Dịch giả: Thanh Vân
Hai mươi năm

Hôm đó là thứ Bảy, Marijana ở trong phòng riêng với Drago, hai mẹ con nói chuyện giống như cãi vã. Tiếng Marijana nhanh và khăng khăng, thỉnh thoảng cao vóng lên át tiếng con trai.
Ljuba ở cầu thang, lóc cóc nhảy lên nhảy xuống các bậc.
- Ljuba! – ông gọi – Lại đây ăn sữa chua nào! – đứa bé phớt lờ ông.
Marijana từ phòng làm việc ra.
- Tôi để Ljuba ở đây được không? nó sẽ ở lại với Drago. Không phiền gì đâu. Lát nữa tôi sẽ quay lại đón cháu.
Ông đang hy vọng nhận được từ Marijana chút gì hơn thứ ông trả tiền để chị làm, có lẽ là một lần chăm sóc thân thể nữa, nhưng rõ ràng nó không đến. Mỗi tháng hai lần, đều đặn như đồng hồ, một cơ chế ở nhà băng chuyển tiền từ tài khoản của Rayment sang tài khoản nhà Jokic. Đáp lại khoản tiền của ông, đáp lại việc Drago ở nhờ nhà ông, ông nhận được gì? một dịch vụ mua bán, ngày càng không đều, các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ thất thường. Theo quan niệm của Marijana, đây là một cuộc mặc cả có lợi. Nhưng theo lời bà Costello, nếu ông muốn làm cha, tốt hơn hết là ông tìm ra cương vị làm cha thật sự, loại làm cha chẳng có gì huyền bí.
Marijana vừa đi, có tiếng lao xao ở cầu thang, Ljuba lại xuất hiện cùng với bà Costello và cậu bạn Shaun của Drago theo sau, hôm nay Shaun mặc áo phông đen rộng thùng thình, quần lửng đến bắp chân.
- Chào Paul – bà Costello nói – mong là ông không phiền lòng vì chúng tôi tạt vào. Ljuba, cháu vào bảo Drago có Shaun ở đây.
Còn lại ông với bà ta, hai người lớn tuổi.
- Cậu bạn Shaun không hẳn cùng tầng lớp với Drago – bà Costello nói – Nhưng Chúa và các vị thánh thần hình như cũng thế, họ chọn những người bình thường, khổ sở nhất để kết giao.
Ông nín lặng.
- Có một chuyện tôi định kể, vì tôi nghĩ sẽ làm ông vui – bà ta tiếp – Chuyện xảy ra đã lâu lắm rồi, từ hồi tôi còn trẻ. Một trong những anh chàng ở phố tôi rất giống Drago. Cũng mặt đen, lông mi dài, tướng tá đẹp đẽ. Tôi rất mê anh ta. Hồi đó tôi mười bốn tuổi. Còn anh ta lớn hơn một chút. Trong những ngày đó tôi thường cầu nguyện "lạy Chúa," tôi nói "xin Chúa làm anh ta ban cho con chỉ một nụ cười, con sẽ là của Người mãi mãi".
- Và?
- Chúa chẳng chú ý gì, cả anh chàng kia cũng vậy. Chẳng ai màng đến niềm khát khao trinh nữ của tôi. Thế là, than ôi, tôi chẳng bao giờ thành bầy tôi của Chúa. Lần cuối cùng tôi nghe tin về anh chàng là anh ta đã lấy vợ và chuyển đến Gold Coast, ở đó anh ta rất thành công trong kinh doanh bất động sản.
Tất cả là một sự sai lầm: Thần thánh có thích người chết trẻ không?
Tôi sợ lắm. Tôi sợ thánh thần chẳng có thời gian dành cho chúng ta, liệu có tay đập tay xoa chúng ta không. Họ có đủ thứ rắc rối riêng trong cái cộng đồng kín cổng cao tường của họ rồi.
- Không có cả thời gian kể cả với Drago Jokić? Đấy là lời răn trong câu chuyện của bà ư?
- Không có thời gian cho Drago Jokić, Drago có thời gian của riêng nó rồi.
- Giống như tất cả chúng ta.
- Giống như tất cả chúng ta. Drago có thể thoải mái. Không bị lời phán quyết cuối cùng treo lơ lửng trên đầu. Nó có thể là thuỷ thủ, là lính, là thợ hàn hoặc thợ may tùy nó chọn. Thậm chí có thể kinh doanh bất động sản.
Lần đầu tiên ông và mụ Costello có một thứ mà ông gọi là chân thành, thậm chí tử tế. Lần duy nhất họ vào cùng một phe: hai ông bà già kéo bè kéo cánh hậm hực với tuổi trẻ.
Có lẽ lời giải thích thực sự vì sao bà già này lại đột ngột ghé thăm ông mà không đến nơi nào khác: không viết về ông trong sách, nhưng lôi kéo ông vào hội già? Biết đâu toàn bộ chuyện nhà Jokić, sự thiếu cân nhắc của ông dẫn đến niềm say đắm vô ích với chị Jokić, kết cục chẳng là gì ngoài một đoạn văn phức tạp mà Elizabeth Costello dùng để dẫn đường chỉ lối cho ông? Ông tưởng Wayne Blight là người được chỉ định trong trường hợp của ông, nhưng có lẽ tất cả bọn họ - bà ta, Drago, Wayne – đã hợp sức với nhau.
Drago thò đầu qua cửa:
- Shaun và cháu có thể xem máy ảnh của ông được không, ông Rayment?
- được. Nhưng cẩn thận đấy, xem xong đặt trả vào hộp.
- Drago có quan tâm đến ảnh không? – Elizabeth Costello thì thào.
- Nó thích máy ảnh. Nó chưa bao giờ nhìn thấy cái máy nào giống của tôi. Nó chỉ biết loại mới, máy điện tử thôi. Với nó, một chiếc Hasselblad giống như chiếc thuyền buồm hoặc tàu chiến cổ có ba tầng mái chèo vậy. Một thứ đồ cổ. Nó cũng dành nhiều giờ xem hết chỗ ảnh của tôi, những bức ảnh của thế kỷ XIX. Ban đầu tôi tưởng nó lập dị nhưng có lẽ nó không kỳ quặc tí nào. Hẳn nó cảm nhận được cách thâm nhập vào quá khứ của Australia, cội nguồn của Australia, các tổ tiên đa dạng, huyền bí của Australia. Thay vì là một chàng trai di cư có cái tên buồn cười.
- Nó kể với ông thế à?
- Không, nó không kể với tôi. Nhưng tôi đoán ra. Tôi có thể đồng cảm. Tôi chẳng xa lạ gì kinh nghiệm của người nhập cư.
- Phải, tất nhiên. Tôi quên đấy. Ông là một quý ông Anglo-Adelaide chính cống làm tôi quên ông chẳng Ănglê tí nào. Ông Rayment, cùng vần với payment.
- Cùng vần với vraiment. Tôi đã có ba kinh nghiệm nhập cư chứ không phải một, để lại những dấu ấn sâu sắc. Thứ nhất, từ khi còn bé, tôi đã buộc phải rời quê hương đến Australia, sau đó, khi tôi tuyên bố độc lập và trở lại Pháp, rồi tiếp đến là lúc tôi bỏ nước Pháp và trở lại Australia. Vậy lần này mình thuộc về đâu? Mỗi lần di chuyển tôi lại hỏi. Nơi đây có phải tổ ấm thực sự của mình không?
- Tôi quên là ông đã trở về Pháp. Hôm nào ông kể cho tôi nghe nhiều hơn về giai đọan đó trong đời ông nhé. Nhưng trả lời câu hỏi của ông là gì? nơi đây có là tổ ấm thực sự của ông không? bà vẫy tay ra hiệU không chỉ căn phòng họ đang đứng mà cả thành phố, núi đồi và sa mạc của lục địa này.
Ông nhún vai.
- Tôi thường nghĩ tổ ấm là một khái niệm rất Anh. Trái tim và ngôi nhà, người Anh nói thế. Với họ, tổ ấm là nơi có ngọn lửa bập bùng trong lò, là nơi có thể sưởi ấm con người. Là nơi ta không muốn rời để dấn thân vào nơi lạnh lẽo. Không, ở đây tôi không thấy ấm áp – Ông vẫy tay nhại cử chỉ của bà – Hình như tôi lạnh lẽo ở bất cứ nơi nào tôi đến. Bà chẳng nói về tôi thế sao: Ông là người lạnh lùng.
Người đàn bà im lặng.
- Bà biết không, người Pháp không có tổ ấm. Người Pháp ở nhà là ở giữa bản thân mình, giữa đám con cái. Tôi không có nhà ở Pháp. Rõ ràng là không. Tôi không là chúng ta của bất cứ ai.
Cùng với bà Costello, ông đã đến gần những lời than vãn làm ông thoáng kinh tởm. Tôi không là chúng ta của bất cứ ai: làm sao bà ta moi được những lời ấy từ miệng ông? Một gợi ý chỗ này, một lời mách nước chỗ nọ, thế là ông đi theo, ngoan như một con cừu.
- Còn Marijana? Ông không mơ ước hợp nhất với Marijana và Drago thành "chúng ta" hay sao? Ljuba nữa? cả Blanka, người mà cho đến hôm nay ông chưa biết mặt?
- Đấy là việc khác – ông cắn cảu. Và ông không muốn bị lôi kéo xa hơn.
Đã quá trưa, vẫn không thấy Marijana xuất hiện. Drago buộc một con búp bê vào lưng em gái bằng sợi chun, nó chạy lon ton từ phòng này sang phòng khác, cánh tay dang rộng, miệng kếu ú u u như tiếng máy bay. Shaun mang theo mấy trò chơi điện tử. Hai cậu trai ngồi trước màn hình tivi phát ra những tiếng húp húp và hò reo.
- Ông biết đấy, chúng ta không phải chịu việc này – Elizabeth Costello nói – Chúng không cần người giữ trẻ hộ. Chúng ta có thể lẳng lặng đi ra và trở lại công viên. Chúng ta sẽ ngồi trong bóng râm nghe chim hót. Có thể coi như một cuộc đi chơi cuối tuần, một chuyến phiêu lưu nho nhỏ của chúng ta.
Ông sẵn sàng nhận bàn tay đỡ đần của Marijana, cô điều dưỡng được trả lương, nhưng không thể nhận từ người đàn bà lớn tuổi hơn ông. Ông bảo Costello đợi ở lối vào trong lúc ông chống nạng xuống cầu thang.
Trên đường xuống, một người hàng xóm đi qua ông, một cô gái Singapore mảnh dẻ, đeo kính, ở căn hộ tầng trên với hai người chị lặng lẽ. Ông gật đầu chào cô, lời chào không được đáp lại. Suốt thời gian ở Coniston Terrace, các cô gái chưa bao giờ nhận ra sự tồn tại của ông. Người nào biết người nấy, ắt hẳn họ được dạy như thế ở quốc đảo của họ. Dựa vào khả năng và nỗ lực của riêng mình.
Ông và Costello tìm được một ghế trống. Một con chó lon ton chạy tới, nó nhanh chóng hít hít kiểm tra ông rồi chuyển sang bà. Thật bối rối khi con chó rúc mõm vào đũng quần người đàn bà. Nó nhắc nhở đến giới tính, giới tính của con chó, hay chỉ vì những hương vị lạ, phức hợp? ông thường coi Elizabeth là người vô tính, nhưng có lẽ con chó tự tin vào khứu giác của nó đã biết rõ hơn.
Elizabeth chịu đựng cuộc điều tra kỹ càng này, mặc cho con chó ngửi hít, rồi vui vẻ đẩy nó ra:
- Vậy – bà nói – ông đang kể với tôi.
- Tôi kể với bà cái gì?
- Ông đang kể về cuộc đời ông. Kể về nước Pháp. Trước kia tôi đã lấy một người đàn ông Pháp. Tôi chưa kể với ông à? Người chồng đầu tiên của tôi. Những thời không thể nào quên. Cuối cùng ông ấy bỏ tôi mà đi vì một người đàn bà khác. Để tôi lại với mụn con trên tay. Theo lời ông ấy, tôi là kẻ không kiên định. Ông ấy gọi goi là vipere (Rắn lục – người nham hiểm), ở Anh là một loại rắn còn độc hơn cả rắn lục. Sale vipere, ông ấy nói thế. Ông ta chẳng bao giờ biết mình là ai. Người Pháp rất coi trọng thứ bậc. Rất biết chỗ đứng của mình. Nhưng nói thế chưa đủ. Chúng ta nói về ông nào.
- Tôi tưởng bà cho là người Pháp rất say đắm. Coi trọng sự say đắm chứ không phải thứ bậc.
Bà chiếu cái nhìn trầm ngâm vào ông:
- Say đắm và thứ bậc, Paul ạ. Cả hai, chẳng thiếu thứ nào. Nhưng tiếp tục câu chuyện tình yêu của ông với nước Pháp đi.
- Đây là một câu chuyện dài. ở trường, tôi khá các môn khoa học tự nhiên. Không được xuất sắc, tôi chẳng xuất sắc thứ gì, chỉ khá thôi. Vì thế khi vào đại học, tôi đăng ký học khoa học tự nhiên. Hồi đó khoa học tự nhiên hình như là một sự đánh cược tốt nhất. Nó có vẻ an toàn, đầy hứa hẹn, vì thế là thứ mẹ tôi mong muốn cho tôi và em gái tôi hơn hết thảy: chúng tôi sẽ tìm được cho mình một nơi an toàn trên mảnh đất xa lạ, nơi mà có trời mới biết vì sao người đàn ông mẹ tôi theo càng ngày càng rút vào ẩn dật, nơi mà chúng tôi chẳng còn gia đình để trở về, nơi mẹ tôi lúng túng về ngôn ngữ và không sao tìm được cách của người bản xứ để làm mọi việc. Em gái tôi dạy học còn tôi lao vào khoa học là một cách sống an toàn.
Nhưng rồi mẹ tôi qua đời, hình như chẳng còn lý do gì khoác chiếc áo choàng trắng và nhìn chằm chằm vào ống nghiệm nữa. Thế là tôi bỏ trường đại học và mua vé sang châu Âu. Tôi ở lại Toulouse với bà ngoại tôi và tìm việc trong một hiệu ảnh. Chính vì thế mà tôi bắt đầu làm nghề nhiếp ảnh. Nhưng bà biết hết rồi còn gì? tôi nghĩ bà biết hết mọi việc về tôi.
- Chuyện này mới với tôi, Paul ạ. Tôi đảm bảo đấy. Ông đến với tôi chẳng kèm theo câu chuyện nào. Một người đàn ông cụt chân và có mối tình không mnay với cô điều dưỡng, thế thôi. Cuộc sống trước kia của ông là một mảnh đất chưa khai phá.
- Tôi ở với bà tôi và hồi đầu cố hết sức làm nhiều việc cho gia đình bên ngoại, vì chúng tôi xuất thân là nông dân Pháp, với họ gia đình là tất cả. Các anh em họ tôi cô t là thợ cơ khí xe hơi, người bán hàng, đốc công nhà ga, nhưng tận đáy lòng họ vẫn là nông dân, mới rời xa bánh mì đen và phân bò một thế hệ. Lẽ tất nhiên là tôi đang nói về những năm 1960, một thời đã qua. Nó khác hẳn ngày nay. Mọi sự đều đã thay đổi.
- Và?
- Tôi không thành công. Như người ta nói, tôi không biết nắm lấy thời cơ. Tôi đã bỏ lỡ quá nhiều thứ tạo nên tôi: không chỉ một nền giáo dục của Pháp mà cả tuổi thanh xuân ở Pháp, gồm nhiều tình bạn trẻ trung, và biết đâu cả tình yêu mãnh liệt,dài lâu. Các anh em họ tôi và những người trạc tuổi tôi đều đã an cư lạc nghiệp. Chưa ra trường họ đã biết métier (biết việc) rồi, họ sẽ làm gì, cô gái chàng trai nào họ sẽ lấy, họ sẽ ở đâu. Họ không thể hiểu tôi – anh chàng có giọng nói buồn cười và cái nhìn bối rối – làm gì ở đấy, tôi cũng không thể nói với họ vì tôi cũng không biết nốt. Tôi luôn luôn là một người kỳ cục, một người lạ ngồi một góc trong những cuộc họp mặt gia đình. Lúc riêng họ với nhau, họ gọi tôi là l'Anglais. Lần đầu tiên nghe thấy, tôi sửng sốt, vì tôi chẳng có gì ràng buộc với nước Anh, thậm chí chưa bao giờ đến đó. Nhưng Australia ở ngoài tầm hiểu biết của họ. Trong mắt họ, Australia chỉ đơn giản là những người Anh mặc áo vải cao su, ăn bắp cải luộc, di thực tận nơi cùng trời cuối đất, một cuộc sống hỗn tạp giữa bầy kangourous.
Tôi có một người bạn là Roger, anh ta phân phát ảnh ở nơi tôi làm. Cứ đến chiều thứ Bảy, chúng tôi buộc túi yên vào xe đạp rồi phóng đến Saint Girons hoặc Tarascon, có khi đi sâu mãi tận Oust hay Aulus-les-Bains trên dãy Pyrenees. Chúng tôi ăn trong các hiệu cà phê, ngủ ngoài trời, phóng xe suốt ngày, Chủ nhật quay về mệt lử song trànful sức sống. Chúng tôi không nói nhiều với nhau, anh ta và tôi, đến tận bây giờ với tôi hình như Roer vẫn là người bạn tốt nhất tôi từng có.
Đó là những ngày trước khi xe hơi Pháp tràn lan. Đường xá vắng vẻ hơn, đạp xe lang thang ở miền quê không bị coi là điều kỳ quái.
Sau đó tôi dính dấp với một cô gái, và thế là bỗng nhiên có nhiều việc phải làm trong những kỳ nghỉ cuối tuần. Cô ta là người Morocco, đó là điều thực sự khó khăn cho tôi. Đấy là sự đam mê không tương xứng đầu tiên của tôi. Cô ta và tôi có thể lấy nhau nếu gia đình cô ấy không ngăn cản.
- Tiếng sét ái tình! Và cũng vì cô trinh nữ ngoại quốc nữa! Bản thân nó đã là chất liệu cho một quyển sách! Tuyệt diệu thay! Ngông cuồng thay! Ông làm tôi ngạc nhiên đấy, Paul ạ.
- Bà đừng chế nhạo. Mọi việc rất đoan trang, rất đứng đắn. Cô ấy đang học ngành thư viện, cho đến lúc bị triệu về nhà.
- Và?
- Và thế là hết. Bố cô ấy gọi cô ấy về, cô ấy nghe lời, đấy là đoạn kết của cuộc tình. Tôi ở lại Toulouse thêm sáu tháng nữa, rồi bỏ đi.
- Ông về nhà?
- Nhà ư? Nó có nghĩa gì? tôi đã nói với bà tôi nghĩ về "nhà" ra sao rồi. Con bồ câu có tổ, con ong có đõ. Có lẽ một người Anh có tổ ấm. Tôi có một nơi ở. Đây là nơi cư trú của tôi. Căn hộ này. Thành phố này. Với tôi, gia đình, tổ ấm là thứ quá huyền bí.
- Nhưng ông là người Úc, ông không phải là người Pháp. Ngay cả tôi cũng thấy điều đó.
- Tôi có thể thành công giữa những người Úc. Tôi không thể thành công giữa những người Pháp. Đấy, theo tôi thì tất cả là ở chỗ đó, ở chỗ đồng nhất quốc gia, nơi người ta có thể qua và nơi không thể qua, nơi con người có thể nổi bật và ngược lại. Như người Anh nói là một ngón tay đau, người Pháp thì bảo là một vết bẩn trên bộ lanh sạch tinh. Về mặt ngôn ngữ, tiếng Anh chưa bao giờ là của tôi như của bà. Chẳng có gì trở ngại về mức độ trôi chảy. Bà nghe thấy đấy, tôi nói năng rất trôi chảy. Nhưng tiếng Anh đến với tôi quá muộn màng. Nó không đến cùng bầu sữa mẹ. Trong thực tế nó chẳng trở thành gì hết. Tôi luôn ngầm cảm thấy mình là một loại nói giả giọng bụng. Như thế không phải là tôi nói ra ngôn ngữ, mà ngôn ngữ được nói lên thông qua tôi mà thôi. Nó không xuất phát từ đáy lòng rằng, từ mon cœur – ông ngập ngừng, dằn lòng. Trong thâm tâm tôi rỗng tuếch, ông suýt nói – vì tôi chắc bà có thể nghe thấy – Đừng cố chất thêm gánh nặng lên chuyện này, Elizabeth – thay vào đó, ông nói – Nó chẳng có ý nghĩa gì, chỉ là một loại tiểu sử dông dài.
- Nhưng nó có ý nghĩa đấy chứ, Paul. Thực sự có mà! Ông biết không, có những người tôi gọi là người địa phủ, những người chôn chân vào mảnh đất quê hương, trong khi có những người như loài bướm, những sinh vật của ánh sáng và không khí, cư trú tạm thời, nay đây mai đó. Ông tuyên bố ông là người thích lang thang, ông muốn là một con bướm, nhưng có một ngày ông bị ngã, một cú ngã tai hại, đâm nhào xuống đất. Khi nhấc người dậy ông thấy không còn bay bổng lâng lâng được nữa, ông không thể đi lại, ông chỉ còn là một đống thịt. Rõ ràng là một bài học, ông không thể giả câm giả điếc với nó được.
- Đúng vậy. Một bài học. Bà Costello ạ, tôi thấy chẳng cần khéo léo lắm người ta cũng có thể bóp méo bài học vì hậu quả lộn xộn của các sự kiện. Bà đang cố nói với tôi rằng Chúa có dự định sẵn trong đầu khi thằng ông mãnh kia đâm vào tôi trên phố Magill, biến tôi thành kẻ tập tễnh? Còn bà thì sao? Bà bảo bà có một trạng thái tình cảm. Hãy giải thích cho tôi là gì. Chúa có bài học gì trong đầu khi Người dò đúng mạch tình cảm của bà?
- Đúng thế đấy Paul ạ, tôi có một trạng thái tình cảm thật, tôi không bịa đâu. Nhưng tôi không phải là người duy nhất bị ảnh hưởng. Ông có trạng thái tình cảm riêng của ông, ông không biết thực sao? Khi tôi gõ cửa nhà ông, không phải để xem người đàn ông một chân đi xe đạp ra sao. Tôi muốn biết chuyện gì xảy ra khi một người đàn ông sáu mươi tuổi ràng buộc lòng mình không hợp lý. Nếu ông không để tâm đến những lời tôi nói, ông sẽ lấy làm tiếc đấy.
Ông nhún vai.
- Tôi không ở trên cõi đời này để giải trí cho bà. Nếu bà muốn tiêu khiển – ông vẫy tay chỉ những người đang chạy, người đi xe đạp, những người dắt chó đi dạo – bà có khối người để khảo sát. Sao bà cứ mất thì giờ với người làm bà tức điên lên vì chậm hiểu và chỉ muốn bỏ rơi bà? Cứ coi là mất công toi với tôi. Bà hãy đến thăm một ứng viên khác đi.
Bà xoay người và tặng ông một nụ cười đầy ác ý mà ông không thể nào nhầm lẫn.
- Có lẽ tôi là người thất thường Paul ạ. Nhưng không đồng bóng như một con dê nhảy từ tảng đá này sang tảng đá khác – bà ta nói – Tôi đã quá già không nhảy nhót được nữa. Ông là tảng đá của tôi. Thời gian này tôi sẽ ở lại với ông. Tôi đã nói rồi, tình yêu là một sự cố định, ông nhớ không?
Ông lại nhún vai. Tình yêu là một sự cố định. Người ta có thể gọi tình yêu là tiếng sét đánh vào nơi nào nó muốn. Nếu ông là một đứa trẻ ngu dốt nhiễm bệnh yêu đương, ông cũng không thấy mụ Costello này tốt hơn tí nào. Nhưng ông không tranh cãi với bà. Ông chán lắm rồi.
Ông đang khát. Một tách trà sẽ đã lắm đấy. Họ có thể băng qua cầu đến một quán trà bên bờ bên kia. Họ có thể trở về căn hộ ồn ào và hỗn độn. Hoặc quên chuyện trà đi và tiếp tục lần lữa bên bờ sông này cả buổi chiều, ngắm đàn chim nước chơi đùa. Chọn gì đây?
- Ông hãy kể về cuộc hôn nhân của ông đi – Elizabeth Costello nói – Ông hầu như không nói gì đến bà ấy.
- Tôi nghĩ là không – ông nói – Vì không thích hợp. Vợ tôi chẳng cảm ơn tôi đưa bà ấy làm nhân vật phụ trong những cố gắng văn chương của bà. Nhưng nếu bà muốn biết những chuyện ấy, tôi sẽ kể một chuyện trong thời gian cuộc hôn nhân của tôi không còn dính dáng đến vợ tôi. Bà có thể dùng nó minh hoạ cho tính cách của tôi hoặc không, tuỳ bà.
- Hay lắm, ông kể đi.
- Chuyện xảy ra trong thời gian tôi còn điều hành hiệu ảnh ở Unley. Tôi có hai người giúp việc, một trong hai người đem lòng yêu tôi. Thật ra, không phải yêu mà là ngưỡng mộ. Cô ta không có mưu đồ hại tôi. Chính vì thế cô ấy có thể công khai chuyện này. Một cô gái rất thông minh. Xinh đẹp nữa. Một cô gái có gương mặt tươi mát, thân hình khoẻ mạnh, sung sức, thân hình của một vận động viên bóng bầu dục. Cô ấy chẳng cần làm gì với thân hình ấy. Không phải ăn kiêng để giữ dáng, làm cho người mảnh mai.
Hồi đó tôi dạy một khoá buổi tối ở trường Bách Khoa. Dạy các nguyên lý nhiếp ảnh. Mỗi tuần ba buổi cô gái ấy đến lớp tôi. Ngồi hàng cuối và nhìn tôi đăm đăm. Chẳng ghi chép gì hết.
- Cô không thấy thế là quá đáng sao, Ellen? – tôi bảo cô ta.
- Đây là cơ hội duy nhất của em – cô ta đáp. Không hề đỏ mặt. Cô ấy chưa bao giờ đỏ mặt.
- Cơ hội duy nhất cái gì?
- Được một mình với thầy.
Cô ấy định nghĩa một mình với tôi là thế này: được tự do ngồi trong lớp, nhìn ngắm và lắng nghe.
- Tôi có một nguyên tắc: không bao giờ dính dáng với người làm công cho mình. Nhưng trong trường hợp này tôi quên bẵng. Tôi phá luật. Tôi để lại một bức thư ngắn cho cô: thời gian, địa điểm, chẳng có gì hơn. Cô ấy đến, và tôi đưa cô lên giường.
Chắc bà mong tôi nói đây là một trải nghiệm nhục nhã, cho cô ta và cho cả tôi. Nhưng chẳng có gì đáng nhục hết. Tôi cứ thế miễn được gọi đó là niềm vui. Và tôi được một bài học: cái tình yêu cần không chỉ là sự đền đáp, miễn là đủ. Cô gái ấy có đủ tình yêu cho cả hai. Bà là nhà văn, là chuyên gia tình cảm, bà có biết điều đó không? Nếu bà yêu đủ sâu sắc, thì không cần phải được yêu lại.
Bà Costello im lặng.
- Cô ấy cảm ơn tôi. Nằm trong vòng tay tôi, cô ấy khóc và thở hổn hển "Cảm ơn, cảm ơn anh, cảm ơn anh!" Mọi việc đều tốt đẹp mà – tôi nói – chẳng cần ai cảm ơn ai đâu.
Ngày hôm sau, một bức thư để trên bàn tôi "Bất cứ khi nào anh cần đến em…" Nhưng tôi không gọi điện cho cô ấy nữa.cố không lặp lại chuyện đó. Chỉ một lần là đủ để hấp thu bài học đó.
Cô ấy làm việc cho tôi thêm hai năm nữa, giữ một khoảng cách đúng mực vì tôi tỏ ra muốn thế. Không khóc lóc, không đến gần. Rồi cô ấy biến mất. Không nói một lời, chỉ không đến làm việc nữa. Tôi nói chuyện với đồng nghiệp của cô ấy – cô giúp việc kia – nhưng cô ta hoàn toàn mù mịt. Tôi gọi điện cho mẹ của cô ấy. Tôi không biết, bà mẹ nói. Ellen đã nhận việc mới và đến Brisbane làm đại lý cho một công ty dược phẩm. Nó không bảo với ông à? Không, tôi nói, đây là lần đầu tiên tôi nghe tin đó. Ồ, bà mẹ nói, nó kể với chúng tôi là đã bảo với ông và ông rất đau lòng.
- Và?
- Thế thôi. Hết chuyện. Tôi rất đau lòng: ngoài bài học về tình yêu, đây là phần tôi thú vị nhất. Vì tôi chẳng đau lòng tí tẹo nào. Cô gái tưởng tôi đau đớn vì cô ấy đã rời bỏ ông chủ chăng? Hoặc chuyện ông chủ đau đớn là chi tiết cô ấy kể với mẹ để không quá bẽ bàng?
- Ông hỏi ý kiến tôi ấy à? Tôi không có câu trả lời, Paul ạ. Lời tuyên bố rằng ông, ông chủ của cô ta đau đớn có thể làm ông thú vị, nhưng tôi thì không. Tôi thích câu cảm ơn, cảm ơn anh! Vì ông định nói với Marijana cảm ơn, cảm ơn em! Nếu cô ấy chịu thua ông? Sao ông không nói cảm ơn, cảm ơn em! Với cô gái tôi dẫn đến cho ông, người ông đã chọn vì cô ta không thể nhìn thấy ông trong tình trạng sa sút đáng buồn của ông?
- Tôi không chọn cô ta, bà mới là người đưa cô ta đến.
- Nhảm nhí. Tôi chỉ theo sự gợi ý của ông thôi. Ông đã chọn cô ta trong thang máy bệnh viện. Ông đã mơ đến cô ta. Tôi hỏi lại, tại sao ông không cảm ơn cô ấy? vì ông đã trả tiền cô ấy, nếu trả tiền rồi ông không cần cảm ơn chứ gì? ông nói cô cầu thủ bóng bầu dục của ông có tình yêu đủ cho cả hai. Ông thực lòng nghĩ tình yêu có thể đo đếm được sao? Ông tưởng tình yêu có thể cân đong như bia chắc? nếu ông mang đi một lon thì người kia được phép đến tay không? Tay không và trái tim trống rỗng? Cảm ơn em, Marijana (lần này là Marijana có j) vì đã cho tôi yêu em. Cảm ơn em vì đã cho tôi yêu các con em. Cảm ơn em vì đã để tôi tặng em tiền. Ông thực sự đần độn đến thế sao?
Ông cứng người.
- Bà đề nghị tôi kể chuyện, tôi kể cho bà một câu chuyện. Tôi lấy làm tiếc là bà không thích. Bà nói muốn nghe thì tôi kể, và chỉ nhận lại sự nhạo báng và khinh rẻ. Cái kiểu trao đổi này là gì vậy?
- Cái loại tình yêu? Ông có thể thêm vào. Tôi không nói không thích chuyện của ông. Tôi thấy nó thú vị và cũng hay hay, câu chuyện ông và cô cầu thủ bóng bầu dục của ông. Nhưng vấn đề là: tại sao ông lại chọn chuyện này để kể cho tôi hơn là các chuyện khác?
- Vì là chuyện thật.
- Tất nhiên là chuyện thật. Nhưng nếu là thật thì nó có ý nghĩa gì? chắc chắn tôi không đóng vai Chúa trời, tách cừu ra khỏi dê, gạt bỏ chuyện bịa, gìn giữ chuyện thực. Nếu tôi có một mẫu, thì đó không phải là Chúa, mà là Abbé miền Citeaux, người Pháp khét tiếng, người đã nói với các binh lính trong giáo phận của ông ta Giết hết chúng đi, Chúa sẽ biết ai là tôi con của Người.
Không Paul ạ, nếu ông kể chuyện bịa tôi cũng không hề bớt quan tâm. Những lời dối trá của chúng ta tiết lộ nhiều hơn những lời nói thật.
Bà ngừng và nhếch một bên lông mày với ông. Đến lượt ông, ông không nói gì thêm. Nếu thật và giả như nhau, thì diễn thuyết và im lặng cũng y như nhau thôi.
- Ông nhận thấy không, Paul – bà lại tiếp tục – câu chuyện giữa ông và tôi luôn sa vào một kiểu thế nhỉ? Mọi sự thuận buồm xuôi gió được một lúc. Rồi tôi nói gì đó ông không muốn nghe, thế là ông ngồi1 im thin thít hoặc quát tháo hay yêu cầu tôi đi đi. Sao chúng ta không thể vượt khỏi những trò kịch ấy? chúng ta chẳng còn mấy thời gian, cả hai chúng ta.
- Chúng ta không còn.
- Không. Dưới cái nhìn chằm chằm của Thượng Đế, trong cái nhìn lạnh lẽo của Chúa trời, chúng ta không còn.
- Đó là sự thực. Nói tiếp đi.
- Ông có nghĩ tôi thấy tình trạng này đờ khó khăn hơn cho ông không? Ông có nghĩ tôi muốn ngủ ngoài trời, dưới bụi cây trong công viên, giữa những kẻ say rượu và rửa ráy trong dòng sông Torrens? Ông không phải người mù. Ông có thể thấy tôi tàn tạ như thế nào rồi.
Ông nhìn bà, chằm chằm nghiêm khắc.
- Bà đang bịa đặt ra rồi. Bà có sự nghiệp thành đạt, bà sống sung túc như tôi, bà chẳng cần phải ngủ dưới bụi cây.
- Có lẽ thế, Paul ạ. Có thể tôi hơi phóng đại lên một chút, nhưng đây là một chuyện hay, hay cho hoàn cảnh của tôi. Vì tôi đang thử gây ấn tượng với ông, ngày tháng của chúng ta chẳng còn mấy nả, của tôi và của ông, vậy mà tôi đang ở đây, giết thời gian và chết dần chết mòn vì thời gian, đợi ông.
Ông lắc đầu thất vọng.
- Tôi không biết bà cần gì ở tôi – ông nói.
- Tiến tới! – bà nói.