửa.
Một thanh niên cao lớn mặc đồng phục đen cận vệ quân của chế độ bước vào phòng với cô bạn gái của hắn. Đó là một cô gái tóc vàng phì nộn; hắn choàng tay sau cái lưng vĩ đại của cô gái, còn cô ta đặt cánh tay lên vai hắn. Họ không chú ý đến Roubachof và bạn đồng hành của ông, và ngừng lại trước những thiên thần thổi kèn, quay lưng về chiếc băng.
- Đừng ngừng nói chuyện. - Roubachof bình tĩnh nói nho nhỏ, và tự động móc túi lấy ra một chiếc hộp đựng thuốc hút. Rồi, nhớ ra không được hút thuốc trong bảo tàng viện, ông bỏ hộp thuốc vào túi trở lại. Thanh niên như tê liệt vì điện giựt, nhìn trân trối cặp trai gái.
- Đừng ngừng nói - Roubachof bình thản lặp lại - Có phải anh cà lăm từ nhỏ không? Trả lời và đừng nhìn lại đó nữa.
- V... Vài khi. - Richard nói một cách khó nhọc.
Cặp nọ đi dài theo hàng tranh. Họ dừng lại trước bức khỏa thân, vẽ một người đàn bà thật mập nằm ngửa trên một lớp xa tanh nhìn khán giả. Người đàn ông thì thầm mấy lời ý chừng muốn tỏ ra dí dỏm, vì thiếu phụ cười một cách ngu ngốc và liếc nhìn về phía hai người ngồi trên băng. Họ đến một bức họa tĩnh vật hình dung mấy con chim trĩ và trái cây.
- T... Ta có n... nên đ... đi không?
- Không. - Roubachof nói. Ông sợ một khi đứng lên thanh niên dao động như vậy có thể làm thiên hạ chú ý. Họ sẽ đi khỏi đây bây giờ. Chúng ta quay lưng lại ánh sáng; họ không thấy ta rõ ràng đâu. Thở chậm chậm và thật sâu nhiều lần liên tiếp. Sẽ khá ngay.
Thiếu phụ vẫn cười mãi và cặp ấy hướng chầm chậm về phía cửa ra. Lúc đi qua cả hai quay lại nhìn Roubachof và Richard. Họ sắp rời khỏi phòng tranh, khi cô ta chỉ ngón tay về bức tranh Pietà, hai người
dừng lại xem.
- Có phải tôi nói c... cà lăm l... là bất tiện không? - Richard hỏi nhỏ, mắt nhìn dán xuống sàn gỗ.
- Phải ráng tự chủ. - Roubachof nói với giọng lạnh lùng, ông không thể để cho tình cảm len vào câu chuyện.
- Chỉ một lúc là tôi b... bớt - Richard nói, trághĩa là những vụ không có lợi gì nếu đem ra xử công khai... Nếu anh thuộc hạng A, thì anh sẽ bị truất khỏi thẩm quyền của tôi. Thủ tục tố tụng của ủy ban hành chánh là bí mật, và như anh biết, có hơi sơ sài. Không hy vọng đối chứng hoặc những trò kiểu đó. Nghĩ đến vụ...
Iranof kể ra ba bốn cái tên, và liếc nhanh về vệt sáng trên tường. Khi ông quay sang, Roubachof nhận thấy lần đầu tiên gương mặt ông lộ vẻ băn khoăn, mắt bất động như ông không lấy Roubachof làm điểm nhắm, mà điểm nhắm là một vật ở một khoảng cách sau lưng ông.
Ivanof lặp lại nho nhỏ tên của những người bạn cũ.
- Tôi biết rõ họ như anh biết - Ông tiếp - Nhưng anh phải nhìn nhận rằng chúng tôi vẫn tin tưởng những người đó và anh đại điện cho tàn cuộc của Cách mạng, con các anh thì tin tưởng ngược lại. Đó là điểm trọng yếu. Các phương pháp tiếp tục theo đường lối suy diễn hợp lý. Chúng tôi không có thì giờ để mất trong những điểm pháp lý tế nhị. Hồi thời anh, anh có làm như vậy không?
Roubachof không nói gì cả.
- Tất cả đều tùy thuộc, - Ivanof tiếp - nếu anh được sắp vào hạng P, và nếu vụ này còn trong tay tôi. Anh cũng biết những vụ đưa ra xử trước công chúng được ch theo họ. Nhờ đó, Roubachof có thể thấy bức vẽ rõ hơn; ông thấy đôi cánh tay mảnh mai của Đức Mẹ đến tận cùi chỏ. Những cánh tay ốm gầy của một cô gái nhỏ, nâng lên với một sự nhẹ nhàng vô hình về phía chiếc thánh giá vô hình.
Roubachof nhìn đồng hồ tay. Thanh niên nhích xa ông một chút trên băng.
- Chúng ta phải chấm dứt câu chuyện - Roubachof nói - Nếu tôi không lầm, anh nói rằng anh không phân phát tài liệu của chúng tôi là một sự cố ý, bởi vì anh không tán thành nội dung. Nhưng chúng tôi cũng không tán thành nội dung những truyền đơn của anh. Đồng chí có biết rằng có nhiều hậu quả xuất phát từ chuyện đó không?
Richard quay nhìn ông với đôi mắt đỏ lòm. Rồi hắn cúi đầu.
- Chính anh cũng biết rằng những bản văn mà các anh gởi đến chứa đầy vụng về. - Richard nói với giọng mất thần. Bỗng nhiên anh không cà lăm nữa.
- Tôi không thấy như vậy bao giờ. - Roubachof nói với giọng gắt gỏng.
- Các anh viết như không có chuyện gì xảy ra - Richard nói một cách chán chường - Đảng bị tàn sát, các anh lại viết những câu đẹp về cuộc trường hành thẳng lợi của chúng ta - cùng một loại láo khoét như những thông cáo hồi thế chiến. Đưa truyền đơn ấy cho ai, người ta cũng phỉ nhổ lên nó. Chính anh cũng biết như vậy.
Roubachof nhìn đứa trẻ ấy, hiện nghiêng người ra trước, cùi chỏ chống lên đầu gối, cằm trên hai nắm tay đỏ rần.
Ông xẵng giọng:
- Đây là lần thứ hai anh gán cho tôi một ý kiến không phải của chính tôi. Tôi yêu cầu anh đừng làm vậy nữa.
Richard nhìn ông bằng đôi mắt đỏ ngầu với dáng điệu của kẻ không tin người ta nói với mình như vậy. Roubachof tiếp:
- Đảng đang gặp một cuộc thử thách dữ dội. Nhiều đảng cách mạng cũng đã chịu đựng những hồi khó khăn hơn nữa. Yếu tố quyết định là ý chí bất khuất của chúng ta. Kẻ nào ngày nay mềm yếu không xứng đáng ở trong hàng ngũ của chúng tôi nữa. Kẻ nào gieo rắc một không khí khủng khiếp là nối giáo cho giặc. Những nguyên do thúc đẩy kẻ ấy làm như vậy đều hoàn toàn bất lợi. Thái độ của kẻ ấy làm cho y trở nên mối hiểm họa cho phong trào chúng tôi, và y sẽ bị đối xử thích đáng.
Richard vẫn ngồi đó, cằm trong hai bàn tay, quay mặt sang Roubachof:
- Như vậy tôi là mối hiểm họa của phong trào, tôi nối giáo cho giặc. Không biết chừng tôi được người ta mướn làm như vậy. Và Annie cũng vậy...
- Trong những tập tài liệu của anh, - Roubachof vẫn nói giọng gắt gỏng - mà anh nhìn nhận là tác người ta thường đọc thấy những câu như vầy: Chúng ta đã chịu đựng sự thất bại, Đảng đã gặp một tai họa khủng khiếp, và chúng ta phải trở lại điểm khơi đầu để xét lại toàn diện kế hoạch. Đó là sự đầu hàng. Như vậy là làm mất tinh thần và làm hại ý chí đấu tranh của Đảng.
- Tất cả những gì tôi biết, - Richard nói - là ta phải nói sự thật, vì mọi người đều biết tất cả rồi. Nếu ta bảo khác đi là lố bịch.
- Như vậy rồi anh suy luận ra sao? - Ivanof hỏi - Phải chăng chúng ta không cần làm gì cả vì các kết quả của một hành động không bao giờ đoán trước được, và vì vậy mà mọi hành động đều không tốt? Chúng ta phải cam kết bằng cái đầu của mình để trả lời cho từng hành động, không ai đòi hỏi gì thêm được. Trong phe đối thủ, họ không thận trọng được như vậy. Bất cứ một ông tướng ngu xuẩn nào cũng thí nghiệm được với bao nhiêu ngàn cơ thể sống; và nếu hắn phạm một lỗi lầm, hắn sẽ bị về hưu ngay. Quân lực phản động và phản cách mạng không thận trọng cũng không có những vấn đề luân lý. Anh tưởng tượng một Sylla, một Galliffet một Koltschak lại đọc quyển Tội ác và hình phạt sao? Những con chim hiếm hoi như anh chỉ có thể đậu trên những cây của Cách mạng thôi. Đối với những kẻ khác thì dễ hơn...
Ông nhìn đồng hồ. Cửa sổ xà lim mang một màu xám dơ bẩn; mảnh giấy báo dán trên miếng kiếng bể phồng lên và kêu xào xạt trong gió ban mai. Trước mặt, trên tường thành, người lính gác vẫn đi bách bộ.
- Đối với người có một dĩ vãng như anh, sự xoay chiều thình lình chống cuộc thí nghiệm như thế này thật là ngây thơ. Mỗi năm, bao nhiêu triệu người chết vô ích vì bị dịch và những thiên tai. Vậy mà chúng ta phải thối lui trước việc hy sinh ít trăm ngàn người cho cuộc thí nghiệm có triển vọng nhiều nhứt trong lịch sử sao? Ấy là chưa kể nhiều quân đoàn gồm những kẻ chết vì thiếu ăn và ho lao trong các mỏ than và mỏ bạch kim, trong các sở trồng lúa và bông vải. Không ai nghĩ tới chuyện đó; không ai hỏi tại sao; vậy mà khi chúng ta bắn bỏ ít ngàn người khách quan nguy hiểm, các nhà nhân bản học trên toàn thế giới đã sôi bọt mép. Ừ, chúng ta đã thanh toán cái đám nông dân ăn hại và để cho họ chết đói. Đó là một cuộc giải phẫu làm một lần rồi thôi; trong cái thời vàng son trước Cách mạng, họ cũng chết bấy nhiêu trong một năm hạn hán - nhưng họ chết vô cớ. Những nạn nhân các trận lụt của sông Hoàng hà bên Trung Quốc có khi cả mấy trăm ngàn người. Thiên nhiên rất là rộng rãi trong các cuộc thí nghiệm không mục tiêu, áp dụng thẳng vào con người. Tại sao nhân loại lại không có quyền thí nghiệm trên chính mình!
Ông ngừng lại. Roubachof không trả lời. Ông tiếp:
- Có khi nào anh đọc những tập tài liệu của một hội chống thí nghiệm trên cơ thể người sống chưa? Trong đó có những điều thuyết phục được anh và làm anh nát lòng; khi người ta đọc thấy một con chó nhỏ bị cắt lá gan vừa rên rỉ vừa liếm tay đao phủ của nó, người ta buồn nôn, như anh tối nay. Nếu những kẻ đó có quyền, thì chúng ta không có thuốc chủng ngừa dịch tả, thương hàn và bạch hầu...
Ông uống hết chai rượu, ngáp, vươn vai rồi đứng lên. Ông đi cà nhắc tới bên Roubachof trước cửa sổ và nhìn ra ngoài:
- Đã bắt đầu sáng rồi. Đừng làm ra vẻ đần độn, Roubachof. Tất cả những gì tôi nói tối nay đều sơ đẳng, và anh cũng biết như tôi. Anh đã ở trong tình trạng bứt rứt nóng nảy của kẻ tuyệt vọng, nhưng bây giờ thì hết rồi.
Đứng sát bên Roubachof, trước cửa sổ, ông đặt tay lên vai Roubachof, giọng nói của ông gần như thân
ái:
- Bây giờ anh hãy đi ngủ để quên tất cả những chuyện đó đi, anh giống như con ngựa trận già nua; ngày mai là hết hạn rồi; cả hai chúng ta đầu cần sáng suốt để làm tờ khai của anh. Đừng nhún vai; anh chỉ cần bị thuyết phục độ phân nửa là anh sẽ ký. Nếu anh chối bỏ chuyện đó, thì đó chỉ là sự khiếp nhược tinh thần. Sự khiếp nhược tinh thần đã đưa nhiều người đến chỗ tử vì đạo.
Roubachof nhìn ánh sáng xam xám bên ngoài. Người lính canh vừa quay lại về phía mặt. Phía trên pháo tháp và những cây đại liên, trời một màu xám nhạt với một vùng ánh đỏ lóe lên.
- Tôi sẽ suy nghĩ. - Roubachof nói.
Khi cánh cửa đóng lại sau lưng Ivanof, Roubachof biết rằng ông đã đầu hàng phân nửa. Ông nằm vật xuống giường, kiệt lực, tuy nhiên lại cảm thấy dễ chiu một cách kỳ lạ. Ông nhận thấy đầu óc trống rỗng, đồng thời gánh nặng đè lên người ông hình như được trút bỏ. Tiếng gọi đáng tội nghiệp của Bogrof đã mất đi một ít chính xác về âm thanh trong trí nhớ của ông. Ai có thể bảo là phản bội nếu, thay vì trung thành với kẻ chết, người ta trung thành với người sống?
 
8.
- Đại hội của Đảng vừa qua, - Roubachof nói - đã tuyên bố trong một quyết nghị rằng Đảng không hề gặp thất bại và chỉ thi hành một cuộc di tản chiến thuật; và không một lý do nào sửa đổi chánh sách đã đề ra trước đây.
- Chánh sách như vậy, là đồ liệng giỏ rác. - Richard nói.
- Nếu anh tiếp tục như vậy, tôi sợ mình phải chấm dứt ngay câu chuyện.
Richard nín một lúc. Phòng bắt đầu tối; trên tường những hình thể của các thiên thần và những người đàn bà mờ ảo thêm và trở thành u ám hơn.
- Tôi xin anh thứ lỗi, - Richard nói - tôi muốn nói rằng đường lối của Đảng sai lầm. Các anh nói rằng “di tản chiến thuật” trong khi phân nửa đồng chí chúng ta bị giết, những kẻ còn lại rất sung sướng thấy mình còn sống đến nỗi họ ồ ạt sang phe kia. Những quyết nghị trong đó các anh ở ngoại quốc, các anh chẻ sợi tóc làm bốn, thì ở đây không ai hiểu cả...
Những đường nét của Richard bắt đầu mờ ảo trong hoàng hôn. Hắn ngừng nói, rồi tiếp:
- Tôi thí dụ như Annie, chiều hôm qua đã thi hành một cuộc “di tản chiến thuật”. Tôi khẩn cầu anh. Anh phải thông cảm. Ở đây, anh biết không, chúng tôi sống trong rừng rú...
Roubachof chờ xem hắn còn gì nói nữa không, nhưng Richard không nói gì nữa. Màn đêm trùm phủ rất mau. Roubachof mở kiếng chùi vào tay áo.
- Đảng không bao giờ lầm lẫn - Roubachof nói - Anh và tôi, chúng ta có thể lầm. Nhưng Đảng thì không. Đảng là một cái gì vĩ đại hơn anh và tôi và hơn cả ngàn kẻ khác như anh và tôi. Đảng là hiện thân của tư tưởng cách mạng trong lịch sử. Lịch sử không hề biết tế nhị mà cững chẳng biết ngần ngại. Vô tri và không hề lầm lỗi, lịch sử chảy đến mục đích. Ở mỗi khúc quanh trên giòng của nó, lịch sử để lại số bùn mà nó cuốn theo và những thây người bị đắm. Lịch sử biết con đường đi của mình. Nó không bao giờ lầm lẫn. Kẻ nào không tin tưởng tuyệt đối vào lịch sử thì không có chỗ đứng trong hàng ngũ Đảng.
Richard không nói gì; tay nâng đầu, mặt bất động của hắn quay về phía Roubachof. Thấy hắn nín thinh, Roubachof tiếp:
- Anh đã làm trở ngại sự phân phối tài liệu của chúng tôi; anh đã loại bỏ tiếng nói của Đảng; anh đã phát ra những tập sách mà mỗi chữ đều trật và tai hại; anh đã viết: “Những kẻ còn lại của phong trào cách mạng phải tập họp và tất cả các lực lượng đối nghịch với bạo lực phải hợp nhứt; chúng ta cần chấm dứt những cuộc huynh đệ tương tàn quá lâu, và tiếp tục cuộc tranh đấu chung”. Như vậy là trật. Đảng, không thể kết hợp với bọn Ôn hòa. Chính bọn ấy không biết bao nhiêu lần, đã quyết tâm phản bội phong trào, và chúng sẽ tái phạm vào dịp tới và kế tiếp. Hòa giải với chúng là chôn cách mạng. Anh đã viết: “Khi lửa tới nhà, mọi người phải hợp tác dập tắt nó; nếu chúng ta tiếp tục tranh luận về những điểm của chủ nghĩa, chúng ta sẽ bị biến thành tro”. Trật. Chúng ta, ta chống lửa bằng nước; những kẻ khác đồ dầu vào lửa. Chúng ta phải quyết định xem phương pháp nào tốt, nước hay dầu, trước khi dung hợp các đoàn chữa lửa. Ta không thể làm chánh trị kiểu đó.; Chúng ta không thể công thức hóa một chánh sách vì phẫn nộ và vì thất vọng. Đường lối Đảng đã được quy định rõ ràng; như một con đường mòn nhỏ hẹp trên núi. Bước trật sang phải hay sang trái là xuống hố sâu. Không khí ở đó cũng ít oi, kẻ nào bị chóng mặt là mất mạng.
Bóng mờ hiện thời đã dầy đặc đến nỗi Roubachof không còn thấy đôi bàn tay của bức tranh Pietà. Chuông reo hai hồi, chát chúa và thấm thía; mười lăm phút nữa, viện bảo tàng sẽ đóng cửa. Roubachof nhìn đồng hồ tay; còn phải nói tiếng quyết liệt, rồi thì chấm dứt. Richard ngồi bất động bên ông, cùi chỏ đặt lên đầu gối.
- Thưa anh, - Hắn nói - tôi không có câu trả lời về những việc đó - Giọng hắn thều thào và mệt mỏi - Những gì anh nói hẳn phải đúng. Và điều anh nói về đường mòn trên núi rất đẹp. Nhưng tất cả những gì tôi biết là chúng ta đã đại bại. Những kẻ còn lại bỏ chúng ta. Có thể vì trời lạnh quá trên con đường núi mòn! Những kẻ khác - họ có nhạc và cờ đẹp và họ ngồi tất cả quanh ngọn lửa thật ấm. Phải chăng nhờ vậy mà họ thắng. Còn chúng ta, thì chúng ta chịu đủ mọi thống khổ.
Roubachof yên lặng nghe. Trước khi đọc bản án quyết liệt, ông muốn biết thanh niên còn muốn nói gì nữa không. Hiện nay không thể thay đổi bản án dẫu hắn nói gì đi nữa; nhưng ông vẫn chờ.
Bóng dáng mạnh dạn của Richard càng lúc càng mờ trong hoàng hôn. Hắn nhích ra xa Roubachof hơn nữa trên băng tròn; hai vai hắn cong xuống và mặt hắn vùi gần trọn vẹn trong hai bàn tay. Roubachof ngồi thẳng lên trên chiếc băng; ông chờ đợi. Ông cảm thấy đau nhói ở hàm trên; chắc hẳn chiếc răng cửa hư.
Một lúc sau ông nghe giọng nói Richard:
Roubachof đưa lưỡi rà chiếc răng đang làm ông đau. Ông thấy cần phải đưa ngón tay rờ vào nó trước khi nói lời quyết liệt, nhưng ông cố nhịn. Ông nói một cách bình tĩnh:
- Chiếu theo quyết nghị của Trung ương, tôi báo cho anh biết, anh Richard, rằng anh không còn là đảng viên nữa.
Richard không nhúc nhích. Lần này, Roubachof cũng chờ một lúc trước khi đứng lên. Richard vẫn ngồi. Anh chỉ ngẩng đầu lên nhìn ông và hỏi:
- Có phải vì việc này mà anh tới không?
- Đại để là vậy. - Roubachof nói. Ông muốn đi, nhưng đứng lại trước Richard và chờ đợi.
- Giờ đây, tôi sẽ ra sao? Richard hỏi.
Roubachof không nói gì. Một lúc sau, Richard nói:
- Bây giờ, tôi nghĩ rằng tôi cũng không thể ở trong phòng chiếu phim của bạn tôi nữa phải không?
Roubachof hơi do dự trước khi nói:
- Như vậy càng tốt cho anh.
Ông tự trách mình ngay đã thốt ra câu đó, đồng thời ông cũng không chắc Richard hiểu những gì ông muốn nói. Ông nhìn xuống hình hài sụp đổ của Richard:
- Tốt hơn là chúng ta ra khỏi bảo tàng viện riêng từng người. Chào anh.
Richard nhổm lên, nhưng vẫn ngồi. Trong bóng mờ, Roubachof không thể đoán được sự biểu lộ của đôi mắt đỏ ngầu, hơi lộ của hắn; tuy nhiên, chính hình ảnh mờ ảo của cái thân thể nặng nề ngồi bất động đó đã ghi mãi mãi vào tâm não Roubachof.
Ông ra khỏi gian phòng, đi xuyên qua phòng kế đó, cũng trống trải và tối tăm. Bước chân của ông nghiến ken két trên sàn nhà. Chỉ đến lúc tới cửa ra ông mới nhớ mình đã không nghĩ đến việc nhìn bức vẽ Pietà; hiện thời, ông chỉ biết chi tiết hai tay chấp vào nhau và những cánh tay gầy mà thôi.
Đến những bực thềm, ông dừng lại. Chiếc răng của ông càng nhức nhối thêm; bên ngoài, trời lạnh. Ông quấn quanh cổ chiếc khăn choàng len màu xám cũ. Những ngọn đèn đường đã cháy sáng trên công trường rộng và yên tĩnh trước bảo tàng viện; vào giờ đó rất ít người; một chiếc xe lửa nhỏ chạy rầm rầm trên thông lộ trồng cây hai bên, vừa giựt chuông. Ông tự hỏi có thể tìm được tắc xi không.
Richard theo kịp khi ông đến bực thềm chót; hắn thở hào hển, gần đứt hơi. Roubachof tiếp tục đi, không gấp gáp cũng không chậm lại và không quay đầu. Richard cao hơn ông cái đầu và mập hơn nhiều, nhưng hắn rút đầu xuống hai vai, có vẻ nhỏ nhoi bên Roubachof và bước chậm lại. Đi được vài bước, hắn nói:
- Phải chăng là lời cảnh cáo, khi tôi hỏi anh tôi có nên xa bạn tôi không thì anh nói: “Như vậy càng tốt cho anh”?
Roubachof thấy một chiếc tắc xi bật đèn pha sáng chói đang chạy lên thông lộ. Ông đừng lại bên lề, chờ xe tới. Richard đứng bên ông.
- Tôi không còn gì nói với anh Richard. - Roubachof vừa nói vừa gọi tắc xi.
- Đồng chí - nh... nhưng đồng chí đừng tố cáo tôi, đồng chí... - Richard nói.
Chiếc tắc xi chậm lại, chỉ còn cách chừng hai chục bước. Richard khòm lưng trước Roubachof; hắn nắm tay áo choàng của ông và nói thẳng vào mặt ông; Roubachof cảm thấy những giọt nước miếng của hắn văng lên trán ông.
- Tôi không phải kẻ thù của Đảng - Richird nói - Anh không nên đưa tôi đến lò thịt, đ... đồng chí...
Chiếc tắc xi dừng lại bên lề; hẳn người tài xế đã nghe tiếng sau cùng. Roubachof tính toán rất mau rằng mình có xua đuổi hắn cũng chẳng ích lợi gì; một cảnh sát viên ngừng xe cách đó lối một trăm thước. Người tài xế, một lão già nhỏ thó mặc áo da, nhìn hai người một cách bình thản.
- Tới nhà ga. - Roubachof nói khi bước lên tắc xi.
Người tài xế thò tay ra sau đóng ập cửa xe. Richard đứng trên lề đường, mũ cát-két trên tay; trái cổ của anh lay động dữ dội. Tắc xi khởi chạy, hướng về phía người cảnh sát rồi vượt khỏi nhân viên này. Roubachof không quay nhìn lại, nhưng ông biết Richard vẫn đứng trên lề nhìn trân trân đèn đỏ xe tắc-xi.
Vài phút sau, xe đi xuyên qua những con đường đông đảo; người tài xế quay đầu mấy lượt như muốn biết chắc người khách của ông ta còn đó hay không. Roubachof không biết rõ thành phố để chắc chắn quả đúng là xe đang hướng về nhà ga hay không. Đường phố yên lặng hơn; ở đầu một thông lộ là một tòa nhà đồ sộ có một chiếc đồng hồ to sáng loáng; xe ngừng trước nhà ga.
Roubachof bước xuống; những xe tắc xi ở thành này chưa có đồng hồ tính tiền.
- Bao nhiêu? Ông hỏi.
- Khỏi trả tiên. - Người tài xế nói. Ông ta có một gương mặt già háp và nhăn nheo; ông móc trong túi ra một khăn tay màu đỏ dơ dáy và hỉ mũi một cách trịnh trọng.
Roubachof nhìn ông ta chăm chú xuyên qua chiếc kiếng kẹp mũi. Ông chắc chắn chưa hề thấy gương mặt ấy lần nào. Người tài xế bỏ khăn vào túi.
- Đối với những người như ông, thì luôn luôn tôi chạy giùm. - Vừa nói người ấy vừa kéo thắng tay.
Bỗng ông ta đưa bàn tay ra. Một bàn tay già nổi gân đầy và móng đóng ghét.
- Chúc ông may mắn- Ông vừa nói vừa mỉm cười với Roubachof với dáng
bỡ ngỡ - Nếu người bạn trẻ của ông cần gì - tôi thường đậu xe trước viện bảo tàng. Ông có thể gởi cho y biết số xe của tôi, thưa ông.
Roubachof thấy bên tay phải mình một người phu khuân vác, đứng tựa cột nhìn hai người. Ông không nắm bàn tay đưa ra của ông tài xế; ông đặt vào đó một đồng tiền và vào nhà ga không nói tiếng nào.
Ông chờ một giờ trước khi xe lửa khởi hành. Ông uống tại quầy giải khát một thứ cà phê thật dở; chiếc răng dày vò ông. Trong xe lửa, ông ngủ gà ngủ gật và mơ thấy mình chạy trước đầu xe lửa. Richard và người tài xế tắc xi trong đầu xe; họ muốn cán ông vì ông không trả tiền xe cho họ. Những bánh xe ầm ầm lăn tới gần, và hai chân ông thì đã hết hơi sức. Ông buồn nôn thì giựt mình thức dậy, những giọt mồ hôi lạnh ướt trán ông; trong toa, thiên hạ nhìn ông một cách kỳ lạ. Bên ngoài trời đã tối; xe chạy hết tốc lực ngang qua một xứ địch tối tăm; phải chấm dứt vụ này với Richard; chiếc răng của ông nhức thêm. Một tuần sau ông bị bắt.