Lên non hái trái

    
ước trên cao chảy xuống ì ầm
Vượn bồng con lên non hái trái
(ca dao)
...ngày... tháng... năm...
Gửi anh,
Tính từ ngày xách va li lên tàu, đến nay đúng hai tháng. Khoảng thời gian không dài không ngắn, giữa núi rừng trùng điệp này, đủ để tôi mang trái tim ra nghĩ về cách hành xử của mình và không thể không giải bày với anh bằng những suy nghĩ dài lê thê, với lòng mong mỏi anh và những người thân yêu sẽ dần hiểu tôi.
Ngay từ lúc chọn nghề, cả ba mẹ, anh chị đều cho tôi là một con điên. Bốn năm dùi mài, thích thú với khoa sư phạm, bất ngờ gặp và quen anh, tôi cứ nghĩ anh là người đồng cảm với tôi, nhưng khi thấy ánh mắt lúc tiễn lên tàu, tôi chợt thấy anh lại ném về phía tôi một cái nhìn đầy nỗi niềm và tuyệt vọng, cùng với sự bịn rịn của người thân trên sân ga. Tôi không ưa cảnh tượng đó, mong cho còi tàu mau rúc lên và lăn bánh thật nhanh để tránh những cảm giác lẫn lộn có thể sẽ khiến tôi bỏ cuộc giữa chừng bỡi những sự vây bủa định kiến khó hiểu.
Tàu lăn bánh. Đó là tín hiệu khởi đầu cho “sự lập thân” của mình và là lúc tôi bĩnh tĩnh tự lật ngửa mình ra, moi hết tim gan coi nó méo mó, trầy trật ở chỗ nào? Trước hết là cảm giác xốn xang, nao nao khi phải rời xa nơi tôi sinh ra và lớn lên. Một chút đau nhớn nhác giống như con chó con bị bắt cho người lạ, đột ngột rời xa núm vú quen thuộc trên bụng mẹ, rời xa hơi hớm bầy đàn, rên ủng ẳng thảm thiết! Tôi cũng vậy, có điều tôi không rên lên, nhưng nhất định có chút buồn, nỗi buồn cay xè của kẻ lần đầu xa nhà, xa mọi thứ thân quen. Phút chạnh lòng, tôi giật mình thoáng nghĩ, mình có vẻ như là con điên thật sự, thứ dở hơi thực sự như tất cả mọi người, kể cả anh gán cho. Nếu không, sao tôi lại chọn nghề này, trong khi bạn bè cùng lứa, đứa thì vào y, đứa kiến trúc, kinh tế... những ngành hái ra tiền, lại được hưởng thụ mọi tiện nghi trong thành phố? Còn tôi? Tôi đã liên tục thổi tắt ngọn lửa hy vọng của mọi người, từ cách chọn nghề đến kiểu chọn nơi đến? Rồi tôi lại phản biện những định kiến sắp đặt kia: Tiền bạc, tiện nghi là cái gì? Nó giải quyết được gì? Tôi phân thân ra, vừa tra hỏi vừa loay hoay tìm kiếm cách lý giải. Cùng một lúc, tôi vừa là quan tòa, vừa là bị can đến nỗi đầu óc căng cứng mệt nhoài, theo bánh sắt lăn rập rình trên đường ray, rập rình cơn gà gật gãy khúc, như lúc vô tình nhìn chiếc bánh tráng nướng có cục mắm ruốc đỏ hỏn trên tay người đàn bà ngồi bên cạnh, cứ vơi dần đi...
Tôi là kẻ đã lên tàu và đang lao tới, không dừng lại được. Tôi xa dần và nhỏ dần trong mắt mọi người.
Xuống sân ga, chẳng ai đón. Tủi thân. Lầm lũi ra bến xe chen chúc trong chiếc xe đò chật cứng, ì ạch non nửa ngày mới tới nơi. Lại tủi thân. Niềm tủi phận cứ thế, cao thêm một chút, dày thêm một ít. Rồi lại tự nhủ: “Thôi, sự đã rồi. Đã lên tàu còn phân vân nỗi gì!”.
...ngày... tháng... năm...
Viết tiếp...
Nơi tôi đến, anh không thể nào tưởng tượng nổi. “Thật kinh khủng!”. Đó là cảm giác đầu tiên khi tôi nhìn thấy ngôi làng bé tẹo bị vây phủ giữa đồi núi chập chùng. Tôi đã từng nhìn thấy núi rừng dọc đường lên Đà Lạt. Nhưng núi rừng ở đó thì dễ thương, thơ mộng, còn chỗ này thì quạnh quẽ, đìu hiu: Những con đường đất đỏ dọc ngang, vài quán tạp hóa, những con bò thản nhiên nằm giữa đường. Nhà sàn chen lẫn với nhà mái tôn tường gạch làm tôi ngẩn ngơ: Không gian văn hóa Tây nguyên bị tróc vảy sao? Nhưng tôi lại thích những bụi sắn, giàn bầu và lũ heo kéo lê chiếc bụng sát đất nom như nùi giẻ lau nhà... chen lẫn với cảnh tượng đó là những người đàn bà cong người trên những chiếc gùi nhô lên vài que củi, mụt măng, trái bắp... Tất cả đều lắc lư theo bóng những người đàn ông rựa vác vai, miệng ngậm ống vố thở khói phì phèo, nhẩn nha đi phía trước, khiến tôi liên tưởng đến ống khói con tàu đưa tôi đến tận chốn này; trong khi đám trẻ con thì mình trần, mốc cời, tóc hoe vàng nom rất lạ mắt.
Khi thấy tôi, lũ trẻ nhìn ngơ ngác, còn cha mẹ chúng thì mở tròn mắt, tò mò vì sự xuất hiện đột ngột của một cô gái lạ giữa chốn “thâm sơn cùng cốc” này. Tôi hỏi thăm người thanh niên đường tới trường. Anh ta reo lên và nói câu gì đó bằng tiếng dân tộc tôi không hiểu. Sau đó lại khum tay lên miệng hú một tiếng dài làm tôi hết hồn, như thể mình sắp bị đưa lên giàn hỏa vậy. Lát sau, mọi người lục tục kéo ra đường, tiến về phía dãy nhà sàn dài. Người thanh niên đưa tôi nhập vào đám đông. Tới lúc đó, tôi mới kịp quan sát: Anh ta cao lớn, vạm vỡ, da màu đồng thau, mái tóc bềnh bồng như nghệ sĩ trong dàn nhạc Jazz. Tôi lí nhí nói mấy tiếng cảm ơn và đưa tay ra để anh ta dắt, trèo lên nhà sàn nối với khúc cây khất từng nấc, không mấy dễ dàng. Lát sau ba thầy cô giáo xuất hiện. Một vài người còn mang theo nải chuối, thu đủ và vài loại trái rừng màu đỏ chót. Ché rượu có mặt ngay giữa sàn cùng lúc với bếp lửa nổi lên. Cuộc tiếp đón mộc mạc, chân thành làm tôi cảm động thực sự. Họ xoăn xít hỏi han, giải thích, an ủi... khiến tôi đỡ quạnh lòng đôi chút. Ông trưởng buôn, rồi tới lượt ông xã trưởng kéo cần rượu đưa về phía tôi bằng ánh mắt sáng rỡ. Có lẽ, một chút rượu ấy khiến tôi đủ tỉnh táo để xách va li theo các đồng nghiệp về trường.
Đi bộ non cây số, cô giáo tên Hài chỉ tay về phía dãy nhà sau ngọn đồi kín lá: “Trường đấy. Thầy cô ở ngay tại trường, trong một phòng học. Rồi em sẽ thấy...”. Chị Hài bỏ lửng câu nói. Tôi giật mình khi nghe nói thầy cô ở cùng phòng và lầm lũi bước theo mọi người một cách nặng nề, cuốn theo cảnh “thầy cô ở chung phòng” cứ trương phình dần trong đầu!
Anh có thể tưởng tượng nổi không? Đến trường, suýt nữa tôi bật thành tiếng. Gọi là trường học, nhưng giống như một trại chăn nuôi bị bỏ hoang. Một dãy nhà lợp tôn, mái ễnh cong; tường thì sứt sẹo đầy những vết tróc lở khiến tôi liên tưởng ngay đến những ngôi trường khang trang ở thành phố, đến những công sở cao ngất ngưởng, lộng lẫy. Tâm trạng nặng nề ấy khiến chị Hài tưởng tôi mệt vì đường xa, xô liếp cửa phòng tập thể nhỏ nhẹ: “Em nằm nghỉ chút rồi ăn cơm”.
Tôi đặt chiếc va li xuống nền đất nện láng tưng và bắt đầu quan sát: Nửa bên này dành cho các cô, rộng hơn và được chắn kín bằng tấm cót mò o nẹp dày. Bên kia là phòng ông Thắng, phụ trách trường, có cửa đi riêng. Tấm cót vẫn nguyên vẹn, không hề thấy lỗ thủng, chứng tỏ mọi người đều sống nghiêm túc khiến tôi có thêm chút an tâm. Chiếc bàn học trò duy nhất giữa phòng nữ, hai bên là hai băng ghế gỗ vừa là chỗ soạn bài, tiếp khách, vừa làm nơi ăn uống. Phía trong là tấm vải hoa giăng ngang, có lẽ là chỗ ngủ. Giá sách vở được đặt trên những mảnh gỗ ghép gắn vào tường, phía đối diện 4 ly thủy tinh đứng ôm phích nước màu xanh da trời. Mọi thứ đều lỏng chỏng, lẻ loi, xa lạ khiến tim tôi đập loạn xạ, như thể đang ở trại lao cải! Anh biết không, lúc chị Hài trở lên nhìn thấy vẻ mặt dàu dàu liền ôm choàng vai an ủi: “Rồi em sẽ quen, sẽ vui. Hồi mới lên chị cũng vậy, suýt ngã nhào xuống đất! Vào thay áo quần, rửa mặt, chị dọn cơm đây”. Tôi thẫn thờ vẹt tấm màn chắn ngang căn phòng: Chiếc giường gỗ và chiếc chiếu hoa, bên trên là chiếc gối ôm và tấm mền cùng màu vàng nhạt... Tôi chưng hửng và nghĩ mình sẽ không chịu đựng nổi nếu nằm quá ba đêm, bởi thói quen nằm nệm từ thuở bé. Tôi lúng túng thật sự, loay hoay với những ý nghĩ lộn xộn cùng cảm giác lạnh lẽo bắt đầu sưng tấy lên. Tôi thừ người ra, nước mắt chảy dài...
Hồi còn ở nhà, những đêm trời trở lạnh tôi thường chui qua giường chị Nga tìm chút hơi ấm từ người chị choàng lên. Còn nơi này, đêm đầu tiên mới kinh khủng làm sao! Phần xa nhà, phần khí núi lạnh tôi không tài nào ngủ được. Mắt mở thao láo nhìn bóng đêm, tai dỏng lên nghe ngóng mọi tiếng động chung quanh: Tiếng côn trùng rả rích như giàn bát âm đám tang; tiếng chim đêm vang lên đột ngột xé toạt màn đêm; tiếng lộc cộc đâu đó quanh nhà như kẻ trộm tìm cách cạy cửa. Tôi điếng người, cong riết rồi quơ tay ôm chị Ngân như đứa bé chui rúc vào lòng mẹ vì sợ hãi. Lúc ấy, nếu anh một mình ở đây, tôi chắc anh cũng có cảm giác giống tôi: Sợ hãi! Tôi cố gắng chống chọi, tới sáng thì mệt bơ phờ. Tôi phân vân: Mình sai lầm thật sao?
...ngày... tháng... năm...
Anh này,
Công việc của anh thế nào rồi, hy vọng anh sẽ thành ông chủ nhỏ. Lúc đó không chắc anh sẽ nhận ra tôi, cô giáo lạc loài đâu đó giữa chốn đèo heo hút gió này? Nhận thư anh, tôi cứ ngỡ anh sẽ kể chuyện phố phường, cái mà tôi đang thiếu lúc này. Chẳng dè, anh toàn an ủi và trách móc nhẹ nh&agp vỏ lụa, bày bộ ngực nhão, phơi lòng thòng ra bên ngoài để thằng con nhỏ trườn lên, miệng mút chùn chụt núm vú nhăn nheo, một tay giữ chặt núm còn lại như sợ có đứa nào lấy mất, hất cằm lên, cãi:
- Già khụ. Bốn năm mươi còn đĩ điếm cái giống gì, đâu như thời còn Tây còn Mỹ?
Một bà khác tay đập chành chạch những con bồ hóng bay vo ve trên mắt, cười hềnh hệch:
- Nghe nói nay Tây ba lô qua mình nhiều.
Bà Hai Cốm:
- Ừa, có thể lắm.
Chẻo đặt chiếc rổ tre lên đùi, lặt lại những cọng rau xanh, khép nép nghe những lời bình phẩm, không tham gia.
Câu chuyện bất ngờ chuyển qua hướng khác. Chị đàn bà có chiếc vú mướp bỏ trần ra ngoài xoắn những hột đào trong chiếc cão bung vành, thành nhiều vòng:
- Đời này sướng thiệt đấy. Thằng cha Tám Cận goá vợ nhận cục tiền đền sào ruộng đâu bảy triệu, liền xuống phố tậu ngay chiếc xe máy Tàu chạy mù trời.
- Mấy bà không biết gì sao? – Bà Ba Vịt lộn kêu lên - Thằng chả đêm nào cũng mò xuống con mẹ Bỉnh bánh tráng làng dưới. Có bữa ghé lại chỗ tôi mua cả chục.
- Vịt lộn để nhử hả? - Tiếng the thé của ai đó như tiếng bà Năm Dây Sên cất lên bỡn cợt, bới móc.
Chị vú mướp trề môi:
- Nhử gì nữa mà nhử. Để tẩm bổ mấy bà ơi! Thằng chả bảy mươi, con mẽ sáu mươi. Hồi xuân. Sung lắm.
- Mày thử rồi sao biết sung? – Bà Vịt lộn thêm.
Câu nói vừa rơi vãi ra quanh chỗ bọn họ ngồi, bay lả tả, lập tức những tiếng cười ngặt nghẽo tràn ra kèm theo những tiếng “quỷ, quỷ” đầy lỗ tai. Và phụ hoạ vào những tràng ngặt nghẽo quỷ kia là những âm thanh phát ra từ những chiếc loa thùng quanh xóm, xoắn theo gió bay về. Những âm thanh lạc quạc, ngọng nghịu,.những ca từ kéo dài, thu ngắn từ những chiếc miệng móm người già, chưa tròn chữ của trẻ con phát ra ong ỏng, vương víu lên tận đọt tre cao.
- Nhà bà Năm Sình mới tậu dàn raoke hôm qua. Chính mắt tôi thấy. Xịn lắm!
- Chỉ là chức trưởng ban con con, sao bằng của ông bí thư huyện?
- Chời ơi! của cống nạp, bòn rút mà đi so bì?
- Nghe thằng chả mèo mỡ với con Châu bỏ chồng, đi lại với nhiều cán bộ. Lão mua chiếc Pa Xỳ mới cứng tặng con đĩ đó đó?
- Hèn chi cứ thấy thằng chả chiều chiều đảo qua truông Dâu rồi mất hút…
- Toàn lũ điếm thúi, thúi từ con đĩ tới thằng quan – Giọng nói của ai đó văng ra cùng với bãi đờm nhổ toẹt ra bên hông.
Đúng lúc này thì bà Tư Bèo đột ngột xuất hiện trước những cặp mắt ngỡ ngàng, soi mói. Đám đàn bà quê như muốn lột trần con người đàn bà kỳ lạ kia ra. Mọi con mắt đều đổ dồn về phía bà Tư đang vắt chéo chân từng bước ngắn về phía đám người ngồi lê. Chuyện riêng tư của các cán bộ được bọn họ lập tức xếp gọn trong cổ họng.
Bà Tư Bèo cất giọng chả chớt:
- Chào mấy chị. Mạnh giỏi há? Mà làng mình nay giàu quá héng? Nhà nào cũng xe máy, cũng karaoke. Chẳng bù hồi tui còn ở làng, nghèo mốc đít.
- Giàu chi – bà Hai Cốm vẩu mỏ lên – có chút tiền đền bù mới ra thế. Giỏi ca hát ba tháng là đói dảnh bánh.
- Đói đâu chưa thấy, nhưng giờ nghe ca hát vang trời là thấy vui rồi – Bà Tư Bèo nói vừa nhún nhẩy, ư ử: Sáu mươi năm cuộc đời…Hai mươi năm đầu vui sướng không bao lâu, hai mươi năm sau ừ ư ư ừ ừ…
- Phước đức nhà chị đi làm ăn xa giàu có, chớ ở làng như bọn này có ngày xách bị đi ăn xin.
- Sao vậy? – Bà Tư Bèo ngạc nhiên.
- Sao nữa? Ruộng đất sạch sẽ. Trên thu hết của dân rồi đưa cho thằng giàu mở nhà máy này, xưởng chế tạo kia. Mà chế tạo con khỉ mốc. Chúng nó sang tay nhau ăn chênh lệch. Làm dân thời chó nào cũng khổ như trâu bò. Máy móc ai người ta dùng đám khu đen này? Quét rác đổ thùng đâu phải dùng đến trăm người?
- Vậy sao? – Bà Tư Bèo thốt lên bằng cái giọng vô cảm, rồi nhìn xoắn vào chỗ con Chẻo đang ngồi thu lu, núp sau lưng bà vú mướp - Chẻo à, con dẫn cô vào chào anh Năm đi con.
Không đợi Chẻo trả lời, bà xấn lại, xốc cổ tay cô lôi dựng dậy, kéo đi. Rổ rau trên tay Chẻo chao đi mấy vòng, suýt rơi xuống đất.
- Chào mấy chị nghen.
Ông Năm Thọt trước kia là anh thợ cày giỏi nhất làng. Đêm ra nọc rơm rút rơm cho đôi bò, bị du kích địa phương bắt lên núi, ấn cho cây súng và biến thành anh Việt cộng một cách dễ dàng, trơn tru. Năm Thọt có tên cúng cơm là Tầm, Võ Văn Tầm. Sau trận càn năm 72, ông bị trúng mấy phát đạn vào chân, không chạy được, bị bắt làm tù binh, bị giam ngoài Côn Đảo đâu hai năm rồi trả về địa phương với chân trái lệch đến mươi phân nên dân làng lấy tướng đi đặt chết tên cho ông. Nếu chỉ dừng lại ở đây thì ông còn may mắn hơn nhiều người khác (nói về số phận). Nhưng đời không phải vậy, không suôn sẻ. Mấy tay ở xã ngắm nghía tướng mạo ông sao đó, bèn đề nghị lên quận bắt ông làm ấp phó. Cái chức ấy chẳng mùi mẽ, quyền lực, cũng không cơm cháo gì trong cái xóm nhỏ chỉ còn lèo tèo vài người già. Thanh niên lớp lên núi, lớp xuống biển rồi gặp nhau ở chỗ nào đó phang vào nhau ầm ầm, cứ như hồi còn để chỏm chia phe đáng giặc giả. Có điều đám giặc giả ngày nào giờ thành thiệt rồi: Một bên cầm súng Nga xô, Tàu; một bên cầm sũng Mỹ nhắm vào nhau mà bắn. Bắn đến lòi ruột, phọt óc, tan nát thịt xương mới thôi, cho dù trước đó chúng đã từng chia nhau trái ổi, cắn chung cục kẹo nổ, rủ nhau đi hái trộm me...
Năm Thọt trong số đó. Ông từ chối thế nào cũng không xong, bèn tự nhủ: Ấp phó trong cái làng chỉ còn hàng tre và mấy con chó ốm chạy rông thì tội nợ gì. Cứ từ từ ít tháng rồi tìm cách! Là nghĩ bụng thế thôi, chứ cách gì thì nghĩ mãi mà không tìm ra. Còn chân cao chân thấp chạy lên núi lần nữa, sao leo gộp được? Với lại... Đúng, cứ lì dưới này coi bộ sướng.
Đám đông những người như Năm Thọt chỉ có thể nhìn thấy đường gần mà không thể tính nổi đường xa; chân chỉ có thể chạm mặt đất chứ hai tay không thành cánh mà bay lên trời cao, nên chỉ hai tháng sau là các đồng chí cũ tràn về làm chủ. Ông bị liệt vào hàng ngũ địch. Làm tay sai cho địch. Lại vác tay nải, lương khô đi cải tạo. Đủ hạn lại trở về như bao người khác, mặt cắm xuống đồng sình, chổng đít lên trời như kêu oan!
Giờ chỉ còn hai cha con trong căn nhà gạch ba gian. Tuy cũ kỹ, rêu mốc nhưng không đến nỗi nào. Không làm cán bộ thì nông dân, mất mát chi, ông nhiều lần tự nhủ như vậy. Khổ tâm là cốt nông dân bị lột trụi như người ta nhổ lông con chim cu hơ lên lửa: lớp da đỏ hỏn phút chốc đen thui, mỡ chảy xèo xèo. Và như bao dân làng khác, bọn ông chỉ có dúm chữ, chẳng nghề ngỗng, biết chuyển đổi làm thứ gì? Ngay cả chuyện ông viết đơn xin chân bảo vệ một nhà máy trong khu công nghiệp, người ta liếc ngang nhìn dọc tấm lý lịch, rồi lịch sự: “Dạ có người rồi, thưa bác!”. Chỗ nào cũng một giọng ấy khiến ông ngán ngẩm quay về, lật tung lớp đất cằn trong mảnh vườn nhỏ, trồng các thứ rau kiếm đồng chợ.
Bữa gặp Chín Phước – cựu chủ tịch mặt trận xã, người rất hiểu hoàn cảnh ông – đang thả bò trên gò Dinh, ngoắt ông lại:
- Hết biết rồi anh Năm ơi! Cái làng này rồi đến loạn mất. Nhà nào cũng hò hát. Nhà nào cũng xúm nhau mua xe. Nhà mua sau phải mua xe đắt hơn nhà mua trước. Còn bọn thanh niên rượu chè thâu đêm suốt sáng. Ầm ầm như đám giặc, chẳng chịu làm ăn!
Năm Thọt cười khẩy:
- Đám ve sầu đó hát bã họng, bụng tóp teo sẽ chạy đi kiếm ăn, lo gì?
- Không thể được. Không thể nào ăn không ngồi rồi mãi được Anh tính coi: mươi triệu bạc đó có thấm tháp vào đâu. Ăn nhậu ca hát đã đời rồi lăn ra chết chắc?
Năm Thọt khoát tay:
- Thôi, hết đường rồi anh Chín. Tôi cũng khuyên giải nhưng họ bỏ ngoài tai, kêu tôi là đồ khùng. Thân già bọn mình… - Ông bỏ lửng câu nói.
Năm Thọt bật cười khùng khục khi nhớ lại mấy lời qua lại bữa đó với Chín Phước. Thằng cha, đúng chứng nào tật đó. Chuyện làng xóm chả coi như chuyện nhà, bứt rứt không yên. Trước khi đi dự họp tướng mạo hùng hùng hổ hổ; tan buổi mặt mũi ỉu xìu, bước đi không muốn nổi. Bộ mặt Chín Phước lộ rõ vẻ thất vọng não nề.
- Năm ơi, anh Năm!
Tiếng gọi thẽ thọt làm ông giật nẩy người, rút vội tay ra khỏi háng khi cơn ngứa chưa thiệt đã. Ông bỏ chân xuống khỏi chiếc đẩu nhựa quơ chân tìm đôi dép cùn, vịn tay lên mặt bàn nhóng cổ ra hỏi:
- Ai kêu tôi đó?
- Em đây. Em Bèo đây anh Năm!
- Trời đất, cô đi những đâu mà nay mới mò về làng? Về hồi nào?
Vẫn những bước chân vắt chéo, bà Tư bỏ tay mình ra khỏi tay Chẻo, cởi chiếc kính đen ra khỏi sống mũi, dòm Năm Thọt gần đụng mặt.
- Mới. Khoẻ chớ anh Năm?
- Khoẻ. Còn cô? Chà, thay đổi dữ he. Nhìn bộ dạng này đã biết đổi đời rồi, giàu hung rồi? – Ông nói vừa nhìn bóng con Chẻo mang rổ rau ra giếng nước.
- Đổi cái con khỉ. Giỡn hoài. Mần như trâu như bò ấy chớ!
- Cô mần cái giống gì mà cực nhọc dữ vậy?
- Huầy, có nói anh cũng không hiểu đâu. Về lần này trước thăm anh, sau bàn với anh cho con Chẻo đi với em vào trỏng. Em hướng dẫn nó làm ăn. Nhan sắc như nó biết đâu lại quơ được thằng chồng giàu?
- Dòm thân hình cô chắc cũng đang quơ được thằng chồng giàu có? Mà làm thứ gì: may vá, bán xôi, hủ tíu, bò kho, vé số…? Từ ngày làng này hết ruộng, lũ trẻ con cũng bỏ học vô trong đó bán vé số, đông có đến trăm!
- Đâu cực nhọc vậy anh. Số là em có quán cà phê: sáng bán tới 9 giờ nghỉ, tối đến 10 giờ đóng cửa.
- Cô kêu nó làm những gì?
- Dạ, ngồi quày tính tiền cho khách.
- Chỉ vậy thôi?
- Vậy thôi.
- Coi bộ dễ ăn quá héng?
- Chẳng dễ gì đâu anh. Hay là anh bán quách căn nhà vào với em?
- Giỡn hoài.
- Thiệt đó.
Năm Thọt ngẩng người, nghĩ bụng: “Con mẹ này định quơ luôn mình chắc. Hồi xưa nó bám theo mình như đỉa bám chân trâu khiến bà vợ cứ ghen lồng lộn lên. Vợ mất nó lại ám như như ma quỉ ám, nay thấy đơn chiếc định giở trò gì nữa đây?”.
Háng ông lại nổi ngứa. Lúc đầu chỉ mới lăn tăn. Ông nín thở để kéo cơn ngứa xuống, nhưng càng nín hơi, nó lại càng bùng lên thật dữ dội. Ngứa hung rồi. Ông chỉ muốn thọc ngay tay vào cào xoáy cho đã cơn, ngặt nỗi con Tư ngồi cạnh ông luôn chồm về phía mình mỗi khi nói. Cơn ngứa chạy lên mặt đỏ rần, tê cứng trên các đầu ngón tay, cắn nhéo trên vành tai… Chỗ nào trên thân thể ông cũng nhột nhạt khó chịu. Tư Bèo ngó chăm chăm Năm Thọt. Cô thấy khuôn mặt ông có vẻ khang khác, các mạch máu dãn đỏ vẽ vòng y như những anh thanh niên tuổi mới lớn. Không kềm được lòng, cô trườn bộ ngực đồ sộ lên mặt bàn, cầm tay Năm Thọt:
- Anh chẳng mất gì đâu. Tình muộn là đẹp nhất! – Nói và cô nhoẻn nụ cười duyên. Nụ cười đỏ lòm son môi và lửa tình.
Năm Thọt trân người gần như cong quíu lại, mắt hoa lên Ông không còn chịu nổi cái cảm giác nhột nhạt kia nữa, không thấy nghe gì nữa, thọc tay vào háng gãi rồn rộn, gãi thật mạnh như những lúc ông ngồi một mình dạng chân gãi ngứa. Những móng tay cào chạy tới đâu cơn ngứa điên cuồng kia bị đẩy lùi tới đó. Ông híp mắt mê mẩn. Giây lát thần kinh như dịu lại để kịp nhìn thấy bộ mặt hốt hoảng nhìn sững ông.
- Chuyện gì vậy anh Năm?
Rõ ràng trước mặt ông là Tư Bèo, người đàn bà son phấn đã biến mất trong cơn ngứa khắc khoải vừa qua, giờ trồi lên. với cặp mắt đờ đẫn, ngây dại. Ông nghe rất rõ từng hơi thở dồn dập của cô ta, hơi thở của người phụ nữ bám đuổi theo ông trên cánh đồng làng mấy mươi năm trước, giờ lại có dịp rượt ông chạy hụt hơi trên chiếc đẩu nhựa.
- Không. Cô Tư, đừng làm thế!
Nói và ông giật mạnh tay, thiếu chút nữa là mặt hai người dính chặt vào nhau.
Ông đứng lên, thở hắt ra. Tư Bèo cũng đứng lên thở sượt như quả bóng xì.
Đồng làng hun hút phía sau. Truông tre chổng ngược thành những con đường khói bụi, ồn ào; vò nước móc lủng lẳng chiếc gáo dừa quay tròn cạn đáy bắt đầu lột lớp vỏ xơ cứng biến thành những ly bia, bọt tràn nhớp nháp. Đó là những lớp bọt phun xùi xùi từ chiếc miệng những con cua đồng trước cửa hang, lớp bọt của những con lươn trơn chùi dưới mà sâu.
Quán toàn những mùi lạ từ những con người lạ hoắc mang vào. Đó là mùi khói thuốc thiu, bay vất vưởng, mùi bia vãi tung trên nền nhà toè ra ung úng khó chịu. Nó không như mùi phân bò, mùi bùn non, mùi khói đốt đồng và rơm khô lẫn trong mùi cua đồng, cá nướng mà cô từng cất tiếng cười trong vắt… Chẻo bắt đầu lạc vào thế giới khác bằng những thứ mùi lạ ấy, quấn chặt lấy cô. Chẻo ngập lún trong mớ nhớp nháp mỗi lúc như dày, cao thêm làm cho đêm dài và sâu hơn. Đêm sáng trắng và dập dềnh hỗn độn. Đêm vỡ loảng xoảng những mảnh nhỏ găm vào đầu óc, cứa xoáy ruột gan. Đêm nào Chẻo cũng mơ thấy cánh đồng sình, những bước chân vắt chéo và bộ mặt đầy mỡ của bà Tư Bèo. Cánh đồng làng thì tít mù xa, còn bà Tư thì thật gần, sát bên cô, luôn thầm thì, nhỏ to ngọt xớt: “Bắt đầu cuộc đời là những khó chịu nhưng riết rồi quen con ạ!”. “Nhưng hồi ở nhà cô kêu chỉ ở quày thu tiền?”. “Con nhỏ mới lạ, ngồi với người ta có mất mát cái gì đâu nè? lại được boa. Khoảng tiền ấy còn gấp chục lần lương cô phát cho cháu ấy chớ?”. Chẻo hốt hoảng khi thấy bà Tư nhất mực bắt phải lột bộ bà ba để tròng vào chiếc robe màu đen: “Da con trắng, mặc màu đen sang trọng lắm” bằng cái giọng thẽ thọt ru ngủ. Trong bóng tối nhờ nhờ, cô như cái bóng ma. Đôi vai trần, cánh tay trần lạnh ngắt. Từ chân lên đến háng là khối da thịt phơi ra trần truồng. Cô cảm thấy như cả thân thể mình bị lột sạch sẽ những mảnh vải che. Chẻo thu người lại, nhưng càng cố, cơ thể cô càng trương phình lên. Những chỗ kín cần che giấu của phụ nữ bị lật tung, toang hoác. Nước mắt cô chảy ra. Những giọt nước mắt phút chốc thành những con rắn trườn khắp người lạnh ngắt. Bọn con gái tứ xứ và cả cô nữa, tất thảy mười bảy người. Mười bảy con rắn ngơ ngác dưới chiếc đũa điều khiển, rất lạnh lùng của bà Tư.
Cả trong giấc mơ lẫn ban ngày mắt mở thao láo Chẻo luôn nhìn thấy cánh đồng sình của cha con cô, của người dân làng Nam Thổ bị đè bẹp bên dưới những khối bê tông đồ sộ của những nhà máy im lìm ngủ bên dãy núi phía tây.
Đồng làng hun hút xa.
 

Truyện Cùng Tác Giả Bóng Nắng Cưới vợ ăn Tết Gió Cuối Chân Mây Miền Không Dấu Chân Người Mưa Trên Sông ĐAKBLA Ngày Thì Tkhác, không theo những quy định bắt buộc: Bắt các em tự đặt câu hỏi và tự tìm câu trả lời, như kiểu ngồi lột từng mao bắp cho tới khi ló hột ra vậy. Lúc đầu, chúng thấy bối rối, bẽn lẽn. Sau quen dần. Khó khăn qua đi. Qua đi và thành công. Tôi mừng còn hơn bắt được hũ vàng, bởi các em hứng thú hơn trong việc học, chúng tự khám phá ra những điều thầy nêu lên, có khi cả thầy và trò cùng tham gia một cách đồng đẳng, như thể cùng học chung với nhau. May mà ba tháng nay không có bóng dáng Phòng, Sở nào về thanh tra. Chứ họ mà thấy kiểu dạy này chắc đuổi tôi ra khỏi trường ba mươi giây! Riêng tôi, tôi rất hài lòng vì mình đã thành công, làm cho chúng ham thích học tập hơn, ít vắng mặt hơn.
Mãi dông dài “thành tích” suýt nữa quên chuyện này. Thiệt ngộ. Khá bất ngờ. Số là khi quan sát các em khiêng cây, tôi mới để ý thấy những vòng kiềng đen quanh cổ chúng, nổi đậm đặc bên trên lớp mồ hôi nhễ nhại. Anh biết cái vòng gì không? Vòng kiềng đất! Khi ra tới bờ suối, tôi hỏi thằng Y Blin: “Em có thường tắm không?”. Nó hớn hở: “Dạ có, cô. Ngày nào em cũng tắm”. Tôi hiểu ra kiểu tắm của chúng là nhảy tòm xuống nước, ngoi như rái cá rồi leo lên. Chúng nhúng nước đó mà. Tôi để bụng và chủ nhật rồi lẳng lặng đèo chị Ngân ra chợ kêu ông thợ cắt tóc, mua mấy cục xà bông thơm và dầu gội, quay về lùa hết đám học sinh lớp tôi ra bờ suối, cắt gọn theo kiểu húi cua, con gái thì cắt “bom bê”. Tới đoạn lấy ráy tai, ông thợ cắt tóc kêu trời: “Tụi bay nhét bùn vào lỗ tai chi dữ vậy?”. Chúng ngó mặt nhau cười lỏn lẻn. Anh có thể tưởng tượng nổi không? Hăm bảy đứa, đủ cả năm tư cục bùn bằng đầu đũa. Ông thợ cắt tóc sắp ngay ngắn trên miếng lá ngái to rồi nói: “Tụi bay đem về cất làm kỷ niệm!”. Hèn chi mỗi khi tôi gọi Y Lin thì ngay lập tức thằng Y Blin đứng dậy, gọi Y Đoa thì Y Doãn trả lời, mới mở miệng: H’Ngung thì H’Nhung đứng lên làm rối tung cả lớp. Thiệt kinh khủng! Hễ cắt xong đứa nào là tôi và chị Ngân lôi đi gội đầu, lấy bọt đá ngay dưới suối chà xát từ cổ tới gót chân ngay. Lớp cáu ghét đó nếu không bị nước cuốn trôi, có thể gieo một rò cải nhỏ đó.
Cái vụ lùa đi cắt tóc, tắm gội lan sang các lớp khác thiệt nhanh và không phải đợi thầy cô nữa, chúng tự động vệ sinh. Tuần sau sạch sẽ hẳn. Vui không?
...ngày... tháng... năm...
Mấy tuần nay không đụng tới cây bút, tờ giấy chẳng phải không nhớ nhà, mà bởi hai tay mỏi nhừ. Tôi cũng phải khiêng vác với mọi người để dựng cho xong căn nhà. Chính xác hơn là nhờ thanh niên địa phương: Họ nhiệt tình đục đẽo, dựng cột, tra ngàm... chẳng mấy chốc sườn nhà cũng “sừng sững” phía sau trường. Họ lại đánh tranh, chẻ lạt rồi lợp, rồi trét vách. Tất cả đều một tay bọn họ với ông Thắng. Mấy cô chỉ hậu cần. Thoạt nghĩ cũng hơi giựt mình: Nếu không có mấy anh trai làng phụ giúp thì không biết đến bao giờ mới được nhìn thấy “ngôi nhà nhỏ lộng lẫy” giữa khu rừng trống hoác này. Ngôi nhà nằm dưới tán cây da đá, có nhiều rễ phụ thọc xuống đất, tha hồ chúng nô đùa. Nó chỉ cách trường chừng vài chục bước chân. Tôi nói nhỏ với ông Thắng: “Hay tụi em ra nhà mới còn các em ở với thầy?”. Ông Thắng suỵt: “Tầm bậy, các cô ở ngoài đó thú dữ vào bắt đi mất!”. Nghe nói “thú dữ” tôi xanh mặt, còn chị Hài thì bĩu môi: “Thằng chả sợ mất hơi tụi mình đó mà”. Tôi chợt hiểu, cười toe toét: “Thì chị ưng ổng đi. Ổng yêu chị quá mà?”. Chị Hài quay mặt: “Chuyện!”. Vì không thấy được mặt khi chị buông ra chữ “chuyện” cụt lủn, nên bí mật giữa hai người vẫn cứ treo lơ lửng ở đâu đó.
Anh hãy nghe đây. Chuyện này rất nghiêm túc: Khi nền nhà đã khô, vách đã cứng, mười bốn em hớn hở về nhà mới. Tất nhiên là có bữa tiệc nhỏ, cây nhà lá vườn. Và để tỏ lòng biết ơn địa phương, ông Thắng đi mời. Họ kéo đến đầy nhà, còn mang theo ché rượu, con gà, miếng khô. Đông, vui cứ như ngày hội. Nhưng sự thể chỉ khép lại tại chỗ này thì tròn trịa biết nhường nào. Đằng này, đêm cạn, tiệc tan, lúc mọi người lục tục ra về, đến đầu hồi trường, xế giếng nước, bổng lù lù một bóng người cao lớn. Hắn lên tiếng: “Cô đừng sợ. Tôi là Y Blách. Xin gửi cô chiếc vòng”. Nói và hắn dúi vào tay tôi chiếc vòng rồi chạy biến vào bóng trăng trải rộng trước mặt. Tôi tưởng tượng như đó là bức tượng đồng đen đang di chuyển.
Đêm dài, kéo theo những cảm giác dập dềnh trộn lẫn: bồn chồn, lo lắng, sợ hãi, thích thú, buồn tủi... Tất cả giống y chang những thứ trong lẩu thập cẩm đun mạnh lửa, nhào lộn như xiếc. Đêm dài vô cùng tận. Mắt lại mở trao tráo, hết xoay qua rồi lăn lại khiến chị Ngân hỏi nhỏ: “Gì vậy?”. Tôi giả bộ ú ớ như người mớ ngủ, nằm im. Nằm im và cố moi trí nhớ về anh chàng hồi tối, Y Blách, và lần tháo từng gút. Hắn vạm vỡ, bắp tay cuồn cuộn, nước da đồng thau, mái tóc bồng bềnh, nhất là đôi mắt khi nhìn ai như hút hết người ấy vào hai con ngươi. Nhớ rồi, tôi đã gặp anh ta lúc mới đặt chân lên đất này. Anh ta đã nắm tay tôi dắt lên cầu thang? Có lúc tôi cũng nghĩ bậy: Mang đặt hắn vào trong công viên, giữ làm của riêng, thì hẳn sẽ là một bức tượng tuyệt hảo để nhìn ngắm không biết chán! Còn trong công việc, mỗi khi vung chiếc rìu lên, cả người hắn cuộn lên những bắp thịt như vận động viên thể hình, như phình to ra. Những lúc đó tôi cứ sợ hắn sẽ nổ tung mất. Nhưng không phải vậy, chỉ có những thân gỗ là bị thu nhỏ dần theo ý muốn thôi...
Sáng thức dậy như người bị ốm, mặt mũi bơ phờ. Chiếc vòng tối qua tôi lén giấu vào đáy va li, không biết tạo từ chất gì, nặng. Và cũng không dám hé lộ ra. Chị Hài và Ngân mà biết được, chắc tôi chết mất! Anh cũng biết rồi. Ở xứ này, một khi người nam tặng vòng cho người nữ, sẽ đồng nghĩa với sự bày tỏ tình cảm và xa hơn chút là lời cầu hôn. Anh coi, có chết tôi không? Mà nếu trời đất xui khiến, tôi ưng hắn thì anh nghĩ sao?
...ngày... tháng... năm...
Mấy ngày nay trời mưa tầm tã. Nước chảy ầm ầm từ các con suối dồn về nhánh sông nhỏ phía dưới chân đồi, chảy cuồn cuộn, ngầu đỏ nom dễ sợ như màu máu. Những ruộng bắp, mía ở thung lũng phía trước ngập lút trong biển nước mênh mông. Nước cuồn cuộn. Học sinh nghỉ học gần hết, trừ mười bốn em ở trong căn nhà tập thể. Chị Ngân kêu năm nay mưa sớm, nên củi đun nấu không chuẩn bị sẵn. Vậy mà tụi nhỏ có sáng kiến, chờ ngớt mưa, chạy ra bìa rừng lôi củi ướt về rồi tháo bớt vạt mò o trên giường nằm, vừa nấu cơm, vừa hong khô. Nhờ có đống củi ướt vừa khô hong tiếp cho lớp khác nên tụi này không còn phải ngồi nhìn nồi cơm sống. Anh thấy chúng nó có thông minh không?
Tối lạnh thấu xương. Ban ngày thì không thấy mặt trời đâu cả, như thể đất trời dính liền lại một cục. Ước gì ngay bây giờ mưa tạnh, mặt trời ló lên để tôi có thể đứng trên đồi cao này ngóng về phương Nam, nơi có cha mẹ, anh chị và cả anh nữa. Khối tròn đỏ ối đó sẽ từ từ nhô lên mỗi sáng như quả cầu rực lửa nhớ mong, có lần làm tim tôi thắt lại nỗi nhớ về chốn cũ, bạn bè. Giờ thì nó chìm khuất sau lớp mây dày u ám. Gần Tết rồi.
Anh này, có kiểu mưa chi mưa lạ mưa lùng vậy? Mưa suốt ngày đêm. Mưa như cầm chĩnh mà trút! Nước ở nhánh sông dâng cao, tràn qua đường, gầm réo như muôn vạn thủy binh đi đánh Sơn Tinh ngày xưa. Mọi ngả đường ra trung tâm xã đều bị cắt đứt. Khu trường học giờ như một ốc đảo, thiệt dễ sợ! Gạo trong khạp bắt đầu khua sồn sột rồi. Cả mười tám con người quay sang chế độ cháo, ngày hai cữ. Để có thêm hương vị thì trộn thêm mì tôm vào cháo. Thầy trò sì sụp húp vừa khen ngon hơn bát cháo hành Thị Nở, vừa nghe mưa đập ầm ầm trên mái. Vui đáo để.
Nước chảy xiết, lém sân. Ông Thắng đội mưa, gom hết các em vào, chong đèn thức suốt đêm để canh nước. Chị Hài ôm chị Ngân khóc rấm rức, nói: “Mưa kiểu này chết mất!”. Chị Ngân nạt: “Nói bậy”. Đám học trò ngồi chóc ngóc, thì thào trên những chiếc bàn học kê khít... Không ai ngủ được. Ông Thắng kêu: “Mọi người cố gắng nhắm mắt để giữ sức. Có gì tôi gọi...”. Mặc cho ông Thắng bồn chồn, mưa vẫn tuôn, nước vẫn tiếp tục gầm siết. Tôi thiếp đi, để sáng ra ngồi ghi vội mấy chữ này, nghe mưa đổ mù trời đất vừa tả lại cơn mưa núi cho anh biết với...
...Nước lên nhanh quá. Hết đường ra trung tâm xã rồi...
Hai ngày sau cơn lũ kinh hoàng, toán cứu hộ mới tới được buôn H’Leo. Có anh chàng thanh niên bản địa xung phong hướng dẫn đoàn. Bùn đất ngập tới thắt lưng. Những thùng hàng như muốn nhấn lút họ xuống tầng sâu của sình như cháo hồ nhuyễn. Phải khó khăn lắm mới chuyển hết số hàng lên đỉnh gò cao của buôn. Ba bên bốn bề là cảnh tượng tan hoang. Họ dựng lều rồi vội vã chia nhau đi tìm kiếm.... Suốt buổi lội trong bùn sình nhưng không tìm thấy được dấu vết nào của sự sống. Người thanh niên, có vẻ như trưởng toán, buồn bã buột miệng: “Chẳng lẽ cả làng bị xóa trắng rồi sao?”.
Chiều thấp dần. Họ quay lại nơi dựng lều. Trên đường đi, thu nhặt được vài mẫu quần áo, chăn mùng quện chặt vào bùn, vướng trên những cành cây nghiêng ngã theo chiều nước cuốn. Qua bãi sình, chỗ có mấy bụi gai móc ó đưa cả bộ rễ lên trời, họ phát hiện chiếc va li vùi sâu giữa lùm rậm. Mọi người xắn xở dùng rựa, câu móc phát sạch, lôi chiếc va li ra, tiếp tục mò trong lớp bùn dày với hy vọng có thể tìm thấy người bị vùi lấp. Nhưng không có gì cả. Toàn bùn nhão nhoét. Bùn sình bám lên tận cổ, mặt mũi họ...
...Dưới ánh sáng leo lét của chiếc đèn bão, toán cứu hộ hồi hộp nhìn chăm chú theo bàn tay run rẩy của người trưởng toán. Chiếc va li được mở ra: một mớ quần áo lót và chai lọ của phụ nữ, một chiếc vòng bằng đồng và cuốn sổ nhật ký. Người thanh niên địa phương mặt tái đi khi nhìn thấy các đồ vật được bao bọc bỡi lớp bùn nhão. Anh lặng lẽ cầm chiếc vòng đồng đưa ra xa rồi xích lại gần tầm mắt. Một người khác dùng nước đóng chai rửa sạch quyển sổ rồi trao cho người trưởng toán. Anh cẩn thận gỡ từng trang và bắt đầu đọc cho mọi người cùng nghe. Ban đầu giọng còn vang, càng về sau càng run rẩy, nhỏ dần, như nghẹn lại. Nước mắt anh chảy dài xuống má, xuống cổ. Những tiếng sụt sịt nổi lên. Ngọn đèn bão chao lắc không đủ sáng soi rõ mặt mọi người. Đêm buông xuống thật sâu.
Tháng 5/2010
--!!tach_noi_dung!!--

Sưu tầm: hai1957
Nguồn: NXB Lá bối (1971) NXB Văn nghệ (1986)- VoHong
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 30 tháng 12 năm 2012

--!!tach_noi_dung!!--
--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- ---~~~mucluc~~~---