Dịch giả: Đặng Thu Hương
SAU KINH TỐI

Viếng Mê Cung lần nữa,

đến ngưỡng cửa “finis Africae”,
nhưng không đột nhập được
vì chưa hiểu cái thứ nhất và cái thứ bẩy
của thứ tư là gì.
Cuối cùng Adso lại nhuốm bệnh tương tư,
dù cũng chóng qua
Chuyến viếng thăm Thư Viện lần này đòi hỏi nhiều giờ làm việc đằng đẵng. Miêu tả bằng lời thì việc xác minh mà chúng tôi định thực hiện rất đơn giản, nhưng quá trình vừa soi đèn vừa đọc các bản khắc chữ, đánh dấu các lối đi và các bức tường trống lên bản đồ, ghi lại các mẫu tự đầu và len lỏi theo nhiều con đường khác nhau, thật là dài và buồn tẻ.
Trời lạnh buốt. Đêm không có gió, nên chúng tôi không nghe những tiếng rít khe khẽ mà đêm đầu tiên đã khiến chúng tôi hoảng sợ, thay vào đó là luồng hơi băng ẩm ướt từ các khe hẹp tràn vào. Chúng tôi đeo găng len vào để cầm sách khỏi cóng tay, nhưng đó là loại găng hở đầu ngón để dùng khi viết trong mùa đông, nên chốc chốc, chúng tôi lại phải hơ tay lên lửa, khoanh tay vào ngực hay vỗ đồm độp vào nhau, lò dò đi mà người lạnh cóng.
Do đó, chúng tôi tiến hành công việc không được liên tục lắm. Chúng tôi dừng lại ngắm nghía các kệ sách, thầy William, mắt đeo kính mới, có thể nán lại đọc sách; mỗi lần phát hiện một tựa sách, thầy lại reo lên mừng rỡ, có lẽ vì thầy biết quyển sách đó, hoặc giả thầy đã tìm đọc nó hàng bao lâu nay, hoặc thầy chưa nghe ai nhắc đến nó, nên vô cùng xúc động. Tóm lại, đối với thầy, mỗi quyển sách là một con thú diệu kỳ vừa tìm thấy trong một miền đất xa lạ. Vừa giở một bản viết, thầy vừa bảo tôi tìm các bản khác.
Tôi vừa nắm một quyển sách được minh họa tuyệt đẹp, với những mê cung rau quả, có rắn, khỉ, thò đầu ra “Hãy nghe những lời này: Cantamen, Collamen, Gongelamen, Stemiamen, Plasmamem, Sonerus, Alboreus, Gaudifluus, Glaucicomus…”
Thầy William nói dịu dàng:
- Các hòn đảo quê thầy đó. Đừng quá khó tính với những tu sĩ từ miền Hibernia [1] xa xôi. Có lẽ, ngày nào tu viện này còn tồn tại, chúng ta còn nói đến Thánh Đế La Mã, thì chúng ta còn phải ơn họ…
- Những hình vẽ này… Thật không tin nổi vào mắt mình nữa! Nhiều màu sắc quá! – Tôi nói, cố thu hết tất cả vào mắt.
- Chúng từ một miền đất không có mấy màu sắc, một mảng trời xanh và mênh mông màu lục. Nhưng chúng ta không được đứng đây bàn cãi về các tu sĩ Hibernia mãi được. Thầy muốn biết tại sao sách của họ lại ở đây cùng với các tác giả người Anh và các nhà ngữ pháp học của các nước khác. Con nhìn sơ đồ của con xem, chúng ta đang ở đâu vậy?
- Trong các phòng của ngọn tháp phía Tây. Con cũng đã ghi lại các bản khắc. Như thế là, sau khi rời phòng không có cửa sổ, chúng ta vào phòng bảy cạnh và mỗi phòng trong tháp chỉ có một lối vào duy nhất: mẫu tự màu đỏ là H. Rồi chúng ta đi từ phòng này sang phòng khác quanh ngọn tháp, và trở lại căn phòng không có cửa sổ. Sự phối hợp của các mẫu tự khép thành… thầy nói đúng! HIBERNI!
- HIBERNIA, nếu chúng ta đi từ phòng không có cửa sổ trở lại phòng bảy cạnh, vì cũng như mọi phòng bảy cạnh khác, nó mang mẫu tự A, bắt đầu của Apocalypsis [2]. Do đó, có các tác phẩm của những tác giả miền Ultima Thule [3], các nhà ngữ pháp học và tu từ học, vì những người sắp xếp Thư viện nghĩ rằng một nhà ngữ pháp học phải đặt cùng với các nhà ngữ pháp học Hibernia, dù người ấy có xuất xứ từ Toulouse chăng nữa. Đó là một tiêu chuẩn. Con thấy chưa? Chúng ta bắt đầu hiểu được vài điều rồi đó.
- Nhưng trong các phòng ở ngọn tháp phía đông, nơi chúng ta khởi hành, lại đọc thấy FONS, … có nghĩa là gì chứ?
- Hãy đọc kỹ bản đồ của con. Con cứ đọc các mẫu tự trong các phòng tiếp theo, theo trật tự ta đến.
- FONS ADIEU…
- Không, FONS ADAE[4]. U là phòng không có cửa sổ thứ hai ở hướng đông, thầy nhớ mà, có lẽ nó khớp với một sự phối hợp khác. Và chúng ta đã tìm thấy gì trong thiên đàng hạ giới đó? Nên nhớ rằng căn phòng có bàn thờ hướng về mặt trời rạng đông đặt tại đó.
- Ở đó có rất nhiều Thánh Kinh, sách giảng Thánh kinh và toàn các sách kinh.
- Con thấy đó, lời của Chúa ứng hợp với thiên đàng hạ giới, mà như mọi người nói là nằm mãi tận phương đông. Và tại đây, về phương tây: HIBERNIA.
- Như thế, đồ án của Thư viện tái hiện lại bản đồ của thế giới à?
- Có thể. Sách được sắp xếp dựa theo xuất xứ từng nước hay theo quê quán của tác giả, hay như trong trường hợp này là theo nơi mà đáng lẽ họ phải sinh ra. Các quản thư viện cho rằng nhà ngữ pháp học Virgil [5] sinh nhầm tại Toulouse, đáng lẽ ông phải sinh tại các quần đảo phương tây mới phải. Họ đã chỉnh lại các sai lầm của tự nhiên.
Chúng tôi tiếp tục đi, xuyên qua một dãy phòng đầy những sách Mặc khải tuyệt đẹp, một trong số đó là phòng tôi đã bị ảo giác. Chúng tôi lại thấy ánh sáng chập chờn từ xa. Thầy William bịt mũi, chạy tới dập tắt lửa và nhổ nước bọt vào đống tro tàn. Chúng tôi băng vội qua căn phòng cho chắc, nhưng tôi nhớ ra mình đã thấy một quyển sách Mặc khải có nhiều màu, có vẽ hình một phụ nữ và một con rồng. Chúng tôi tái lập sự phối hợp của các căn phòng, khởi đầu từ phòng chúng tôi vào sau cùng, có mang mẫu tự đầu màu đỏ Y, Đảo ngược lại, chúng tôi có từ YSPANIA [6], nhưng mẫu tự cuối cùng A, cũng là mẫu tự kết thúc HIBERNIA. Thầy William bảo đó là dấu hiệu cho thấy có vài phòng chứa đựng những tác phẩm thể loại hỗn hợp.
Khu vực được đặt tên YSPANIA đường như chứa rất nhiều bản chép tay sách Mặc khải, tất cả đều làm rất đẹp theo trường phái nghệ thuật Hispania[7]. Chúng tôi nhận thấy có lẽ thư viện này là nơi có bộ sưu tập phong phú nhất các bản sao sách của các tông đồ hiện có trong xứ đạo, và một lượng vô cùng lớn các sách giảng về loại này.
Trong khi quan sát như thế, chúng tôi đến tháp phía nam mà đêm nọ chúng tôi đã đi qua. Căn phòng không cửa sổ mang mẫu tự S của khu YSPANIA dẫn vào phòng E, và sau đó xuyên dần qua năm phòng trong ngọn tháp, chúng tôi đến phòng cuối cùng không có lối ra nào khác mang mẫu tự đỏ L. Đảo ngược lại, chúng tôi có LEONES[8]
- Sư tử phương Nam. Trên bản đồ chúng ta đang ở Châu Phi, và đây là sư tử. Điều đó giải thích tại sao chúng ta thấy có nhiều bản viết của các tác giả vô thần như vậy.
- Còn nhiều nữa đây này, - tôi lục lọi trong các kệ sách – "Canon” của Avicenna, và một bản viết chữ đẹp mà con không nhận ra.
- Theo cách trang trí, thầy thấy đó là Kinh Koran của đạo Hồi, nhưng rất tiếc, thầy không biết tiếng Ả Rập.
- Kinh Koran, Thánh kinh của bọn vô thần, một quyển sách sa đọa…
- Nó chứa đựng một tư tưởng khác với chúng ta. Nhưng con hiểu tại sao họ lại xếp quyển sách này ở đây, nơi có sư tử và những con quái vật. Thế nên chúng ta sẽ gặp sách về các quái vật, kỳ lân. Khu vực LEONES này chứa những quyển sách mà những người sáng lập Thư viện xem là sách giả trá. Sách gì thế kia?
- Sách bằng tiếng La Tinh, nhưng gốc từ Ả rập. Ayyub al Ruhawi, luận thuyết về bệnh chó dại. Còn đây là sách về kho tàng. Và “Luận về “Những hình bóng” của Alhazen[9]
- Con thấy đó, trong số các quái vật và điều giả trá, họ cũng sắp vào đây các công trình khoa học mà giáo dân phải học tập rất nhiều. Đó là cách suy nghĩ vào thời họ xây Thư viện
- Nhưng tại sao họ cũng xếp sách về kỳ lân lẫn trong các sách giả trá.
- Rõ ràng các nhà sáng lập Thư viện có những tư tưởng lạ lùng. Họ hẳn tin rằng một quyển sách viết về những thú vật hoang đường, sống ở những miền đất xa xôi, phải nằm trong danh mục sách giả trá, được những người vô thần truyền bá.
- Kỳ lân, sư tử, tác giả Ả rập và người Ma rốc nói chung. Thảo nào đây là khu Phi châu mà các tu sĩ nói đến.
- Chắc chắn nó đây. Và nếu thế thì chúng ta nên đi tìm các nhà thơ châu Phi mà Pacificus nhắc tới đi.
Quả thật, khi bước lui về phòng L, chúng tôi thấy trên một kệ sách bộ sưu tập các tập thơ của Floro, Fronto, Apuleius, Martianus Capella và Fulgentius
Tôi nói: - Ra đây là nơi mà Berengar nói có lời giải cho một bí mật nào đó.
- Gần như là ở đây. Berengar dùng câu “finis Africae” và chính cách nói này đã khiến Malachi nổi giận. Tận cùng có thể là phòng cuối cùng, trừ phi… - Thầy chợt hét lên: - Thánh Thần ơi! Con không để ý gì sao?
- Gì ạ?
- Hãy quay lại phòng S, nơi khởi hành ngay!
Chúng tôi quay lại phòng không cửa sổ đầu tiên, có khắc dòng thơ: “Super thronos viginti quatuor”[10]. Phòng có hai cửa. Một cửa dẫn vào phòng Y, có một cửa sổ nhìn xuống lồng cầu thang bát giác bên trong. Một cửa khác dẫn vào phòng P, nằm dọc theo tường ngoài, tiếp theo chuỗi kết hợp của YSPANIA. Cửa về phía tháp dẫn vào phòng E mà chúng tôi vừa bước qua. Rồi đến một bức tường trống, và cuối cùng là cửa dẫn vào một phòng không có cửa sổ thứ hai, mẫu tự đầu là U. Phòng đó là phòng có gắn tấm gương, may thay là ở trên bức tường ngay bên tay phải tôi, nếu không, tôi lại phát hoảng lên rồi.
Nhìn kỹ bản đồ, tôi thấy phòng này rất kỳ lạ. Giống như căn phòng không cửa sổ khác của ba ngọn tháp kia, phòng này đáng lẽ phải dẫn vào phòng bảy cạnh ở trung tâm. Nếu không thì cửa vào phòng bảy cạnh phải ở trong phòng không cửa sổ, kế là phòng U. Nhưng phòng U này, ngoài một cửa dẫn vào phòng T, có một cửa sổ nhìn xuống lồng bát giác, và một cửa khác nối với phòng S, ba bức tường kia đều đầy nghẹt sách. Nhìn quanh chúng tôi khẳng định điều đã rõ ràng trên bản đồ; theo cách lập luận lô-gic cũng như phép cân xứng chặt chẽ, ngọn tháp phía nam này đáng lẽ phải có một phòng bảy cạnh, thì lại chẳng có phòng nào như thế cả. Tôi nói:
- Không, chẳng có phòng bảy cạnh nào.
- Không, không phải thế. Nếu không có phòng bảy cạnh thì các phòng khác kích thước sẽ rộng hợn, trong khi đó các phòng này ít nhiều cũng giống hình dáng các phòng trong các tháp kia. Vậy phòng bảy cạnh đó có, nhưng không đến được.
- Nó bị tường bít kín à?
- Có thể. Và chính đó là “Finis Africae”, nơi mà các tu sĩ quá cố vì hiếu kỳ đã lảng vảng chung quanh. Nó bị tường bít kín, nhưng không có nghĩa là không có lối vào. Quả thực, phải có một lối vào, và Venantius đã tìm thấy nó, hay đã được Adelmo miêu tả nó, sau khi Adelmo moi được từ Berengar. Hãy đọc lại các ghi chú của Venantius.
Thầy rút từ áo dòng ra mảnh giấy của Venantius và đọc lại: “Đặt tay trên thần thứ nhất và thứ bảy của thứ tư”. Thầy nhìn quanh: - Ủa, đúng rồi “Thần” là hình ảnh ở trong gương! Venantius nghĩ bằng tiếng Hy lạp vì trong ngôn ngữ đó, còn rõ hơn trong ngôn ngữ của chúng ta nữa, từ "eidolon” vừa có nghĩa là hình ảnh vừa là ma, và tấm gương phản chiếu chính hình ảnh biến dạng của chúng ta, khiến chúng ta nhầm tưởng là bóng ma đấy! Thế nhưng, cái gì là cái thứ tư "trên thần" nhỉ? Một cái gì trên bề mặt phản chiếu này à? Thế thì chúng ta phải đặt mình vào một góc cạnh nhất định nào đủ để nhận ra một vật phản chiếu trong tấm gương, ứng hợp với sự miêu tả của Venantius…
Chúng tôi thử ở mọi vị trí, nhưng vô ích. Ngoài hình ảnh của chúng tôi ra, tấm gương chỉ phản chiếu những đường nét mờ ảo của căn phòng, dưới ánh đèn tù mù… Thầy William suy nghĩ:
- Thế thì, khi nói “trên thần”, Huynh ấy có thể muốn chỉ bên ngoài tấm gương… như vậy chúng ta buộc phải sang phòng kế, vì tấm gương này chắc hẳn là một cánh cửa…
Gương này cao hơn tầm thước một người trung bình, được gắn chặt vào tường, nhờ một khung gỗ sồi chắc chắn. Chúng tôi sờ khắp nơi, cố đút ngón tay vào kẽ giữa tường và khung gỗ, nhưng tấm gương dính chặt cứng ngắc như một thành phần của bức tường, như một viên đá trong đống đá.
- Nếu không phải bên ngoài, thì có thể là bên trên. – Thầy William thầm thì và kiễng chân, giơ tay lên sờ dọc theo cạnh trên của khung gỗ. Thầy chẳng thấy gì ngoài bụi. Thầy buồn bã suy nghĩ:
- Về chuyện này, dù bên ngoài tấm gương này có một căn phòng thì quyển sách mà chúng ta và các tu sĩ khác tìm kiếm cũng chẳng còn trong phòng đó nữa, vì đầu tiên, Venantius đã lấy nó đi và rồi Berengar đã mang nó đi đâu chỉ có Chúa mới biết.
- Nhưng có lẽ Berengar đã mang nó trở lại đây.
- Không, đêm đó chúng ta đang ở trong thư viện, và mọi dữ kiện đều cho thấy Huynh ấy chết sau khi trộm quyển sách chẳng bao lâu, cũng trong cùng đêm ấy, trong nhà tắm. Nếu không, chúng ta đã gặp lại Huynh ấy buổi sáng kế tiếp rồi. Chẳng sao… Tạm thời, chúng ta đã xác định được “finis Africae” là ở đâu và đã thâu thập được gần như đầy đủ các dữ kiện cần thiết để hoàn thiện tấm bản đồ thư viện, của chúng ta. Con phải công nhận rằng, nhiều bí ẩn trong Mê cung đã được sáng tỏ.
Chúng tôi đã đi qua các phòng khác, ghi lại tất cả các phát hiện của chúng tôi lên bản đồ. Chúng tôi đến những phòng chỉ chất toàn các bản viết về toán học và thiên văn học, những phòng khác chứa các tác phẩm viết bằng chữ Xy-ri mà thầy trò tôi chẳng ai biết, các phòng khác nữa xếp sách viết bằng thứ chữ khó nhận ra, có lẽ là các bản viết từ Ấn độ. Chúng tôi đi lại giữa hai chuỗi phối hợp JUDAEA[11] và AEGYPTUS[12]. Tóm lại, để đọc giả khỏi nhàm chán vì trình tự giải mã của chúng tôi, sau khi đã hoàn tất bản đồ, chúng tôi tin rằng thư viện quả thực đã được xây cất và sắp xếp theo hình ảnh của một quả cầu đất và nước. Về hướng bắc, chúng tôi thấy ANGLIA[13] và GERMANI[14], dọc theo bức tường phía tây nối với GALLIA[15], rồi ở cực tây biến thành HIBERNIA, và về hướng tường nam là ROMA (thiên đường của La tinh cổ đại) và YSPANIA. Mạn nam có LEONES và AEGYPTUS, dần lên hướng đông trở thành JUDAEA và FONS ADAE. Giữa tháp đông và bắc, dọc theo tường là ACAI, thầy William bảo đây là một phép cải dung hay để chỉ Hy Lạp, và trong bốn phòng đó có một kho chứa sách của các nhà thơ và triết gia thời đa thần cổ xưa.
Hệ thống sắp từ rất kỳ quặc. Lúc thì hướng thẳng, lúc thì giật lùi, lúc thì chạy vòng. Như tôi đã nói, nhiều khi cùng một mẫu tự được dùng để cấu tạo hai từ khác nhau; trong trường hợp này, căn phòng có hai kệ: mỗi kệ một đề tài. Nhưng rõ ràng tìm kiếm một khuôn vàng trong cách sắp xếp này chỉ hoài công. Nó thuần túy chỉ là một công cụ nhớ, cho phép quản thư viện tìm được một tác phẩm nhất định nào đó. Một quyển sách tìm thấy trong “quarta Acaiae” có nghĩa là quyển sách đó nằm trong phòng thứ tư, đếm từ phòng trong đó xuất hiện mẫu tự đầu A. Và để tìm đến phòng này, quản thư viện phải thuộc lòng con đường vòng hay thẳng dẫn đến nó, cũng như ACAI được phân bố trên bốn phòng xếp thành hình vuông. Thế là chúng tôi nhanh chóng học được trò chơi của những bức tường trống. Thí dụ, từ hướng đông đi đến ACAI, người ta sẽ thấy không có phòng nào dẫn sang các phòng kế đó: mê cung chấm dứt ở khu vực này, và muốn đến ngọn tháp phía bắc, người ta phải đi xuyên suốt ba ngọn tháp kia. Nhưng dĩ nhiên, các quản thư viện vào từ FONS, sẽ thừa biết rằng muốn đến, thí dụ như ANGLIA chẳng hạn, sẽ phải qua AEGYPTUS, YSPANIA, GALLIA và GERMANI mà thôi.
Cuộc thám hiểm thư viện của chúng tôi kết thúc với những thành quả tốt đẹp như thế. Nhưng trước khi bảo rằng chúng tôi khoan khoái rời Thư viện, tôi xin thú thực cùng quý độc giả một điều.
Cuộc thám hiểm của chúng tôi được tiến hành với mục tiêu chính yếu là tìm cho ra chìa khóa chỉ lối vào nơi bí ẩn này. Tuy nhiên, trong khi đánh dấu sự sắp xếp và đề tài của các phòng, chúng tôi cũng có nán lại giở xem nhiều loại sách, tựa như thám hiểm một lục địa bí ẩn hay một miền đất lạ. Cuộc thám hiểm thứ hai này thường được đồng tình tiến hành khi thầy trò tôi xem lướt qua cùng loại sách, tôi chỉ cho thầy xem những quyển lạ nhất còn thầy giải thích cho tôi những điều tôi chưa hiểu.
Nhưng đến một điểm nọ, khi chúng tôi vừa mới đi quanh các phòng trong ngọn tháp phía nam thuộc khu LEONES, thầy tôi chợt dừng tại một phòng đầy sách Ả rập với nhiều hình vẽ dị thường. Vì đêm đó, chúng tôi đem theo hai ngọn đèn nên tôi bèn tò mò bước sang phòng kế, và nhận ra rằng đồ án thông thái và kín đáo của Thư viện đã tích lũy vào bức tường này những quyển sách không thể đưa cho ai đọc, vì chúng được viết về các loại bệnh trong tâm xác, dưới nhiều dạng khác nhau và hầu như toàn do các học giả vô thần viết. Một quyển sách đập vào mắt tôi, nó không lớn, nhưng được minh họa bằng những hình vẽ thu nhỏ. Tựa sách là “Gương tình yêu”[16], tác giả: Maximus xứ Bologna, bao gồm nhiều câu trích dẫn từ các tác phẩm khác, tất cả đều nói về bệnh tương tư. Chắc quý độc giả thừa hiểu rằng quyển sách đã thổi bùng lên ngọn lửa trong trí óc tôi, từ sáng đến giờ vốn đã nguội lạnh, khiến nó thổn thức nhớ đến hình ảnh cô gái.
Suốt ngày hôm nay, tôi đã cố xua đi nỗi phiền muộn của mình, nhắc đi nhắc lại rằng một tu sinh minh mẫn, thăng bằng chớ nên suy nghĩ như vậy. Hơn thế, trong ngày đã xảy ra nhiều biến cố căng thẳng, nên lòng tôi cũng nguôi ngoai khuây khỏa, tôi nghĩ mình đã thôi bị cơn bứt rứt thoáng qua dày vò nữa. Thế nhưng mới chỉ xem qua quyển sách, tôi liền phát hiện mình bị bệnh thất tình nặng hơn mình nghĩ. Tôi liếc vội vàng qua các trang sách vì sợ thầy William bước vào hỏi tôi đang nghiền ngẫm thứ gì say mê thế, tin rằng tôi đang mắc một thứ bệnh, có thể nói là bình thường, như vô số người đã mắc phải, và có thể xem tôi như một con bệnh mẫu vậy.
Tôi rất xúc động khi đọc các trang sách của Ibn-Hazm, ông định nghĩa tình yêu là một thứ bệnh có thể tự chữa trị, vì con bệnh không muốn lành và không thích ai chạy chữa. Tôi kinh hoảng đọc thấy một người yêu đương cuồng nhiệt, khi không được gặp đối tượng thương yêu của mình, thì thể xác sẽ khô héo và thường phải nằm liệt giường, đôi khi cơn bệnh tấn công não bộ khiến con bệnh mất trí, nói năng lảm nhảm. Nếu bệnh càng trầm kha thì cái chết sẽ theo liền, tôi tự hỏi không biết niềm vui được nhớ nhung này có đáng hy sinh thân xác cao quý của mình như vậy không, chưa kể đến những nỗi đau khác trong tâm hồn.
Cuối cùng, tôi chẳng nghi ngờ gì về bệnh tình trầm trọng của mình khi đọc các lời trích dẫn từ học giả vĩ đại Avicenna. Tiếc thay Avicenna đã đưa ra một phương pháp chữa trị là cho đôi tình nhân thành vợ thành chồng với nhau, như vậy sẽ chữa lành bệnh. Ông quả thực là một người vô thần, dù rất khôn ngoan đi nữa, vì không xem xét đến hiện trạng của một tu sinh dòng Benedict, như thế người ấy sẽ bị đọa đày, hay đúng hơn, được tôn phong không bao giờ lành bệnh. Cũng may Avicenna có xem xét đến trường hợp của những tình nhân không thành hôn với nhau được, và đề nghị phương pháp điều trị triệt để là tắm nước nóng. Thế có phải hôm nọ Berengar tắm nước nóng để chữa bệnh thất tình của mình đối với tình nhân Adelmo quá cố không nhỉ? Nhưng có phải người ta mắc bệnh thất tình đối với người cùng phái, hay đó chỉ là nhục dục thú vật? Avicenna cũng đưa ra cách chữa trị khác, chẳng hạn như nhờ một mụ già chuyên nghiệp phỉ báng người yêu của mình – dường như mấy mụ già giỏi việc này hơn đàn ông. Có lẽ phương pháp này chữa hay đấy, nhưng tôi chẳng thấy có mụ già nào trong tu viện, như thế, tôi phải nhờ một tu sĩ nào đó chê bai cô gái đó giùm tôi ư? Nhưng nhờ ai cơ chứ? Hơn nữa, một tu sĩ có hiểu đàn bà rõ như một mụ già lắm mồm không? Phương pháp chữa trị cuối cùng của Saracen đề nghị mới thực là thất đức, vì nó yêu cầu kẻ tương tư khốn khổ đó cặp với nhiều cô gái nô lệ, một cách chữa hoàn toàn không thích hợp với một tu sĩ. Cuối cùng tôi tự hỏi, làm sao một tu sĩ trẻ thoát khỏi bệnh “tình” đây? Không có cách nào cứu chữa ư? Tôi có nên cầu cứu Severinus và các cây thuốc của Huynh ấy không? Mãi tôi mới tìm thấy một đoạn trong tác phẩm của Arnold xứ Villanova, người mà thầy William đã kính cẩn nhắc đến. Phương pháp do Arnold đề nghị là cố từ bỏ mọi hy vọng tiếp cận đối tượng mình yêu, như thế, mọi ám ảnh sẽ tan biến.
Tôi nhủ thầm, trời ơi, thế thì mình đã lành, hay gần lành bệnh rồi, vì tôi có rất ít, hầu như không có hy vọng gặp lại đối tượng mình yêu, và nếu có gặp lại cũng chẳng có hy vọng đạt tới nàng, và nếu có đạt tới thì chẳng có hy vọng chiếm giữ, và nếu có chiếm giữ hay giữ gần mình thì vì tình trạng tu hành lẫn những trách nhiệm do danh dự gia đình đặt lên thì… Tôi nhủ thầm, mình được cứu chữa rồi, bèn xếp sách, định thần lại, vừa khi thầy William bước vào phòng.
Chú thích:
[1] Ái Nhĩ Lan
[2] Mặc Khải
[3] Miền Thule xa xôi nhất, đối với những người cổ đại là miền ban đầu
[4] Thiên đàng hạ giới
[5] Virgil: (72-19 trước Công nguyên): nhà thơ, nhà ngữ pháp học La mã, tác giả trường ca La tinh “AENEID”
[6] Tây Ban Nha
[7] Khu vực đế chế La mã cổ xưa, bao gồm lãnh thổ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ngày nay
[8] Sư tử
[9] “De aspectibus”
[10] Hai mươi bốn vị niên trưởng ngồi trên ngai
[11] Xứ Ju-đa, nay là Palestine
[12] Hy Lạp
[13] Nước Anh
[14] Người nước Đức
[15] Người xứ Gaul
[16] “Speculam amoris”