Người dịch: Nguyễn Đình Chí, Linh Tâm
Christina Rosenthal

    
ng đạo sĩ Do Thái biết mình không hy vọng có thể bắt đầu buổi lễ chừng nào ông chưa đọc xong bức thư. Ông ngồi tại chiếc bàn giấy của mình đã hơn một tiếng đồng hồ, trước mặt là một tờ giấy trắng trơn và vẫn không thể nặn óc viết ra một câu nào. Gần đây ông không thể nào tập trung vào một công việc mà ông đã làm vào tất cả các buổi tối thứ sáu trong suốt ba mươi năm qua. Chắc họ đã nhận thấy, giờ đây, ông không còn chú tâm đến việc đó nữa.
Ông lấy bức thư ra khỏi phong bì và chậm rãi mở các trang thư. Rồi ông đẩy cặp kính bán nguyệt lên sống mũi và bắt đầu đọc.
Cha thương yêu của con,
“Thằng Do Thái! Thằng Do Thái! Thằng Do Thái!” là những câu đầu tiên mà con nghe thấy cô ta gào lên khi con chạy ngang qua cô ta tại vòng chạy đầu tiên của cuộc chạy đua. Cô ta đang đứng đằng sau những thanh hàng rào tại điểm bắt đầu của đoạn đường thẳng về đích, hai bàn tay cham quanh miệng để chắc chắn con có thể nghe thấy những lời gào hét đó. Chắc là cô ta đến từ một trường khác, bởi vì con không nhận ra cô ta, thế nhưng chỉ một thoáng liếc mắt là con thấy chính thằng Greg Reynolds đang đứng cạnh cô ta.
Sau năm năm phải chịu những lời chỉ trích cạnh khóe, thâm độc và sự ức hiếp của nó ở trường học, con đã muốn trả thù lại những gì “đồ phát xít, tên Quốc xã” đó đã làm. Thế nhưng cha đã luôn luôn dạy con vượt lên trên những sự khiêu khích như thế.
Con cố gắng gạt cả hai đứa nó ra khỏi tâm trí mình khi con tiến vào vòng chạy thứ hai. Con ước đã nhiều năm nay chiến thắng tại vòng đua một dặm của các giải quán quân trường Trung học West Mount, và con kiên quyết không để chúng nó làm bất cứ điều gì ngăn cản con.
Khi con tới được đoạn thẳng về đích lần thứ hai, con cố nhìn cô ta kỹ hơn. Cô ta đang đứng giữa một nhóm bạn bè, họ đeo những chiếc khăn quàng của trường dòng Marianapolis Covent. Cô ta chắc quãng chừng mười sáu tuổi, mảnh mai như một cây liễu.  Con phân vân không biết cha có phạt con không nếu như con đã muốn thét to lên, “Đồ ngực lép, ngực lép, ngực lép,” với hy vọng là việc này ít nhất sẽ khiêu khích cái gã đang đứng bên cạnh cô ta nhảy vào đánh lộn một trận. Đến lúc đó con có thể trung thực nói với cha rằng nó là người đánh đầu tiên, nhưng nếu cha biết được thằng ranh đó chính là thằng Greg Reynolds thì cha sẽ hiểu là con chẳng cần nhiều đến sự khiêu khích.
Khi con tới đoạn thẳng về đích, con chuẩn bị tinh thần một lần nữa đẻ nghe những lời gào thét. Việc hò hét tại các buổi thi điền kinh đã trở thành mốt ở giai đoạn cuối thập niên 1950, khi “Zatopeck, Zatopeck, Zatopeck” đã được hô vang để ca ngợi nhà quán quân Tiệp Khắc vĩ đại trên khắp các sân vận đồng điền kinh thế giới. Đối với con thì chắc chắn sẽ khong có câu hét vang “Rosenthal, Rosenthal, Rosenthal”.
“Thằng Do Thái! Thằng Do Thái! Thằng Do Thái!” cô ta thét to, nghe như một chiếc đĩa nhạc bị lỗi giật cục. Thằng bạn Greg của cô ta, chỉ là một sinh viên dự bị, bắt đầu cười to. Con biết nó đã hướng cô ta vào việc đó, và con mong muốn dập tắt cái nụ cười ngạo mạn trên khuôn mặt nó làm sao. Con đạt được điểm nửa dặm đường sau hai mươi phút mười bảy giây, đang ung dung nằm trong khoảng tốc độ cần thiết để phá kỷ lục của trường, và con cảm thấy đó là cách tốt nhất để đặt cô gái cay độc và cái thằng phát xít Reynolds vào vị trí của chúng. Lúc đó, con không thể không suy nghĩ rằng tất cả mọi việc thật bất công làm sao. Con là một người Canada thực thụ, được sinh ra và được nuôi dạy trên đất nước này, trong khi cô ta chỉ là một người nhập cư. Suy cho cùng, chính là cha, thưa cha, đã bỏ trốn từ Hamburg từ năm 1937, và khởi sự với hai bàn tay trắng. Cha mẹ cô ta mãi đến năm 1949 mới đặt chân lên bờ biển, vào thời gian này cha đã là một nhân vật được kính trọng tại cộng đồng.
Con cắn răng và cố gắng tập trung tư tưởng. Zatopek đã viết trong cuốn tự truyện của ông ta rằng vận động viên chạy tốc độ không bao giờ được phép để mất đi sự tập trung tư tưởng của mình trong một cuộc đua. Khi con tiếp cận đoạn đường cong áp chót, tiếng gào thét không thể tránh khỏi lại bắt đầu, nhưng lần này nó chỉ làm cho con tăng thêm tốc độ và tẹn bước tới và ngồi xuống bên cạnh con. Chúng con không hôn hay bắt tay nhau và thậm chí khong nói gì một lúc.
“Cảm ơn em đã đến,” con bảo.
“Em không nên đến, thật là ngốc ngếch.”
Một quãng thời gian trôi qua và cả hai chúng con vẫn ngồi yên lặng.
“Anh rót cà phê cho em nhe?” con hỏi.
“Vâng, cảm ơn”.
“Đen chứ?”
“Vâng”.
“Em vẫn không thay đổi.”
Tất cả mới tầm thường, vô vị làm sao nếu có ai đó nghe trộm được.
Nàng nhấp tách cà phê.
Con đáng lẽ phải ôm ghì nàng trong vòng tay ngay lúc đó nhưng con chẳng thể biết được nàng muốn gì. Trong mấy phút liền, chúng con nói về những chuyện chẳng đâu vào đâu cả, luôn tránh ánh mắt của nhau, cho đến khi bỗng dưng con nói, “Em có nhận thấy rằng anh vẫn còn yêu em không?”
Nước mắt dần dâng lên, nàng trả lời, “Tất nhiên là em biết. Em vẫn cảm thẫy như thế về anh lúc này đây, cũng như em đã cảm thấy vào cái ngày chúng ta chia lìa nhau. Và đừng quên em phải nhìn thấy anh hàng ngày, qua Nicholas.”
Nàng rướn người lên và nói gần như thì thầm. Nàng kể cho con về buổi nói chuyện với cha mẹ hơn năm năm trước mà cứ như thẻ chúng con chưa bị chia lìa trong khoảng thời gian đó. Cha nàng đã không tỏ ra tức giận khi ông ta biết nàng đã có thai, nhưng cả gia đình nàng vẫn chuyển đi Vancouver vào buổi sáng hôm sau. Tại đó, họ sống ở nhà gia đình Willings, một gia đình cũng đến từ Munich, họ là những người bạn cũ của gia đình von Braumers. Người con trai của họ, Klaus đã luôn mụ mẫm người vì yêu Christina, và không quan trọng gì việc Christina đã có mang, thậm chí thực tế là nàng chẳng có tình cảm gì với anh ta. Anh ta tin tưởng rằng, với thời gian, mọi việc sẽ đều trôi chảy và sẽ tốt đẹp.
Mọi việc đã không như vậy, bởi vì nó không thể nào như vậy được. Christina đã luôn luôn biết mọi sự sẽ không bao giờ ổn thỏa, cho dù Klaus cố gắng thế nào đi nữa. Họ thậm chí còn rời Montreal nhằm nỗ lực cải thiện tình hình. Klaus mua cho nàng một cửa hiệu ở Toronto và mọi thứ xa xỉ mà tiền bạc có thể mua được, thế nhưng cũng chẳng thay đổi được gì. Cuộc hôn nhân của họ rõ ràng là một sự giả tạo. Tuy nhiên họ không thể vì chính bản thân mình mà ly hôn để làm cho hai bên gia đình thêm đau khổ, thế là họ đã sống những cuộc sống riêng ngay từ đầu.
Sau khi Christina kết thúc câu chuyện của nàng, con đặt tay lên má nàng và nàng nắm lấy bàn tay con và hôn lên đó. Kể từ giây phút đó chúng con gặp gỡ nhau vào mọi khoảng thời gian rỗi rãi có thể lẻn đi được, bất kể ngày hay đêm. Đó là những năm tháng hạnh phúc nhất trong cuộc đời con, và con đã không thể che giấu bất cứ ai tình cảm của con.
Cuộc tình của chúng con – đó là cách mà các lời đồn đại đang miêu tả nó – không tránh khỏi trở thành công khai. Dù chúng con có cố gắng tỏ ra kín đáo đến thế nào chăng nữa, con nhanh chóng phát hiện Toronto là một nơi quá nhỏ bé, đầy rẫy những kẻ vui sướng trong việc kể cho những người mà chúng con cũng thương yêu, rằng thường hay bắt gặp chúng con đi với nhau, thậm chí rời khỏi nhà con vào sáng sớm.
Thế rồi bỗng nhiên chúng con hoàn toàn không có sự lựa chọn nào nữa: Christina bảo con nàng lại có mang lần nữa. Có điều lần này cả hai đứa chúng con đều không có gì phải sợ.
Khi Christina nói cho Klaus biết, việc thỏa thuận giải quyết diễn ra chóng vánh như khi viên luật sư cừ nhất của Graham Douglas & Wilkins có thể dàn xếp thương lượng. Chúng con tổ chức lễ thành hôn chỉ vài ngày sau khi các giấy tờ ly hôn cuối cùng được ký kết. Cả hai đứa chúng con đều thấy hối tiếc rằng cha mẹ Christina cảm thấy không thể tham dự lễ cưới, thế nhưng con không thể hiểu được tại làm sao cha đã không đến dự.
°
° °
Ông giáo sĩ Do Thái vẫn không thể tin sự không khoan dung và tầm nhìn thiển cận của chính mình. Những yêu cầu đối với một người Do Thái chính thống nên được từ bỏ nếu điều đó có nghĩa là mình mất đi thằng con trai độc nhất. Ông đã tra cứu cuốn Tamud (luật lệ và truyền thống Do Thái) một cách vô ích, hòng tìm bất cứ một trích đoạn nào đó sẽ cho phép ông phá bỏ lời nguyền của đời ông. Vô ích.
°
° °
Việc đáng buồn duy nhất của vụ giải quyết ly hôn là Klaus được trao quyền nuôi giữ đứa con của chúng con. Và để đổi lấy một vụ ly hôn nhanh chóng, anh ta cũng yêu cầu con không được phép gặp Nicholas trước sinh nhật lần thứ hai mươi mốt của nó, và con không hậm chí còn thêm quyết tâm để phá kỷ lục đó. Khi con lại an toàn tới được đoạn thằng về đích, con có thể nghe thấy mấy người bạn của con hô to “Cố lên, Benjamin, cậu làm được mà,” và người bấm giờ đọc to lên “Ba hai mươi ba, ba hai mươi bốn, ba hai mơi lăm” khi con chạy ngang qua chiếc băng rôn để bắt đầu vòng chạy cuối cùng.
Con biết rằng kỷ lục – bốn phút ba mươi hai – giờ đây đã nằm ngon lành trong tầm với của con, và tất cả những đêm tối mùa đông luyện tập bỗng dường như thật xứng đáng, khi con tới đoạn đường thẳng về đích, con ở vị trí dẫn đầu, và thậm chí còn cảm thấy mình có thể giáp mặt cô gái đó một lần nữa. Con dồn hết sức lực cho một cố gắng cuối cùng. Một cái liếc mắt nhanh ngang qua vai giúp con khẳng định đã vượt lên trước vài mét so với bất cứ đối thủ nào, do đó vấn đề chỉ là con chạy đua với chiếc đồng hồ. Thế rồi con nghe thấy tiếng gào, mà lần này nó thậm chí còn to hơn lần trước, “Thằng Do Thái! Thằng Do Thái! Thằng Do Thái!”. Tiếng gào thét còn to hơn vì cả hai đứa chúng nó giờ đây đang đồng thanh, và đúng lúc con đang ở vào khúc cua, Reynolds giơ cao cánh tay lên làm một động tác chào khốn kiếp của bon phát xít.
Nếu như con cứ tiếp tục thêm chừng hai mươi mét nữa thôi thì con đã đạt được sự an toàn của đoạn đường thẳng dẫn về đích trong tiếng hò reo chúc mừng của bạn bè con, đoạt chiếc cúp và lập kỷ lục. Thế nhưng chúng nó đã làm con tức giận đến mức con không thể nào kiểm soát được bản thân mình nữa.
Con phóng ra khỏi đường chạy và chạy ngang qua bãi cỏ, băng qua bãi nhảy xa và xông thẳng vào chúng. Ít nhất quyết định điên rồ của con cũng làm cho chúng nó ngừng kêu gào, bởi vì thằng Reynolds đã hạ thấp cánh tay xuống và chỉ đứng đó nhìn con chằm chặp đầy thảm hại từ phía đằng sau thanh hàng rào nhỏ bé bao quaynh vòng ngoài của đường chạy. Con nhảy qua thanh rào và hạ xuống ngay trước mặt địch thủ của mình. Với tất cả sức lực mà con đã để dành cho đoạn đường thẳng cuối cùng, con quai cho nó một cú trời giáng. Nắm đấm của con phang vào dưới mắt trái của nó chừng hai phân và nó oằn người, ngã vật xuống đất bên cạnh cô ta. Cô ta nhanh nhẹn quỳ xuống và ngước lên nhìn con với một sự căm ghét mà không lời lẽ nào sánh được. Khi con đã chắc chắn là thằng Greg sẽ không thể trở dậy được ngay, con chậm rãi bước quay lại đường chạy khi những vận động viên cuối cùng đang chạy khúc cua chót.
“Lại về bét rồi, thằng Do Thái,” Con nghe thấy cô ta thét lên khi con chạy nhập vào đoạn đường thẳng về đích, cách quá xa những người khác đến mức chẳng cần bận tâm ghi lại thời gian của con.
Đã từ lâu cha thường hay trích dẫn để dạy con những lời này: “Ta vẫn còn chịu đựng nó với một cái nhún vai nhẫn nại, bởi vì nhẫn nhục là dấu hiệu tượng trưng của bộ lạc chúng ta.” Tất nhiên là cha đúng, nhưng mà lúc đó con mới có mười bảy tuổi đầu, và thậm chí, sau khi con đã biết được sự thật về người cha của Christina, con vẫn không thể hiều làm sao mà một người ra đi từ một nước Đức thảm bại, một nước Đức bị toàn bộ phần còn lại của thế giới lên án vì sự đối xử đối với người Do Thái, vẫn còn có thể cư xử theo cung cách như vậy. Và hồi đó con thực sự tin rằng gia đình cô ta là những kẻ phát xít, thế nhưng còn còn nhớ cha đã kiên trì giải thích cho con rằng cha cô ta đã từng là một vị đô đốc trong hải quân Đức, và đã được tặng thưởng một Huân chương Chữ Thập Sắt cho việc đánh chìm những tàu chiến của quân Đồng minh. Cha có còn nhớ con đã hỏi làm sao cha có thể chịu đựng được một người như thế, chứ đừng nói cho phép ông ta định cư trên đất nước chúng ta.
Cha cứ tiếp tục bảo đảm với con rằng Đô đốc Von Braumer, một người xuất thân từ một gia đình theo Thiên chúa giáo cổ, có lẽ cũng khinh bỉ bọn phát xít nhiều như chúng ta, đã làm trọn bổn phận một cách danh giá với tư cách là một sỹ quan và một đức ông cống hiến trọn vẹn cuộc đời của ông ta trên cương vị một thủy thủ Đức. Thế nhưng con vẫn không thể chấp nhận quan điểm của cha, hoặc là không muốn chấp nhận điều đó.
Thưa cha, việc cha luôn nhìn trên quan điểm của người khác cũng chẳng giúp ích gì, và cho dù mẹ đã chết sớm bởi mấy kẻ tàn nhẫn, đáng khinh ấy, cha vẫn có thể tự tha thứ được.
Nếu như cha được sinh ra là một người Thiên chúa giáo, thì cha đã là một vị thánh.
°
° °
Ông đạo sĩ Do Thái đặt bức thư xuống, dụi dụi cặp mắt mệt mỏi trước khi lật sang trang khác, những trang thư được viết bằng nét chữ rất đẹp mà ông đã từng dạy dỗ cho thằng con trai duy nhất của mình bao nhiêu năm về trước. Benjamin đã luôn học rất sáng dạ, mọi thứ, từ văn tự tiếng Do Thái cho tới một phương trình đại số phức tạp. Thậm chí ông đã từng hy vọng cậu sẽ có thể trở thành một ông đạo sĩ Do Thái.
°
° °
Cha có nhớ con đã hỏi cha tối hôm đó tại sao mọi người không thể hiểu rằng thế giới đã đổi thay rồi? Cô gái đó không nhận thấy rằng cô ta cũng không hơn gì chúng ta sao? Con sẽ không bao giờ quên được câu trả lời của cha. Cha bảo cô ta hơn chúng ta rất nhiều nếu như cách thức duy nhất để con có thể chứng minh sự ưu việt của mình là đám vào mặt bạn của cô ta.
Con quay lại phòng mình, tràn đầy bực tức bởi sự yếu đuối của cha. Sẽ còn phải sau nhiều năm nữa con mới hiểu được sức mạnh của cha.
Mỗi khi con không phải chăm chỉ tập luyện trên đường chạy, con cũng chẳng có thời gian cho bất kỳ việc gì ngoại trừ phấn đấu học tập để có được một suất học bổng tại McGill, do đó thật bất ngờ là con đường cô ta theo đuổi lại sớm cắt ngang con đường của con.
Khoảng một tuần sau đó con trông thấy cô ta tại bể bơi địa phương. Khi con bước vào, cô ta đang đứng ở phần sâu của bể bơi, ngay phía dưới cầu nhảy. Mái tóc vàng để dài của cô ta đang tung bay, nhảy múa trên bờ vai, đôi mắt ngời sáng của cô ta đang hào hứng ghi nhận mọi vật xung quanh mình. Greg đang ở bên cô ta. Con hài lòng nhận thấy một mảng thâm tín, xám xịt còn đọng lại dưới mắt trái của nó để cho tất cả mọi người cùng thấy. Con cũng nhớ mình đã cười khoái trá bởi vì cô ta thực sự có một bộ ngực phảng phiu nhất mà con từng thấy ở một cô gái mười sáu tuổi, mặc dù vậy con cũng phải thú nhận cô ta có đôi chân đẹp tuyệt trần. Có lẽ cô ta là một kẻ đồng bóng quái gở, con thầm nghĩ. Con rẽ ngang để vào phòng thay đồ, nhưng loáng một cái, con bị rơi tõm xuống nước. Khi con nhô lên để thở, con không hề nhìn thấy bất cứ dấu hiệu nào để biết ai đã đẩy con xuống mà chỉ có một nhóm những khuôn mặt vô tội cười cợt. Con không cần một tấm bằng về luật pháp cũng có thể suy ra người nào đã làm việc đó, nhưng mà cha đã liên tục nhắc nhở con là không có chứng cớ thì không có xét xử… Lẽ ra con đã không phật lòng đến thế vì bị đẩy xuống bể bơi nếu như con không mặc bộ đò diện nhất của con, sự thật đó là bộ đồ duy nhất của con với cái quần dài, bộ đồ mà con mặc trong những ngày con đi lễ tại giáo đường Do Thái.
Con trèo lên khỏi bể nước, chẳng bỏ phí một tí thời gian nào để tìm kiếm thằng đó. Con biết đến lúc đó thì Greg đã cao chạy xa bay rồi. Con rảo bước về nhà qua các phố nhỏ, tránh đi xe buýt, đề phòng tường hợp có ai đó trông thấy con và nói lại với cha tình trạng của con lúc đó. Ngay khi về đến nhà, con nhón chân lẻn qua phòng của cha và lên cầu thang về phòng mình, thay đồ trước khi cha có cơ hội phát hiện ra điều gì đã xảy ra.
Lão Isaac Cohen nhìn con với con mắt bất bình khi con xuất hiện ở giáo đường Do thái sau đó một giờ, mặc một chiếc áo cộc tay và quần jeans.
Con đem bộ đồ tới tiệm giặt là vào buổi sáng hôm sau. Nó tiêu tốn của con ba tuần tiền bỏ túi để chắc chắn rằng cha không bao giờ biết điều đã xảy ra tại bể bơi ngày hôm đó.
°
° °
Ông giáo sĩ Do Thái nhặt tấm hình thằng con trai mười bảy tuổi của mình trong bộ đồ giáo dường Do Thái lên. Ông còn nhớ rõ thằng Benjamin đến dự buổi lễ của ông trong chiếc áo cộc tay và quần jeans và với lời khiển trách thẳng thừng của lão Isaac Cohen. Ông giáo sĩ rất biết ơn ông Atkins, giáo viên dạy bơi lội của Benjamin, đã điện thoại để báo cho ông về việc đã xảy ra buổi chiều hôm đó, do vậy ít nhất ông đã không thêm vào những lời chỉ trích gay gắt của ông Cohen. Ông tiếp tục ngắm nhìn tấm hình thật lâu trước khi quay trở lại bức thư.
°
° °
Dịp tiếp sau con thấy Christina – lúc này con đã biết được tên cô ta – tại buổi khiêu vũ cuối học kỳ được tổ chức tại phòng thể dục dụng cụ của trường. Con nghĩ trông con cũng khá bảnh trong bộ đồ là lượt phẳng phiu cho đến khi con trông thấy Greg đang đứng bên cạnh cô ta trong một chiếc áo dạ tiệc mới, lịch lãm. Lúc đó, con còn nhớ con đã băn khoăn tự hỏi không biết đến bao giờ con mới có thể mua được một chiếc áo dạ tiệc. Gã Greg đã được mời chào một suất học ở McGill và đang tuyên bố điều đó với bất kỳ ai muốn nghe, điều này làm cho con càng thêm quyết tâm giành được một suất học bổng ở đó vào năm học sau.
Con chăm chăm nhìn Christina. Cô ta mặc một chiếc váy dài màu đỏ, che kín hoàn toàn đôi chân đẹp tuyệt vời kia. Một chiếc thắt lưng vàng mỏng mảnh tôn lên phần eo thon thả và món đồ trang sức duy nhất mà cô ta đeo là một sợi dây chuyền vàng đơn giản. Con biết nếu chờ đợi thêm chút xíu nữa thôi, con sẽ không có đủ dũngg Gerber, rằng tôi sẽ không mất ngủ một chút xíu nào vì một quyết định như thế đâu,” – Ignatius nói – “Thậm chí nếu những nỗ lực của tôi để khám phá ra những cái tên kia sẽ đặt đất nước ông quỳ gối xuống, tôi cũng sẽ không thương tiếc.”
“Biết làm sao được, thưa ngài Bộ trưởng,” – Ông chủ tịch trả lời – “Tuy nhiên, nó vẫn không thể làm thay đổi chính sách hay nguyên tắc bảo mật của ngân hàng này.”
“Nếu sự việc vẫn cứ giữ nguyên như vậy, thưa ngài, ngay hôm nay tôi sẽ ra lệnh cho Đại sứ của tôi đóng cửa sứ quán của chúng tôi tại Geneva và tôi sẽ tuyên bố Đại sứ của các vị ở Lagos persona non grata (là vô giá trị).”
Lần đầu tiên ông chủ tịch rướn đôi lông mày.
“Thêm nữa,” – Ignatius tiếp tục – “tôi sẽ tổ chức một cuộc họp báo ở London và nó sẽ làm cho giới báo chí trên khắp thế giới không còn nghi ngờ gì nữa về sự phiền lòng chán nản của ngài Quốc trưởng của chúng tôi về thái độ của ngân hàng này. Sau một công bố như thế, tôi tin chắc ngài sẽ thấy rằng nhiều khách hàng của ngài muốn đóng tài khoản của họ lại, trong khi những người khác đã xem ngân hàng của ngài như một nơi trú ẩn an toàn trong quá khứ có thể sẽ thấy cần thiết phải tìm kiếm một nơi khác.”
Ông Bộ trưởng chờ đợi, thế nhưng ông chủ tịch vẫn chẳng bảo sao.
“Thế là ngài không cho tôi một cơ hội nào,” Ignatius nói và đứng lên.
Ông chủ tịch duỗi thẳng cánh tay, cho rằng sau cùng thì ông Bộ trưởng cũng phải đi. Nhưng rồi thật kinh hãi khi Ignatius đưa một bàn tay vào túi áo jacket và rút ra một khẩu súng nhỏ. Hai ông chủ ngân hàng Thụy Sỹ sợ chết cứng người khi ngài Bộ trưởng Tài chính Nigeria bước lên phía trước và gí đầu ruồi kề thái dương ông chủ tịch.
“Tôi cần những cái tên đó, ông Gerber, và đến giờ chắc ông đã nhận ra không gì có thề ngăn cản được tôi. Nếu ông không cung cấp chúng ngay tắp lự tôi sẽ bắn phọt óc ông ra. Ông có hiểu không?”
Ông chủ tịch khẽ gật đầu, từng giọt từng giọt mồ hôi tứa ra trên trán ông ta. “Và kế tiếp sẽ là anh kia,” – Ignatius bảo, hất hàm về phía anh thanh niên đang đứng lặng ngắt và tê liệt cách đó mấy bước chân.
“Đưa cho tôi tên tuổi của tất cả những người Nigeria có tài khoản ở ngân hàng này,” – Ignatius nói khẽ khàng, nhìn hướng về anh thanh niên – “không thì tôi sẽ bắn phọt óc ông chủ tịch của anh tung tóe khắp tấm thảm xốp này. Ngay tức thì, anh nghe thấy không?” – Ông ta nói sắc lẹm.
Người thanh niên hướng cái nhìn về ông chủ tịch, giờ đây đang run lẩy bẩy như cầy sấy, nhưng ông ta vẫn nói rất rõ ràng, quả quyết: “Non, Pierre, jamais.” (Không, Pierre, không bao giờ).
“D’accord” (Đồng ý). Anh trợ lý trả lời thì thầm.
“Các người không thể nói là tôi đã không cho các người cơ hội.” – Ignatius kéo kim hỏa. Mồ hôi đang túa xuống khuôn mặt ông chủ tịch, và anh thanh niên phải hướng mắt nhìn đi chỗ khác, kinh hãi chờ đợi tiếng súng nổ.
“Tuyệt vời quá,” – Ignatius nói, khi ông ta bỏ khẩu súng xuống khỏi đầu ông chủ tịch và quay trở lại chỗ ngồi. Cả hai thầy trò ông chủ ngân hàng vẫn còn đang run rẩy và vẫn không thể thốt nên lời.
Ông Bộ trưởng nhấc chiếc cặp trầy xước lên từ bên chiếc ghế ông ta ngồi, đặt nó lên trên mặt bàn kính trước mặt. Ông ta ấn vào hai móc khóa và nắp cặp bật mở.
Hai thầy trò ông chủ nhà băng nhìn chòng chọc xuống những hàng giấy một trăm đô la đóng gói gọn ghẽ. Chiếc cặp chật cứng không thừa một ly. Ông chủ tịch nhẩm tính nhanh rằng có lẽ nó lên tới năm triệu đô la.
“Tôi băn khoăn rằng, thưa ngài,” – Ignatius nói – “không biết mở một tài khoản ở ngân hàng của ngài như thế nào đây?”

Hết