Truyện thứ hai
Ba Miệng Giếng Thần

Ở phố cổ Hội An, bình thường vẫn đông đúc nhộn nhịp là thế nhưng hiếm có ai biết, một số người vẫn giữ một tập tục kỳ quặc cho riêng mình.
Trước đây, khi các lễ hội xưa cũ vẫn còn được giữ gìn, bà con quanh vùng thường lui tới một gốc đồi xấu xí và xa lạ. Một số người không tham gia lễ hội mà chỉ muốn viện cớ để ra khỏi nhà, tìm đến nơi đó. Vào dịp lễ trăng rằm, trung thu, dân tình náo nức đi trẩy hội, cả người tây lẫn người ta đều vui vẻ diện đồ dạo phố. Chung quanh con đường chính, chỗ nào cũng bày lồng đèn đỏ, trắng, đủ các màu sắc lấp lánh bắt mắt khác nhau. Nhưng với một số người lập dị, họ không làm thế, họ ra khỏi nhà vào buổi hoàng hôn và chỉ trở về lúc nửa đêm tối mịt. Ai hỏi thì họ chỉ cần đáp:
“tôi đi chơi hội, chỉ về hơi muộn một tí mà đã…”
Nhưng hầu hết không ai hỏi, và họ cũng mau chóng cho qua chuyện đó, không bao giờ nhắc lại cho đến lễ hội tiếp theo…
 
Trong vùng sâu hút, một số ngôi nhà xập xệ, cũ nát vẫn còn nằm đó từ cái thời nảo thời nào. Người dân ở đây không muốn xây lại, chẳng đời nào họ muốn đổi kiểu sống của nhà mình, kể cả khi họ có một cái cửa chính bằng gỗ sắp trật bản lề tới nơi rồi, thậm chí còn có cái văng cả mấu chốt ra nữa. Ấy vậy mà những người chủ ngoan cố và hết sức hoài cổ đó vẫn một mực không chịu bỏ một xu nào ra để sửa chữa hoặc trang hoàng lại ngôi nhà của mình. Đến một lúc, ngay cả những người sống trong nhà đó cũng phải lên tiếng trách móc
“Ông có lẩn thẩn không đấy? trời sắp có bão mà ông vẫn cứ để cái mái tôn cũ xì ấy à?”
“Bà thì biết cái gì? nhà này mà đổi thì cứ đi mà húp cháo”
Rốt cục thì chẳng cái nào trong số những ngôi nhà đó được tu sửa, nhưng ai mà quan tâm cơ chứ? Miễn là họ vẫn còn đủ tiền để trả các khoản điện, nước dân sự, còn thì chẳng ảnh hưởng gì đến các khu phố du lịch xinh đẹp ngoài kia, cứ thế là phận ai nấy sống.
 
Nguyên nhân của tất cả các sự việc này bắt nguồn từ một truyền thống xa xưa của tổ tiên. Hễ đến dịp hội lễ là bà con lại kháo tai nhau đi “nguyện thần linh” trên ngọn đồi trống phía tây. Ở đó có một cái giếng cổ, bình thường nhìn vào chỉ thấy đó là một cái giếng cạn, nhưng thấy ai thành tâm, nó lại chảy ra một nguồn nước trong veo, uống thứ nước đó thì muốn tài có tài, muốn lộc có lộc, cầu gì được nấy. Nhưng từ trước đến giờ chẳng thấy ai thực gì cầu gì được nấy cả. Kể cả những người đi “cầu” thường xuyên nhất. Dù rằng nhiều khi, có những lời kháo tai nhau như:
“bà biết sao không? Tôi nghe nói bà Chín nhà xóm bên vừa đi cầu thần về đấy!”
“thế à, thế có được gì không?”
“được quá chứ lại, đã bảo giếng thần cơ mà”
“thế bà ta ước cái gì?”
“bà ta ước có một đứa con trai, thế có được không?”
“không biết, nhưng mà hình như vừa đi bệnh viện về, mừng lắm”
 
Có đúng hay không, đó là một vấn đề, nhưng chả cần làm rõ hoặc bới móc sự thật. Càng lúc lời đồn về cái giếng cạn càng lan mạnh, đến nỗi bây giờ, nó đã là một cái lệ. Hễ đến mùa trăng tròn, người ta lại lũ lượt đi “cầu giếng”, cầu cho sự khát khao vô vọng…
 
Nhà bà Mai không có con cái, bà ta nhận nuôi một cô bé ở trại mồ côi về làm con gái. Bà đặt tên cho bé là Hiền, coi như con đẻ. Hiền từ nhỏ đã xinh đẹp và tháo vát, thông minh hơn người. Em được mẹ nuôi cho ăn học đàng hoàng, lớn lên trong tình thương đầm ấm, không bao giờ em phải biết đến cực nhọc. Nhà bà Mai tuy không giàu có, tiền muôn bạc vạn nhưng cũng thuộc dạng dư giả và có đồng ra đồng vào. Bà Mai sống bằng nghề kinh doanh hàng may mặc truyền thống, bán cho du khách nước ngoài đi chơi phố cổ. Làm nghề này cũng an nhàn, bà Mai không mong ước nhiều. Từ khi có con gái để nuôi, bà càng vui hơn và yêu cuộc sống hơn.
Nhưng rồi một ngày, bà mắc một căn bệnh lạ và quái quỷ. Đó là năm Hiền học lớp mười, em vừa tròn mười lăm. Cái tuổi trăng rằm không tạo được cho em niềm vui nào đặc biệt mà còn gây cho em một nỗi buồn không biết cất đâu cho hết. Năm đó, nhằm ngày thu mưa bão, có một gia đình người Hoa sang chơi dạo phố. Như buổi thường, khách khứa thường dừng lại ở nhiều cửa hàng vải vóc để xem và mua hàng làm kỷ niệm, người nào cũng mua một hay hai món gì đó sau khi đã ghé thăm nhiều lượt hàng quán. Nhưng gia đình người Hoa này chỉ ghé mỗi cửa hàng quần áo may sẵn của bà Mai. Không biết điều gì khiến họ chú ý đến cửa hàng của bà, nhưng bà cũng không quan tâm lắm. Bà cứ để khách tự nhiên xem hàng và lựa chọn. Hiền lúc đó cũng đang rảnh và giới thiệu hàng cho khách hộ mẹ. Gia đình đó gồm ba người, có lẽ là cặp vợ chồng với đứa con lớn. Đứa con gái cũng trạc tuổi Hiền, nó cao và có đôi mắt sắc sảo. Họ không nói gì nhiều nhưng theo Hiền thấy thì họ cũng biết nói đôi chút tiếng Việt.
Một lúc lâu sau, bà mẹ bước tới hỏi bà Mai:
“tôi muốn mua cửa hàng này, bà có bán không?”
“xin lỗi” Bà Mai hơi ngạc nhiên và tưởng bà này đang hỏi đùa
“tôi muốn mua cửa hàng này, bà có bán không?” Bà ta lập lại
“tôi không bán nhà” Bà Mai cười rồi phẩy tay
“tại sao?”
“bà muốn mua gì ạ?” Bà Mai bắt đầu thiếu kiên nhẫn trước màn đùa dai
Bà kia không nói nữa, lại lặng lẽ đi tìm ông chồng của mình… Bà Mai có vẻ không thích những vị khách này lắm, họ hơi lạ và khó chịu. Bà gật đầu với Hiền có ý để Hiền đón khách vì bà nghĩ chắc họ chẳng có ý định mua gì đâu. Nhưng trước khi bà vào nhà trong, cô con gái thình lình xuất hiện bên cạnh, liếc đôi mắt sắc lẻm nhìn bà:
“bà có muốn bán cửa hàng này không, mẹ tôi sẽ mua với giá rất cao”
“tôi không có hứng, cô trẻ ạ” Bà Mai sẵng giọng và ra hiệu cho cô ta tránh đường
Cô con gái ngừng lại một chút rồi cười khẩy
“trước đây, bà đã ước có một đứa con gái, đúng không?”
Bà Mai sững người trước câu nói này của cô gái lạ. Cô ta cười giảo hoạt và bỏ đi trước khi bà Mai kịp hỏi lắp bắp:
“tại sao cô biết?”
 
Hiền đứng từ xa và tiếp tục giới thiệu hàng hóa cho khách, không hề để ý tới vẻ mặt của bà Mai. Một lúc sau, những người khách đi khỏi mà không mua được một món gì. Hiền chắt lưỡi ngán ngẩm rồi phụ mẹ dọn dẹp.
Từ sau hôm đó, bà Mai đổ bệnh. Không ai biết bà bị bệnh gì, chỉ nghe nói là bà chỉ nằm một chỗ, không ăn uống được nhiều và thỉnh thoảng ói mửa vào lúc gà gáy. Căn bệnh kỳ lạ kéo dài gần hơn một tháng. Hiền buồn bã khi các bác sĩ trong thành phố lần lượt lắc đầu trước căn bệnh của bà Mai. Công việc buôn bán càng ngày càng khó khăn, tiền tài eo hẹp tới mức khủng hoảng. Bệnh của bà Mai ngày càng trầm trọng hơn, Hiền đành bạo gan đi làm thêm cho nhà của một gia đình khác…
Trên con đường mòn dẫn đến ngôi nhà người bạn, Hiền cảm thấy không an tâm lắm. Cửa hàng buộc phải đóng cửa vì không có ai trông coi, buổi sáng Hiền còn liều đem các món đồ trong cửa hàng trên trường rao bán. Giờ thì Hiền bắt đầu đến xin phụ giúp việc vặt cho một ngôi nhà cổ qua sự giới thiệu của cô bạn gái thân thiết trên lớp. Cô bạn nói là nhà này đang cần một người phụ việc, Hiền hoàn toàn đủ tiêu chuẩn để người nhà ấy nhận vào. Nói gì thì nói nhưng Hiền không hề thích thú chút nào, dẫu sao thì đây cũng là lần đầu tiên cô bé phải đi làm người giúp việc, lại còn phải đi đến một nơi xa lơ xa lắc nữa. Nhìn hàng cây rậm rạp ven đường mà Hiền muốn rợn cả da gà. Chỉ vì cô bạn bảo làm ở đây được trả lương rất hậu nên cô bé mới dám đi.
Cuối cùng thì cũng đến, ngôi nhà xi măng cũ xì xì như được xây từ trước công nguyên ấy. Chưa bao giờ Hiền thấy cái cổng nhà nào quái dị và cổ lổ sĩ như cái ở nhà này, nó cong queo và rỉ sét, kiểu này thì trộm vào dễ như chơi. Nhưng nội cái vẻ sầu thảm của ngôi nhà cũng đủ làm các tay trộm mạt rệp nhất cũng phát ngại ngùng khi có ý định đột nhập. Căn nhà ở ngoài nhìn vào trông như một cái chuồng gà khổng lồ, đây đó có chắp vá thêm vài cái hốc khác như chuột ở. Nhìn chung thì gia chủ dù muốn dù không cũng sẽ tạo cho khách khứa một cảm giác cực kỳ dễ khủng hoảng tinh thần. Hiền tự hỏi ai mà dám đến đây chúc tết nhỉ? Thôi cứ phải vào xem thế nào đã.
Ngôi nhà không có chuông cửa mà cài một cái chén trước cổng, bên cạnh có một cái muổng nhỏ. Hiền rút cái muỗng ra đánh một cái cheeng lên chén. Cô bé hơi nghi ngờ về độ vang của kiểu chuông cửa này, dám đây là cách mà mấy người điếc bẩm sinh hay dùng để thách thức nhau lắm. Ấy vậy mà cũng có một ông chú tất tả chạy ra đón khách. Trông ông ta hiền và có khuôn mặt nhân hậu. Ông cười với Hiền và mời cô bé vào nhà. Sau khi hỏi han, ông ta chấp nhận Hiền vào làm việc ngay, nhưng với điều kiện, cô bé phải thuộc một số nguyên tắc trong nhà.
Gớm, Hiền vừa đi vừa tự nghĩ thầm, nhà cửa lập dị mà cũng nhiều nguyên tắc ra phết. Cô bé vừa đi vừa tự nhẩm thầm trong bụng những lời nói mà người đàn ông vừa bảo. Hiền có thể làm việc từ lúc hai giờ đến cỡ hoàng hôn. Cô bé chỉ làm những việc được sai và cấm tiệt không được làm những thứ không được bảo phải làm. Ngoài ra cô bé cần giữ cho con chó mực ngoài vườn không được bước chân vào nhà trong, và ngay cả bản thân cô bé cũng không được đi vào nhà trong quá sâu mà không có ai đi kèm. Gia đình đó chỉ có một cụ già và hai vợ chồng sinh sống, ngoài ra không có con nít và người lạ trong nhà.
 
Ngày đầu tiên làm việc, Hiền thấy cũng ổn, bà chủ sai gì làm nấy, không bảo thì không đụng vô. Công việc không nặng nhọc lắm vì dù sao Hiền cũng siêng năng và quen sửa soạn việc nhà với mẹ nuôi. Bảo cô bé quét nhà rửa chén thì dĩ nhiên, đó chẳng phải là cái gì nặng nhọc. Nhưng không hiểu sao, con chó mực cứ bị xích cổ ở ngoài vườn, con chó nhìn có vẻ thông minh nhưng đôi mắt cứ ươn ướt, nhìn đến là tội. Nó nằm dài trong một hốc, cho ăn chẳng ăn, cho uống chẳng uống. Chỉ lười nhát nhìn vào trong gốc nhà sau. Hễ có dịp nhìn thấy Hiền đi qua đi lại là nó lại rên ư ử, xin được mở xích ra một tí. Nhưng Hiền nào dám bước qua mặt con chó, cô bé chỉ chăm chăm làm cho xong việc rồi về ngay với mẹ. Bà đang ốm ơi là ốm ở nhà.
Điều lạ là mỗi khi bà chủ cho Hiền cái gì mang về cho mẹ ăn là sáng đó bà không ói mửa nữa, ngược lại còn khỏe ra thêm một tý. Hiền kể lại với bà chủ nghe, bà ta chỉ cười mà không đáp. Hiền cũng không muốn nói nhiều, tính của cô bé là không muốn làm phiền những người xung quanh, hễ họ không có ý muốn làm gì hay trò chuyện về một với vấn đề gì với Hiền, cô bé lại thôi không nói nữa.
Chẳng mấy chốc Hiền đã làm việc cho gia đình kỳ lạ kia được hơn hai tháng. Cô bé bắt đầu quen với công việc và tạm hài lòng với cuộc sống hiện tại. Tiền lương khá hậu của chủ nhà giúp đỡ khá nhiều cho cuộc sống của Hiền và mẹ em. Một mặt trả tiền học, mặt kia trang trải tiền nhà cửa cũng đỡ. Căn bệnh của mẹ Hiền không giảm nhiều nhưng cũng không có dấu hiệu nặng thêm, cô bé cũng yên tâm phần nào với hiện tại. Sẵn đến trung thu, cô bé còn định bụng sẽ chi tiền thuê người giúp việc, vừa chăm sóc mẹ vừa phụ bán hàng luôn. Nếu mùa trung thu này mà hàng hóa tồn đọng được bán đi thì ít nhiều cũng thu về được mớ tiền.
Giáp trung thu độ ba tuần, mọi người bắt đầu nô nức đi chùa cầu may, hàng quán chợ đò sôi nổi bày sạp, người người vui vẻ sắm sửa cho mùa lễ hội lồng đèn. Riêng Hiền vẫn cứ cố gắng làm cho bằng hết công việc được giao, bận rộn nhưng cô bé vẫn cảm thấy hài lòng. Đột ngột chiều hôm đó, bà cụ già cho phép em nghỉ ngơi và chỉ nhờ em đi với bà đến một nơi, xong việc em có thể được nghỉ sớm.
Hôm đó là một ngày kỳ lạ, con chó mực được tháo xích và dắt đi theo bà cụ. Bình thường mắt nó vẫn sáng rực lên khi Hiền có ý định mở dây xích cho nó, nhưng hôm nay thì không, nó càng tỏ vẻ khó chịu và ủ rũ hơn. Hai người bắt đầu cuốc bộ cùng con chó đến một ngọn đồi thấp trống trải về phía tây. Khu đồi xấu xí đầy vẻ âm u và lạnh lẽo. Hiền phải chui theo mấy lùm bụi với cùng bà cụ đến được nơi cần đến. Cuối khu đồi, ở một chỗ thật kín, Hiền thấy có một miệng giếng thô và cạn nước. Ở dưới giếng đầy cát và mạng nhện. Bà cụ bảo Hiền đứng đó chờ, còn bà thì kéo con chó đến sau một lùm cây bụi khác. Người ta nói một cô gái mới lớn thì chẳng thể nào tránh khỏi sự tò mò. Đến một lúc sau không thấy bà cụ quay lại, cô bé chợt dợm chân đi theo lối của bà cụ lúc nãy. Hiền vạch gần hai lớp lá bụi thì thấy được một con đường mòn. Cô bé bước dọc theo con đường đó. Không xa lắm, cô bé thấy bà cụ và con chó ở phía xa xa. Nghe thấy tiếng động, bà cụ quay mặt nhìn ra phía sau, theo bản năng Hiền vội núp lẹ làng vào lùm cây gần đó.
Hít một hơi thật sâu, cô bé ghé mắt nhìn lại chỗ bà cụ. Ô, bà cụ và con chó đang đứng trước một cái giếng khác, trông y chang cái giếng lúc nãy. Hiền dỏng tai lắng nghe, hình như bà ta đang nói với con chó cái gì đấy.
“Thế nào, con ranh kia, mày định bắt tao chờ đến khi nào đây, khi nào tao mới có đủ số vàng tao muốn?”
“Tôi đã nói với bà rồi, tôi không biết số vàng nào cả, bà có ép tôi cũng vậy”
“Đừng láo, tao biết mày biết cách, mày có nhiều cách, nếu mày không nói, mày sẽ là một con chó mực suốt đời”
“Mãi mãi cũng vậy, tôi không biết và cũng không muốn nói cho bà biết bất cứ điều gì hết”
“Được lắm, mày sẽ phải nói thôi, nếu hôm nay mày không nói, tao sẽ ăn thịt mày”
Hiền hoảng hồn sau khi nghe xong cuộc trò chuyện. Trời ơi, sao lại có những chuyện như thế này, Hiền chợt thấy lạnh ngắt sóng lưng, từ trước đến giờ cô bé đã phải làm việc trong một ngôi nhà toàn phù thủy. Làm thế nào bây giờ? Hiền không ngờ trong lúc vô ý, cô bé bị xẩy chân, quẹt vào một đám lá gây nên tiếng động khá lớn. Bà cụ kia quát lên ông ổng:
“Đứa nào đấy?”
Bà ta chạy vùn vụt lên chỗ của Hiền, ngoe ngoắt cái đầu già nua chằm hăm quan sát tứ phía, Trông bà ta có vẻ vô cùng lo lắng và sợ hãi. Bước chân của bà ta bắt đầu lướt qua chỗ của Hiền, cô bé núp trong một hốc đá. Bà già bước đi chậm rãi, không quên nắm chặt sợi dây xích con chó trong tay. Vài phút sau, Hiền lạnh toát cả người khi bà ta bắt đầu dừng lại trước hốc đá cô bé đang núp. Chân của bà ta sần sùi và sục sạo tìm tòi kẻ phá đám. Bất chợt con chó mực phát hiện ra Hiền, suýt chút nữa nó đã sủa lên nhưng kịp dừng ngay lại. Con chó lắc đầu ra hiệu cho Hiền đừng di chuyển, rồi nó chợt kêu lên với bà già:
“Tôi nghe có tiếng người phía kia”
“Ở đâu?” Bà ta quay lại quát hỏi ngay
“Phía kia, gần miệng giếng”
“Dắt tao đến đó” Bà già gằn giọng ra lệnh
Bà ta bỏ đi kéo theo con chó mực, nó chỉ kịp hất đầu lên phía trên con đường mòn, ra dấu bảo Hiền quay lại chỗ cũ. Không chần chừ một giây nào, thừa lúc bà già không để ý, Hiền phóng ngay người nhanh chóng biến khỏi khu vực đó. Cô bé đứng ngay tại chỗ cái giếng thứ nhất và đứng chờ bà già đi ra.
Cỡ năm phút sau, Hiền đã thấy bà cụ lò dò cùng con chó mực đi ra khỏi bụi cây. Bà ta hỏi Hiền:
“Nãy giờ cháu vẫn đứng ở đây chứ?”
“Vâng ạ”
“Có phải cháu không vâng lời và tự tiện đi tìm thứ gì đó không phải của mình không?”
Sợ hãi với giọng điệu lạnh lùng của bà già, Hiền phủ nhận ngay:
“Không ạ, cháu không hề rời khỏi đây”
Bà ta không nói gì nữa và lại giao sợi dây xích cho Hiền, bảo cô bé cùng đi về nhà.
Trên đường đi, con chó cố tình kéo Hiền lại thật chậm, cách bà già một khoảng khá xa, nó thì thầm trò chuyện với cô bé:
“cô bé ơi, tôi biết mẹ cô bé bị bệnh và tôi biết cả nguyên nhân lẫn cách chữa căn bệnh đó”
“thật sao, nhưng bạn là một con chó mực, tại sao bạn biết nói, tôi có nghe lầm chăng?”
“bạn không lầm đâu, đích thực tôi biết nói, nhưng tôi không phải là một con chó mực, tôi cũng là một cô bé bằng tuổi bạn đấy”
“ôi, thật vậy sao?” Hiền ngạc nhiên thốt lên
“ba người sống trong ngôi nhà bạn đang giúp việc thực chất là ba ông kẹ hóa trang thành, nói đúng hơn là chỉ có một người thôi, đó là bà già kia, bà ta rất tham lam và độc ác. Hai người kia cũng có một người là phù thủy, nhưng hắn đã bị cha tôi đánh chết.
Cha tôi hiện giờ đang hóa thành hắn. Người đàn bà còn lại chỉ là một người bình thường. Trước đây lũ độc ác biết tôi là người canh giữ giếng thần nên cố tình giăng bẫy bắt cóc tôi. Để tiện việc tra hỏi, chúng biến tôi thành một con chó và xích tôi lại. Cứ tới mùa thu, chúng lại hóa thành gia đình ba người đi kiếm những đứa trẻ xinh xắn để ăn thịt. Chúng thường ghé qua các cửa hàng, phù phép cho gia đình đứa bé đó bị bệnh và lả đi, sau đó chúng sẽ dụ dổ để ăn thịt đứa bé đó.”
“Vậy có nghĩa mình là nạn nhân của chúng rồi”
“Bạn đừng lo, nếu bạn giúp mình, chúng ta sẽ cùng tiêu diệt lũ ác độc đó”
“Nhưng làm thế nào đây?”
“Đừng lo, tạm thời cứ làm như không có chuyện gì xảy ra cả, cứ yên lặng chờ đợi thời cơ, bạn nhé”
Sau ngày hôm đó, Hiền tìm cách nói chuyện riêng với con chó mực, nhưng nó cứ im lìm như thóc vì lúc nào bên cạnh Hiền cũng có bà chủ nhà kè kè bên cạnh. Không một phút nào lơ là cô bé. Hơn thế nữa, bệnh của mẹ Hiền đột nhiên trở nặng hơn, bà ói nhiều và chẳng ăn uống được gì. Cơ thể bà teo riết lại chỉ còn mỗi nắm xương. Lòng Hiền đau xót như bị muối xát vào, nhưng ngoài nước mắt và những lời an ủi mẹ, cô bé còn có thể làm được gì. Một ngày kia, ông chủ bất ngờ gọi Hiền vào phòng trong và nói với cô bé, ông có cách làm cho mẹ cô bé khỏi bệnh. Bà chủ nhà rất gian trá, mụ phù thủy già kia đã hứa với bà ta, nếu bà ta giúp đỡ mụ, bà ta sẽ có rất nhiều vàng bạc châu báu. Hiện giờ ông đang trá hình và tìm cách tiêu diệt mụ phù thủy già kia. Ông bảo với Hiền, đằng sau nhà ông đã tìm thấy có một cái giếng khác. Đối với mụ phù thủy thì nước giếng đó như một thứ vô tích sự, nó không có tác dụng với mụ, đối với mụ, nó chẳng khác gì nước giếng bình thường. Nhưng đối với người bị phù phép, nước giếng đó có tác dụng giải mọi bùa phép. Vì thế, nếu có dịp, Hiền phải tìm cách vào được nhà sau và đem nước giếng đó về cho mẹ.
Nhưng không có cách gì qua mặt được bà chủ nhà, bà ta không bao giờ lơi tay khỏi Hiền. Nhất cử nhất động của cô bé đều bị bà ta canh chừng. Một hôm, bà chủ nhà có việc phải ra ngoài, hơn lúc nào hết đây là một cơ hội tốt cho Hiền. Ông chủ chỉ cho cô bé chỗ có miệng giếng thần. Nó được giấu kỹ trong một kho thóc xây tạm sau nhà, nếu không có người chỉ thì còn lâu Hiền mới biết được. Ông chủ bảo sẽ đứng ngoài canh chừng, khuyên Hiền phải nhanh tay lên vì bà chủ chỉ đi có một lát mà thôi.
Hiền soi một chiếc đèn dầu vào lòng giếng, mùi ẩm thấp sộc vào mũi cô bé làm mấy lần Hiền buộc phải ngoi lên hít thở. Trong giếng không hề có một giọt nước nào. Bụng giếng cạn khô, toàn là cát với cát. Lo lắng xen lẫn thương cảm cho người mẹ nằm ở nhà, Hiền thầm cầu xin miệng giếng. Cô bé khẩn khoản và chỉ nghĩ đến mỗi hình ảnh mẹ mình lúc khỏi bệnh, chẳng biết lúc nào hàng giọt nước mắt đã nhỏ đầy xuống đáy giếng, thấm vào lớp cát dày đặc. Nước bỗng nhiên từ đâu dâng lên ầng ậc, mạnh mẽ và tuôn trào. Không những thế, nước còn bắn thành vòi, tràn lên phía trên thành giếng. Vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, Hiền lấy một cái chai nhỏ xíu và múc nước bỏ vào đầy chai mà không gặp chút khó khăn gì.
“Con Hiền đi đâu rồi?” Một giọng nói bỗng vang lên phía nhà trên
“Ồ, tôi vừa cho nó về, nghe như mẹ nó trở bệnh nặng”
“Ừm, ông cũng biết là mẹ nó sắp chết mà, chính mắt tôi đã nhìn thấy ông kẹ phù phép”
Bà ta nói bằng giọng hết sức đắc thắng
Hiền nín hơi, nước trong giếng đã lắng xuống và lại cạn khô như ban đầu. Cô bé lẻn ra phía trước nhà, nhờ sự hỗ trợ của ông chủ, Hiền ra khỏi nơi đó và trở về nhà ngay lập tức. Cô bé cho mẹ uống thứ nước lạ trong giếng, ngay hôm sau, bà Mai lập tức khỏi bệnh ngay. Bà mừng rỡ và cảm ơn con của mình. Sau khi nghe chuyện, bà lo lắng khuyên Hiền nghỉ việc ngay ở chỗ ngôi nhà đó. Nhưng cô bé không muốn, cô bé muốn tiếp tục tìm hiểu và giúp đỡ con chó mực. Bà Mai đành chịu thua và tiếp tục để cho Hiền làm việc. Cô bé không đả động gì đến việc mẹ cô khỏi bệnh với bà chủ nhà, cô bé vẫn chăm chỉ như thường lệ và không làm điều gì khiến bà ta nghi ngờ cả. Dần dần, bà ta cũng lơi lỏng việc kiểm soát Hiền với con chó mực, thành ra nếu cần thiết, Hiền cũng có thể tranh thủ trò chuyện với nó.
 
Giáp ngày trung thu, con chó mực bắt đầu dặn dò Hiền:
“ngày mai, mụ già sẽ bảo bạn đi theo mụ một lần nữa, mụ sẽ bắt mình nói ra bí mật của miệng giếng thần và đem về cho mụ thật nhiều vàng bạc, trước khi đi bạn hãy mang theo thật nhiều muối. Chờ mụ sơ ý, hãy đem muối rải mạnh vào cơ thể mụ, mụ sẽ hiện hình ngay”
Đúng như lời chó mực nói, mụ già vẫn bảo muốn Hiền đi với mụ thêm một lần vào ngày trung thu. Nhớ lời dặn của chó mực, Hiền giấu vào túi áo khoác những nắm muối trắng tinh, cô bé kéo khóa lại thật kỹ để không bị mụ già phát hiện. Cô bé làm ra vẻ bình thường, vẫn tiếp tục lễ phép và chăm chỉ. Quả nhiên mụ không hề nghi ngờ Hiền và để Hiền cầm xích giữ chân con chó. Thực chất sợi xích là một kiểu yểm bùa, giữ không cho con chó hiện nguyên hình, sợi xích vô cùng chắc chắn đến nỗi Hiền không làm sao phá ra được. Cô bé đành im lặng bước theo mụ già với con chó đen lủi thủi bên cạnh. Mụ già dừng lại ở cái giếng thứ nhất và vẫn bắt Hiền đứng đó chờ, còn phần mụ tự dắt con chó đi chỗ khác.
Hiền chờ cho mụ già đi thật lâu, sau đó mới lặng lẽ mò theo bà ta. Cô bé lẻn đi trên con đường mòn hôm qua, vừa đi đến gần miệng giếng, cô bé chẳng thấy ai ở đó cả. Chỉ có con chó mực, nhưng dường như nó đang cố lắc đầu quầy quậy và ra hiệu điều gì đó…
“Ối!”
Hiền hét lên, mụ già đột ngột xông ra từ một lùm cây nhỏ, mụ chụp lấy cổ cô bé và quát lên:
“Ta biết mà, con bé xấu xa, mi và con ranh kia định âm mưu cướp vàng của ta chứ gì, thật là gan cùng mình”
Bà ta thóp lấy cổ họng của Hiền rồi dùng sức xô em xuống miệng giếng. Hiền vùng vẫy chống cự nhưng không cách gì chống lại được sức mạnh của mụ phụ thủy. Bà ta giữ cô bé ở trạng thái chỏng cheo trước miệng giếng. Con chó mực bồn chồn sủa vang quanh mụ. Mụ phù thủy già khoái trá cười vang:
“Sao? nếu mày không nói, tao sẽ vứt con bé này xuống giếng ngay”
Con chó không còn cách nào khác đành chỉ cho mụ cách lấy vàng từ giếng:
“Nếu mụ muốn lấy vàng, phải bỏ cô bé đó xuống đã, tôi sẽ chỉ cho mụ cách”
“Có thế chứ” Mụ phù thủy hừ giọng, đẩy Hiền nằm uỵch xuống một gốc cây gần đó.
Cô bé đưa tay lên ngực, cố hớp hơi để điều hòa không khí, tay mụ phù thủy quá cứng và mạnh bạo khiến cô bé ngộp thở kinh khủng.
“Sao, nói đi, nếu không tao sẽ làm điều tao muốn” Mụ tiếp tục quát con chó mực
Con chó hồi hộp nhìn Hiền, có ý chờ cho cô bé hồi phục và bình tĩnh lại. Nó bảo:
“Bà hãy nhìn vào trong lòng giếng, nhìn cho thật sâu vào và nói lên mong muốn của mình”
Mụ phù thủy tham lam vội đu mình vào sâu trong miệng giếng, hét to:
“Tao muốn vàng, muốn bạc, tao muốn kim cương, đá quý và hồng ngọc”
Nhưng sau một hồi ước muốn, mụ vẫn chẳng thấy có gì hiện lên, mụ tức giận rụt người ra khỏi giếng, định quay sang quát hỏi con chó, nhưng chưa kịp làm thế thì…
“Cho mụ chết này, đồ phù thủy!”
Hiền ném thẳng mấy vốc muối vào mắt mụ phù thủy, mụ gầm lên rồi ôm lấy cái mặt của mình. Nó kêu lên xèo xèo rồi bật cháy bỏng, mụ bắt đầu hiện nguyên hình thành một ông kẹ xấu xí. Hắn tức tối liền xông đến quạt tay tát cho Hiền một cú mạnh bạo. Hắn hè vào dùng năm ngón tay bằng thép đen bóng chuẩn bị quào vào người cô bé. Trong gang tấc, con chó mực chạy đến táp vào bắp đùi ông kẹ. Hiền nhân cơ hội vội rụt chân lại né kịp. Ông kẹ không chịu bỏ cuộc, hắn phóng mình vụt lên cao, đá vào con chó một cái chí mạng, nó rên lên ư ử. Hiền vội vốc thêm thật nhiều muối nữa và liên tục ném vào người ông kẹ, hắn khôn ngoan dùng vải che lại khắp cơ thể. Thình lình, ai đó đã cầm gậy phang vào sau cơ thể ông kẹ, làm hắn té xuống xỉu ngay. Không bỏ lở thời cơ, Hiền trút toàn bộ số muối còn lại lên người ông kẹ, làm hắn thét lên hàng chuỗi dài đau đớn rồi cơ thể tự động bốc cháy ngùn ngụt.
Con chó mực mừng rỡ, sau khi mụ già chết, nó được hiện nguyên hình trở lại thành một cô bé xinh đẹp như trước. Trước khi tạm biệt Hiền để cùng cha trở về trong lòng giếng, cô bé đó chỉ cho Hiền cách lấy vàng bạc từ trong miệng giếng ra:
“cái giếng này có rất nhiều vàng bạc, nhưng mỗi mùa trăng rằm chỉ lấy được một lần và phải được chính mình cho phép mới lấy được. Ngày mai, bạn hãy trở lại đây, mình sẽ làm phép để bạn có thể lấy được đủ số vàng cho bản thân.”
 
Hiền nhớ kỹ lời dặn dò của cô bé, tối hôm sau, Hiền dắt mẹ đến miệng giếng sau con đường mòn. Quả nhiên, khi Hiền nhìn xuống đáy giếng, được sự cho phép của cô bé kia, vàng bạc cứ trào lên như nước, phủ đầy miệng giếng, Hiền lấy bao nhiêu cũng không hết. Nhưng ngay sau đó, Hiền và mẹ nghe thấy có tiếng động, hàng đống người lũ lượt kéo tới trước miệng giếng, dẫn đầu là mụ chủ nhà độc ác. Mụ chỉ cho những người kia thấy, trên tay Hiền và sau miệng giếng kia có rất nhiều bạc vàng, muốn bao nhiêu cũng có. Lũ người kia bị kích động lòng tham liền xông tới bắt mẹ con Hiền và bảo họ trao vàng ra. Hiền hoảng sợ nhưng cố giữ bình tĩnh, cô bé cất tiếng nói:
“Tôi không giữ vàng, bạc gì cả, không tin ông cứ tìm xem”
“Nói láo!” Một lão già râu vểnh thét lên “mày có rất nhiều vàng, nhanh chóng đưa ra đây, nếu không thì không xong đâu”
“Đúng đó, nó có nhiều lắm’ Mụ chủ nhà rỉ tai lão
“Tôi nói không có, ông bảo có thì ông cứ tìm thử đi”
“Để tao” Mụ chủ nhà quát “con nhãi ranh này”
Mụ xông tới miệng giếng rồi reo lên phấn khởi:
“Đây rồi, toàn là vàng”
Vừa nghe mụ nói, cả đám người lao nhao xông tới. Sợ mất phần, càng lúc càng nhiều lượt người bám vào nhau mặc sức tranh giành. Nhưng chỉ vài phút, họ rên rỉ và có người còn quát tháo um sùm, vừa tức giận vừa đau đớn:
“Mụ điên à, toàn là bùn cát”
Quả đúng như thế, trong miệng giếng, vàng đã kịp rút hết trước khi người ta kịp xông đến. Lòng tham khiến mụ chủ nhà mờ mắt, mụ cứ khăng khăng bảo trong giếng có vàng và không ngừng cúi mình chúc xuống miệng giếng. Bất ngờ, bà ta mất thăng bằng, không ai chụp kịp người bà ta lại, bà té xuống và bị chôn vùi trong lớp cát dưới giếng.
Kể từ ngày sau đó, Hiền cùng mẹ đem số vàng có được, phần lớn bí mật đem tặng cho những người nghèo khổ và khó khăn. Cô bé cũng có lần quay lại tìm miệng giếng nước thần, nhưng cả ba cái đều cạn nước và dần dần không bao giờ có ai thấy chúng được nữa.