Chương 7

Dịch giả: Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh
Chương 11

     ao nói về bản thân như một người hoàn hảo nhất. Năm 1970, ông nói với Edgar Snow: “Tôi là hoà thượng đạt san”, dịch theo nghĩa văn chương là “hoà thượng cầm ô”. Nhưng “heshang dasan” chỉ là vế đầu của một câu thơ. Vế thứ hai vô phan vô thiên mới là vế quan trọng, nhưng lại thường không được nhắc đến. Vô phan vô thiên, có nghĩa là không tóc, không Trời, tức là “đội Trời đạp Đất”, để nói về một người bất phục. Vì người nữ phiên dịch của Mao không được học văn học cổ điển, nên đã dịch câu nói của Mao thành “một nhà sư cô đơn lang bạt với chiếc ô thủng”. Edgar Snow và những học giả khác suy ra rằng, Mao tự ví mình như một người độc hành đáng thương. Nhưng thực ra, Mao muốn nói rằng, chính ông là thiên, là Trời tạo lập ra vũ trụ: vô phan vô thiên.
Mao thường nói với tôi:
- Tôi tốt nghiệp Đại học Thảo khấu.
Mao chính là một phiến quân tài giỏi, nổi dậy chống lại chính quyền, kiểm soát tất cả, đoạt được mọi thứ. Điều này không chỉ có giá trị nắm quyền bính cao nhất trong chính trị mà còn ảnh hưởng lớn lao tới những hoạt động thường ngày. Tại Trung Nam Hải sẽ không có gì xảy ra nếu không được ông chuẩn y. Thậm chí ông còn quyết định cả việc vợ ông nên mặc y phục nào.
Đó là sự thật, Mao ít bạn, sống đơn độc, cách biệt với cuộc sống đời thường. Ông dành rất ít thời gian cho vợ và không quan tâm lắm đến con cái. Cho đến tận bây giờ, tôi có thể nói, tôi có ấn tượng không mấy cảm tình ngay buổi gặp gỡ đầu tiên, cảm nhận Mao ít tình người, thiếu nhân hậu và thiếu sự thân thiện một các trung thực. Một lần, tôi ngồi kế bên Mao trong buổi xem biểu diễn nghệ thuật ở Thượng Hải, trong mục đi trên dây, cháu bé biểu diễn trượt chân ngã xuống sàn, bị thương rất nặng. Tất cả khán giả lặng người nghẹt thở, mẹ cháu bé than khóc thảm thiết. Nhưng Mao vẫn thản nhiên tán chuyện và cười vang coi như không có chuyện gì xảy ra. Tôi biết ông không hề hỏi han số phận cháu bé bất hạnh đó.
Tôi không thể hiểu nổi sự nhẫn tâm của Mao. Có lẽ vì đã chứng kiến quá nhiều cảnh tang tóc, nên ông chai sạn với nỗi đau khổ của người khác. Người vợ đầu của ông, Đường Khai Tuệ và cả hai người em ruột của ông đều bị Quốc dân đảng sát hại. Con trai cả của ông cũng đã hy sinh trong cuộc chỉến ở Triều Tiên. Ông cũng đã mất những người con trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh vào giữa những năm 30. Nhưng không bao giờ tôi thấy ông để lộ bất cứ sự xúc động nào vì những mất mát này. Việc ông sống sót trong khi nhiều người khác đã hy sinh càng làm cho ông tin ông sẽ rất thọ. Ông nói, chính những người chết “đã phù hộ cho ông, cho cách mạng”.
Ấy thế Mao không bao giờ thờ ơ với những thông tin. Mặc dù suốt ngày nằm trên giường, không mặc quần áo, đọc sách nhưng thường xuyên được các cộng sự của ông báo cáo bằng văn bản hoặc bằng miệng về những sự kiện xảy ra ở Trung Quốc và thế giới, từ mưu mô lặt vặt ngay xung quanh ông, diễn biến tại những nơi hẻo lánh, vùng sâu vùng xa ở Trung Quốc cho đến những sự việc xảy ra ở những đất nước xa xôi khác.
Mao không ưa hình thức và nghi lễ. Sau khi Mao được bầu làm Chủ tịch nước năm 1949, vụ trưởng Vụ lễ tân Dư Tín Thanh đề nghị ông nên tuân theo lễ nghi quốc tế khi đón tiếp các đại sứ nước ngoài, như mặc âu phục màu sẫm, đi giày da đen. Mao đã nổi giận. Ông nói:
- Chúng ta là người Trung Quốc, có tập quán riêng. Tại sao lại phải theo phong tục tập quán người khác?
Từ đó ông thường mặc bộ đồng phục kiểu Tôn Trung Sơn, đi giày vải. Khi các chính trị gia hàng đầu khác noi gương vị Chủ tịch của họ, tên của bộ đồng phục đã thay đổi và bộ đồng phục màu xám “kiểu Mao” đã trở thành “mốt”. Vụ trưởng Vụ lễ tân, người dám cả gan khuyên Mao tuân theo nghi thứ quốc tế đã bị cách chức. Ông ta đã tự vẫn trong thời kỳ Cách mạng văn hoá.
Mao coi lịch trình công việc hàng ngày, nghi thức và lễ nghi như là phương tiện để kiểm tra chính mình, ông từ chối những quy định của cấp dưới. Ông thường vui chơi quá độ, không ai có thể đoán trước những gì ông sẽ làm tiếp theo. Khi đi dạo, ông thường về nhà bằng đường khác. Ông hay tìm tòi những cái mới, những điều chưa được thử nghiệm không những trong cuộc sống riêng tư, còn cả trong lĩnh vực chính trị.
Ông mê nhất lịch sử Trung Hoa. Ông thường nói:
- Chúng ta phải nghiên cứu về quá khứ để phục vụ hiện tại.
Ông đã đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần cuốn lịch sử 24 triều đại – một bộ biên niên sử chính thống, từ cổ xưa đến các triều đại gần đây, trong khoảng thời gian từ năm 221 trước công nguyên đến năm 1644 sau công nguyên.
Tuy nhiên, quan điểm lịch sử của Mao khác cơ bản với những người bình thường khác ở Trung Quốc. Lĩnh vực đạo đức không có chỗ trong chính sách của Mao. Tôi hoảng sợ khi được biết, Mao không những tự ví mình với những vị hoàng đế Trung Hoa, còn tỏ ra khâm phục những tên bạo chúa bất nhân nhất trong lịch sử.
Mao đặc biệt khâm phục vua Trụ, một bạo vương trị vì triều đại nhà Thương thế kỷ thứ XI trước công nguyên. Dân tộc Trung Hoa ghê tởm và khiếp sợ trước sự tàn bạo của vị bạo chúa này. Đối với nhà vua, sinh mạng của bầy tôi chỉ là cỏ rác, nhà vua thích bêu xác những nạn nhân bị hành quyết, để cảnh cáo những người nổi loạn chống lại nhà vua. Bể tắm của nhà vua thường đổ đầy rượu thay cho nước lã.
Tuy vậy, Mao cho rằng, sự quá thái của vua Trụ không có nghĩa lý gì so với những việc làm của nhà vua. Vua Trụ đã mở rộng lãnh thổ Trung Hoa, kiểm soát cả một vùng duyên hải từ Bắc tới Nam, đã thống nhất được các bộ tộc quy về một mối, tuy nhà vua đã ra lệnh giết một số vị quan có tài và trung thành. Ví dụ điển hình là quan thượng thư Tỷ Can đã lập được nhiều công trạng, nhưng chỉ vì can ngăn hành động ngang ngược mà bị Trụ Vương xử trảm. Vua Trụ sống rất xa hoa, có hàng nghìn cung tần mỹ nữ, nhưng vua nào mà chẳng thế.
Tần Thuỷ Hoàng, 221-206 trước công nguyên, người lập nên triều đại nhà Tần, vương quốc Trung Hoa thống nhất cách đây gần hai nghìn năm, cũng là người được Mao hâm mộ. Ông thường ví mình với vị hoàng đế này. Giống như Trụ vương, Tần Thuỷ Hoàng cũng bành trướng mở rộng lãnh thổ, đã thống nhất các tiểu vương quốc khác thành một nước Trung Quốc rộng lớn. Ông đã đặt ra đơn vị đo lường và trọng lượng thống nhất, xây dựng hệ thống đường bộ. Nhưng người Trung Hoa khinh bỉ và căm ghét, vì ông đã tàn sát những người theo đạo Khổng và đốt sách. Mặc dù vậy, Mao biện hộ, cho rằng Tần Thuỷ Hoàng làm điều này chỉ để cố gắng thống nhất đất nước và xây dựng đế quốc Trung Hoa không bị ai ngăn cản. Ngoài ra, ông ta chỉ giết 260 người Khổng giáo thì có gì quá thảm khốc? Khi nhận xét về Tần Thuỷ Hoàng, người ta không được cường điệu những điều không quan trọng để rồi quên đi những điểm nổi bật.
Mao cũng rất khâm phục Hoàng hậu Võ Tắc Thiên (627-705), một trong số ít phụ nữ nắm giữ quyền lực ở Trung Quốc cái đích mà sau này Giang Thanh đã cố vươn tới. Khi Mao hỏi tôi nghĩ gì về Võ Tắc Thiên, tôi đã nói thẳng: “Bà ta là người đa nghi, gian giảo và đã giết quá nhiều người”. Mao nói:
- Đúng vậy, nhưng Võ Tắc Thiên cũng là một người cải cách xã hội. Bà ta đã bênh vực quyền lợi của địa chủ nhỏ và trung bình trong việc nộp tô cho giới quý tộc và những dòng họ lớn. Nếu bà ta không đa nghi, không tin vào những tay do thám, làm sao bà phát hiện được những âm mưu của giới thượng lưu và của những gia tộc lớn chống lại bà? Tạì sao bà không ra tay hạ thủ những kẻ âm mưu chống lại mới được cơ chứ?
Đối với vua Tuỳ Dạng Đế (604- 618) cũng vậy. Dưới con mắt của người Trung Quốc, vị hoàng đế này là tên bạo chúa xấu xa nhất. Ông mê gái và nghiện rượu, sống rất xa hoa, đồi truỵ, bắt những cô gái trẻ đẹp phải kéo con thuyền du ngoạn của ông ngược dòng bằng những sợi dây lụa. Biết bao người đã chết trong khi đào và xây tất cả kênh trong nước theo lệnh của nhà vua. Nhưng Mao lại liệt ông vào hàng những kẻ cai trị giỏi nhất. Tất cả các con sông ở Trung Quốc đều chảy từ Tây sang Đông, nhưng nhờ những dòng kênh đào của nhà vua đã nối miền Bắc với miền Nam. Vì vậy, theo Mao vua Tuỳ Dạng Đế cũng là người vĩ đại hiếm có.
Mao quan tâm đến lịch sử Trung Quốc hơn cả. Nhưng ông cũng đã đọc nhiều sách nói về một số nhân vật lịch sử phương Tây. Trước hết, ông đánh giá cao Napoleon. Theo Mao, sử dụng lực lượng pháo binh mạnh, Napoleon đã làm một cuộc cách mạng về chiến lược quân sự. Ngoài ra, vị tướng Pháp này đã ứng dụng khoa học vào chính sách mở mang đất nước. Ông không chỉ đưa quân đến Ai Cập, còn đưa cả các học giả, nhà khoa học đến đó để nghiên cứu nguồn gốc của nền văn minh phương Tây. Mao cũng muốn tổ chức một chuyến đi nghiên cứu như vậy trên đất nước Trung Hoa. Năm 1964 ông đã dự định thực hiện chuyến thám hiểm khoa học tìm hiểu về cội nguồn sông Hoàng Hà thuộc tỉnh Thanh Hải xa xôi. Sông Hoàng Hà đã từ lâu gắn chặt với cái nôi của nền văn hoá Trung Hoa khiến Mao có ý định lần về quá khứ của nền văn hoá này và cả nguồn gốc của nó nữa.
Uông Đông Hưng được giao nhiệm vụ tập hợp và điều hành một nhóm những nhà sử học, trắc địa, địa chất và những chuyên viên thuỷ học và năng lượng học. Uông đã kiếm được những con ngựa vùng Nội Mông cũng như quân trang, quân dụng. Tôi và Mao cùng nhau tập cưỡi ngựa. Ngày 10-8-1964 chuyến đi bị hoãn lại, năm ngày trước Mao nhận được tin Mỹ định đổ thêm quân vào Việt Nam hòng làm chủ tình thế chiến trường. Ông quyết định bí mật đưa ra chiến trường những người lính Trung Quốc được cải trang bằng những bộ quân phục Việt Nam, để hỗ trợ cho đồng minh của ông đánh Mỹ.
Về chính bản thân ông, quan điểm lịch sử của Mao cũng có nhiều điểm không đúng. Những tài liệu về quá khứ của đất nước Trung Hoa đã giúp ông nắm được, điều hành được hiện tại và ông kết hợp điều đó với chính sách đối ngoại. Tôi biết, những mưu mô trong các triều đại vua chúa tác động đến tư tưởng của ông mạnh hơn cả chủ nghĩa Marx-Lenin. Dĩ nhiên, Mao vẫn là một người cách mạng. Mục đích của ông là thành lập nước Trung Quốc, mang lại sức mạnh và cuộc sống tốt đẹp cho nhân dân. Thế nhưng ông lại học từ quá khứ để lãnh đạo, dùng những con bài đầy thâm hiểm để đạt được quyền lực tối cao.
Nhưng lịch sử cổ đại Trung Hoa không đóng góp được gì to lớn trong tư tường chuyển giao của Mao. Mao cho rằng nền văn minh Trung Hoa đã lụi tàn, trì trệ, mục tiêu của ông là thúc đẩy, đổi mới nền văn hoá đó bằng cách học hỏi tiếp thu tư tưởng mới lạ của nước ngoài vận dụng với điều kiện và tình hình thực tế của Trung Quốc. Ông thường nói, kết quả sẽ “không mang tính chất của Trung Quốc, cũng không mang tính ngoại lai, chẳng phải là lừa, cũng chẳng phải là ngựa, mà là con la”.
Mao cho rằng chủ nghĩa xã hội giúp ông khơi dậy tiềm năng sáng tạo của dân tộc Trung Hoa, đưa đất nước Trung Quốc trở lại thời hoàng kim trước đây. Ông cần sự ủng hộ cần thiết của Liên Xô, vì đó là một mẫu nhà nước xã hội chủ nghĩa hết sức quan trọng đối với Trung Quốc. Ngay từ khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Mao đã tâm niệm, Trung Quốc phải đi theo một hướng riêng. Liên Xô là một tấm gương đối với ban lãnh đạo mới của Trung Quốc. Nhưng khi Mao nói về chủ nghĩa xã hội, ông thường đề cập đến một chủ nghĩa xã hội mang tính chất đặc thù của Trung Quốc, một chủ nghĩa xã hội làm cho đất nước Trung Quốc hạnh phúc và phồn quang. Ông thường nói, việc nhập cảng ồ ạt tư tưởn!!!14876_13.htm!!! Đã xem 147543 lần.


Nguồn: VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 31 tháng 12 năm 2013

Truyện Chương 7 Lời nói đầu Sơ lược tiểu sử tác giả Chương 1 Chương 1 (tt) Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17 Chương 18 Chương 19 Chương 20 Chương 21 Chương 22 Chương 23 Chương 24 Chương 25 Chương 26 Chương 27 Chương 28 Chương 29 Chương 31 Chương 32 Chương 34 Chương 36 Chương 37 Chương 38 Chương 39 g Tây, ông đã xây dựng một căn cứ địa, thực hiện cải cách ruộng đất với sự hỗ trợ của nông dân. Ngoài ra, ông thường đưa du kích tiến hành những cuộc tập kích vào quân Tưởng Giới Thạch, hy vọng sẽ tiêu hao được sinh lực của những người quốc gia, tạo điều kiện cho nông dân chiếm được các đô thị. Dưới sự chỉ huy của Mao, khu Xô viết tỉnh Giang Tây ngày càng được mở rộng.
Năm 1930, Stalin bổ nhiệm Vương Minh, người vừa tốt nghiệp khoá học vài năm ở Liên Xô, mới 25 tuổi, làm đại diện của Quốc tế cộng sản ở Trung Quốc. Theo Mao, mặc dù Vương Minh không muốn giành quyền lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc, nhưng những việc làm và hành động của Vương Minh chuyển hoạt động cách mạng từ nông thôn vào thành thị, do đó đã đẩy những người cộng sản còn non kém vào những cuộc chiến đấu vô vọng. Ở khu Xô viết, Mao bị coi là bảo thủ và ông bị dồn đến chân tường. Mao kể:
- Stalin gọi tôi là người cộng sản hai mang – đỏ vỏ trắng lòng.
Khu Xô viết Giang Tây thành lập. Tưởng Giới Thạch đem quân bao vây khu căn cứ ở vùng núi, bắt đầu hàng loạt các cuộc tấn công mãnh liệt mà Tưởng gọi là “chiến dịch tảo thanh” và gần như thành công. Chiến dịch tảo thanh thứ năm mang ý nghĩa tiêu diệt đảng cộng sản Trung Quốc đến cùng. Nhưng đảng cộng sản quyết định phá vòng vây, thực hiện một cuộc rút lui nổi tiếng, cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Ngay sau cuộc Vạn Lý Trường Chinh này, Mao đã đoạt lại vị trí lãnh đạo của ông.
Mao đã buộc Stalin và Quốc tế cộng sản phải chịu trách nhiệm đối với những khủng hoảng trước đây của đảng. Theo ông, Quốc tế cộng sản đã biến những lối thoát có lợi thành ngõ cụt. Ông nói:
- Khi đó trong những vùng do Quốc dân đảng kiểm soát ở đô thị chúng ta đã bị tiêu diệt 100%, và 90% ở khu Xô viết. Lẽ ra chúng ta phải buộc Stalin hoặc Liên Xô chịu trách nhiệm về thảm hoạ đó, chúng ta lại khiển trách một số đồng chí của mình, vì thứ chủ nghĩa giáo điều mang tính duy ý chí sai lầm của họ.
Không phải Stalin, chính Vương Minh, tín đồ của chính sách Stalin, phải chịu trách nhiệm về tai hoạ này. Thậm chí, Mao cũng đã kết tội ông ta là người “cánh tả phiêu lưu”.
Ngoài ra, Mao còn chỉ trích Stalin, sau chiến tranh thế giới thứ hai ông ta đã quy phục trước sức mạnh của Mỹ và khuyên đảng cộng sản Trung Quốc noi gương các đảng cộng sản Pháp, Ý và Hy Lạp, buông súng đầu hàng chính phủ, tức là đầu hàng Quốc dân đảng. Nhưng Mao đã cự tuyệt. Trong cuộc nội chiến giữa những người Quốc gia và những người cộng sản, Stalin không hề giúp những người cộng sản một khẩu súng hay một viên đạn nào, kể cả “đến cái rắm cũng không”. Chẳng những thế, ông ta lại ép những người cộng sản phải ngừng cuộc hành quân của họ ở phía Bắc sông Dương Tử, để cho Quốc dân đảng kiểm soát toàn bộ miền Nam. Mao nói: “Chúng tôi không thèm đề ý đến lời ông ta”.
Tôi thường nghe, phần lớn vũ khí mà những người cộng sản dùng trong cuộc nội chiến là từ Liên Xô và được để lại khi người Xô Viết rời Mãn Châu sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Nhưng Mao lại không muốn xác nhận Liên Xô đã giúp và tôi khó cãi lại ông được.
Khi những người cộng sản chiếm thành phố Nam Kinh – thủ phủ của Quốc dân đảng, Tưởng Giới Thạch phải chạy trốn về Quảng Châu. Mao nói, đại sứ Anh và Hoa Kỳ đã ở lại Nam Kinh để hợp tác với chính phủ mới. Ngược lại, Liên Xô đã ủng hộ Quốc dân đảng và chuyển sứ quán của họ về Quảng Châu. Theo Mao, Stalin không muốn những người cộng sản chiến thắng. Mao nói tiếp:
- Mùa đông năm 1949, chỉ vài tháng sau giải phóng, tôi đi hội đàm ở Liên Xô. Nhưng Stalin không tin tôi. Hai tháng trôi qua vẫn không thấy động tĩnh gì. Cuối cùng, tôi bực quá và nói: “Nếu đồng chí không muốn hội đàm, chúng ta cứ gác việc đó lại và tôi về”.
Nhưng rồi, cuối cùng Hiệp ước hữu nghị, hợp tác và giúp đỡ song phương giữa Liên Xô và Trung Quốc cũng đã được ký.
http://vnthuquan.net/user/Ct.Ly/image/Mao18.jpg
http://vnthuquan.net/user/Ct.Ly/image/Mao19.jpg
http://vnthuquan.net/user/Ct.Ly/image/Mao20.jpg
Cuộc chiến ở Triều Tiên cũng gây ra căng thẳng giữa Mao và Stalin. Tôi thường nghĩ, Liên Xô và Trung Quốc đã hợp tác với nhau trong chiến tranh, thế nhưng Mao lại phủ nhận. Ông nói:
- Khi quân đội Mỹ tiến đến biên giới Trung – Triều tại sông Áp Lục, tôi đã nói với Stalin, chúng tôi sẽ điều quân đến đó. Nhưng Stalin không đồng ý, vì ông ta sợ xảy ra Thế chiến thứ ba.
Mao báo cho Stalin, nếu ông ta không muốn tham chiến nhưng nếu người Mỹ chiếm được Triều Tiên, họ sẽ không chỉ đe doạ Trung Quốc, còn là mối nguy hiểm đối với cả Liên Xô nữa. Môi hở răng lạnh! Cứ muốn đánh nhau, Mao lại phải cần đến vũ khí của Liên Xô. Một khi Liên Xô sợ Mỹ và Anh kết tội ủng hộ Trung Quốc, Trung Quốc buộc phải mua vũ khí của Liên Xô. Trung Quốc sẽ đơn phương chiến đấu và Liên Xô không dính dáng gì đến việc này. Mao quy cho Stalin muốn chia cắt Trung Quốc. Để làm điều đó, Stalin đã cố đưa Cao Cương lên làm một thứ hoàng đế Mãn Châu và thành lập ở đây một đảng cộng sản riêng.
Sự khẳng định của Mao làm tôi ngạc nhiên. Trong công luận tất cả mọi người cho rằng Liên Xô là anh cả của Trung Quốc, là tấm gương cho sự phát triển xã hội chủ nghĩa, quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc là đồng minh thân thiết. Nhưng theo Mao, thực ra sự tương quan này gần như là mối quan hệ Hoàng Đế và chư hầu. Mao nói: “Họ muốn nuốt chửng chúng ta”. Không bao giờ ông muốn bị thất thế. Lịch sử đã dạy ông, nên ủng hộ những đất nước xa xôi, nên thận trọng đối với những nước láng giềng, đừng có đặt niềm tin vào chủ nghĩa bành trướng Xô viết.
Tuy nhiên, Mao không ba
  • Chương 40 Chương 41 Chương 42 Chương 43 Chương 44 Chương 46 Chương 45 Chương 46 Chương 47 Chương 48 Chương 50 Chương 51 Chương 52 Chương 53 Chương 54 Chương 55 Chương 56 Chương 57 Chương 58 Chương 59 Chương 60 Chương 61 Chương 62 & 63 Chương 64 Chương 65 Chương 66 Chương 67 o giờ để lộ sự chỉ trích, với tư cách một người lãnh đạo cách mạng, Mao vẫn liên hệ mật thiết với Stalin.
    Bản tường trình của Khrushchev cũng làm cho chính sách đối nội của Trung Quốc thay đổi. Việc Chu Đức đề nghị Trung Quốc nên ủng hộ việc chỉ trích Stalin là một sự xúc phạm ghê gớm đối với Mao. Không bao giờ tôi tin Chu Đức lại là mối nguy hiểm đối với Mao và sự bực tức của Mao là vô lý. Nhưng trước đây, Mao và Chu Đức đã từng tranh cãi với nhau khi còn ở Giang Tây và Mao đã quả quyết, nhận định ban đầu của Chu Đức về bản tường trình của Khrushchev đã “phản ánh tư tưởng của ông ta”. Vì vậy ông nghi ngờ sự trung thành của Chu Đức.
    Ngày 1-5-1956, hai tháng sau khi bản tường trình của Khrushchev được công bố và cơn giận lôi đình của Mao, Chu Đức lâm bệnh. Thực ra, tình trạng sức khỏe đã không cho phép ông có mặt trên khán đài ở quảng trường Thiên An Môn, nhưng đó lại là một sự kiện chính trị quan trọng, vì các vị lãnh đạo cao cấp của Trung Quốc đều phải có mặt vào ngày hôm đó để chụp một bức ảnh chính thức. Bởi thế, Chu Đức ngại rằng người ta sẽ có ấn tượng nào đấy khi ông vắng mặt trước công chúng. Ông đã nói với Trần Dương Anh, vợ goá của Nhậm Bích Thế:
    - Nếu tôi không đến, mọi người sẽ nghĩ tôi đã phạm một sai lầm tồi tệ về chính trị và vì thế buộc phải vắng mặt.
    Cuối cùng, khi chụp ảnh, Chu Đức mệt mỏi, mặt tái mét đứng vào chỗ của ông cách không xa Mao chủ tịch.
    Mao không bao giờ tha thứ cho Khrushchev vì đã chỉ trích Stalin. Tuy nhiên, vào năm 1956 tôi để ý thấy Mao cũng thường bất bình với ban lãnh đạo đảng của ông như thế nào. Trước hết, lớp người hèn hạ, cứng nhắc, dập khuôn theo mô hình Xô viết đã làm ông không hài lòng.
    Ngay năm 1956, Trung Quốc đã dập khuôn theo mô hình của Liên Xô. Một bộ máy quan liêu, cồng kềnh đã được triển khai từ trung ương đến những vùng nông thôn đã ra đời dưới sự điều hành trực tiếp của đảng cộng sản. Công cuộc tập thể hoá nông nghiệp đã hoàn thành, những nhà máy và doanh nghiệp lớn ở các thành phố đều do nhà nước quản lý. Các xí nghiệp tiểu thủ công nghiệp có quy mô nhỏ hơn và các cửa hiệu đã bị quốc hữu hoá hoặc được giao cho chính quyền địa phương quản lý. Sự chuyển biến mang tính xã hội chủ nghĩa gần như đã hoàn chỉnh về kinh tế và hệ thống hành chính quan liêu.
    Nhưng sự chuyển biến về tư tưởng, sự hồi sinh sống động của Trung Quốc Mao ao ước thật khó đạt được. Với số lượng cơ quan hành chính dầy đặc, những chiến sĩ cách mạng kỳ cựu đã trở thành những kẻ quan liêu, đối với họ, đặc quyền đặc lợi và địa vị xã hội quan trọng hơn cả tư tưởng cách mạng của Mao. Mao tỏ ra nóng lòng. Ông muốn đẩy mạnh cuộc cách mạng. Nhưng nhưng kẻ quan liêu trong đảng, trong đó có cả những cán bộ lãnh đạo cao cấp, vẫn còn dè dặt và bám lỳ hình mẫu phát triển của Liên Xô. Người ta đã thiết lập những thể chế, cơ cấu tổ chức theo khuôn mẫu của Liên Xô, không lưu tâm đến hoàn cảnh đặc biệt ở Trung Quốc. Do vậy, Mao đã nổi giận với các đồng chí của ông.
    Cuộc cách mạng do Mao tiến hành đòi hỏi lòng dũng cảm, sự hăng hái, tinh thần sẵn sàng chiến đấu và Mao cho rằng, những người lãnh đạo của Trung Quốc vẫn còn thiếu những đặc điểm đó. Bởi vì, thậm chí một số người tán thành việc Khrushchev chỉ trích Stalin, nên ông phải dè chừng những thách thức vị trí lãnh đạo của mình. Mao không muốn một thuộc hạ nào của ông noi gương trở thành Khrushchev Trung Hoa lên án ông mãnh liệt sau khi ông qua đời. Cho nên, ông cũng tính đến việc đề phòng có kẻ nào đó âm mưu lật đổ ông khi ông còn sống.
    Sự bất bình của ông đối với đảng ngày càng tăng theo năm tháng, nó đã đưa đến cuộc Cách mạng văn hoá đầy thảm hoạ.
  • --!!tach_noi_dung!!--


    Nguồn: VNthuquan.net - Thư viện Online
    Được bạn: Ct.Ly đưa lên
    vào ngày: 31 tháng 12 năm 2013

    --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--