CÁI CHẾT CỦA NGƯỜI QUÉT CHỢ

Người quét chợ là một phụ nữ cô độc xấu xí, khoèo một chân, khoảng hơn 40 tuổi. Người thân của bà là con heo nái vừa đẻ một đàn mười heo con và một bầy gà nòi, phần lớn là con trống rất đẹp mã, suốt ngày gân cái cổ đỏ trụi lủi, đá nhau chí chóe.
Bà sống trong một cái nhà lá, nằm ngay lối vào một miếng đất khá rộng, trơ trọi cạnh bờ sông. Từ trước ra sau, đất của bà ngập trong rác có thể phân hủy mà bà hay kéo về làm phân. Vườn bà có đủ loại cây trái rất sai, tuy bà không hề trồng. Chúng mọc lên từ những đống rác mà bà kéo về. Hình như bốn mùa vườn bà đều có trái chín. Những cây mít ở cuối vườn có rất nhiều tổ chim nghệ treo lủng lẳng. Những con chim bé xíu có bộ lông màu vàng, lại luôn làm những cái tổ rất to, trông như một cái chuông lớn bằng rơm, cỏ, treo trên những cành cây và rất đẹp.
Hằng ngày, quá trưa một chút, chợ quê sẽ tan. Đó là lúc bà có mặt với cây chổi tự chế bằng tàu cau hoặc cành cây, có cái cán dài để đứng thẳng mà quét. Sau khi gom rác, bà nhặt ve chai để giao cho vựa, nhặt rau củ dạt để nấu cám heo và nuôi lũ gà. Phần lớn rác bà sẽ kéo đổ xuống cầu tàu bến sông. Một phần rác chọn theo ý bà, vừa chiếc xe đẩy sẽ theo bà về đổ trên đất vườn.
Hằng tháng, người thu hoa chi ở chợ sẽ trả cho bà một khoản lương nhỏ nhoi.
Người ta gần như chẳng để ý sự có mặt của bà trên đời. Cứ như là mỗi sáng chợ sạch boong là chuyện đương nhiên. Xả rác vô tư khi mua bán xong cũng là chuyện đương nhiên. Khi đã trả tiền, trách nhiệm, nghĩa vụ … đã được thỏa thuận và chấm hết. Phần lớn người ta vẫn sống vô tư với nhau như thế thôi.
Trưa nay chợ đã tan, không thấy bà quét chợ đi cà nhắc với cây chổi cán dài. Ruồi nhặng bay u u khắp nơi. Những nhà hai bên phố chợ mạnh ai nấy quét rác trước sân nhà mình. Chỗ bán cá cạnh bờ sông là gớm nhất. Mùi cá ươn bốc lên theo gió đi vào mọi ngóc ngách của cả cái phố chợ. Những nhà ở xa cái cầu tàu nhất cử người đến nói những nhà cạnh chỗ bán cá:
- Hôm nay cái bà thọt chân trốn việc. Mấy người ở cạnh cái mỏ thúi mà vẫn chịu được sao?
Ý là sao mấy người không xách nước sông lên dội chợ cá đi. Những căn nhà im lìm như những người bên trong. Đâu phải việc của họ. Đó là việc của bà quét chợ.
Càng về chiều, nắng nóng làm cho cái mùi cá chết càng bốc lên kinh khủng.
Mây đen kéo tới mù mịt. Gió từ sông cái thổi giật những mái tôn rầm rập. Một trận mưa rất lớn đổ xuống, kéo dài cho đến tối, rửa trôi cái chợ cá cùng với mọi rác bẩn.
Người thu hoa chi vừa ăn cơm chiều xong, đang ngồi xỉa răng. Khi xế, ông đã định vào xem bà quét chợ có bệnh tật gì không. Bà ấy tuy trông gầy ốm, nhưng chẳng bỏ việc bao giờ. Ông nhìn ra con đường trước nhà, thấy sình lầy nhầy nhụa, mưa vẫn còn nặng hạt lắm thì ngại ngần nghĩ:
- Vào đó thì cũng chẳng giúp được gì. Có lẽ mai bà ấy sẽ có mặt thôi.
An tâm với suy nghĩ của mình, ông bật tivi, leo lên võng nằm đong đưa.
Hôm sau, cảnh hôm qua lại tái diễn. Chợ cá lại bốc mùi. Chợ rau càng bẩn hơn vì ngập ngụa sình lầy và rác quện vào nhau. Người đi chợ tha sình từ mọi ngã đường vào. Các nhà ở phố chợ giận nhau vì ai nói kệ ai, không nhà nào ra giải quyết cái chợ cá.
Cả cái chợ tàn giống như một bãi rác lộ thiên. Sống cạnh bãi rác như thế, tâm trạng mọi người trở nên bức bối. Hình như ai cũng trở nên không giống ngày thường, có một chút điên điên, như những lò lửa đang chực chờ bùng cháy.
Thì đó, chỉ thiếu có một bà quét chợ thôi mà, ồn ào quá. Mà cái bà này cũng tệ. Tiền thì biết lấy, chẳng nói tiếng nào đã đình công. Phải cho bà ấy biết thế nào là trách nhiệm, nghĩa vụ mới được. Mọi người dễ dãi nên bà ta lờn mặt.
Một đoàn gần chục người mặt mũi quạu đeo, dẫn đầu là ông thu hoa chi đến nhà bà quét chợ.
Từ đàng xa nhìn thấy khu đất xanh um cây trái, họ bảo nhau:
- Chúng ta đâu có xử tệ với bả. Nhìn xem, làng cho mấy đời nhà quét chợ miếng đất đó, bây giờ tiền không. Coi bầy heo đủng đỉnh ăn rau trong vườn kìa, bầy gà đá đó nữa. Trời! Cả một gia tài đó nghe! Vậy mà không biết ơn chúng ta.
Ông thu hoa chi nhăn mặt:
- Đừng có thêm mắm dặm muối quá vậy mấy bà. Hồi năm xửa, năm xưa, trăm năm trước, miếng đất bãi bồi bỏ hoang này chẳng ai thèm. Cỏ, lác, ô rô gai góc mọc lút đầu người. Nghe nói ông cố, ông sơ nhà bả mua bằng công quét chợ một năm đó. Bao nhiêu đời nhà người ta chăm sóc, đắp bồi mới được như giờ. Ở đâu ra chỗ cho mấy bà kể công.
Gọi mãi không nghe bà quét chợ lên tiếng. Ông thu hoa chi nhấc cái cửa để qua một bên, bước vào trong, miệng lầm bầm:
- Thời buổi này chứ có phải mấy chục năm trước đâu mà cửa nẻo gì, có cũng như không.
Ông bỗng ngừng bặt vì cảnh tượng trước mắt. Ở cái chái bếp thấp lè tè, cao vừa khỏi đầu người, bà quét chợ trong tư thế quỳ gối, đầu gục xuống ngực, cái lưỡi thè dài đã chuyển màu đen, sợi thòng lọng lủng lẳng xệ xuống tận bụng, hình như đã chết từ lâu.
Mọi người xúm quanh, mạnh ai nấy nói, nấy kêu la hòa với tiếng những con gà, con heo kêu xung quanh, tạo thành một bản hòa âm kỳ lạ bên cạnh cái chết cũng rất lạ của bà quét chợ.
Treo cổ thì phải chết treo. Đằng này bà lại chết quỳ với cái thòng lọng chẳng thít vào đầu. Công an có đến nhìn qua, tuy thấy rất khác thường, nhưng không thể tìm ra cái gì nghi vấn ngoại trừ cái tư thế chết của bà. Bà cũng không có người thân để yêu cầu điều tra. Thêm việc làm gì, người cũng chết rồi, cho người ta yên nghỉ. Và, kết luận: Bà quét chợ không giàu có, không xinh đẹp, không người thân …. Tóm lại là không có gì để tạo nên một động cơ thường thấy, nếu là án mạng. (Ai biết đâu được, có thể một hôm điên điên, bà thấy cuộc sống quá buồn chán nên quyết định chấm dứt thì sao.)
Căn nhà nhỏ của bà hoàn toàn ngăn nắp, sạch sẽ. Ngoài vườn, cây lá vẫn rất xanh. Thế giới vẫn thanh bình với những làn mây trôi êm đềm giữa một trời quang, sau ngày mưa xối xả đến cạn kiệt mây đen như hôm qua. Và, những cánh bướm sặc sỡ, những chú ong vỗ cánh ù ù như tiếng máy chạy vẫn nhởn nhơ hút mật trong làn gió nhẹ. Một cuộc đời cô độc, đến rồi đi, vô thường thế thôi.
Và bỗng nhiên tổ tông mấy đời nhà bà quét rác bị người ta lôi ra, để cuối cùng kết luận: Nhà đó có huông ma thòng lọng. Đời nào cũng có ít nhất là một người thắt cổ chết treo.
Mọi người sợ dính huông thắt cổ, chẳng ai dám động đến cái xác. Một ông thầy chùa được mời đến để cắt thòng lọng.
Chẳng biết thực hư thế nào, người ta đồn rằng khi cắt sợi dây, bên trong đen sì máu bầm?!
Đám tang của bà do xã đứng ra lo liệu. Đó là một cái đám tang rất lớn với hàng chục con heo sữa quay và một con heo nái hơn một tạ thịt hơi. Bầy gà nòi của bà người ta tranh nhau mua. Cuối cùng xảy ra một chuyện chưa từng có trong xã. Người ta bắt chước trong tivi khi có tranh chấp mua bán: Mở cái bàn đấu giá mấy con gà để lấy tiền chôn cất chủ.
Thật kinh ngạc, tổng số tiền bán bầy gà nòi lên tới hơn ba mươi triệu đồng. Cái con gà to nhất đàn, có cái cựa dài nhọn hoắc, lúc nào cũng hung hăng đi kiếm chuyện với những con gà khác, đã được trả tới bảy triệu đồng! Nhiều tiền quá, xã quyết định mua cái hòm cẩm lai duy nhất của trại hòm. Nghe nói cái hòm ấy để qua nhiều năm không bán được vì giá quá cao. Ông chủ trại hòm còn than thở:
- Vừa bán, vừa cho chứ mắc mỏ gì! Cẩm lai bây giờ làm gì có cửa để mang đi đóng hòm. Đóng nội thất cao cấp còn không có mà đóng. Chẳng qua gỗ đóng hòm rồi, đâu thể tháo ra bán gỗ được. Bán rồi, tiếc muốn chết!
Con trai ông chủ trại hòm hỏi:
- Cha tiếc vậy sao còn cho không dịch vụ kèm? Những cái đó mình phải tốn tiền mà?
- Nghĩa tử là nghĩa tận. Vài bộ đồ liệm, mấy thằng khiêng đòn, chủ tế …. công nhà cả, tính toán làm chi với người chết như bả.
Mấy hôm sau, bà quét chợ được yên nghỉ ở đất thánh (° Đất thánh: Nơi chôn cất những người nghèo, vô gia cư, xác vô thừa nhận).
Miếng đất của bà trở thành tài sản công của xã. Xã muốn bán để sung công quỹ, nhưng chẳng ai muốn mua. Khu đất không người chăm sóc, gặp mùa mưa, đủ loại cây từ đất rác mục ấy, chen nhau mọc lên, xanh như chưa bao giờ cây cỏ được xanh như thế.
Thời gian qua đi. Mọi chuyện lẽ ra sẽ vào quên lãng nếu như mấy con gà nòi không sinh quái bệnh. Gà đá mà không chịu đá độ. Những người chủ gà không hiểu vì sao khi thả trong vườn, những con gà nòi rất hung hăng, đá bất kể gà trống, gà mái, gà con cho đến dở sống, dở chết mới thôi. Khi những con gà tan tác, nằm khốn khổ la liệt trên đất thì con gà nòi vỗ cái cánh chẳng có mấy lông và ngửa cái cổ đỏ trụi lủi, gân guốc như đô vật, hả hê gáy rất to. Còn khi ôm chúng vào những xới gà, chúng cứ đứng sững ra đó, mặc cho kẻ địch tha hồ đá mổ. Chủ gà đành phải chịu thua để ôm gà về.
Tưởng chỉ một con như vậy, hỏi ra mới biết những ai mua gà của bà quét chợ đều gặp tình trạng đó cả.
Những kẻ chơi gà đá độ không đủ tiền để đấu giá những con gà của bà quét chợ cười hả hê:
- Thèm gà người ta cho lắm, bây giờ mua được lại thành ra gà không biết đá.
Người ta bắt đầu rỉ tai nhau những câu chuyện về kẻ đã giết bà quét chợ. Có lẽ không chỉ một người mà là một nhóm người. Các mẩu chuyện truyền khẩu đó, tuy không chỉ đích danh, nhưng nói đến những con gà, khác nào chỉ đích danh còn gì.
Một người nói, hai người nói, càng nhiều người nói, câu chuyện càng hoàn chỉnh như một phim hình sự trên kênh HBO, AXN, nhưng chắp vá tình tiết, vay máu ở phim này, vay dao, mác ở phim khác …. Và các nhân vật như đang thật sự kéo bè tới giết người chỉ vì một bầy gà đá quá chiến mà chủ của chúng thà để già chết đem chôn, không bao giờ bán cả.
Rồi câu chuyện được kết luận như sau: Có rất nhiều dấu vết ở hiện trường, có thể chỉ ra thủ phạm, nhưng công an của ta không có máy móc và kỹ thuật giỏi như nước ngoài, bởi vậy mà bà quét chợ chết oan. Hồn ma của bà ám mấy con gà.
Nghe thật buồn cười. Câu chuyện đang là rất lý trí, rất hiện thực, bỗng dưng cái kết lại ngoặc mấy trăm độ về số âm.
Những chủ gà mới khổ, đi đâu cũng bị dòm ngó, lườm nguýt.
Vừa lúc ấy, người ta nghe đồn ông nội bé Tú đã mua miếng đất của bà quét chợ. Những người được thuê dọn quang khu đất kể: Họ chưa bao giờ thấy ở đâu có nhiều ổ rắn đủ loại như ở đó, tha hồ mà bắt. Trên cây, dưới đất, đâu đâu cũng thấy ổ rắn, không hiểu là “ma cũ hay ma mới”. Nếu là “ ma cũ”, sao mấy con gà, mấy con heo có thể sống hòa bình như thế năm này sang năm khác nhỉ? “Ma mới” thì từ đâu mà đến, kéo theo bầy đàn thấy ớn? Mà rắn đem lên Sài Gòn, càng độc, càng được tiền.
Nói đến tiền, bỗng dưng người ta tổng kết rằng: Thật ra bà quét chợ rất giàu. Thì đó, bả vừa chết đi, chỉ riêng của nổi đã thấy khối tiền. Ai biết đâu bả cắt củm để dành, của chìm chắc cũng không kém.
Câu chuyện mới về cái chết của bà quét chợ đang dần có màu sắc thật như mắt thấy, tai nghe. Ngay cả người kể ban đầu, cũng phải chăm chú nghe người thứ n kể như mới nghe lần đầu, vì có nhiều tình tiết mới hơn.
Một chủ tàu ở Phú Quốc ghé chợ kiếm ông thu hoa chi hỏi thăm nhà của bà quét chợ. Ông thu hoa chi hỏi:
- Bà quét chợ nào? Ở đây chỉ có ông quét chợ. Hay là ông hỏi bà quét chợ cũ?
- Năm ngoái tôi ghé, bả vẫn quét chợ.
- Vậy bả chết rồi. Ông kiếm có chuyện gì?
- Năm ngoái bà ấy có tặng tôi cặp gà nòi. Tôi hứa vài hôm đi ngang sẽ tặng bà ấy một con chó Phú Quốc. Nhưng tôi không ghé được. Năm nay mới có dịp đi ngang. Mộ bà ấy ở đâu? Tôi đến đốt nhang.
Ông thu hoa chi ngẫm nghĩ: Sợi thòng lọng đó, chắc là để chuẩn bị buộc con chó. Một người yêu thương súc vật như bà quét chợ, hẳn là đã tự thử sợi dây, phòng khi làm con chó khó chịu. Còn vì sao lại chết trong tư thế kỳ cục thế, có lẽ chỉ là ngẫu nhiên trùng hợp với một tai nạn hay trúng gió bất tử gì đó ….
Không ai nhớ bà quét chợ từng sống ra sao. Nhưng bà chết thế nào thì có khi người ta biết còn nhiều hơn cả chuyện thực sự đã xảy ra.
Có lẽ khi nào có những câu chuyện mới, người ta sẽ quên béng trên đời từng có một bà quét chợ đã chết thế nào.