Dịch giả: Nguyễn Đức Dương
THỨ BA (Đêm)
THỨ TƯ

(Rạng sáng)

Malcolm hồi tỉnh ngay. Mi mắt anh run run, và một cảm giác mơ hồ về thực tại đã trở về với trí não. Bất thần, anh cảm thấy mình phải vùng dậy. Anh chồm người ra đằng trước, đầu nghểnh cao, và lập tức va phải một cái xô mà ai đó đã đặt phòng hờ từ trước. Khi không còn chồm tới được nữa, anh cố mở to cặp mắt cay xè để hình dung xem mình đang ở đâu.
Anh chớp chớp mắt, để lau sạch nước bám trên đôi mắt kính cận thị gắn ngay trên giác mạc và thấy mình đang ngồi trên mặt sàn một gian phòng khách bài trí cực kỳ lộng lẫy. Dưới chân bức tường trước mặt là một lò sưởi nhỏ. Trên hai chiếc ghế xa-lông sang trọng, đặt ngay chính giữa khoảng trống từ chỗ anh ngồi đến cái lò sưởi ấy, chễm chệ hai gã đàn ông. Đó chính là kẻ đã nổ súng hạ sát Wandy và ông bạn đồng hành của hắn ta. Anh lại chớp mắt lần nữa. Bên phía tay phải, Malcolm nhìn thấy lờ mờ hình bóng một kẻ thứ ba, vóc người cao lênh khênh và gầy như quỷ đói. Anh định quay về phía hắn để nhìn cho rõ mặt hơn thì một kẻ nào đó, đứng ngay sau lưng, túm lấy tóc, quay ngoắt mặt anh về phía hai kẻ lạ mặt. Anh thử cử động hai tay, nhưng cả hai đều bị trói chặt sau lưng bằng một chiếc cà vạt lụa, nút buộc được giấu rất kỹ lưỡng.
Gã cao tuổi hơn trong số hai người đàn ông đang ngồi trên xa-lông trước mặt anh toét miệng ra cười. Trông cũng biết ngay là lão đang rất đắc ý.
- Cậu đấy à, Thần Ưng? – Lão nói. Rất hân hạnh được tiếp đón cậu tại “tổ ấm” của chính ta.
Kẻ ngồi bên cạnh lão xem ra rất dửng dưng, nhưng trông cặp mắt sắc lạnh của hắn, anh cảm thấy như ánh lên một vẻ tò mò, pha lẫn thích thú.
- Bọn này đã mất bao thời giờ để tìm cậu đấy, Malcolm thân mến ạ, - lão nói tiếp, - nhưng bây giờ, khi cậu đang ngồi đây, ta thậm chí còn lấy làm mừng là anh bạn Maronic của ta đây đã không hạ thủ nốt cả cậu, ngay hôm ta chạm trán với nhau trên đồi Capitol. Ta muốn hỏi cậu dăm câu đây. Có câu ta đã biết lời đáp, nhưng còn đôi câu thì chưa thật rõ. Bây giờ chính là lúc ta sẽ được nghe những lời giải đáp ấy. Cậu bằng lòng chứ?
Malcolm thấy cổ khô khốc. Tên gầy gò tức thì kề cốc nước vào môi anh. Uống xong, anh ngước nhìn hai kẻ đang ngồi trước mặt, cố mãi mới nói nên lời:
- Tôi cũng có vài câu hỏi. Tôi rất vui lòng đánh đổi để nghe những lời giải đáp của các ông.
Gã lớn tuổi đáp ngay, miệng tủm tỉm cười:
- Anh bạn thân mến ơi, rõ ràng là cậu không hiểu tình cảnh của cậu rồi. Ta cóc cần biết cậu muốn hỏi gì. Ta cũng chẳng hơi đâu mà phí thì giờ để trả lời. Vì lẽ gì ta lại phải trả lời những câu hỏi của cậu kia chứ? Chuyện đó thật vô nghĩa. Còn cậu, thì trái lại, cậu phải trả lời. Cutler, hắn đã tỉnh hẳn chưa hay mày đã quá mạnh tay với hắn rồi hả?
Tên giữ tóc Malcolm đáp, giọng trầm đục:
- Tôi nghĩ hắn đã tỉnh thật rồi đấy ạ.
Hai cánh tay rắn chắc của hắn đánh nhoáng một cái đã hất ngửa Malcolm ra sàn. Ngay lúc đó, gã gầy gò chồm tới, giữ chặt lấy chân anh. Maronic lập tức trật quần anh ra, chọc kim vào đùi, tiêm thẳng vào mạch máu Malcolm một chất lỏng trong suốt. Hắn làm nhanh và khéo đến mức một chuyên gia pháp y tài giỏi may ra mới phát hiện được vết kim tiêm bé tí ở ngay sát bẹn.
Malcolm hiểu cái gì đang chờ đợi mình. Anh cố cưỡng lại điều không thể tránh khỏi. Anh huy động hết mọi cố gắng của ý chí để bắt óc hình dung ra một bức tường gạch, cố cảm nhận được cái mùi hăng hắc của vôi vữa, hình thể của bức tường và biến cả chính bản thân mình thành một bức tường gạch ấy. Anh mất hết mọi cảm giác về thời gian, nhưng dẫu sao vẫn đạt được điều mình ao ước: bức tường gạch trở thành một thứ vật thể hữu hình có thể cảm nhận được, sờ nắn được. Một loạt câu hỏi dồn dập đổ xuống đầu anh, nhưng anh đều biến hết thảy mọi câu hỏi đó thành những viên gạch xây nên bức tường kia.
Nhưng rồi dần dà thứ “nước thánh của quỷ sứ” (1) kia đã bắt đầu gặm mòn bức tường từng ít một, ít một.
Những kẻ tra khảo anh đã tới tấp nện những nhát búa – câu hỏi vào bức tường nọ một cách rất có bài bản, đúng phương pháp: “Tên mày là gì?”, “Năm nay bao nhiêu tuổi?”, “Mẹ mày tên gì?”. Bức tường bắt đầu rạn nứt, vôi vữa bắt đầu bong ra từng mảnh một. Rồi nó vỡ dần những mảng lớn hơn: “Mày làm việc ở đâu?”, “Công việc đang làm là công việc gì?”, “Đâu là thực chất của thứ công việc ấy?”. Tiếp đến, gạch cũng long ra, hết viên này đến viên khác: “Chuyện gì đã xảy ra hôm thứ năm tuần trước?”, “Mày biết nhiều hay ít?”, “Mày đã kịp đối phó những gì?”, “Tại sao mày làm thế?”.
Malcolm cảm thấy bức tường xây sụp đổ dần. Tuy tiếc ngẩn tiếc ngơ, nhưng anh không tài nào buộc ý chí chặn đứng quá trình sụp đổ đó. Rồi, rốt cục, trí não anh mệt nhoài và bắt đầu hàng phục. Những câu hạch hỏi bất thần ngừng bặt và anh bỗng thấy mình rơi tõm vào cõi hư không. Tiếp đó, anh cảm thấy lại bị một mũi kim nhỏ tí đâm vào đùi, và cảm giác về sự trống rỗng kia tức thì nhường chỗ cho cảm giác đờ đẫn toàn thân.
Sở dĩ xảy ra tình trạng đó chung quy chỉ vì Maronic đã tính sai. Sự sơ xuất ấy, của đáng tội, rất dễ hiểu: làm sao tính đúng được liều lượng ma tuý cần dùng để đạt được hiệu quả mong muốn đối với một kẻ hoàn toàn xa lạ, mà hoạt năng sinh lý của kẻ đó hắn chưa từng biết cặn kẽ. Maronic đã lén đổ bớt đi phân nửa lượng ma tuý đựng trong cái xê-ranh mà Attwood trao cho, vì hắn đinh ninh rằng, chỉ cần chích thêm chừng ấy nữa thôi, lượng thuốc cũng đã thừa đủ để đẩy Malcolm vào tình trạng mất ý thức. Rốt cục, lượng pentotal natri chứa trong hai mũi kim tiêm đó không tước bỏ được hoàn toàn ý thức của Malcolm mà chỉ khiến anh cảm thấy đờ đẫn toàn thân.
Malcolm chỉ thiếp đi. Mi mắt anh cụp xuống, nhưng không khép lại hoàn toàn. Mọi động tĩnh bên ngoài vọng đến tai anh lúc này tựa như được lọc qua một máy tăng âm stereo chuyên khuếch đại những hồi âm. Anh nhận biết được, nhưng không thể xác định thật phân minh những gì vọng đến bên tai.
- Sao, ta thanh toán hắn thôi chứ ạ? – một giọng trầm đục thốt lên.
- Ừ, nhưng đừng làm ở đây.
- Ai sẽ ra tay?
- Giao cho Charles, vì hắn thích máu. Anh đưa con dao của anh cho hắn.
- Dao đây, ngài đưa giúp nhé. Tôi còn phải đảo qua một vòng xem có động tĩnh gì không?
Tiếng bước chân xa dần. Cửa kẹt mở, rồi lại khép ngay lại. Hai bàn tay ai đó sờ nắn khắp người anh. Bỗng một vật gì rơi đánh soát lên mặt Malcolm.
- Rõ khỉ!
Trên sàn, kế bên vai Malcolm là một mảnh giấy màu hồng phấn. Nước mắt lăn dài trên đôi mắt kính cận thị gắn chặt vào giác mạc. Tuy thế, Malcolm vẫn còn đọc được: “Chuyến No27, hãng hàng không Trans World Air lines, khởi hành lúc 6 giờ sáng”.
Cửa lại mở, rồi đóng ngay vào. Có tiếng chân bước đến gần.
- Attwood với Cutler đâu rồi?
- Ra ngoài vườn, xem thử hắn có đánh rơi gì ở dọc đường không?
- À, suýt nữa thì quên. Tôi đã dặn nhân viên bán vé để dành cho anh một chỗ rồi đấy. Phiếu hẹn đây. Nhớ tự xưng là James Cooper nhé.
Tiếng giở tờ giấy sột soạt.
- Tuyệt. Nào ta đi thôi.
Malcolm cảm thấy mình bị xốc dậy, lôi ra ngoài sân. Gió đêm mát rượi. Thoang thoảng hương hoa tử đinh hương đang kỳ rộ nở. Rồi anh bị hất lên ô tô. Ý thức anh bắt đầu hồi phục dần. Anh nhận biết các tình tiết mỗi lúc một nhiều thêm; có điều chúng vẫn không liền mạch. Anh đang nằm duỗi dài trong xe, ngay dưới chỗ để chân của hàng ghế sau. Một đôi giày cao cổ nặng trịch đè lên lưng. Xe bắt đầu chuyển bánh, loanh quanh hồi lâu trên một lối đi gập ghềnh. Mãi sau, xe mới đỗ lại. Động cơ câm bặt. Rồi cửa xe mở rộng ra.
- Charles này, cậu mang hắn vào rừng, lên trên ngọn đồi ở mãi tít trong kia, cách đây chừng dăm chục mét, được chứ? Để tôi về lấy xẻng mang ra. Chờ tôi quay lại đã nhé. Tôi muốn hai chúng mình sẽ cho hắn được về thăm ông bà ông vải theo một nghi lễ đặc biệt khác thường.
Charles cười ồm ồm trong cổ họng:
- Khỏi lo đi!
Malcolm thấy mình bị xốc lên, đặt trên một bờ vai xương xẩu, đưa đi trên một lối mòn mấp mô – thân thể chưa hoàn toàn hồi phục cảm giác của anh bị dồi lắc như đang ngồi trong một khoang thuyền giữa lúc biển động. Những cú thúc đường đột điếng người khiến cho cảm giác của anh nhanh chóng phục hồi. Khi gã cao kều lẳng anh xuống đất, thì Malcolm đã tỉnh hẳn. Người anh vẫn đờ đẫn nhưng trí óc hoạt động trở lại bình thường và mắt bắt đầu nhìn mọi vật rõ hơn. Dưới ánh sao khuya lung linh, anh nom rõ cái miệng mở rộng của gã cao kều. Anh đưa mắt nhìn quanh, cố tìm bằng được đâu là nơi phát ra những tiếng “phặp, phặp” kỳ quặc – tiếng gã cao kều mở ra đóng vào luôn tay con dao xếp tự động một cách nôn nóng.
Chợt nổi lên tiếng cành cây gãy răng rắc và tiếng lá khô lạo xạo dưới đế giày của ai đó đang rón rén bước đi. Người có vẻ ngoài dễ gây ấn tượng hiện ra ở rìa bãi đất trống giữa rừng. Hắn cầm bên tay trái một ngọn đèn lồng. Ánh đèn rọi xuống mặt Malcolm khi anh thử cố ngóc đầu lên. Cánh tay phải của hắn buông thỏng dọc đùi. Giọng nói lảnh lót của hắn buột ra, khiến Malcolm thôi ngay, không thử ngồi dậy nữa.
- Thần Ưng của chúng mình ra sao rồi? Vẫn sống đấy chứ?
Gã cao kều sốt ruột đáp ngay:
- Vâng. Nhưng anh Maronic này, hắn sống hay chết lúc này có gì là quan trọng đâu. Kể cũng lạ, mới chích mấy mũi thuốc xong, thế mà hắn đã tỉnh lại được. – Gã cao kều nín lặng, đưa lưỡi lên liếm cặp môi khô khốc. – Anh đã sẵn sàng chưa đấy?
Ánh đèn di chuyển và chiếu thẳng vào khuôn mặt khát máu của Charles. Maronic hạ giọng đáp:
- Rồi, xong cả rồi đây.
Nói chưa dứt lời, hắn đã giơ tay phải lên, dí khẩu súng ngắn có lắp ống giảm thanh vào giữa ức gã cao kều nọ.
Viên đạn xuyên qua ngực Charles, đâm thẳng vào xương sống hắn. Charles bị hất ngửa ra đằng sau. Hắn chới với trên hai gót chân, rồi nặng nề khuỵu gối xuống và ngã vật ra đất. Maronic chậm rãi bước lại gần cái xác bất động, dài ngoẵng, mặt úp sấp ở sát bên chân Malcolm. Hắn bồi thêm một phát nữa vào đầu, - cho chắc ăn hơn!
Đầu óc Malcolm vẫn còn chưa tỉnh táo hẳn. Anh không thể nào tin vào mắt mình. Maronic đã lại đến bên anh, bước chậm rãi. Hắn cúi xuống, kiểm tra những nút dây trói trên cổ tay và cổ chân anh. Thấy ưng ý rồi, hắn liền ngồi xuống một súc gỗ, cứ như đã được ai đó kê sẵn cho hắn, tắt ngọn đèn lồng rồi lên tiếng:
- Nào, ta trò chuyện với nhau dăm ba câu chứ nhỉ? Anh bạn là kẻ tình cờ bị lâm vào thế kẹt và đã vùng vẫy mù quáng để trốn thoát, bất chấp hết thảy mọi thứ. Tớ phải thú thật cùng cậu là những gì xảy ra trong năm ngày vừa qua đã khiến tớ, một tay anh chị trong nghề, phải ngả mũ bái phục cậu, như bái phục một cao thủ ngang tài. Tuy thế, cái đó chẳng hề ảnh hưởng gì đến dự tính của tớ: tạo cho cậu một cơ hội để thoát thân, thậm chí còn hơn thế nữa – để trở thành một đấng anh hùng.
Đầu đuôi câu chuyện chỉ thế này thôi. Năm 1968, để giúp đỡ cho một chính phủ chống cộng ở Lào, đang bị bao vây, cơ quan CIA đã quyết định đứng ra nâng đỡ cho một số bộ tộc miền núi người Mẹo, chuyên sống bằng nghề buôn lậu ma tuý, để đám thổ phỉ ấy gia tăng những hoạt động quấy nhiễu hậu phương của bọn cộng sản. Mặc dù chiến sự đang xảy ra rất ác liệt tại vùng đó, nhưng các tốp buôn thuốc phiện, xưa nay từng kình địch nhau, vẫn sát phạt nhau không chút nể nang. Người của ta đã cấp cho một trong những tốp phỉ đó một vài máy bay vận tải, giúp bọn họ chở thuốc phiện nguyên khai đến các nơi tiêu thụ, theo những đường bay thương mại hợp pháp. Nhưng theo tớ thì nhiều vị tai to mặt lớn ở ta rỏ ra rất bất bình: lẽ nào chính phủ Hoa Kỳ lại đi nhúng tay vào việc khuếch trương thứ mặt hàng bẩn thỉu nọ?
Cậu còn lạ gì, buôn thuốc phiện là một nghề rất chóng giàu. Nhóm chúng tớ, nhiều đứa cậu đã gặp rồi đấy, liền quyết định: đừng nên bỏ lỡ dịp may; phải chớp ngay lấy thời cơ, để kiếm thêm tí đỉnh, cho bỏ cảnh băng rừng lội suối mà! Thế là bọn tớ chia tay nhau đi mua gom thuốc phiện nguyên khai loại thượng hạng trên thị trường chính thức, rồi tung đi các nơi kể cả Tây Âu và nước ta, bằng những con đường khác. Công sức chúng tớ bỏ ra quả đã được đền bù xứng đáng.
Hồi mới đầu, tớ không tán thành lắm cách làm ăn của Attwood. Thay vì bán ngay nguyên liệu ở Thái Lan cho các cơ sở chế biến tại đấy, mà kiếm chút ít lời lãi phải chăng thôi, thì lão cứ nằng nặc đòi phải chở thuốc phiện bánh sơ chế kia về thẳng Mỹ, bán chúng cho những giới kinh doanh bên ta, vốn không muốn qua nhiều tay trung gian. Những khoản tiền lãi bạc triệu đã giúp lão thắng cuộc. Thế là chúng tớ buộc phải dùng đến ngày một thường xuyên hơn các đường dây liên lạc bí mật của CIA.
Tiểu ban của cậu, sở dĩ được bọn chúng tớ ưng ý là vì hai lẽ. Một là, chúng tớ đã doạ nạt được gã thủ quỹ, - cái gã trước kia cơ, chứ không phải Heidegger đâu, - buộc hắn phải quy hàng. Hai là, chúng tớ cũng đã mua chuộc được một gã kế toán khác; hắn bằng lòng làm trò quỷ thuật với hoá đơn mua sách và nhập sách. Nhờ thế, toàn bộ các vụ mua bán ma tuý của tớ đều thuận buồm xuôi gió. Vậy là bọn tớ bắt đầu ung dung chuyển thuốc phiện về Mỹ bằng các thùng sách báo tuyệt mật của CIA, chẳng sợ gì chuyện khám xét của bọn hải quan. Đến nơi, gã nhân viên của chúng tớ tại cơ sở Seattle cứ việc đàng hoàng mở hòm ra, chuyển những thứ chở bên trong cho đám buôn ma tuý trong nước. Nhưng những chi tiết ấy chẳng có liên quan gì đến chuyện hôm nay cậu đã mò đến đây.
Kẻ khai mào cho toàn bộ chuyện này là gã Heidegger, bạn cậu. Khiếp, người đâu mà tò mò kinh thế không biết! Để loại trừ khả năng có thể bị ai đó phát giác những điều khả nghi ấy, chúng tớ buộc lòng phải thanh toán Heidegger. Để lấp liếm vụ án mạng đó và đề phòng chuyện Heidegger đã bô bô cái mồm với đám đồng sự, bọn này cũng buộc phải thủ tiêu toàn bộ tiểu ban cậu. Nhưng run rủi thế nào không biết, cậu lại thoát nạn.
Malcolm đặng hắng:
- Thế tại sao anh lại tha chết cho tôi lần này?
Maronic cười:
- Vì tớ biết tường tận chân tướng lão Attwood. Lão còn mất ăn mất ngủ, chừng nào tớ và bọn cộng sự của tớ đây còn sống. Chúng tớ là những nhân chứng duy nhất có thể khai ra sự dính líu của lão với vụ buôn bán này mà! Dĩ nhiên là phải trừ cậu ra. Đằng nào thì bọn này cũng phải chết thôi. Bây giờ, Attwood chắc đang nát óc tìm cách tẩy bọn tớ đấy. Lão định sáng mai sẽ tung bọn này vào cuộc đánh thó mấy lá thư của cậu gởi ở đằng nhà băng đây. Tớ dám đánh cuộc một nghìn ăn một là bọn tớ sẽ không một mống nào sống sót, - vì nếu không bị bắn vỡ sọ trong vụ “ăn cướp” ngân hàng, thì cũng nát xương trong một “tai nạn” xe hơi nào đó dọc đường. Hoặc chỉ đơn giản là “mất tích”. Attwood bao giờ cũng làm ra vẻ ngây ngây, dại dại, nhưng thực ra hắn chẳng ngờ nghệch chút nào đâu.
Malcolm nhìn cái bóng đen đổ dài trên mặt đất ngay bên cạnh mình.
- Dẫu sao tôi cũng chẳng hiểu, vì lẽ gì mà anh lại giết Charles.
- Ồ, tớ cũng muốn xoá dấu vết, thế thôi. Hắn là gánh nặng nguy hiểm của tớ. Đối với tớ thì những lá thư của cậu hoàn toàn vô nghĩa. Lai lịch của tớ thì cả CIA lẫn FBI không cơ quan nào là không biết rõ. Tớ chỉ việc lặng lẽ chuồn sang đâu đó bên Cận Đông, thế là xong. Một tay anh chị như tớ đây, thì ở đâu mà chẳng sống được?
Nhưng thú thật là tớ không muốn vào một ngày đẹp trời nào đó, vừa mới ló mặt ra góc phố, đã chạm trán phải một tốp điệp viên Mỹ đứng chờ. Vì thế, tớ muốn tặng lại cho tổ quốc một món quà, hy vọng là họ sẽ cư xử với tớ như với một con chiên ghẻ lạc đàn đã tỉnh ngộ, chẳng hơi đâu mà phải cất công lùng bắt nữa. Món quà tiễn biệt đó là lão Robert Attwood. Tớ tha chết cho cậu chẳng qua cũng chỉ vì lẽ ấy. Hơn nữa, cũng muốn tạo cho cậu một dịp để trang trải sòng phẳng món nợ riêng với ngài Attwood. Chính lão là kẻ đã gây cho cậu những đau khổ trong suốt năm ngày qua đấy. Vì xét cho cùng, chính lão ta phải chịu trách nhiệm về tính mạng của tất cả từng ấy con người. Còn tớ đây thì chẳng qua là kẻ thừa hành – thân phận tớ thì cũng chẳng khác gì thân phận cậu đâu, Thần Ưng ạ. Tớ rất lấy làm ân hận vì đã trót nhỡ tay với cô bạn cậu mới quen. Nhưng cậu nghĩ xem, tớ đâu còn con đường nào khác. Trâu bò đã húc nhau, ruồi muỗi tránh sao khỏi chết?
Malcolm lặng thinh hồi lâu. Mãi anh mới lên tiếng.
- Thế anh dự tính sẽ làm gì nay mai?
Maronic đứng dậy. Hắn vất con dao xuống bên chân Malcolm. Đoạn lại tiêm thêm cho anh một mũi thuốc nữa. Giọng hắn trở nên hết sức dửng dưng, chẳng còn lấy một mảy may tình cảm:
- Đấy là một thứ thuốc tăng lực cực mạnh. Nó dựng được dậy cả những ai đã tắt thở đến hàng năm, bảy tiếng đồng hồ. Nó sẽ tiếp thêm sức cho cậu, để cậu còn trang trải nợ nần với lão Attwood. Lão già thật đấy, nhưng vẫn còn rất nguy hiểm. Cởi trói được rồi, cậu cứ quay ngay lại cái chỗ rừng thưa mà bọn tớ đã đỗ xe ban nãy. Nếu nhỡ có quên thì cũng đừng lo: đó cũng chính là cái bãi đất trống mà cậu đã dùng trước lúc trèo vào dinh cơ lão già ấy thôi. Ở trên ghế sau, tớ đã để sẵn mấy thứ, hẳn sẽ được việc cho cậu lắm đấy. Xe, cậu cứ đỗ ở bên cổng, rồi đi vòng ra phía sau nhà mà vào. Nhớ là phải trèo lên cây, chui qua cửa sổ, để lọt vào bên trong. Cửa ấy không khoá đâu. Rồi, muốn tính nợ thế nào với Attwood tuỳ thích. Nếu nó hạ được cậu, thì đã có những lá thư kia, với mấy cái xác chết chôn đó kết tội lão. Muốn tránh, lão cũng chẳng tránh được nào!
Maronic cúi nhìn cái xác đang nằm sóng xoài dưới chân Malcolm.
- Vĩnh biệt nhé, Thần Ưng. Này, nhớ lấy lời khuyên cuối cùng của tớ đây: từ giờ về sau, cứ tiếp tục làm nghề nghiên cứu là thượng sách. Mọi cơ may mà trời ban cho cậu, thế là cậu đã “xài” sạch cả rồi. Đừng có dại mà đâm đầu vào những điệp vụ phải dùng đến súng, đến dao. Khoản đó, xem chừng chẳng hợp với cậu lắm đâu.
Vừa dứt lời, Maronic đã biến ngay vào bóng đêm dày đặc trong rừng.
Vài phút sau, giữa cảnh đêm khuya thanh vắng, bỗng vang lên tiếng động cơ ô tô. Rồi tiếng máy tắt dần. Malcolm bò đến bên con dao xếp, cách chỗ anh nằm chừng vài bước chân.
Phải mất gần nửa tiếng, mấy đoạn dây trói mới được cởi bỏ. Hai lần, lưỡi dao đã phạm vào da, nhưng may thay, cả hai vết thương đều không sâu lắm, nên chỉ vừa ngừng tay là máu đã cầm ngay lại…
… Rốt cục, anh cũng tìm được chỗ đỗ xe. Bên hông xe đã dán sẵn một mẩu giấy. Cạnh cửa xe là xác của Cutler, với một phát súng bắn vào lưng. Hắn nằm cuộn tròn dưới đất, trong một tư thế rất gò bó. Mẩu giấy chắc đã được viết lúc gã cao kều vác Malcolm vào rừng. Chỉ nguệch ngoạc mấy chữ: “Súng ngắn của cậu, nòng đã bị nhét đầy bùn. Khẩu cac-bin có 10 viên đạn. Hy vọng là cậu biết “xài” thứ đó!”
Khẩu cac-bin đặt sẵn trên ghế sau. Đây là một thứ súng để tập bắn, cỡ nòng 0,22. Trước, Cutler vẫn dùng nó để bắn bia. Maronic để nó lại cho Malcolm, vì hắn nghĩ: bất kỳ ai, dù là chưa mò đến súng đạn bao giờ, cũng sẽ dễ dàng dùng được thứ vũ khí cực kỳ đơn giản này. Ngoài ra, hắn còn để thêm một khẩu tiểu liên có lắp ống giảm thanh, ngay bên cạnh. Thằng cha cẩn thận thật! Malcolm bóc mẩu giấy, rồi lên đường ngay.
Malcolm cảm thấy đã bắt đầu ngấm thuốc, khi anh đỗ xe lại bên cỗng nhà Attwood. Nhịp đập dập dồn của mạch máu từ hai bên thái dương đã dịu đi. Đầu đã nhẹ bớt, cái đau trên toàn thân đã lắng xuống. Anh thấy người tràn trề sinh lực và đầy tự tin. Tuy thế, anh thừa biết: gì thì gì chứ cũng chớ nên khinh suất, quá tin vào công hiệu của liều thuốc tăng lực mà Maronic mới tiêm cho.
Anh dễ dàng trèo lên gốc sồi sau nhà. Cửa sổ đúng là không khoá. Hạ khẩu cac-bin trên vai xuống, anh dí nòng súng vào khung cửa, đu khẽ. Cánh cửa mở ra ngay. Đoạn anh lên đạn, rồi trèo vào.
Malcolm rón rén lần từng bước một trên tấm thảm quý trải dọc hành lang. Đến đầu chiếu nghỉ cầu thang, Malcolm đã nghe rõ mồn một những giai điệu hùng dũng trong bản ouverture(2) Năm 1812 của Tchaikovsky, vọng lên từ dưới căn phòng bọn họ tra khảo anh ban nãy. Anh cũng nghe rõ cái giọng quen thuộc của chủ nhà, chốc chốc lại hát đệm theo những đoạn hùng tráng nhất của bản nhạc. Anh lần theo từng bậc một rón rén xuống cầu thang.
Khi Malcolm bước vào phòng thì Attwood đang đứng quay lưng về phía cửa. Lão đang mải chọn đĩa hát trên cái giá gắn vào tường. Rồi lão cầm lên bản giao hưởng số năm của Beethoven.
Malcolm lặng lẽ gạt chốt an toàn, rồi giương súng lên ngắm. Phát đạn trúng đích: nó đâm thẳng và đầu gối bên phải của Attwood.
Mắt lão đầy vẻ kinh hoàng và đau đớn, khi lão quay ngoắt lại và nhìn thấy Malcolm đang sắp sửa nổ tiếp phát thứ hai. Lão rú lên lúc phát đạn tiếp theo xuyên vào đầu gối bên kia. Mồm lão méo xệch, lộ rõ vẻ đau xót, như cất lên tiếng hỏi không thành lời “Sao lại thế này?”.
- Câu hỏi ấy thật không đúng chỗ. Tôi muốn ông không được đi đâu trong chốc lát, khi tôi đang còn phải lo liệu mọi chuyện.
Malcolm bắt đầu hành động một cách hết sức dứt khoát. Đầu tiên, anh lấy khăn bàn, băng ngay hai vết thương đang còn rỉ máu trên chân Attwood. Đoạn, anh trói nghiến hai tay lão vào chân chiếc bàn con để báo chí, đặt bên cạnh chiếc đi-văng lộng lẫy, rồi lao nhanh lên gác, lục soạn lung tung mọi thứ trong mấy gian phòng trên ấy, để giải thoát bớt những sức lực đang thừa thãi trong người. Phải cố sức lắm, anh mới bắt được mình bình tĩnh lại chút đỉnh. Anh chợt nghĩ bụng: “Maronic tiêm cho mình ống thuốc thế mà lại hoá hay”. Attwood, kẻ đã tính liệu sắp đặt cho toàn bộ chiến dịch, chỉ huy việc tiến hành nó và là “linh hồn” của cả bọn, thì lúc này đang không bị gì đe doạ đến tính mạng cả, nhưng lại quằn quại vì đau đớn ở dưới kia. Bọn lâu la đã bị thanh toán cả rồi. Kẻ độc nhất còn sống sót là Maronic. Maronic là đứa giết người thuê, Malcolm bỗng nhớ lại giọng nói của những nhân viên nhà nghề ở đầu đường dây “Báo động”, những người cũng y hệt như Maronic vậy. “Không, - anh nghĩ bụng, - cuộc săn lùng từ trước đến giờ chỉ nhắm vào mỗi một mình mình. Vấn đề đặt ra chỉ có thế này: họ chống lại mình, họ hại mình. Hơn nữa, việc Maronic giết Wandy càng làm cho toàn bộ câu chuyện mang tính riêng tư đậm nét thêm. Đối với đám dân nhà nghề thì đó chỉ là công việc làm ăn, không hơn không kém. Họ không xúc động mảy may về những hậu quả do họ gây nên”. Thế là những tình tiết mù mờ đã bắt đầu gắn kết lại với nhau, hình thành nên một kế hoạch hành động cụ thể, phù hợp với những ý định tức thời của chính anh. Anh hối hả chạy vào phòng ngủ của Attwood, cởi hết quần áo đang mặc trên người, lôi bộ quân phục choáng lộn của Attwood treo trong tủ ra diện vào. Đoạn, anh rẽ xuống bếp, ăn vội vàng một cái đùi gà quay nguội ngắt và một chiếc bánh ga-tô, rồi lại mải mốt trở lại căn phòng khách của Attwood, giữa lúc lão đang nằm rên rỉ dưới sàn. Malcolm hối hả đảo mắt nhìn quanh gian phòng một lượt, rồi chạy như bay ra xe, phóng vút đi…
… Malcolm ra đi được một lúc rồi, lão Attwood vẫn còn nằm yên trên sàn, bất động. Mãi sau, lão mới bắt đầu chậm chạp lết đi, lôi theo cả chiếc bàn con. Nhưng sức lão cứ kiệt dần, kiệt dần… Tất cả những gì lão làm được lúc đó chỉ là cố khều cho cái khung ảnh đặt trên bàn rơi xuống. Nhưng cái khung, ác thay, lại rơi ngửa: tấm kính không chịu vỡ ra. Lão chẳng còn biết lấy gì để cắt mảnh khăn bàn đang buộc chặt hai tay. Bây giờ, lão đành phó mặc tính mạng cho số phận…
Thân thể lão đã đờ đẫn, bất lực. Lão chẳng còn biết làm gì khác hơn là nằm chờ cái kết cục không thể tránh khỏi đang đợi mình ở phía trước. Lão liếc nhìn tấm ảnh trong khung và não nuột thở dài. Đó là ảnh của chính lão: một quân nhân vẻ ngoài đường bệ, mặc bộ lễ phục choáng lộn của sĩ quan hải quân Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Chú thích:
(1) Tiếng lóng, ám chỉ dung dịch Cô-ca-in mà dân nghiện ma tuý vẫn chích vào máu.
(2) Ouverture: khúc nhạc mở đầu của một bản kịch.