Phần I
Chương 2

    
rên đường trở về văn phòng cổ Wall Street, Antonio Cavalli bắt đầu suy nghĩ một cách nghiêm túc hơn về Al Obaydi và diễn biến cuộc gặp gỡ của hai người. Hồ sơ về người khách hàng mới của y do văn phòng London của bọn họ cung cấp, rồi lại được cô thư ký Debbie của y cập nhật, cho biết viên Phó đại sứ mặc dầu ra đời ở Baghdad nhưng lại được giáo huấn ở Anh.
Khi Cavalli ngả người ra phía sau, nhắm mắt và hồi tưởng lại giọng nói nuốt âm và cách phát biểu rõ ràng dứt khoát, y cảm thấy mình như đối diện với một viên sĩ quan quân đội Anh. Lời giải thích có thể được tìm thấy trong hồ sơ của Al Obaydi dưới mục học vấn: King's school Wimbledon, sau đó là ba năm ở đại học London ngành luật.
Al Obaydi cũng đã từng ăn bữa tối nhiều lần lincoln's inn với đủ thứ món. Trở về Baghdad, Al Obaydi được bộ môn ngoại giao tuyển dụng. Ông ta đã thăng tiến nhanh chóng, mặc dầu Saddam Hussein tự phong là tổng thống và Đảng Baath vẫn thường xuyên đưa các đảng viên vào những chức vụ mà hiển nhiên họ không đủ trình độ để đảm nhiệm.
Trong lúc Cavalli lật qua một trang khác của tập hồ sơ y càng nhận thấy rõ Al Obaydi là một con người có đầy đủ khả năng tự thích nghi với những tình huống bất thường. Công bằng mà nói đó cũng là điều Cavalli tự lấy làm kiêu hãnh. Giống như Al Obaydi, y đã học luật, nhưng tại trường đại học Colombia ở New York. Tới thời kỳ hàng năm các sinh viên tốt nghiệp làm đơn vào những công ty luật hàng đầu, Cavalli luôn được phía đối tác xếp vào bảng danh sách chung kết căn cứ vào mức điểm của y, nhưng khi họ biết bố y là ai thì y không bao giờ được phỏng vấn.
Sau khi làm việc mười bốn giờ mỗi ngày suốt năm trong một công ty luật không mấy uy tín ở Manhattan, Cavalli bắt đầu nhận thấy rằng tối thiểu phải mất mười lăm năm nữa y mới có thể hy vọng trông thấy tên mình khắc lên trên bảng hiệu của công ty mặc dầu y đã kết hôn được với con gái của một trong các nhân vật vai vế trong công ty. Xong Cavalli không cần lãng phí mười năm, nên y quyết định tự đứng ra làm ăn riêng và ly dị vợ.
Tháng giêng năm 1982, công ty Cavalli chính thức hoạt động, và mười năm sau, ngày 15 tháng 4 năm 1992, công ty tuyên bố đạt một số lợi tức 157,000 đô la, đóng thuế đầy đủ. Điều mà sổ sách kế toán công ty không tiết lộ là một chi nhánh cũng được thành lập năm 1982, nhưng không hoạt động một cách hợp pháp. Một hãng không khai báo thuế, và mặc dầu lợi tức tăng lên mỗi năm, vẫn không thể gọi công ty Dun & Bradstreet đến kiểm toán và lập một bảng báo cáo toàn bộ về công việc kinh doanh của các nhân vật quan trọng. Các chi nhánh này được một số người rất ít thuộc dạng tâm phúc biết dưới cái tên "kỹ năng" - một công ty chuyên môn giải quyết các vấn đề không thể nhờ đến cuốn niên giám điện thoại "Những trang vàng".
Với những cuộc tiếp xúc của bố y, và tham vọng mãnh liệt của Cavalli, chẳng bao lâu tên công ty không có trong danh sách này đã tạo nên danh tiếng trong việc xử lý nhiều vấn đề mà khách hàng không được nêu tên trước đó đã xem như không giải quyết được. Trong số nhiệm vụ gần đây nhất của Cavalli có việc tìm lại được cuốn băng đàm thoại giữa Sinatra(1) và Nancy Reagan dự định sẽ xuất bản trong tạp chí Rolling Stone và vụ trộm một bức tranh của Vermeere ở Ái Nhĩ Lan cho một người sưu tầm lập dị ở Nam Mỹ. Nhưng thành tích này được cấp một cách kín đáo với đám khách hàng tương lai.
Bản thân các khách hàng của họ phải được xem xét hồ sơ lý lịch một cách cẩn thận, tựa hồ họ đang nạp đơn xin gia nhập Câu lạc bộ Du thuyền New York bởi vì như ông bố của Tony vẫn thường nhấn mạnh, chỉ cần phạm một sai lầm là chắc chán y sẽ phải sống quãng đời còn lại trong môi trường không sao dễ chịu bằng ở nhà số 23 đường 75 ở phía Đông, hoặc toà biệt thự của họ ở Lyford Cay.
Hơn thập niên vừa qua, Tony đã gây dựng nên một hệ thống đại diện tuy nhỏ nhưng rải đều trên khắp thế giới phụ trách cung ứng cho họ những khách hàng đang cần một sự giúp đỡ nhỏ với một đề nghị "giàu trí tưởng tượng" hơn. Chính đầu mối Liban của y đã chịu trách nhiệm về việc giới thiệu người khách ở Baghdad, mà đề nghị đúng ngay loại này không còn nghi ngờ gì nữa.
Ngay khi ông bố của Tony được báo cáo tổng quát về chiến dịch "yên tĩnh sa mạc" ông ta đã khuyên con trai đòi một số tiền thù lao một trăm triệu đ&ocirghi số "6" mà Scott để ý thấy ở dưới cùng. Thang máy từ từ tụt xuống. Khi cửa mở, Scott theo thiếu tá Saeed vào một hành lang dài. Lần này anh có cảm tưởng trong hành lang đã được xây dựng để thoát khỏi khi có động đất. Khi dừng bước bên ngoài hai cánh cửa nặng nề được gia cố, được canh gác bởi hai quân nhân mang súng trường.
Saeed hỏi một câu và cả hai quân nhân đều lắc đầu.
- Phòng Hội đồng đang trống, cho nên chúng ta có thể vào thẳng bên trong, - Ông ta giải thích rồi mở khoá cửa.
Scott đi theo ông ta vào phòng Hội đồng. Đôi mắt của anh nhanh chóng lướt quanh căn phòng. Việc đầu tiên anh trông thấy trên bức tường trong cùng là bức chân dung khác của Saddam, lần này trong bộ com lê gài chéo màu sẫm. Rồi anh nhận thấy một cái nút báo động màu đỏ bên cạnh một công tác đến mà Kratz đã báo trước cho anh.
Viên thiếu tá hối hả đi qua phòng Hội đồng, gây ấn tượng một người không có quyền ở đó, trong khi Scott đi càng chậm càng tốt. Thế rồi anh trông thấy nó, chỉ trong chốc lát, và tim anh đập yếu hẳn đi: bản Tuyên ngôn Độc lập được đóng đinh trên tường, một góc bị rách và một số chữ ký rõ ràng có vẻ bị mờ đi.
Viên thiếu tá mở khóa cánh cửa đằng xa và Scott miễn cưỡng theo anh ta đi ra hành lang nối liền. Họ tiếp tục chỉ mấy bước nữa trước khi dừng lại trước một cái hốc lớn lót gạch mà Scott không cần đo cũng biết đã được xây có chủ đích vì biết trước chiếc tủ sắt sẽ được mang đến.
Scott bỏ một thời gian để đo khoảng trống, trong lúc anh cố nghĩ cách có thể nhìn bản Tuyên ngôn lâu hơn. Sau vài ba phút, thiếu tá Saeed gõ nhẹ lên vai anh với chiếc gậy chỉ huy của ông ta và báo hiệu đã đến lúc họ phải quay lại sân. Scott miễn cưỡng theo ông ta trở xuống hành lang ngắn và vào phòng Hội đồng mà viên thiếu tá bước nhanh như chạy qua trong khi Scott nán lại để đo các cánh cửa.
Anh thích thú khi khám phá ra rằng chúng phải được tháo ra khỏi bản lề. Anh đứng thụt lùi lại một bước như thề đang xem xét kỹ vấn đề. Viên thiếu tá quay lại và vỗ vào một bên chân của anh với chiếc gậy chỉ huy của ông ta, khê bảo một điều gì đó qua hơi thở mà Scott tin chắc hoàn toàn không hay ho gì.
Scott lén nhìn sang bên phải, và xác nhận nỗi sợ hãi tồi tệ nhất: cho dù anh có thể hoán đổi hai bản Tuyên ngôn, sẽ cần phải có một thiên tài còn vĩ đại hơn cả Dollar Bill để sửa lại những như hỏng mà Saddam gây nên.
- Nào. Nào. Chúng ta phải đi. - Viên thiếu tá nói.
- Và các cánh cửa này phải thế thôi, - Scott nói và quay người lại chỉ mấy cái cửa ở đầu kia của phòng Hội đồng, nói tiếp - và mấy cái kia cũng vậy.
Nhưng Saeed đã sải bước theo hành lang dài về phía lang máy đang mở cửa sẵn.
Hannah đặt, máy điện thoại xuống và cố ngăn chặn cơn run của mình. Họ đã báo trước với nàng nhiều lần ở Herxliyah rằng cho dù mình nghĩ mình cứng cỏi đến đâu chăng nữa, cho dù mình đã được huấn luyện giỏi đến đâu chăng nữa, mình vẫn sẽ còn run.
Nàng xem đồng hồ. Bữa ăn trưa của nàng dự định trong vòng hai mươi phút, và mặc dù suốt ngày nàng ít khi rời khỏi toà nhà trừ phi đi công tác. Nàng biết nàng không thể ngồi lâu hơn nữa trong văn phòng đó và chỉ chờ đợi các sự việc xảy đến chung quanh nàng.
Viên Thứ trưởng Ngoại giao đã đi đến dinh lúc tám giờ sáng hôm nay và đã bảo nàng dừng đợi ông ta trở về cho tới năm giờ chiều là sớm nhất. Một cơ bắp trên má nàng chợt co giật trong lúc nàng đánh máy lại bản nhắn tin của Bộ trưởng Công nghiệp.
Trong mười lăm phút, nàng ngồi ở bàn làm việc và đặt kế hoạch làm sao cho giờ đồng hồ này trôi qua một cách dé chịu nhất. Đang lúc nàng đã nghĩ ra việc cần phải làm, nàng liền nhấc máy điện thoại lên và yêu cầu một cô gái ở tổng dài nghe giúp nàng trong giờ nghỉ ăn trưa.
Hannah mang kính, rời khỏi phòng và bước nhanh dọc theo hành lang, để cho những người đi qua không nhìn kỹ được nàng.
Nàng đi theo lối cầu thang thay vì thang máy, bước nhanh qua tiền sảnh, khu tiếp tân, cửa xoay và đi ra thềm Bộ Ngoại giao.
- Saib vừa mới rời khỏi toà nhà, - một người từ phía bên kia đường nói vào máy điện thoại di động. - Cô ta đang đi về hướng Quảng trường Chiến thắng.
Hannah tiếp tục bước về phía Quảng trường. Những đám đông rộng lớn và ồn ào đến nỗi nàng lo sợ một cuộc treo cổ công cộng nữa chắc hẳn đã đã xảy ra. Khi nàng tới đầu đường và quẹo góc, nàng quay mắt đi trong lúc vạch một lối đi qua những người đang đứng nhìn, một vài kẻ thậm chí còn cất tiếng cười trước cánh tượng này.
- Một công chức hết sức cao cấp đấy, - một người nói đùa.
Một giọng nói khác nghiêm nghị hơn bảo rằng anh ta đã nghe đó là một nhà ngoại giao vừa mới trở về từ Mỹ đã bị bắt vì tội tham nhũng. Một người thứ ba, một phụ nữ lớn tuổi khóc khi một ai đó gợi ý rằng hai người kia là bà mẹ và cô em vô tội của người đàn ông.
Ngay lúc Hannah có thể trông thấy hàng rào, nàng bước chậm lại. Nàng dừng chân và nhìn qua đường về phía đại bản doanh của Đảng Baath. Nàng thích thú vì được ẩn mình trong một đám đông rộng lớn như thế này, cho dù thỉnh thoảng nàng lại bị che mắt.
- Cô ta đang đối diện với đại bản doanh của đảng Baath. Mọi người khác đang nhìn về hướng ngược lại.
Mắt Hannah dừng lại trên chiếc xe tải có nhiều quân nhân bao quanh, rồi nàng chợt trông thấy chiếc tủ sắt đồ sộ nằm ngát nghểu trên phía sau xe và hai thanh niên đang buộc những cuộn dây thép lớn vào đế tủ. Một người có vẻ là dân Trung đông, người kia hơi giống dân châu Âu. Thế rồi nàng trong thấy Kratz - hay đó có phải là Kratz? Ai đó vừa mất dạng phía sau xe tải. Nàng chờ người đó xuất hiện lại. Một lát sau, khi người đó hiện ra, nàng không còn nghi ngờ gì nữa: đó chính là người lãnh đạo tổ chức Mossad.
Nàng chợt nhận thức được rằng nàng không thể chờ đợi quanh quẩn ở một nơi công cộng như thế này lâu hơn nữa, và quyết định trở về văn phòng để xem xét những gì cần phải làm sau đây. Nàng nhìn Kratz một lần cuối trong lúc toán công nhân vệ sinh đi ra khỏi toà nhà, bước qua nền nhựa và hàng rào mà không một quân nhân nào để mắt đến.
Hannah bắt đầu bước ra xa Quảng trường Chiến thắng ngay lúc thiếu tá Saeed và Scott từ trong toà nhà đi ra sân.
- Cô ta lại di chuyển, nhưng cô ta dường như không trở về Bộ.
Người đàn ông mang máy điện thoại di động lắng nghe một lúc rồi tiếp:
- Tôi không biết, nhưng tôi sẽ theo dõi cô ta và tường trình lại.
Khi Scott bước trở ra sân, anh vui mừng thấy Kratz đã cho cần cẩu vào vị trí để nhấc chiếc tủ sắt khỏi xe tải. Aziz và Cohen đang buộc các vòng dây thép dài quanh thân hình Bà Bertha trong lúc chiếc xe đẩy được chế tạo một cách đặc biệt, mà ông Pedersson rất lấy làm hãnh diện, đã được đặt lên mặt đất giữa cửa trước và hông xe tải.
Scott nhìn lên chiếc cần cẩu cao hơn cá toà nhà và nhìn trở xuống người điều khiển đang ngồi trong buồng lái rộng bên cạnh chân cột. Ngay sau khi Cohen và Aziz nhảy xuống xe, Kratz giơ hai ngón tay cái lên ra hiệu cho người điều khiển cần trục.
Một lúc sau, anh nghe tiếng rạo rạo của một bánh răng di chuyển vào vị trí. Anh quan sát trong lúc sợi cáp thép căng thẳng, tiếp theo sau là một tiếng khởi động khàn khàn của động cơ. Nhưng Bà Bertha không hề lay chuyển dù chỉ một phân. Tiếng động cơ trở nên lớn hơn một lấn thứ hai, nhưng Bà Bertha vẫn không động đậy.
Người điều khiển cần cẩu đẩy cần số về phía trước và thử một lần thứ ba. Cuối cùng Bertha mới nhích lên vài phân khỏi phía sau chiếc xe tải, lắc lư qua lại. Một số quân nhân bắt đầu hoan hô, nhưng họ ngừng ngay lập tức khi viên thiếu tá quay nhìn trừng trừng về hướng họ.
Kratz gật đầu và Cohen chạy qua khoảng nền rải nhựa và hạ tấm bảng phía sau xuống, rồi nhảy lên buồng lái ngồi vào sau tay lái của chiếc xe tải. Anh ta nổ máy, đẩy cần số vào số một và cho xe từ từ di chuyển về phía trước cho tới khi chiếc tủ sắt lơ lửng trên không. Lúc bấy giờ Aziz và Kratz đưa chiếc xe đẩy qua ít mét trên nền nhựa ngay phía dưới chiếc tủ sắt. Kratz lại đưa hai ngón tay cái lên một lần thứ hai, và người điều khiển cần trục bắt đầu từ từ hạ thấp khối thép năm tấn từng phân một, cho tớ khi nó nằm yên trên chiếc xe đẩy khiến cho các bánh xe cao su xẹp xuống.
Chiếc tủ sắt giờ đây nằm yên trước các cửa đôi, chờ thợ mộc đến trước khi nó có thể tiếp tục cuộc hành tridnh vào bên trong. Viên thiếu tá nhún vai ngay cả trước khi Kratz mở miệng hỏi.
Trong lúc Cohen thụt lùi chiếc xe tải vào một chỗ được chỉ định bởi viên thiếu tá, Scott chỉ tay vào chiếc tủ sắt và ra hiệu cho Kratz đang bước tới, có vẻ bối rối. Anh nghĩ công việc đang tiến hành khá tốt.
- Chuyện gì thế - Ông hỏi.
Scott vẫn tiếp tục chỉ chiếc tủ sắt, và với những cử động quá đáng báo hiệu nó nên được di chuyển như thế nào, trong khi thì thầm với Kratz:
- Tôi đã trông thấy bản Tuyên ngôn.
Anh di chuyển sang phía bên của chiếc tú sắt. Kratz đi theo, lúc này cũng làm bộ hết sức quan tâm đến chiếc tủ sắt
- Tin tức tốt. - Kratz nói - Thế nó ở đâu?
- Tin tức không tốt lắm đâu, - Scott nói.
- Anh muốn nói gì vậy? - Kratz lo lắng hỏi.
Nó hiện ở trong phòng Hội đồng, đúng nơi Hannah đã nói. Nhưng nó bị đóng đinh vào tường. - Scott trả lời.
- Đóng đinh vào tường? - Kratz hỏi qua hơi thở.
- Phải, và nó có vẻ dường như không thể sửa chữa lại được! - Scott nói trong lúc một người Iraq mặc một dishdash với một keffiyeh trắng-đỏ và mang một túi dụng cụ xuất hiện ở hàng rào.
Ngay sau khi các vệ binh kiểm tra kỹ lưỡng túi dụng cụ đổ tất cả ra trên mặt đất, họ mới cho phép anh ta qua.
Người thợ mộc gom lại các dụng cụ, đưa mắt nhìn qua chiếc tủ sắt, rồi tới các cánh cửa đôi, và hiểu ngay tại sao xếp anh ta đã mô tả vấn đề là khẩn cấp. Scott đứng lùi lại và quan sát người thợ trong lúc anh ta bắt đầu tháo bán lề trên một trong hai cánh cửa.
- Thế thì bản giả của Dollar Bill hiện giờ ở đâu? - Kratz hỏi.
- Còn ở trong túi của tôi, - Scott nói. - Tôi sẽ phải làm biến đổi nó một chút, như không bọn họ sẽ nhận thấy điều khác biệt lúc tôi đã đổi lấy bản gốc.
- Đồng ý. - Kratz nói - Anh nên làm việc đó trong khi người thợ mộc đang xử lý cánh cửa. Tôi sẽ cố giữ cho vén Thiếu tá luôn bận rộn.
Kratz liền lững thững tới bên người thợ mộc và khởi sự trò chuyện với anh ta trong lúc Scott mang cái túi của anh lẻn vào phía trước chiếc xe tải. Ngay lúc viên thiếu tá trông thấy việc Kratz đang làm, ông ta liền chạy tới gặp họ. Scott liếc mắt qua cửa sổ buồng lái trong lúc anh rút bản sao của Dollr Bill ra khỏi cái ống và cố nhớ lại nơi bản gốc bị hư hỏng nhiều nhất. Trước hết, anh xé một đường ở góc bên phải phía trên cùng, rồi anh phun nước miếng lên các tên John Adams và Robert Treat Pain. Sau khi anh đã xem xét kỹ công trình của mình, anh quyết định như thế là quá đủ và đặt bản sao trên sàn xe, anh chà gót giày một cách nhè nhẹ lên bề mặt. Anh liếc lên để xem viên thiếu tá đang ra lệnh Kratz hãy để yên cho người thợ mộc làm việc. Kratz nhún vai trong lúc Scott cuộn bản Tuyên ngôn giả lại và bỏ trở vào cái ống trước khi luồn nó vào cái túi đã được may một cách đặc biệt bên trong ống quần của anh. Một cái túi vô cùng vừa vặn.
Một lát sau, người thợ mộc hết quỳ gối và mỉm cười bày tỏ anh ta đã hoàn tất công việc. Theo lệnh của viên thiếu tá, bốn quân nhân bước về phía trước và tháo các cánh cửa ra. Họ mang ra xa mấy bước và dựng chúng vào một bức tường ở bên ngoài.
Viên thiếu tá ra lệnh thêm vài ba quân nhân khác đến đẩy chiếc xe đẩy trong lúc Scott hướng dẫn Bà Bertha qua khung cửa. Kratz và Aziz đi theo, nhưng viên thiếu tá cương quyết vẫy tay để báo hiệu rằng chỉ có một mình Scott có thể vào trong toà nhà. Tới phiên Scott nhún vai.
Từng phân một, họ di chuyển chiếc xe đẩy dọc theo hành lang dài. Cửa thang máy đã mở sẵn, nhưng vẫn phải cần bốn chục bàn tay mới bẩy được năm tấn thép vào bên trong một cách an toàn. Scott biết nhờ nghiên cứu trước rằng phần này của toà nhà đã được xây cất để thoát một cuộc tấn công hạt nhân, nhưng anh tự hỏi thang máy có thể phục hồi hay không sau khi phải mang chiếc tủ sắt năm tấn xuống sáu xuống lầu. Anh chỉ cám ơn là Bà Bertha đang đi xuống chứ không phải đi lên.
Cửa thang máy từ từ đóng và viên thiếu tá nhanh nhẹn dẫn Scott đi qua một cửa hông và xuống cầu thang phía sau, theo sau là cả một tá quân nhân. Khi họ tới tầng hầm, cửa thang máy đã mở và Bà Bertha đứng đó, chờ đợi một cách uy nghi. Viên thiếu tá chỉ lên nền nhà với chiếc gậy chỉ huy của ông ta: mười quân nhân liền quỳ xuống và bắt đầu kéo chiếc xe đẩy từng phân một cho tới khi cuối cùng họ tìm được cách dụ được nó ra hành lang. Lúc đó, thang máy được gửi lên tầng -5, và sáu quân nhân chạy trở lên cầu thang, nhảy vào thang máy trống và trở lại tầng hầm để họ có thể đẩy chiếc tủ sắt từ phía bên kia.
Người thợ mộc đã tháo được bộ cửa đầu tiên mà họ sẽ đối đầu khi chiếc tủ sắt vào phòng Hội đồng, nhưng vẫn còn loay hoay với bộ thứ hai khi chiếc xe đẩy tới lối vào. Sự trễ nải đã giúp cho Scott có cơ hội giám sát việc chuyến động của cái bàn lớn đến sát bức tường bên hông và việc đặt những chiếc ghế trên bàn để cho chiếc tủ sắt có đường thông vào hành lang đằng xa.
Trong lúc anh bước tới bước lui, Scott có nhiều cơ hội nhìn kỹ bản Tuyên ngôn, thậm chí nghiên cứu cả lỗi chinh tả từ "British". Anh nhanh chóng nhận thấy tấm giấy da có tình trạng tồi hơn anh đã tưởng.
Ngay sau khi các cánh cửa đã được tháo ra, đám quân nhân bắt đầu đẩy chiếc tủ sắt ngang qua phòng Hội đồng và ra ngoài hành lang ngắn trên đoạn đường cuối cùng chỉ vài ba mét. Khi họ tới đầu hành lang đối diện với hốc tường đã được chuẩn bị một cách đặc biệt, Scott giám sát chuyển động cuối cùng của chiếc tủ sắt cho đến lúc họ không thể đẩy năm tấn th&ec; la để bù đắp cho việc toàn bộ Washington mở to mắt mặc tình nhân y hành động.
- Chỉ cần một sai sót, - ông già vừa liếm môi vừa cảnh cáo y - là con sẽ nổi tiếng hơn cả việc Eivis(3) tái sinh.
Rời khỏi giảng đường, Scott Bradley vội vã băng ngang qua nghĩa trang Grove Street, hi vọng rằng anh có thể về đến căn hộ của anh ở đường St. Ronan trước khi bị một sinh viên đuổi theo kịp và bắt chuyện. Anh quý mến tất cả bọn họ - phải, hầu như tất cả - và anh sẵn lòng cho phép những người nghiêm túc hơn trong bọn họ cùng thả bộ về phòng anh vào các buổi tối để uống một ly và nói chuyện cho tới khuya. Nhưng phải cho đến khi họ đã lên năm thứ hai.
Scott cố gắng tới cầu thang trước khi một luật sư tương lai nào bắt kịp ai. Tuy nhiên, ít có ai biết được rằng anh đã từng vượt qua bốn trăm mét trong 48,1 giây khi anh tham gia cuộc thi đấu chạy tiếp sức của trường đại học Georgetown. Tin tưởng mình không bị ai bắt kịp, phóng lên cầu thang, không hề ngừng chân cho đến khi tới căn hộ của anh trên tầng ba.
Anh đẩy tay mở cánh cửa không khoá. Cửa luôn luôn không khoá. Trong căn hộ của anh không có một thứ nào đáng lấy trộm - ngay cả chiếc tivi cũng không hoạt dộng.
Chỉ một tập hồ sơ có thể cho biết pháp luật không phải là lãnh vực duy nhất mà anh là một chuyên gia, thì nó sẽ được cất giấu một cách cẩn thận trên kệ sách của anh khoảng giữa hai hồ sơ thuế và án xử sai. Anh quên chú ý tới mấy cuốn sách chồng chất khắp nơi hoặc tới việc anh có thể đã viết tên mình trên lớp bụi mặt tủ búp phê.
Scott đóng cửa lại và như thường lệ liếc nhìn bức ảnh của mẹ anh trên tủ búp phê. Anh bỏ tập giáo trình đang cầm trên tay bên cạnh bà và nhặt mấy phong thư ló ra phía dưới cánh cửa. Scott bước ngang qua phòng và ngồi xuống một ghế bành cũ bằng da và tự hồi có bao nhiêu khuôn mặt sáng sủa trong đám sinh viên vẫn sẽ còn lắng nghe bài giảng của anh trong vòng hai năm nữa. Bốn mươi phần trăm có thể giỏi, ba mươi phần trăm thì có lý hơn. Đó là những người mà việc học mười bốn giờ mỗi ngày sẽ trở nên chuẩn mực, và sẽ không hợp lý trong tháng cuối cùng của kỳ thi. Và trong số họ sẽ có bao nhiêu đạt được các mức độ của Dan Thomas W. Swan. Năm phần trăm, nếu anh may mắn.
Vi giáo sư luật hiến pháp chuyển sự chú tâm vào tập thư của anh đang ở trên vế. Một cái của American Express - một tờ quảng cáo với cả trăm món quà tặng xem ra rất dễ nhận được nhưng không chừng sẽ khiến anh mất nhiều tiền hơn nếu anh nhận bất cứ một món nào trong số đó.
Một giấy mời của Brown đến nghe Charles Avans Hughes thuyết trình về hiến pháp. Một bức thư của Carol nhắc nhở anh cô đã không gặp anh khá lâu. Một thông tư của một hãng buôn bán cổ phấn không hứa hẹn gấp đôi số tiền của anh nhưng … Và cuối cùng là một phong bì màu vàng trơn đóng dấu bưu điện Virginia(4) với một dạng chữ anh nhận ra ngay lập tức.
Anh liền mở chiếc phong bì màu vàng và lấy ra một mảnh giấy nhắn gửi anh những chỉ thị sau cùng.
Al Obaydi thả bộ đến Đại hội đồng và ngồi xuống một chiếc ghế ở ngay phía sau Trưởng phái bộ của ông ta. Vị đại sứ đã mang máy nghe và đang giả vờ hết sức chú tâm vào một bài phát biểu của vị trưởng phái bộ Brazilia. Ông xếp của Al Obaydi luôn luôn thích nói những câu chuyện tuyệt mật trong phòng họp của Đại hội đồng. Ông tin chắc rằng đây chính là căn phòng duy nhất trong toà nhà Liên Hiệp Quốc mà CIA không đặt máy nghe trộm.
Al Obaydi kiên nhẫn đợi cho đến lúc người đàn ông già hơn giật nhẹ một bên ống nghe và hơi ngả người ra phía sau.
- Bọn họ đã thoả thuận theo các điều kiện của chúng ta, - Al Obaydi khẽ nói, tựa hồ chính ông ta là người đã ra giá.
Vành môi của vị đại sứ trề ra phía trên môi dưới, dấu hiệu mà các đồng nghiệp của ông đều biết rằng ông cần thêm chi tiết.
- Một trăm triệu, - Al Obaydi thì thào - Mười triệu phải trả ngay. Chín chục cuối lúc giao hàng.
- Ngay? - Vị đại sứ hỏi - Ngay là thế nào?
- Trưa mai - Al Obaydi vẫn thì thào.
- Tối thiểu Sayedi đã đoán trước việc này, - vị đại sứ trầm ngâm bảo.
Al Obaydi khâm phục cái cách cấp chỉ huy của mình luôn luôn có thể khiến cho từ "ông chủ" có vẻ vừa tôn kính vừa xấc láo.
- Tôi phải gửi một thông điệp về Baghdad để báo cho bộ trưởng ngoại giao biết rõ từng chi tiết thắng lợi. của anh - vị đại sứ nói tiếp với một nụ cười.
Lẽ ra Al Obaydi cũng đã mỉm cười nhưng ông ta chợt nhận thấy vị đại sứ sẽ không chấp nhận bất cứ một ai dính líu vào đề án trong lúc mọi việc vẫn còn ở giai đoạn hình thành. Chừng nào ông còn dây dưa vào viên thuộc cấp tạm thời lúc này, vị đại sứ vẫn có thể tiếp tục cuộc sống yên tĩnh ở New York cho tới ngày ông về hưu đúng ba năm saave;ng sang một toà nhà mà nàng chưa bao giờ bước vào nhưng có cảm tưởng nàng biết hết sức rõ. Một hoạ đồ đúng kích cỡ của mỗi tầng đính trên một tấm bảng trong phòng hoạt vụ của đại bản doanh Mossad ở Herzliyah, và không ai có thể đậu bất cứ một kỳ thi nào về Iraq mà không thể nắm cặn kẽ mọi tầng lầu của toà nhà với đầy đủ chi tiết. Tin tức được bổ sung liên tục, tử những nguồn xa lạ nhất: các dân ty nạn trốn thoát, các nhà cựu ngoại giao, các cựu Bộ trưởng người Kurd hoặc Shiite, kể cả cựu Thủ tướng Anh Edward Heath.
Công nhân vệ sinh đầu tiên đến lúc ba giờ kém vài phút, xuất trình giấy thông hành rồi vội vàng đi qua khu rải nhựa trước khi biến dạng vào một cửa hông của toà nhà. Người thứ hai xuất hiện sau đó một lát và theo cùng một phương thức. Khi Hannah trông thấy người thứ ba đang đi từ phía xa của lề đường, nàng liền băng qua đường và sắp hàng vào phía sau người đó trong lúc bước về phía hàng rào.
- Cô ta đã qua đường, tới hàng rào, và lúc này người lính gác đang kiểm tra giấy thông hành của cô ta, - người đàn ông nói vào máy điện thoại di động. - Như đã được chỉ thị họ đã để cho cô ta vào. Lúc này cô ta đang bước qua khoảng sân nhựa và theo một người phụ nữ khác vào cửa hông. Cô ta đã vào bên trong, cửa đã đóng lại. Chúng ta đã tóm được cô ta.
Hannah đi theo các công nhân vệ sinh khác vào bên trong toà nhà, và nói với họ mẹ nàng đã bị bệnh và nàng đã được gửi đến đề thay thế cho bà ấy. Nàng cố trấn an họ rằng đây không phải là lần đầu tiên nàng làm như thế, và ngạc nhiên khi họ không hỏi han gì. Nàng đoán chừng họ sợ dính líu với một người lạ.
Hannah lấy một cái hộp dụng cụ vệ sinh và đi xuống theo một cầu thang phía sau. Tấm hoạ đồ trưng bày trên tường ở Herzliyah tỏ ra chính xác một cách đáng phục, cho dù không một ai tìm cách đếm được số nấc thang dẫn xuống tầng hầm.
Khi nàng tới cánh cửa dẫn vào hành lang trong cùng, nàng có thể nghe nhiều giọng nói vang lại từ phòng Hội đồng. Chắc hẳn đang có ai đi về phía thang máy. Hannah liền thụt lùi sát tường để có thể trông thấy họ qua khung kính dày có gần lưới sắt ở chính giữa cánh cửa.
Hai người đàn ông đi qua. Hannah không nhận ra viên thiếu tá, nhưng khi nàng trông thấy người ở bên cạnh ông ta, hai chân nàng chợt khuỵu xuống và nàng gần như ngã gục lên mặt đất.
Ngay sau khi họ trở lại sân, viên thiếu tá quay một số điện thoại. Scott thả bộ đến gần Kratz đang đứng phía sau chiếc xe tải.
- Anh đã đổi được bản Tuyên ngôn rồi chứ? - đó là câu nói đầu tiên của Kratz.
- Không, nó vẫn còn ở trên tường của phòng Hội đồng.
- Mẹ kiếp, còn bản sao?
- Tôi đã bỏ nó trong cái ống trên sàn tủ sắt. Tôi không thể liều mạng mang nó ra.
- Thế thì anh sẽ trở vào toà nhà bằng cách nào? - Kratz vừa hỏi vừa nhìn về phía viên thiếu tá. - Anh đã có ý định lợi dụng thời gian…
- Tôi biết, nhưng hoá ra anh ta không phải là người sẽ phụ trách chiếc tủ sắt. Anh ta đang liên lạc với người mà tôi sẽ phải chỉ dẫn.
- Không phải là điều chúng ta cần. Tôi tin chắc rằng với viên thiếu tá là kế hoạch đầu tiên của chúng ta sẽ dễ hơn nhiều, - Kratz nói - Tốt hơn tôi nên báo tin lại cho những người khác để chúng ta có thể chuyển qua một khả năng khác nếu mọi việc lại hỏng bét.
Scott gật đầu đồng ý và anh cùng vị lãnh đạo Mossad lững thững đi tới chiếc xe tải, nơi đây Cohen và Aziz đang ngồi hút thuốc lá trong buồng lái. Trong lúc vị Đại tá trèo lên phía trước, hai điếu thuốc nhanh chóng được dụi tắt.
Kratz giải thích tại sao họ còn chờ đợi và báo trước cho họ rằng đây có thể là cơ hội cuối cùng của ông giáo sư trở vào phòng Hội đồng.
- Vì thế khi ông ấy thoát ra lần này. - ông giải thích, - chúng ta phải sẵn sàng chạy đi. Với một chút may mắn, chúng ta vẫn còn có thể vượt qua biên giới lúc nửa đêm.
Anh ấy có thể làm sao còn sống, Hannah nghĩ… Nàng đã giết chết anh kia mà? Nàng đã trông thấy xác của anh đã được mang ra khỏi phòng. Nàng cố sắp xếp lại tư tưởng, từ hân hoan đến sợ hãi. Nàng chợt nhớ lại vị huấn luyện viên cao cấp đã bảo nàng: Khi cô đang ở tiền tuyến, đừng bao giờ ngạc nhiên vì bất cứ điều gì! Nàng cảm thấy giờ đây nàng có thể phủ nhận anh, nếu nàng đã từng được dịp.
Hannah đẩy cánh cửa và lặng lẽ bước ra hành lang vắng vẻ, ngoại trừ hai quân nhân đang tán gẫu ở lối vào phòng Hội đồng. Nàng hiểu ra nàng không thể hy vọng đi qua họ mà không bị chất vấn.
Còn một bước nữa thì nàng được lệnh ngừng lại và dừng chân giữa họ. Sau khi họ kiểm tra kỹ hộp dụng cụ vệ sinh, gã có hai vạch trên cánh tay nói:
- Cô biết chúng tôi có bổn phận khám xét cô thật ky chứ?
Hannah không có ý kiến trong lúc anh ta cúi xuống, giở cái áo đen dài của nàng lên và đặt hai bàn tay trên mắt cá nàng. Gã thứ hai buông ra một tiếng cười khàn khàn trong lúc y đặt các ngón tay quanh phía trước cố nàng vá bắt đầu di chuyển hai bàn tay xuống phía dưới vai rồi ngang qua ngực nàng, trong khi gã đồng bọn của y di chuyển bàn tay từ dưới chân lên đùi nàng. Trong lúc gã thứ nhất lên tới trên cùng chân nàng, gã đồng bọn của y véo núm vú của nàng. Hannah xô cả hai gã ra và bước vào phòng Hội đồng. Bọn chúng không đi theo, mặc dù tiếng cười càng lúc càng lớn hơn.
Chiếc bàn đã được đưa trở lại chính giữa phòng và những chiếc ghế đã được sắp xếp lại một cách cẩu thả quanh bàn. Nàng bắt đầu bằng cách xê dịch chiếc bàn cho ngay ngắn trước khi đặt những cái ghế cách đều nhau.
Nàng vẫn đang cố gắng nhân chán rằng Simon còn sống, và một phần của đội đang ở Baghdad. Nhưng tại sao CIA gởi anh đến đây. Trừ phi… Nàng nhìn chằm chằm lên bức chân dung khổng lồ của Saddam Hussein trong lúc nàng đặt ngay ngắn cái ghế của ông ta ở đầu bàn. Rồi mắt nàng dừng lại trên tầm giấy da được đóng bằng dinh bên cạnh bức hình.
Bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ được gắn vào tường, ngay chỗ viên Thứ trưởng Ngoại giao đã yêu cầu.