PHẦN BA
HÀNH TRÌNH ĐI VÀO SA MẠC
Mười Hai
Bi kịch bị mất phép thông công, bị cô lập và cô đơn

    
ừ xưa con người đã sống quay quần trong một cộng đồng. Một khi các nhu cầu đòi hỏi đã vượt quá sức lực và khả năng của cá nhân và gia đình thì chúng chỉ được thoả mãn thông qua sự giúp đỡ hổ tương và hợp tác trong cộng đồng, nhất là trong lãnh vực quốc phòng, canh nông cây lương thực, chỗ ở, quần áo, giáo dục… Cái sinh hoạt muôn mặt chung góp cho việc duy trì cuộc sống vật chất của mỗi cá nhân, chú trọng đến sự phát triển về thể chất con người, từ đó bảo vệ sự toàn vẹn của con người và sự tiếp diễn của cuộc sống.
Nhưng ra ngoài những giới hạn của thể chất và cuộc sống vật chất là cái không gian vô giới hạn và vô cùng của cảm xúc và con tim. Xã hội không muốn và không thể can thiệp vào hai lãnh vực này. Cái bên trong đó chính là phòng xét nghiệm, là nơi cấu thành những quyết định của nội tâm, dẫn tới những hành động thể hiện nhân cách và biểu hiện ước vọng của con người. Có một sự hỗ tương qua lại giữa hai thế giới, thế giới bên ngoài tạo ra những điều kiện buộc con người phải phản ứng, thế giới bên trong phản ứng lại làm cho ngoại cảnh lại trở lại tác động trên con người. Cái cơ chế với hai chuyển động qua lại này giúp bảo đảm một sự quân bình cho cá nhân, những trao đổi giữa hai thế giới, bên ngoài và nội tâm, giúp định vị và duy trì con người giữa một hệ thống phức tạp gồm những tác động, phản tác động giúp cho con người cảm nhận sự sống.
Bởi vì, cộng sản đã ngăn cản những tiếp xúc và trao đổi giữa hai thế giới, ngoại cảnh và nội tâm, cắt đứt cái quan hệ giữa chúng và bộ máy ngưng không chạy hết công sức mà chỉ chạy cầm chừng, làm chậm đi một cách đáng kể chuyển động của các bánh quay và mắc xích. Trong những trường hợp quá nặng, cá nhân bị cắt đứt khỏi thế giới bên ngoài, họ sẽ mất đi những cảm xúc rồi dần mất luôn cả những khả năng của lý trí và tâm lý sẽ rơi vào sự tê liệt càng ngày càng lớn. Cá nhân có thể trở thành khùng điên và tổ tiên sẽ không mất công chờ đợi lâu để đón họ ở bên kia thế giới. Đó là thứ hình phạt nặng nề nhất dành cho con người. Bên kia chuyện đó chỉ là án tử hình.
Trong trường hợp cá nhân tôi, không hề có một bản án được tuyên, không nhà lao, không phòng nhốt tù. Nhưng trong nhà nước cộng sản, có bao nhiêu thứ hình phạt không tên được tiến hành, không chính thức, nhưng về lâu đó chỉ là những án tử hình không hơn không kém. Đó là hình phạt cắt phép thông công mà những kẻ cuồng tín chính trị đã cóp nhặt từ kho tàng tội phạm thời Trung Cổ, cắt phép thông công là vũ khí quyết liệt của bọn cuồng tín tôn giáo. Người ta đã cấm tất cả những người trong họ đạo không được chứa chấp, nuôi ăn hay cho mặc những kẻ bị mất phép thông công là những kẻ đã mất nhà cửa, kế sinh nhai, quần áo, không còn cách nào có được một cuộc sống bình thường như trước. Chuyện cắt phép thông công của tôi chỉ dừng ở chỗ cấm cửa không tôi vào dạy ở Đại Học và bước vào các Toà để hành nghề Luật Sư. Cả mười Uỷ Ban Chấp Hành Trung Ương của mười tổ chức quần chúng không chính thức đã tiến hành loại tôi ra nhưng họ chỉ dừng ở chỗ là không mời tôi đến dự những buổi họp của họ. Thái độ của cộng sản là có ý nghĩa: họ là những tín đồ của những biện pháp nửa chừng, rình đâm sau lưng, bỏ thuốc độc vào tách trà hay gian trá tạo ra những vụ tai nạn chết người. Tội ác đã phạm nhưng không để dấu vết. Dưới mắt của Luật Pháp, họ có thể kêu gào là chuyện xảy ra là không có chứng cớ, và hơn như thế, trong xã hội, họ đã tránh được những tai tiếng, tránh làm dấy lên những dư luận chính trị, mà vẫn giữ được danh tiếng cho người bị trừng phạt trong đời sống xã hội và chính trị. Chủ nghĩa Machiavelli vẫn được tiến hành dưới một lớp nguỵ trang đầy nghệ thuật.
Liên quan đến chuyện của tôi, tôi không bị ném vào tù hay bị còng tay. Tôi không bị bắt đưa ra bất cứ toà án hình sự hay chính trị nào. Tôi không bị bắt đày đi xa nhà hay xa gia đình. Nhưng cả xã hội và mọi người đều biết: để tránh phải chịu những phiền phức, những ai muốn tiếp xúc với tôi, dù bất cứ chuyện gì, đều không dám. Nhà tôi như đang chứa một người đang b, luôn tìm cơ hội để phát tiết nỗi oán giận, thành lập những tổ chức bí mật, thiết lập quan hệ với kẻ thù của chúng ta ở nước ngoài, nhận tiền và chỉ đạo và ngay cả những trợ giúp quân sự với mục đích gây rối loạn, gây biến động nổi dậy, và nếu được là một cuộc đảo chính. Đại bộ phận dân chúng thì trì trệ trong sự dửng dưng, chọn thái độ chờ xem, chẳng màng suy nghĩ hay kêu gọi những mong đợi của họ về chuyện thay đổi chế độ; họ giữ im lặng, quan sát, nghe ngóng và không làm một hành động hay đưa ra một thái độ nhiệt tình nào trong công việc giao cho họ. Bất cứ công việc nào mà con tim không có, thiếu niềm vui, vắng nhiệt tình, thì nó không thể cho ra kết quả hữu hiệu, ít nhất cũng là việc chính quyền kháng chiến, mặc dù những tuyên ngôn, mà hoá ra như những lời khoác lác làm trò cười cho thiên hạ, đã không cung cấp nổi cho công nhân viên những nhu cầu tối thiểu của đời sống hàng ngày. Những công chức được trả lương hậu hĩnh dưới thời chính quyền Thực Dân trước đây được tiếp tục hưởng lương như thế trong một thời gian. Nhưng một vài “tâm hồn cao quí” trong bọn họ, được sự “chỉ đạo” đúng đắn và bài bản của “lãnh đạo”, không biết dưới sự đe doạ hay được lời hứa thưởng công, đã đưa ra kiến nghị cùng bình đẳng lương bổng, nhưng không phải bình đẳng theo hướng nâng lương lên cao mà cùng giảm lương về mức thấp. Để thuyết phục các đồng nghiệp chấp nhận ăn miếng bánh thanh bạch, những tác giả của kiến nghị “công bằng lương bổng” kéo nhau rỉ tai là “Trong những năm kháng chiến, chúng mình chưa bao giờ bị đói, lạnh, nguy hiểm đến tính mạng; chúng mình sống no đủ hạnh phúc thoải mái với gia đình. Như vậy, chuyện từ bỏ những đặc quyền và giảm bớt lợi tức của chúng ta cho bằng các bạn đồng nghiệp phía kháng chiến có phải là một việc làm có tình có lý hay không? Như vậy chúng ta đã có một hành động công bằng; chúng ta cho thấy khả năng chấp nhận hy sinh và sẽ không bao giờ thành đối tượng bị khinh miệt bởi người khác; chúng ta mang lại sự đoàn kết trong cộng đồng công nhân viên nhà nước, và bình đẳng giữa người này người khác. Chúng ta cùng cực khổ cáng đáng việc xây dựng lại Đất Nước nhé!”. Nhiều người đã rùng mình ớn lạnh khi nghe những lời rủ rỉ phát sinh từ cấp cao nào đó truyền xuống mà thấy miệng đắng như vừa nuốt nguyên túi mật không tên. Đó là mùi vị của khốn cùng mà tất cả công nhân viên nhà nước đang cúi mình gánh chịu.
Về phía dân chúng, đối với chúng tôi họ dành trong lòng một sự tò mò nhưng thân thiện. Họ và chúng tôi cùng dòng máu đang chảy trong huyết quản, cùng một quá khứ đầy tự hào và tủi nhục. Điện Biên Phủ đã tràn ngập con tim của mọi người với cùng độ nức lòng và cùng tầng nhiệt huyết. Nhưng, dù thế nào, kháng chiến vẫn là một thế giới riêng, người đi kháng chiến cũng là những con người thường nhưng với những tập quán thói quen có thể làm ngạc nhiên thế giới văn minh. Người ta có thể nhìn chúng tôi như những kẻ man rợ vì không biết dùng lược và nước hoa để chải đầu hay xài xà phòng tắm để săn sóc làn da; man rợ vì không biết cầm dao nĩa thế nào cho đúng cách; nhưng cũng có người vừa to mắt ngạc nhiên vừa trao tặng chúng tôi một bó hoa; có người chờ xem hành động và lời nói của chúng tôi để xem có thể dành cho chúng tôi mối cảm tình nào đó hay chỉ thuần là một nỗi nể nang sợ hãi, nếu chưa muốn nói đến một sự lãnh đạm xa cách.
Khó khăn lớn nhất của chúng tôi là việc tiếp cận giới trí thức Hà Nội, nhất là khi họ đã được cảnh báo về chủ nghĩa Cộng Sản. Việc họ bỏ nước ra đi sẽ gây thiệt hại đáng kể cho Đất Nước bị mất đi những chất xám mà sau đó chính những nước ngoài là người hưởng dụng. Đó là lãnh vực mà ta cần phải tránh những sai lầm ngớ ngẩn do những người được giáo dục đúc khuôn từ Đảng là thủ phạm, bởi vì họ đầy tự mãn, đầy kiêu căng, bởi vì họ không có trình độ về lãnh vực trí thức và xã hội.
Nhưng, theo đánh giá của cấp Lãnh Đạo, điều tệ hại nhất là điều đe doạ đến tính trong sáng của cán bộ kháng chiến đã hơn mười năm nay được Đảng giáo dục. Khi đến với kháng chiến, toàn bộ hay ít nhất là gần như toàn bộ cán bộ là đã có những vết nhơ của tư sản, của thế giới phản động. Những vết nhơ đã làm hoen ố tâm hồn nhiều hơn là thể xác, làm biến chất con người, làm sai lạc quan điểm và làm méo mó tư duy của họ. Phải cần nhiều năm miệt mài học chủ nghĩa Lenin, hàng năm theo những lớp học chính trị, những buổi phê bình và tự phê bình, những ngày lao động chân tay, trải nghiệm gian khổ để chữa sạch những vết thương mưng mủ, để chữa trị khỏi những tật bệnh nếu không phải là để cho một sự trinh nguyên cho thể xác, thì cũng để đạt đến sự chân thành biến thành những kẻ dễ bảo cho lãnh đạo.
Ngày nay họ lại phải trở về với chính nơi độc nhiễm mà họ trước đây sinh sống, Đảng đã bắt chước Trung Quốc tìm cách cho họ tránh những “viên đạn bọc đường” bằng cách trang bị cho họ những bao ngừa thai để tránh những mầm SIDA chính trị, một bệnh truyền nhiễm chết người, y chang như trang bị cho người để chống SIDA ở đời thường. Cái gì đã quyến rũ các ông quan kháng chiến một khi họ trở về Thủ Đô? Một bữa ăn thịnh soạn có champagne, rượu Tây, thuốc lá Anh, những điệu valse ẻo lả, những ánh mắt đưa tình và những nụ cười mời mọc của những nàng tiên kiều diễm là quá đủ để kéo tên “man rợ” ra khỏi rừng rú ném hắn vào đám yêu tinh và làm hắn phải “bán linh hồn cho quỉ dữ”… Nhưng làm sao sự khôn ngoan và những tiên liệu của Đảng lại có thể ngăn được những đợt thuỷ triều của ham muốn đã nhiều năm bị đè nén và đang đến lúc nổ tung? Trong những năm 1989-1990, cả nước bàng hoàng thất vọng và kinh hoàng trước tội ác của những đảng viên biến chất, nhiều quan chức cao cấp của Đảng và của Nhà Nước đã hành xử như những băng đảng trộm cướp, đã nuốt nhiều tỉ đồng của công quỹ để thoả mãn ham muốn đê tiện của mình. Chưa bao giờ, dù dưới bất cứ chế độ nào, một vụ tai tiếng như thế lại có thể xảy ra, và Đảng phải đỏ mặt vì xấu hổ và đen như nhuộm bùn. Viên đạn bọc đường quả thật đã chơi trội việc giáo dục chính trị.
Ngày 10 tháng 10 năm 1954 đúng 10 giờ sáng, lực lượng Kháng Chiến trọng thể tiến vào Thủ Đô. Dẫn đầu là đoàn quân với những lá cờ tung bay với tiếng trống liên hồi. Những cán bộ đứng trên những chiếc xe tải vẫy tay chào đồng bào đứng đầy hai bên đường đang hô to những tiếng vui mừng, phất phất những lá cờ nhỏ. Tất cả hai bên nhà phố đều trang trí và niềm vui không tả trên ánh mắt của từng người dân. Từng chặp, đoàn quân phải ngừng lại để nhận những vòng hoa của từng đoàn thiếu nữ mang tặng. Sự nồng nhiệt của dân chúng đã lên đến cao độ, thật chân thành và nồng hậu. Kể cả những người mà con tim còn đang nhịp nhẹ những tiếc nuối với người chủ hôm qua, tất cả đều chuẩn bị đầy đủ cho một cuộc găp gỡ dễ thương bằng sự rộng rãi và lịch sự, họ vỗ tay hoan hô những người đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ: chiến công của họ khơi động lại niềm hãnh diện của người dân Việt và phục hồi lại danh tiếng cho nước nhà.
Trong hai tuần đầu, tất cả cán bộ đều được lệnh không ra khỏi nơi đang cư ngụ. Chúng tôi không biết được lý do tại sao. Có phải đây là vì vấn đề an ninh? Không kể những viên đạn bọc đường mà mọi người cho rằng có thể phá vỡ sự trong sáng của những con người kháng chiến sau nhiều năm được cải tạo, thì có phải chăng vì sợ súng đạn của những kẻ quá khích hay gián điệp có thể mang đến những cái chết vô nghĩa cho những người mà Đảng đã mất hàng chục năm để đào tạo và đã biến họ thành những người Cộng Sản trung kiên? Hay đã có những ý nghĩ kỳ quặc đang manh nha trong đầu của vài lãnh đạo đang nắm quyền và họ chỉ muốn thuộc quyền tuân phục một cách mù quáng? Mặc kệ lý do gì! Có chuyện lo bảo vệ an toàn hay chỉ là một nhắc nhở là chúng tôi chỉ là những con chốt tầm thường trong tay của những người lãnh đạo, chúng tôi đều cúi đầu phục tùng cho bạo chúa phán lệnh lúc nào phải hành động y những con rô bốt mà chẳng biết bận tâm suy nghĩ tại sao. Trong khi chúng tôi có thể về thăm nhà ở Hà Nội để có chỗ nơi ăn ở đàng hoàng, giường êm nệm ấm thì chúng tôi phải nằm trên sàn trần, cuốn mình trong những tấm chiếu không khác gì những tử tù đang chớ ngày đút đầu vào máy chém… Chúng tôi tiếp tục sống đời kham khổ kỷ luật như những người Spartan như những năm bí mật kháng chiến; khi bữa ăn kết thúc, chúng tôi lại xếp hàng rửa bát bên vòi nước. Thật ra đâu cần thiết phải đối xử bất nhân kéo dài thêm hai tuần xa cách cho những người đi kháng chiến đã hơn mười năm chưa gặp lại gia đình? Chỉ còn thêm vài trăm bước đường nữa là mọi người trở về đã có thể ôm lại cha mẹ anh em và trao cho nhau những giọt nước mắt mừng tủi sau những năm xa cách mà tưởng như thiên thu. Có phải chăng người Cộng Sản là những anh hùng mà mắt đã không còn lệ, mà trong tim tình cảm gia đình đã biến mất, linh hồn đã bị huỷ diệt bởi một niềm tin điên cuồng vào một học thuyết chủ nghĩa hay một tôn giáo?
Về phần mình, một mặt lòng tôi rộn rã vui sướng được đặt chân trở lại thành phố nơi tôi sinh ra, nơi mà những kỷ niệm đầy nhớ mong đã bám chặt lấy tôi suốt những năm xa cách; một mặt khác, lòng tôi lại héo buồn vì không được quay về nhà trong giờ phút đầu tiên để gặp lại cha mẹ già đang khắc khoải chờ mong gặp lại đứa con trai lớn đang ra vào hiểm nguy mà không cần tranh cãi chi đến đến chuyện nó ra đi là có cần thiết hay chính đáng không.
Điều không vui của tôi kết thúc khi tôi được phân công về nhận trường Luậtị bệnh dịch, không nên đến gần. Ra đường, mọi người thấy tôi từ xa đã quay ra ngõ khác để tránh đụng mặt, nếu người nào đó, vì vô tình vô ý hay vì can đảm đến gõ cửa gặp tôi, ngay sau khi vừa rời khỏi nhà là đã có công an mời về cơ quan để tra tấn họ với những câu hỏi về họ là ai, về gia đình và tầng lớp xã hội và đặc biệt là có quan hệ gì đến tên tội phạm là tôi đây. Chắc chắn rằng tên tuổi của người đó sẽ được ghi vào sổ đen và từ đó sẽ thường xuyên bị theo dõi. Không cần phải có cặp mắt tinh anh để nhận biết rằng ở tất cả những ngã tư đường dẫn đến nhà tôi lúc nào cũng có một hay hai tên cớm dù đã thay đổi căn cước hình dạng nhưng không đổi nhiệm vụ cảnh giới và canh gác, để chận bắt những người chỉ vì vô tâm hay gặp lúc số phần bị xấu mà đến bấm chuông nhà tôi. Thật là một màn hài kịch, vừa tức cười vừa bi đát, mỗi khi tôi ra khỏi nhà để đi lang thang đây đó, tôi luôn luôn bị bám đuôi theo dõi chặt chẽ. Nhiều người bạn thấy tôi từ xa đã ngay tức khắc quay lưng và biến mất như chiếc bóng trong đêm. Nếu gặp đôi lúc, để giữ gìn sức khoẻ, tôi ra ngoài tản bộ quanh những con đường kế cận, tôi không bao giờ bỏ qua cơ hội, mỗi khi đi ngang qua những người công an đang theo dõi tôi, cẩn thận giở nón chào họ một cú ra trò làm cho họ không được vui lắm. Cả họ và tôi đều biết rõ họ đang diễn trò gì. Như thế họ phải hiểu là tôi quá biết rõ những lệnh lạc mà họ nhận từ chủ nhân và cái tinh quái của tôi là không bao giờ để cho cái cảnh giác của họ có thể thình lình bắt tôi được. Dĩ nhiên, tất cả thư từ của tôi đều bị mở và một số không bao giờ đến tay tôi. Tất cả thông tin đều được ghi vào hồ sơ, về tên tuổi những người gửi thư cho tôi và dĩ nhiên họ sẽ tiến hành điều tra về những người này. Tất cả những con chó to đùng được gửi đến để cắn tôi đều không thể táp với những cái răng nanh vì chúng không thể tìm ra khoảng trống nào có thịt của tôi cả. Sau nhiều năm dài theo dõi, chủ nhân của chúng khám phá rằng chẳng được tích sự gì nên đã buộc phải chấm dứt sự theo dõi đó.
Vào thời gian đầu của cuộc sống đầy bất hạnh của tôi, và trong suốt những chuỗi ngày đen tối đó, tôi thật bất ngờ khi thấy những nhân vật chính trị có tầm cỡ đến nhà tôi, như đồng chí Hà Huy Giáp. Tôi không biết ông ta tự ý đến hay có ai đó đã giao cho ông việc làm đến thăm tôi như thế. Ông ta tỏ vẻ lo lắng cho sức khoẻ của tôi và đặt những câu hỏi vô thưởng vô phạt về sinh hoạt của tôi. Trước đây tôi được nghe những lời đồn tốt về ông nhưng chưa có dịp gặp ông ta. Cuộc trao đổi không đi sâu đến mức riêng tư nhưng tôi có cảm tưởng là có những động lực thân thiện đã đưa ông đến nhà. Một người trong Trung Ương, một nhân vật khá quan trọng của Đảng, đã cất công đến thăm một kẻ bị loại, bị mất phép thông công. Bất kể cái gì, bất kể từ động lực tình cảm nào, cuộc viếng thăm của ông ta như thể một tia nắng chiếu vào đêm tối cô độc của tôi.
Mặc dù với cuộc viếng thăm rạng rỡ và đầy ánh sáng của Hà Huy Giáp như là một tia chớp làm sáng lên đêm tối của đời tôi, tôi vẫn cảm thấy đau khổ cô đơn sống cô lập vì người ta đã kết án tôi. Tôi không bị cô lập với gia đình nhưng vợ con cố giấu nhịn những dòng nước mắt để không làm tôi khổ thêm, và tôi biết những giọt nước mắt của họ lại sẽ tuôn trào những khi tôi vắng nhà. Về phần tôi, tôi rán tránh nhìn trong mắt họ để không nhìn thấy những nếp nhăn trên gò má vì những đêm mất ngủ và phải chịu quá nhiều đau khổ. Một khi quyền lực đã ném sức nặng vào tay gìới cầm quyền, họ hống hách tuyên bố, dưới cái nhìn của họ, là đã có kẻ đã phạm một tội ác không dung thứ được, thì cái sợ hãi đã lan ra đến nỗi không ai dám mở cửa hay mở lòng đón tiếp kẻ “phạm tội” đó. Kẻ “phạm tội” chỉ còn cách tự buộc mình sống trong cô lập mà cũng chỉ có nó là phải chịu đau khổ bởi những dày vò đau đớn của sự cô đơn. Không có nhà nào dám che chở cho nó ngủ, không một bộ quần áo nào có thể che chở cho nó chống chọi đêm đông lạnh giá, không món ăn nào làm ấm bụng, giúp cho nó chút sức để đứng dậy trên đôi chân mà bước đi, không còn một đôi tai thân thích nào để nghe lời than vãn của họ, không một tiếng nói đầy lòng thương nào để ban bố cho tiếng kêu than.
Người đời nhìn tôi, tôi nhìn họ, không còn ai nhận ra ai. Vâng, một kẻ bị trục xuất, bị cắt phép thông công thì phải sống cô đơn ở mọi nơi, ngay cả khi đang sống trong đất nước của mình.
Nhưng cuộc sống bị cô lập giữa những người xa lạ, dù họ là những người cùng nòi giống với bạn, đau đớn bao nhiêu cũng không sánh bằng cái khổ khi phải thấy cái thống khổ của chính gia đình mình, của những người thân thương nhất, của người bạn đời và của máu mủ của mình! Cái cô đơn này cũng là cái quí giá hiếm hoi làm lộ ra cái tình yêu sâu đậm tạo nên sợi giây liên lạc thiêng liêng giữa tôi và vợ con. Họ đau khổ khi nhìn thấy tôi khổ. Họ nghĩ suy cho đó là bổn phận và tình yêu nên cố giúp tôi bớt đau khổ bằng cách giấu đi khổ đau của chính họ. Tự nó, đó là cái động lực rất đáng khen, quý phái, đáng được thán phục và vinh danh, nhưng rủi thay, người chồng và cha, mà họ mong muốn làm cho bớt khổ, dù chỉ trong muôn một, lại làm cho hắn khổ đau gấp hai khi thấy không thể chia cho nhau những tiếng thở dài và niềm đau cay đắng. Trong cuộc chơi đầy bi thảm và đau đớn, mỗi người trong ba chúng tôi là lo cho người kia, cho hai người kia, tin rằng mình mới là kẻ có khả năng chịu những đợt tấn công của nghịch cảnh và giữ được sự thanh thản và cân bằng bên trong để có được sự an bình của tâm hồn. Nhưng cái mà đang giết chúng tôi là ai cũng biết mình đang lừa dối với chính mình, và muốn lừa dối người kia hay cả hai người kia. Không ai bị lừa cả, nhưng cả ba người đều tự cho rằng mình là người được nhiều an ủi, để rồi tuôn trào nước mắt nhiều hơn khi nỗi cô đơn đến trong đêm khuya.
Vì thế tôi rất đau khổ khi biết rằng vợ con đã phải chịu khổ vì mình, sức khoẻ họ đang kém đi vì những đêm không ngủ kéo dài, và cứ lập đi lập lại mỗi ngày. Ý nghĩ đó tra tấn tôi ngày đêm, xé nát tim tôi, làm tôi luôn thao thức trên giường, buộc tôi phải ngồi dậy, bước quanh trong phòng cho tới khi đi nằm lại. Trong nhà, cả ba con người đều không nhắm mắt ngủ được, và nhờ cái đói, họ đành cứ phải lê những buớc yếu ớt quanh phòng và nếu có một cơn ngủ đến làm họ nằm xuống, chẳng qua là nhờ sự kiệt sức đã làm tan biến chút năng lượng hay sức lực còn lại. Thật là một phép lạ khi chúng tôi đã vượt qua biết bao lần như thế, trong khi chỉ cần một lần là có thể đã dễ dàng lấy đi mạng sống của chúng tôi.
Nếu cứ mỗi cuộc khủng hoảng làm chúng tôi đau nhức chết người, thì những lúc tĩnh lặng sau đó, khi dài khi ngắn, lại làm cơn đau dồn dập hơn nữa. Cái đau đớn đã xé tôi ra từng mảnh, đè nghiến, xé toạc tôi, xuyên thủng tim tôi những lỗ sâu bén, cắn xé hồn tôi ra từng mảnh với hàm răng sắc nhọn. Đó là một thứ sức mạnh hiện hữu, có nét riêng và, nếu tôi có thể nói là xác thực, mà tôi không thể đo lường được cái cường độ, cái năng động, sức mạnh, sự tiến hoá và chu kỳ, thời gian ngưng đọng và tái diễn. Ngược lại, những cảm giác thống khổ mới đang tra tấn tôi lại thuộc về một chủng loại hoàn toàn mới mà tôi chưa bao giờ được biết. Ngược với cái đau đớn mà tôi gọi là hiện hữu xác thực đang đập nát tinh thần và đang xé nát tim tôi, thì những cái đau mà tôi cảm nhận là những tác động tiêu cực làm tan rã ý chí, làm mềm đi hệ thần kinh, làm chậm dòng sinh khí, làm nhu nhược hoàn toàn thể chất và tâm lý của tôi, biến tôi thành một thứ giẻ rách chỉ xứng đáng để ném vào sọt rác. Cái khổ đau này, nó như cơn thuỷ triều đang dâng, tràn ngập và nhấn chìm tôi trong một tình trạng suy nhược và tê liệt, chỉ để lại trong tôi một mảnh ý thức rời rạc đủ để tôi nhận ra cái sức nặng của một khoảng trống rỗng không. Trước đây cuộc sống của tôi thật sống động, cho những bài giảng ở Đại Học, tranh cãi trước Toà Án, viết những bài tham luận, khảo cứu văn chương. Tôi thường có một cảm giác sung mãn, nóng bỏng muốn hành động và biểu lộ ra ngoài. Ngày nay tôi trở nên gật gù trong trạng thái lừ đừ yếu đuối, tưởng như đang trôi dạt trên một biển cả không bờ không bến và bị tan biến trong cái vùng nước mênh mông không động đậy. Ngày xưa, thời gian đối với tôi là một kho tàng quí giá nhất, nó trôi qua quá nhanh ngược lại ý mình, đã làm tôi tuyệt vọng; ngày nay nó chỉ là một chiếc khung hình hoàn toàn không có gì trong đó, hiện ra một khoảng trống không màu sắc, chỉ để làm hư tầm nhìn và tiêu diệt cả ý chí. Tôi căng óc lấp đầy cái hư ảo này với những cảm xúc nghe, nhìn. Tôi phải tìm nhìn chăm chăm vào từng chiếc lá trên cây bên đường, chú mục vào từng kẻ đang bước trên phố, từng cái xe chạy, tôi như một người mù vừa mới tìm được lại ánh sáng, vừa xem xét chăm bẳm từng thực tiễn của cuộc sống, vừa ngạc nhiên trước những điều mới lạ. Nhưng mọi cố gắng đều trở nên vô ích, và sự kiêu hãnh của họ đã ném tôi vào một niềm thất vọng không thể chịu đựng được. Cả thời gian đó, dù tôi đã cố gắng quên mình trong những chuyện tầm phào, nó vẫn tiếp tục làm cho tôi hoang mang lẫn lộn, nó vẫn quấy phá tôi bằng cái rỗng tuếch của nó.
Tôi nảy ra ý nghĩ một mình lang thang khắp phố, tập trung y văng khỏi ghế ngồi. Đây là lần đầu tiên mà hai cụm từ Trách Nhiệm và Nhà Nước được gắn kề, trách nhiệm của Nhà Nước đã được nêu lên. Chúng tôi tự hỏi phải chăng những ý kiến của Đại Hội lần thứ XX của Đảng Bolchevik đang nhập cuộc và phải chăng ảnh hưởng của Khrushchev đang thắng thế trên đất nước Liên Xô. Mặc kệ, chúng tôi thật vui sướng khi được cùng các đồng nghiệp Liên Xô bắt đầu chung những điều tốt như thế. Không còn gì hấp dẫn hơn là được lướt đi trên con đường không giống ai và có vẻ dị hợm, con đường mà chỉ vài năm trước đây đã có thể đưa chúng tôi trực chỉ lên máy chém hay đi tù ở Siberia!
Người chủ nhà Liên Xô đón tôi với nụ cười.
- Tôi thấy trong mắt của bạn chói sáng một sự ngạc nhiên. Vâng, rất đúng như thế: chúng ta sẽ trao đổi về Trách Nhiệm của Nhà Nước. Khi Stalin còn sống, đây là một chuyện cấm kỵ và người ta có thể bị nguy hiểm dù chỉ ám chỉ nhẹ nhàng đến nó: Nhà Nước không bao giờ chịu trách nhiệm về chuyện gì… Bây giờ thì chúng tôi bớt bị trói buộc và có thể, trong vòng giới Luật Gia, có thể bàn cãi khá nhiều vấn đề!
- Chúng tôi chúc mừng ông và rất vui vì điều ấy. Có thể nào, trong thời gian sắp tới, chúng tôi có thể được tự do và hoàn toàn được tự do phát ngôn trong những buổi thảo luận của chúng ta?
- Ngay cả ngày hôm nay, chúng ta được ở trong phòng riêng vắng những đôi tai bí mật muốn nghe những gì chúng ta nói, chúng ta thật có toàn quyền nói những suy nghĩ của chúng ta.
- Thật là một thời kỳ lạ, một thế giới kỳ lạ! Những Luật Gia lại cư xử như những kẻ âm mưu đang giấu mình khỏi cặp mắt của công an và gián điệp. Nhưng họ đang âm mưu vì Pháp Luật và Công Lý. Có những yếu tố giảm án nếu họ bị bắt và truy tố trước Toà Án.
- Hay đó lại là yếu tố tăng tội khi gặp phải ông quan toà cộng sản hề khoan nhượng và ai cũng rõ sự không khoan nhượng đó đã cấu thành từ sự khiếp sợ của họ đối với Luật Pháp và Công Lý.
- Bây giờ chúng ta đang ở trung tâm của vấn đề đấy. Nếu một nhà nước cộng sản, cũng như trong thời kỳ quân chủ tuyệt đối, đều cho rằng họ không chịu trách nhiệm về bất cứ hoạt động của họ, thì việc của chúng ta còn lại là tập trung vào trọng tâm của vấn đề. Con người tự phân biệt mình với thú vật và cho rằng mình cao hơn thú vật là nhờ ở những đức tính mà chỉ con người mới có. Nhưng lương tâm, tư cách và danh dự lại liên hệ đến đạo đức và dính líu đến mỗi cá nhân. Mỗi người càng có nhiều đạo đức thì càng được nhiều người kính nể. Thiên Đường là nơi thiêng liêng nhưng nơi ấy thì con người không được mời đến. Trong đời sống xã hội, nơi mà người chung đụng với người, nơi mà những quan hệ xã hội được hình thành và tổ chức, mỗi người phải chịu trách nhiệm về suy nghĩ và lời nói của mình, phải giữ gìn cho chính bản thân, trong nghĩa là không gây tác hại về quyền lợi vật chất, thể chất cũng như tinh thần cho người chung quanh. Trật tự xã hội chỉ có thể được duy trì nếu mà bất cứ vụ phạm luật hay làm thiệt hại cho tài sản người khác đều phải bị trừng phạt và bồi thường. Như thế trong một thế giới văn minh, chính là cá nhân và những trách nhiệm của cá nhân là nền tảng để xây dựng xã hội.
Cái nguy hiểm thường trực treo trên đầu nhiều nhà nước trên thế giới là những kẻ bạo quyền luôn đặt mình trên nhân dân của họ, tự cho mình những đặc quyền do sự độc quyền mà họ nắm, tự cho mình trên cả Luật Pháp và tỏ ra vô trách nhiệm. Nói như thế là để nói rằng những ý tưởng và hành động của họ phải được thảo luận và phê bình, những lỗi lầm của họ phải bị trừng phạt.
- Kẻ độc tài xem ra giống như vợ của Caesar: tuy không có chi để nghi ngờ, thế mà Messalina lại phải lang thang suốt đêm khắp thành Roma! Dĩ nhiên, không có tên độc tài nào lại chối bỏ những trách nhiệm mà hắn biết rõ là chỉ là những trách nhiệm của trẻ con hay của những người điên hay mất trí. Những khi đó, ngay đối với những chuyện không được ai nói đến, cũng không có nghĩa là không có chuyện gì xảy ra. Với một xuất thân ngu dốt, không văn hoá kẻ chuyên quyền không hề ý thức được những gì bất bình thường đang xảy ra. Để giành mọi đặc quyền cho mình, họ đưa ra luận điệu ưu việt: họ tán tụng đã liên hệ được với những người ngoài hành tinh, họ là “con của Trời”, họ là “người đã được chọn” hay tự cho mình là chính là Quốc Gia. Louis VIV đã tuyên bố “Quốc Gia chính là ta”. Bốn thế kỷ sau, trong một buổi nhận huy chương cao quý của dân tộc, De Gaulle đã tuyên bố “Quốc Gia không tự mình gắn huy chương cho mình”!
- Bằng cách chiếm hữu, một cách không tốn kém và cũng chẳng có chứng cớ chi, một gốc gác siêu phàm, mi núi và sông như những đường ranh giới tự nhiên. Ở đây chỉ có cái chặt chẽ của hình học, của logic thuần lý, sự chính xác của phép tính theo tinh thần Descartes và của một sự rõ ràng minh bạch. Giữa sự hợp pháp và bất hợp pháp là một đường phân rõ ràng như giữa trắng và đen. Ngôn ngữ của Luật thể hiện những ý niệm, ý kiến, định nghĩa từng nội dung và không chấp nhận những vùng khuất trượt lướt chung quanh, những lập lờ chữ nghĩa, những giải thích đầy phù phép và lừa gạt đưa ra. Những tranh luận về Luật kéo theo những đụng độ về ý kiến nhưng phần thắng luôn đến từ những lý luận đặt cơ sở trên nguyên tắc của Luật Pháp, trong những bài viết không còn những từ ngữ rỗng tuếch và còn tranh chấp đúng sai trong cái sự thanh thản của biện chứng, dưới ánh nắng lạnh lùng của lý trí.
Vì thế, sự đối kháng giữa chính trị và luật pháp là không thể nào giải quyết được. Trong khi nhà chính trị muốn khẳng định chủ nghĩa duy ý chí thì nhà Luật học lại chiếm ưu thế về sự hợp lý. Một phe thì luôn đặt vấn đề một cách cụ thể, phân tích từng yếu tố của sự việc, xem xét những tương quan và những tác động qua lại, tìm chọn tất cả những giải pháp để rốt cuộc chọn lấy giải pháp tối ưu và có lợi nhất, và dùng tất cả quyền hành trong tay để thực hiện nó. Loại người đó không hề bị ràng buộc bởi bất cứ nguyên tắc, nghĩa vụ hay niềm tin nào. Họ tự do như những con ngựa hoang trên cánh đồng cỏ mênh mông, tàn phá như những cơn bảo hung tàn đang giật tung những mái ngói và nhận chìm những con tàu chìm sâu vào lòng biển khơi. Dựa vào hoàn cảnh thuận lợi, nhà chính trị đã chơi xả láng con chủ bài của mình và biểu thị một lòng ham muốn vô giới hạn. Nhưng cơ hội của họ lại va chạm đến tính cứng nhắc của hệ thống tư pháp và những qui điều trong Luật. Vì thế họ muốn quét bỏ hệ thống tư pháp và nhảy xổm lên trên Luật Pháp; nhưng dầu thế nào họ cũng đã có một nền tư pháp đang ngủ yên và quên lãng trong Kháng Chiến, nơi mà chính phủ chỉ nói chuyện với cỏ cây thú rừng khi mà những người theo kháng chiến với tấm lòng yêu nước và chỉ lo thi hành bổn phận, không dám quấy rầy giấc ngủ của lãnh đạo.
Nhưng tất cả đều trở nên xáo trộn sau ngày trở về Hà Nội. Ở đây là thái độ một thành phố thu mình không còn nhộn nhịp và ngay sự yên tĩnh cũng gây khó chịu cho chính quyền mới. Thái độ như thế biểu dương một tinh thần tôn trọng Luật Lệ. Bất cứ khi nào quyền lợi của họ bị xâm phạm, lập tức người dân đến gõ cửa Luật Sư và Luật Sư Đoàn như những thành trì của công bằng và Công Lý. Để chứng tỏ thiện chí, chính quyền cộng sản đã không thấy gì trở ngại để giữ lại Luật Sư Đoàn khi mà những Thẩm Phán xử án đã được thay thế bằng những người do Đảng đào tạo và giáo dục, và chính những người này là những người quyết định kết quả của mọi vụ án. Sau ngày tiến vào Hà Nội, trong khi những chuyện có tính nội bộ như thế có thể giải quyết dễ dàng, thì ngoài những nước anh em, Việt Nam còn phải nối quan hệ với các nước tư bản. Những nước này là những nước thượng tôn Pháp Luật và chỉ chịu ký kết những hiệp định phù hợp với khung pháp lý. Bên cạnh đó, những định chế quốc tế hay những tổ chức nghiên cứu rất kỷ về Việt Nam, họ có khả năng giúp Việt Nam hưởng những trợ giúp của họ và đồng thời cũng quy trách được nếu Việt Nam phạm những sai lầm. Bằng con đường quốc tế, những quy điều của Luật đã mạnh mẽ đi vào Việt Nam và nhà cầm quyền bắt buộc phải quan tâm đến.
Sau Điện Biên Phủ, ai cũng biết rằng Hiệp Định (Genève) chia đôi Việt Nam ra thành hai phần: phía Bắc do Nhà Nước Cộng Sản nắm, phía Nam do chính quyền thân Mỹ Ngô Đình Diệm nắm. Mặc dù rất đúng Luật về mặt hình thức, Hiệp Định Genève đã xâm phạm quyền của một dân tộc từ ngàn xưa đã luôn luôn sống trên một Đất Nước duy nhất. Từ rất sớm, khởi nghĩa vũ trang đã được tổ chức trên cả vùng chống lại nhà cầm quyền, khởi đầu cho những bước thống nhất Đất Nước. Để phản công, nhà cầm quyền phía Nam đã bắt cầm tù một số trí thức như Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ và giáo sư Phạm Huy Thông, kết án họ là những người cầm đầu cuộc nổi dậy, và tiến hành việc đàn áp đẫm máu những người mà họ cho rằng nuôi dưỡng những khuynh hướng nhằm thống nhất Tổ Quốc.
Chính nghĩa thống nhất Đất Nước phải được biện hộ trước diễn đàn quốc tế; dư luận quốc tế phải được thông tỏ chuyện gì đang xảy ra ở miền Nam Việt Nam. Năm 1956, Hiệp Hội Luật Gia Dân Chủ triệu tập hội nghị thế giới ở Thủ Đô Bruxelle của Bỉ. Trước cơ hội thật lớn lao đó, nhà cầm quyền (phía Bắc) liền tổ chức một đoàn đại diện để đi tuyên truyền cho chính nghĩa của mình. Trong cương vị là Chủ Tịch Luật Sư Đoàn và là Phó Chủ Tịch Hội Luật Gia Việt Nam tôi được giao phó làm trường đoàn, cùng với Luật Sư người Công Giáo Nguyễn Huy Mân là Hội Thẩm, đồng thời là Chủ Tịch Toà Án Qu&ái trẻ người Việt, được đào tạo ở Pháp, có trách nhiệm phải xây dựng phương Đông của ngày mai. Chính cái “xây dựng phương Đông của ngày mai” lại là cái cảm hứng để tôi viết hai cuốn sách, một cuốn dành riêng viết về những giá trị của Pháp: Những viên ngọc của nước Pháp và cái khác với những giá trị vùng Địa Trung Hải (Tây Ban Nha, Ý, Hy Lạp), một cuốn là Bước đầu của Địa Trung Hải. Tác phẩm thứ tư là một vở kịch mang lên sân khấu cái xung đột, trên khía cạnh tình cảm, giữa một kẻ du hành hiện thân cho phương Tây với những nhu cầu hay di động và thay đổi, và một cô gái tiêu biểu cho tình cảm qua sự trung thành và bền vững: “Cuộc hành trình và tình cảm”.
Từ năm 1940 đến 1945, nhiều xáo trộn cực kỳ nghiêm trọng đã xảy ra trên thế giới và ở Việt Nam: từ nay, nước Pháp không còn tập trung vào những hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam nơi mà Cách Mạng cộng sản đã thắng thế từ năm 1945 và đang điều hành nhân dân. Từ 1945 đến1956, tôi và gia đình bỏ vào bưng cùng tham gia Kháng Chiến chống thực dân. Khi trở về Hà Nội, tôi trở lại đi dạy Văn Chương ở Đại Học và mở lại văn phòng Luật Sư ở Hà Nội. Tôi được bổ nhiệm, nhờ Đảng ban ân huệ và cũng chẳng phải do tôi xin, ngồi trên ghế của Uỷ Ban Trung Ương của mười tổ chức quần chúng. Từ năm 1958, vì đứng ra bảo vệ cho dân chủ, tôi đã bị tước bỏ mọi nhiệm vụ; tôi đã nhắc lại những diễn biến này trong phần đầu của cuốn sách này.
Đó là những sinh hoạt trí thức của tôi từ 1932 cho đến ngày hôm nay. Giờ đây tôi sẽ phải bám víu vào thế giới nào đây? Đó là một điều cực kỳ quan trọng. Cái vấn đề chính yếu mà tôi đã dựa vào để làm căn cơ cho cả cuộc đời trí thức của tôi là điểm gặp nhau giữa Đông và Tây, ngược với luận đề của Rudyard Kipling là chối bỏ cái khả năng đó. Tôi tự cho mình cái công việc là lo giúp sự hiệp thông qua lại của hai thế giới, trên cơ sở đó hai bên có thể thực hiện cuộc gặp gỡ. Mỗi thế giới đều có một thang giá trị riêng, đôi khi kình chống lẫn nhau. Sự gặp gỡ, trên cơ sở của sự thông cảm lẫn nhau, sẽ kéo theo việc bên này giúp đỡ bên kia để bổ sung lẫn nhau và cùng đào luyện để mang những lợi ích chung cho nhân loại. Chính theo hướng đó mà tôi đã đặt hết suy tư để hoàn tất tác phẩm của cuộc đời tôi.
Nhưng phương Đông, đặc biệt là Việt Nam lại va phải một số khó khăn trong việc đi tìm những giải pháp cho những vấn đề cấp bách và quan trọng. Thí dụ như vấn đề đào tạo con người mới. Ở Việt Nam nhiều lần cải cách về giáo dục vẫn chưa mang được gì thoả đáng. Có lẽ nên cần thiết hoàn toàn xoá bỏ và làm lại tất cả những quan niệm chính trị, nhưng đảng cộng sản Việt Nam sẽ nhìn với con mắt rất xấu những ai nêu lên cách đó như một giải pháp cho việc cải tổ giáo dục. Có lẽ phải làm cho các vị lãnh đạo nghiền ngẫm về những tư duy về sư phạm của Pháp, chỉ trong hai thế kỳ, từ Érasme đến Rousseau, đã thành công đào tạo con người, nói đúng hơn, con người trí thức hiện đại, thiếu họ cuộc cách mạng Khoa Học Kỹ thuật không thể nào thành công. Công việc nghiên cứu của tôi là nhắm vào điểm này.
Một vấn nạn có tầm cỡ khác là giới trí thức Viet Nam phải giải quyết thế nào về cái quan hệ giữa chính trị và văn học. Rất nhiều văn nghệ sĩ không thể chấp nhận cho chính trị quản lý chi phối những sáng tác văn học. Đảng đã tuyên cáo rằng chính trị phải đứng ra quản lý văn chương và mục đích của văn chương là phải phục vụ chính trị trong những đường lối chung và những đường lối riêng của Đảng. Tất cả những nhà văn vâng theo nguyên tắc này đều nhận được công danh và bổng lộc, cho mình và cho cả những người trong gia đình. Nhưng đa số những người khác thì nhăn nhó mà theo hướng này. Như vậy vấn đề cũng quan trọng như việc đào tạo con người. Như vậy, rất cần thiết cho tôi được đưa ra những suy nghĩ về vấn đề kia. Không phải để nhắm làm thay đổi những kẻ ương ngạnh đã dính luận cương của Đảng, tôi cảm thấy có điều ích lợi để trình bày cho độc giả về vấn đề đã được giải quyết thế nào dưới thời Cổ Đại Hy Lạp và thời Cổ Đại La Tinh.
Hy Lạp thời cổ đại đã đưa ra mẫu mực của Eschyle (Aiskhylos), một trong những bậc thầy về bi kìch Hy Lap, mà những tác phẩm đều được chính quyền và nhân dân ngưỡng mộ và trọng nể. Thật không có gì quan trọng khi chính trị thích nghi với văn chương hay ngược lại. Cái hiển nhiên là tác phầm của Eschyle là đượm mùi thơm của chính trị, là niềm vinh quang của nhân dân đã đánh thắng giặc ngoại xâm. Người đọc Việt Nam ta sẽ tìm thấy trong đó tiếng vọng của niềm vinh quang của chính chúng ta.
Một hình ảnh tương tự được thấy trong tác phẩm Virgile (Vergilius). Đường lối chính trị của Auguste là thúc đẩy sản xuất nông nghiệp; như thế vai trò nhà thơ là ca tụng vẻ đẹp của nông thôn, viết nên những vầng thơ của n&ot đọc, biết viết, nhưng người ta đã bỏ phiếu và diễn tả rõ ràng ước muốn của mình. Đây là chỗ hiểu lầm, mà như một số người đã nói, mà thảm cảnh bắt nguồn. Người Cộng Sản tưởng rằng đã chiếm được trái tim của nhân dân. Nhưng đó chỉ là một ảo tưởng mà dù sớm hay muộn họ phải dứt bỏ. Lý do hay nhất là, vào những năm 1945-46, có một số người mà con số không quá mười đầu ngón tay, từ Liên Xô hay Trung Quốc quay về nước với một mớ mơ hồ và không rõ ràng về chủ nghĩa Cộng Sản.
- Nhưng người dân đã dùng lá phiếu để bầu cho ai?
- Người ta sẽ trả lời cho bạn là họ bầu cho ông Hồ Chí Minh, họ không bầu cho con người cộng sản đang giấu mặt kín bưng trong cuộc chơi và con người đó không hề đả động gì đến việc đấu tranh giai cấp, nhưng, với dáng dấp một nhà nho truyền thống, với chùm râu không thể thiếu, ông ta chỉ có một câu nói trên cửa miệng: “Đoàn kết, đại đoàn kết”, có nghĩa như ông ta đang đặt mình là người đối lập với đấu tranh giai cấp. Một vài lão thành cộng sản đã xì xầm là ông ta đã từng tự phê bình trước mặt Stalin! Trong bất cứ chuyện gì, tên Hồ Chí Minh đã trở thành bùa chú để chống tai ương và mang lại hạnh phúc. Tệ sùng bái cá nhân đã thành hình, ông ta đã được thần tượng hoá, tên ông ta được dùng khắp nơi, quyền lực của ông được xử dụng để đưa nhân dân vào thế là người có lỗi càng nhiều càng tốt [°]. Vì vậy, huyền thoại Hồ Chí Minh chỉ toả ra một ý nghĩa dân tộc và không cộng sản, trong khi Đảng, cố tình hay vô ý, kéo cả tấm chăn về phía mình và chiếm hưởng tất cả niềm tin của nhân dân.
- Đây là một sự lập lờ đánh lận con đen nhưng nó bi thảm ở chỗ nào?
- Bi thảm là ở chỗ chính Đảng đã tự lừa dối mình, nghĩ rằng mình có thể đưa ra những đường lối chính trị trẻ con phát xuất từ bệnh ấu trĩ, duy ý chí, chủ quan, vi phạm những định luật của khoa học, quay lưng lại với thực tiễn, những chính sách này sớm hay muộn cũng sẽ đưa Đất Nước vào sự nghèo túng và đưa nhân dân vào sự đau khổ. Bên cạnh đó, với niềm tin cho rằng mình là vô địch, Đảng nghĩ rằng mình có thể áp chế nhân dân, chơi đùa trên sinh mạng của họ, buông lơi Luật Pháp, hành động với sự tàn ác vô nhân tính như đã xảy ra trong đợt Cải Cách Ruộng Đất, một kỷ niệm đau buồn không bao giờ quên được trong tâm khảm của người dân. Vì vậy, vấn đề quan tâm là trách nhiệm của Nhà Nước và chính xác hơn, là trách nhiệm của bọn chuyên quyền đã thống trị nó.
- Một nghiên cứu về những kẻ chuyên chế trên thế giới trong lịch sử và qua thời gian đã cho thấy chúng có những nét chung không thay đổi mà chúng ta cần phải nhớ đến. Thứ nhất, ngay cả trong thời kỳ xưa kia của nền quân chủ chuyên chính, vai trò của nhân dân luôn luôn là quyết định, dù rằng họ không đóng vai nổi bật trên chính trường. Mọi cuộc đảo chánh, mọi cuộc Cách Mạng chỉ có thể thành công nếu được nhân dân đồng tình ủng hộ. Chủ nghĩa Marx nói đúng khi cho rằng lịch sử là do quần chúng làm nên. Những học thuyết chủ nghĩa, những lý thuyết đều phát nguồn từ bộ óc của cá nhân, nhưng hành động, muốn có hiệu quả, lại phải tuỳ thuộc vào khả năng và sức năng động của quần chúng. Chủ nghĩa Marx đã dạy điều như thế nhưng những tay chuyên quyền lại hay quên hay không để ý đến. Những tay chuyên quyền khi đã đạt địa vị thì quay lưng và tự cô lập mình và xa rời quần chúng, không còn lắng nghe tiếng nói hay lời than phiền, ước vọng của nhân dân. Chúng gây hại cho nhân dân, chúng bịt tai thành điếc nên không còn nghe lời than van hay đòi hỏi của nhân dân, và như thế họ đã tự giết cả chính mình.
Vì thế, cần phải biết rằng có một ràng buộc qua lại giữa kẻ nắm quyền và nhân dân. Một khi được nhân dân đưa lên đỉnh cao của quyền lực, kẻ nắm quyền phải có trách nhiệm lo cho quyền lợi của nhân dân, và trong mức có thể, họ phải làm tăng trưởng quyền lợi của nhân dân theo số lượng và chất lượng. Một thoả thuận hai bên giữa những kẻ nắm quyền và nhân dân, dù không bằng văn bản hay lời nói, nhưng dưới dạng hiểu ngầm, căn cứ trên những truyền thống lịch sử hay xã hội. Ngay khi những kẻ chuyên quyền vi phạm bổn phận của mình, gây hại cho quần chúng thì lập tức quần chúng được qưyền huỷ bỏ những ràng buộc về phần họ; kẻ chuyên quyền sẽ bị nhân dân trừng phạt và có thể bị nhân dân áp đặt án tử hình.
- Hơn thế nữa, trong suốt thời gian nắm quyền, bất kể kẻ cầm quyền nào cũng thực hiện những chuyện tốt lẫn chuyện xấu. Nhưng dù đã thực hiện được nhiều chuyện tốt cho dân chúng họ vẫn không thể được miễn trách cho những chuyện xấu mà họ đã gây ra. Chỉ có nhân dân mới có cái quyền tối thượng đưa ra phán xét là giữa cái tốt và cái xấu cái nào nặng hơn cái nào. Nếu cái tốt thắng, thì cán cân nghiêng về phía kẻ nắm quyền, và họ sẽ được dân chúng biết ơn một cách chân thành, họ sẽ được đưa vào vinh quang của Lịch Sử mà con cháu đời sau sẽ luôn nhớ! Nhưng nếu cán cân nghiêng sâu về phía xấu, trong cuộc đời của họ, họ sẽ bị hạ bệ vứt đi, và sau khi chết, tên họ sẽ bị nguyền rủa muôn đời.
- Trường hợp của Stalin là môt ví dụ điển hình. Ông ta đã thực hiện được một số lớn chuyện tốt nhưng đồng thời cũng làm một số lớn chuyện xấu. Nhưng không có ai dám chỉ trích những việc xấu mà Stalin đã làm vì cái nguy hiểm kèm theo rất cao. Cái tệ hại nhất là hồi ấy người đời tranh nhau ca tụng Stalin! Bây giờ thì công lý đã có cơ hội để vận hành những nguyên tắc mà dân chúng đã xây dựng qua những tháng ngày sống trong đắng cay và đau đớn. Từ nay trở đi, không có kẻ cầm quyền nào có thể đòi hỏi là những chuyện tốt họ đã làm có thể làm tan biến trách nhiệm về những tội ác mà họ đã để lại nỗi kinh hoàng trong tâm trí của người dân lương thiện. Đó là những trách nhiệm có tính hình sự. Có những tình huống làm nặng thêm hay làm giảm nhẹ tội, nhưng dứt khoát là không có chuyện miễn tội.
- Đây không phải là chuyện xử tội kẻ cầm quyền, mà là chuyện những con người phải trả lời về những tội ác mà họ đã làm. Nhưng, khi mà những sai lầm, hư hại phát xuất từ một chính sách hay đường lối chính trị, sự tàn phá có thể là gây ra trên bình diện rộng lớn và tan thương, trách nhiệm của kẻ cầm quyền vẫn được coi là chính trị… Không có gì đáng ngạc nhiên: trong bậc thang giá trị của con người, mạng sống là luôn luôn cao hơn những của cải vật chất mà họ nắm trong tay. Mặc dù vậy, đã có những người bị mất mạng vì sự cẩu thả, vô ý hay có khi vì chủ ý xấu của người hay một cơ quan của Nhà Nước. Dĩ nhiên, nếu người phạm tội một cách có ý thức, người này phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi của họ trước Pháp Luật, nhưng rất nhiều khi họ không có tiền để bồi thường những thiệt hại cho nạn nhân hay trả tiền cho thân nhân của người bị chết. Nhà Nước phải chịu trách nhiệm một cách gián tiếp, dựa trên tính liên đới giữa kẻ phạm tội là người đã hành động trong khuôn khổ trách nhiệm được nhà nước giao phó. Nếu không, đó là một trách nhiệm tập thể của chính quyền đã gây ra thiệt hại trong khi thi hành một công việc mà Nhà Nước hay kẻ cầm quyền trao cho, đã vô tình gây thiệt hại vật chất cho một hay nhiều công dân, nhà nước phải bồi thường những thiệt hại do nhân viên của mình gây ra. Ở Pháp, nguyên tắc trách nhiệm hành chánh của Nhà Nước và của tập thể công nhân viên nhà nước là được công nhận. Có nhiều cấp Toà Án hành chánh mà cao nhất là Hội Đồng Quốc gia (Conseil d’Etat) mà quyền cao nhất là có thể huỷ bỏ một phần hay toàn diện những quyết định hành chánh nếu những quyết định này gây ra thiệt hại vật chất cho công dân. Rủi thay, tôi nghĩ rằng tôi sẽ không lầm khi phải khằng định rằng ở các nước Cộng Sản, Nhà Nước chối bỏ việc chịu trách nhiệm hành chánh, không hề tổ chức những Toà Án Hành Chánh có quyền xét xử Nhà Nước và những đơn vị hành chánh thuộc quyền của Nhà Nước. Vì thế có những vùng rộng lớn mà nhà cầm quyền hành xử như vợ của Caesar – theo ý thích và không sợ ai phán xét. Các cấp cầm quyền cấp dưới và dưới nữa lợi dụng tình hình này ra sức áp bức và khai thác nhân dân là những người mà họ tiếp xúc hàng ngày.
Nếu lãnh vực vô trách nhiệm chính trị càng lớn hơn thì hậu quả lại càng không thể đo lường và sửa chửa được. Nhà Nước chỉ là bàn tay nối dài của Đảng và con người lãnh đạo Đảng chính là người đang nắm trọn quyền lực. Nhân dân không là gì hết, tiếng nói của họ đã bị bịt kín. Tất cả những bộ phận của Nhà Nước là gồm những con người của Đảng hay những người toàn tâm toàn ý với Đảng; tất cả cái giống người này chỉ có cái lưỡi gỗ và cái lưng cong cúi luồn với chủ. Trong những điều kiện như thế, làm sao có được những tiếng nói dấy lên để đòi truất phế và thay những kẻ bạo quyền, hay ít ra là để đưa ra những đề nghị, những ý kiến để làm đứng lại cái xe đang lao mình với tốc độ kinh hoàng về phía hố sâu của sự xấu? Mọi chuyện được quyết định từ hậu cung của Đảng, nơi Thần Bí nhất của Thiên Cung, bao quanh bởi một vòng thành kín bưng như Vạn Lý Trường Thành bên Trung Quốc!
Người ta không thể nói chuyện về trách nhiệm, về Luật Pháp đối với chuyện một con cọp đang sẵn sàng ăn tươi con mồi trước mặt. Chưa bao giờ trong lịch sử con người mà lưỡi tầm sét của Thần Zeus - tức cái búa của Thiên Lôi - cùng với cây gậy thần của Circé lại nằm cả trong tay của một người, làm thành một bộ máy thống trị và áp bức cực kỳ hoàn hảo, một bộ máy chuyên dùngoacute; chỉ là là một báo trước cho cuộc chiến xảy ra một năm sau đó! Ngược lại, một cuộc chiến với chính nghĩa và hợp pháp chống lại kẻ xâm lăng dành lại độc lập cho Tổ Quốc và tự do cho Nhân Dân, chấm dứt sự chia cắt hai miền, biến nước mắt vì khổ đau thành nước mắt của mừng vui là có phải chăng là một cuộc chiến báo hiệu cho một nền hoà bình công bằng, vững bền và thật sự, nó đoàn tụ những gia đình ly tán, chấm dứt việc khóc than của những kẻ vô tội, làm những nụ cười khô héo nở hoa trở lại trên môi, mang lại hạnh phúc và hy vọng cho trái tim, tìm được niềm vui của cuộc sống, được tái sinh trở lại như một con người. Trong ngôn ngữ của nhân loại, hay ít nhất là của chúng tôi, cuộc chiến đó tên gọi là Hoà Bình.”
“Không phải bổn phận của chúng ta, những Luật Sư Dân Chủ, là làm dễ dàng cho việc thiết lập nền hoà bình như thế trên thế giới bằng cách ủng hộ những cuộc đấu tranh để có một kết thúc thực mỹ mãn. Cho phép tôi được nêu vấn đề để mong quí vị quan tâm. Tôi hy vọng rằng khát vọng của dân tộc tôi sẽ không bị biến thành thất vọng và tôi hy vọng nhận được những giúp đỡ động viên của quí vị để giúp dân tộc tôi cống hiến nhiều hơn nữa”.
Những cố gắng đã mang lại thành công mỹ mãn và chúng tôi đã đạt được những gì mà dân tộc mong đợi.
Trên đường về nước chúng tôi đã được đoàn Sec mời ghé thủ đô Prague để dự vài buổi làm việc chung. Chúng tôi nhận lời.
_________________
[1] Dalloz và Sirey là tên riêng rẽ của hai nhà xuất-bản chuyên về các tạp chí nghiên cứu pháp luật của Pháp, có mặt từ năm 1945. Về sau Dalloz và Sirey sáp nhập làm một nên có tên mới là "Dalloz and Sirey" hay "Dalloz et Sirey" hay "Dalloz-Sirey". Các tạp chí này lần lượt được chọn lọc, gộp lại và tái bản thành một bộ sách dày, bao gồm các số đã phát hành trong nhiều năm trước, gọi là Dalloz and Sirey Repertoires, tiếng ta gọi là Dalloz-Sirey Toàn Tập.(N.D.)
[2] Trissolin là nhân vật chính trong vở kịch Những người đàn bà thông thái của đại văn hào Molière của Pháp. (N.D.)

Trong thời kỳ quá độ, những bộ óc biết suy nghĩ bắt đầu nhận chân rằng những người làm cách mạng mà tình yêu tổ quốc và chủ nghĩa anh hùng đáng được đề cao, lại không có đủ văn hoá và khả năng để đưa dân tộc lên một số phận cao đẹp hơn! Những thiệt hại to lớn do những lỗi lầm của họ gây ra đã làm người dân nghi ngờ về khả năng trí tuệ của họ, dù không bị huen ố, nhưng niềm tin của nhân dân về họ cũng đã bị giảm sút, niềm tin mà họ cần có để nâng cao tinh thần chiến đấu. Rủi thay, vì tình trạng không ai chịu trách nhiệm như thế đã mở cửa cho bao nhiêu vi phạm và tội ác; những quan chức của Đảng, với những chữ ký sinh ra vàng, đã để cho mình bị tiêm nhiểm những con vi trùng của tiền của, để tự mình ngày càng chìm sâu trong vũng lầy của tội ác. Những kẻ thuộc quyền, được khuyến khích bởi sự “bất bị quy trách” của xếp mình, trở nên những kẻ đồng loả, tập họp nhau thành băng thành nhóm. Thời sẽ đến khi mà Đảng vẫn còn tiếp diễn những ung nhọt như thế: họ sẽ không còn niềm tin yêu của nhân dân, niềm tin mà họ đã mất cả một thời gian dài mới có được. Đã thiếu văn hoá và khả năng, nay lại mất cả niềm tin yêu của dân là cái cơ sở lớn nhất để họ nắm quyền, một quyền lực mà họ có được là nhờ tư cách đạo đức và cũng sẽ mất nó vì nếu họ thành kẻ ác vô nhân. Khi họ trơ mình trước quần chúng như một người đàn bà đĩ thoã nghèo nàn và trần truồng, tôi ngại rằng họ còn có thể tiếp tục độc quyền chính trị. Cũng có thể lãnh đạo cấp cao không làm ác như những thuộc quyền, nhưng họ vẫn phải chịu trách nhiệm đối với những kẻ này, bởi những hành động của những người thứ ba, làm tan rả Đảng vì uy tín Đảng đã bị tan biến bởi những ngọn gió đầy cay đắng và khinh miệt thổi vào. Chừng nào mà con số phạm tội còn nhỏ, chừng ấy Đảng còn che đậy chúng dưới thảm dày để giữ được mầu trắng của sự trong trắng! Nhưng một khi tai tiếng đã trở nên thái quá, không còn giấu giếm được nữa thì Đảng sẽ làm kẻ điếc trước những than phiền chính trị. Đảng sẽ chọn sống xuống cấp trong im lặng thay vì bị nổ tung ra trước ánh sáng ban ngày với những vụ kiện mà uy tín của Đảng sẽ bị mãi mãi mất và thanh danh của Đảng bị huỷ diệt, từ cấp cao đến cấp hạng bét. Bất cứ chọn cách nào, Đảng cũng sẽ thất bại trên hai chuyện uy tín và thanh danh. Chính trị rồi đây sẽ nhường bước cho đạo đức, đạo đức rồi sẽ kéo theo sự can thiệp của Luật Pháp để chấm dứt một quá khứ đau khổ mở đầu cho một kỷ nguyên mà ánh sáng của lý lẽ và công bằng một lần nữa sẽ chiếu rọi với việc tái lập nền Công Lý và bảng tuyên ngôn về trách nhiệm của Nhà Nước và những ai đại diện nó.
Dĩ nhiên, chuyên đó không phải là chuyên xảy ra ngày mai. Nhưng nó đáng cho chúng ta mong đợi!
Hãy cho chúng tôi được hy vọng những gì sẽ xảy ra như bạn nói là sự thật. Hãy cho chúng ta được quyền hy vọng ngày mà chúng ta ăn mừng được thấy lý lẽ và công bằng trở lại ở những nước cộng sản là một ngày không xa lắm!
Khi chia tay, chúng tôi bắt tay nhau lần cuối, nhìn trong mắt nhau và có cảm nghĩ rằng chúng tôi đã cùng chia nhau chung một ý nghĩ. Những suy nghĩ chung với những cảm xúc chia sẽ giống nhau: “Chúng tôi, những người trí thức, một đám người đang bị tất cả những ngươi cầm quyền nguyền rủa, và đặt biệt là những tay chuyên quyền cộng sản. Họ là những người tuyệt vời kỷ luật, và chúng ta là những kẻ mà trong người đã có giòng máu vô kỷ luật đang sôi sục. Họ là những kẻ vui sướng khi nhìn những kẻ cúi đầu tuân phục, hít thở những khói nhang của a dua nịnh bợ, làm những trò ảo thuật, dựng nên những tấn tuồng vĩ đại trên sân khấu. Là những người cứng đầu cứng cổ, chúng ta ngẫng mặt hiên ngang, nhin thẳng vào phía trước với cặp mắt biết quan sát và một bộ óc biết phê phán. Thay vì thốt ra những điave; chủ nghĩa tự do, tại sao các ông cứ cứng đầu chối bỏ cái hiện thực và các ông cứ bám chặt một cách tuyệt vọng vào cái tôn chỉ đã lạc hậu không còn cứu vãn được gì nữa? Giữa chủ thuyết của các ông và quyền lợi của Tổ Quốc vá Nhân Dân, các ông nghiêng về phía nào? Những đoá hoa đang cắm ở bình, hoa mà các ông đã du nhập từ nước ngoài vào, nay đã héo tàn. Cho đến bao giờ các ông không còn khư khư yêu mến cái xác ướp không bao giờ còn có thể hồi sinh được nữa? Và, nhất là hãy giải thích cho nhân dân tại sao các ông lại căm ghét sự đa nguyên đa đảng như thế! Thật xấu hổ khi thấy những kẻ cuồng tín gồm một phần lớn là những người đã nhận sự giáo dục và lệnh của các ông, và số còn lại là những con cừu thiếu văn hoá, không chút gì hiểu biết về thực tiễn của thế giới, ù lì không thể thấm hiểu được những đổi mới, những thay đổi. Tới nay thì các ông cũng buộc phải thú nhận cái thất bại tả tơi trong xã hội và chính trị, nơi mà cái độc quyền chính trị đã cho phép một sự phình to của quyền lực, mở cửa cho một sự bùng nổ của ích kỷ; đạo đức của những người có quyền có thế càng ngày càng suy sụp và mức phạm tội hình sự của họ càng ngày càng tăng với một tốc độ chóng mặt. Các ông phải công nhận thêm rằng, trong lãnh vực kinh tế, các ông đã chịu một thảm bại không thua gì cái thảm bại của trận Waterloo. Bởi cái ngu dốt và thói con vẹt của các ông đã dẫn dắt các ông theo gương của những ông anh, các ông đã khinh thường khoa học và thực tiễn, nói một cách gọn là những định luật khoa học. Kết quả không cần phải chờ lâu: sự sụp đổ, đẩy cả nền kinh tế duy y chí vào đổ nát, hàng triệu người lao động tay chân và trí óc bị buộc phải thất nghiệp và khổ sở kinh hoàng và nền kinh tế của cả nước với ước vọng là sẽ cất cánh, nhưng lên khỏi mặt đất là chỉ những khu vực không đáng kể như công nghiệp nhỏ, thủ công mỹ nghệ và nông nghiệp, và cho thấy không thể bay cách nào hơn là cứ la đà trên mặt đất! Nếu, những gì liên quan đến những gì về xã hội, chính trị và kinh tế, là một sự sụp đổ hoàn toàn, thì thứ gì còn lại được an toàn vô sự trong một đất nước mà những nền tảng đã sụp, và, mà sự phân rã không thể che dấu được? Âm điệu rỗng tuếch của những lời tuyên bố và những lời hứa làm tức tối những người đang bị dính vào nỗi khổ đau không dứt, những người đang tự hỏi tại sao Đảng không áp dụng cho chính họ điều mà họ đã dạy «Một tội tự thú là một tội đã được giảm 50% án phạt». Làm thế nào những người cộng sản để giài quyết tình trạng xung đột quyền lợi của Đảng và quyền lợi của Dân Tộc và Tổ Quốc? Quyết định của quý ông sẽ là cơ sở để Dân Tộc và Lịch Sử dùng để phán xét các ông và Đảng của các ông.
Công luận nhận thấy các ông đã làm một bước tiến trên con đường «đổi mới». Như thế là các ông bắt đầu thú nhận cái thất bại của các ông. Nhưng các ông, cũng như nhân dân Việt Nam, có bằng lòng về giải pháp nửa chừng chỉ có một số tác động điều trị trên một vài lãnh vực được chỉ định, trong khi cơn bệnh đã tấn công toàn cơ thể của quốc gia và cơ cấu của nó? Các kiêu hãnh về những hy sinh đáng kể trong đời mình mà với chúng các ông tỏ lòng biết ơn Đảng. Chủ nghĩa anh hùng của các ông có làm cho các ông dám hy sinh Đảng của quý ông trên bàn thờ của Tổ Quốc và Nhân Dân? Đất Nước và Nhân Dân Việt Nam đang chờ câu trả lời của các ông.
Hà Nội ngày 13 tháng 5 năm 1991
Nguyễn Mạnh Tường [°]
____________________________
[1] Cinna và August là hai nhân vật trong vở kịch Cinna ou la Clémence d'Auguste (Cinna, hay sự ân xá của đại đế Augustus). Cinna nghe lời người yêu là Émilie mà rắp tâm mưu sát vua để trả thù cho cha của Émilie bị vua giết tội. Mặc dấu mưu đồ bị lộ, Cinna và Émilie không bị trị tội mà được vua August ân xá và ban chức tước.
[°] Luật sư Nguyễn Mạnh Tường sinh năm 1909 tại phố Hàng Đào, Hà Nội. Ông theo học tại trường Albert Sarraut và đỗ tú tài năm 16 tuổi. Sau đó du học tại Đại học Montpellier ở miền nam nước Pháp năm 1927. Khi mới 22 tuổi ông trở thành người Việt đầu tiên đỗ hai bằng tiến sĩ tại Pháp: Ưu hạng Luật khoa (Luận án: L'individu dans la vieille cité annamite, Code des Lê. D.E., Droit, Montpellier, Imp. de la Presse Montpellier 1932) và Tiến sĩ Quốc gia văn chương (với luận án L'Annam dans la littérature française, D.E., Lettres, Montpellier 1932). Báo chí thời ấy đã coi người thanh niên Việt Nam trong một năm đỗ 2 bằng tiến sĩ là hiện tượng chưa từng có trong nền giáo dục đại học Pháp. Bạn tri âm của ông là Nguyễn Văn Huyên, người cũng làm luận án Tiến sĩ Văn khoa tại Pháp.
Trở về Việt Nam năm 1936, Nguyễn Mạnh Tường dạy văn học Pháp ở trường Trung học Bảo hộ (Lycée du Protectorat), hay còn gọi là trường Bưởi (từ 1945 đổi tên thành trường Trung học Chu Văn An). Bất mãn với chính sách kỳ thị của Pháp khiến ông bỏ dạy và mở văn phòng luật sư tại hai biệt thự số 1 và số 2 phố Mai Xuân Thưởng. Về sau gia đình đã hiến tất cả cho Nhà nước, làm trụ sở cơ quan tiếp dân của Thanh tra Chính phủ.
Trong thời gian tham gia kháng chiến chống Pháp ông làm luật sư và dạy học tại Thanh Hoá và khu ba nói chung, giữ chức vụ Phó Giám đốc Trường Sư phạm cao cấp liên khu Bốn. Đến khi hòa bình lập lại năm 1954, ông trở về Hà Nội, là giáo sư trường Đại học Văn khoa (nay là Đại học Quốc gia Hà Nội).
Sau 1954 ông giữ các chức vụ Trưởng khoa Đại học Luật Hà Nội, Phó chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam, Chủ tịch Đoàn Luật sư, Phó Trưởng khoa Đại học Sư phạm Hà Nội; thành viên Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên của Hội Hữu nghị Việt-Pháp, Hội Hữu nghị Việt-Xô và Uỷ ban Bảo vệ Hoà bình Thế giới, sáng lập viên Câu lạc bộ Đoàn Kết, Phó hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội, chuyên viên nghiên cứu giáo dục. Ông tham gia phái đoàn chính phủ dự hội nghị trù bị Đà Lạt, dự các hội nghị hoà bình thế giới ở Bắc Kinh và Vienna.

Đoàn đại biểu Việt Nam đi dự Hội nghị Hòa Bình ở Vienne (1952): Người đứng giữa ôm cặp là Ls. Nguyễn Mạnh Tường

Trong số ra mắt ngày 20 tháng 9 năm 1956, bán nguyệt san Nhân Văn đã đăng ngay trên trang nhất bài "Chúng tôi phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ". Người được phỏng vấn đầu tiên là luật sư Nguyễn Mạnh Tường. Ông nêu hai nguyên nhân khiếm khuyết về dân chủ thời bấy giờ:
a. Đảng viên Lao động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tinh thần dân chủ. Do đó xa lìa quần chúng, và tạo ra tình trạng đối lập quần chúng với mình. Để sửa đổi, cần xây dựng quan điểm quần chúng cho đảng viên và cán bộ, và yêu cầu Trung ương Đảng và Chính phủ đảm bảo sự thi hành triệt để các tự do dân chủ.
b. Quần chúng chưa thấm nhuần tinh thần chủ nhân ông trên đất nước, do đó chưa tranh đấu đòi thực hiện dân chủ. Để sửa chữa, ta cần xây dựng ý thức dân chủ cho quần chúng.
Loạt bài được dự định tiếp tục với bác sĩ Đặng Văn Ngữ, nhà sử học Đào Duy Anh, nhà văn Nguyễn Đình Thi... nhưng cho đến số cuối cùng được ra mắt là số 5, ngày 20 tháng 11 cùng năm, Nhân Văn chỉ có thể công bố bài phỏng vấn Đặng Văn Ngữ và Đào Duy Anh.
Ngày 30 tháng 10 năm 1956 luật sư Nguyễn Mạnh Tường, với tư cách thành viên của Mặt trận Tổ quốc, đã đọc một bài diễn văn tại một cuộc họp của Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội, phân tích sâu sắc những sai lầm của Đảng và Nhà nước trong cải cách ruộng đất và đề ra phương hướng tránh mắc lại. Sau phát biểu này, ông bị tước hết mọi chức vụ và danh vị nghề nghiệp.
Ông mất ngày 13 tháng 6 năm 1997 tại Hà Nội, thọ 88 tuổi.
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường có vợ là bà Tống Lệ Dung, có ba con, một trai và hai gái. Người con trai cả (Nguyễn Tường Hưng nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch các Bộ: Mỏ và Than, Năng lượng và Công nghiệp) và người em ngay sát ông đều đã nghỉ hưu. Con rể ông là nhạc sĩ, nhà lý luận phê bình âm nhạc Hồ Quang Bình, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Âm nhạc Hà Nội.

Tác phẩm

Luật sư Nguyễn Mạnh Tường để lại 14 tác phẩm bằng tiếng Pháp và 4 tác phẩm tiếng Việt.
• Văn Phạm Việt Nam (cùng Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim) (1941)
• Việt Nam Tự Điển (Hội Khai Trí Tiến Đức)
• Construction de l'Orient (1937)
• Sourires et Larmes d'une Jeunesse (1937)
• Pierres de France (1940)
• Apprentissage de la Méditerranée (1940)
• Le Voyage et le Sentiment (1940)
• Một Cuộc Hành Trình (1955)
• Un Excommunité-HàNội: 1954-1991: Procès d'un intellectuel (Quê Mẹ Paris xb 1992)
• Lý luận giáo dục châu Âu: Từ Érasme tới Rousseau thế kỷ XVI, XVII, XVIII (Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội – 1994, 530 trang)
• Aikhylos (Eschyle) và bi kịch cổ đại Hi Lạp (Nhà xuất bản Giáo dục 1996)
• Virgile - nhà thơ vĩ đại của thời kỳ La mã cổ đại (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1996, 342 trang)...
Nguồn: theo Wikipedia.
--!!tach_noi_dung!!--


Nguồn: Dịch giả Nguyễn Quốc Vĩ gửi đăng
Được bạn: Mọt sách đưa lên
vào ngày: 27 tháng 11 năm 2011

--!!tach_noi_dung!!--
Ba Bốn Năm Sáu Bảy Tám Chín Mười Mười Một Mười Hai