Thư vào truyện

Truyện này được viết để tặng một thế hệ tuổi trẻ Việt Nam trưởng thành sau 30-4-1975
Duyên Anh
... Vẫn còn nguyên băng đạn
Nằm ngang lưng quê hương
Đất đau niềm nắng hạn
Trời sầu nỗi mù sương
Bầy sư tử lãng mạn
Thắp lửa tim nhận đường
Duyên Anh

Thư vào truyện

Em Hoàng Sơn Trường,
Anh không biết em còn sống dưới hầm đá biệt giam ở trại Đầm Đùn hay đã chết rồi. Nếu em còn sống, em đang đếm từng ngày trong bóng tối lạnh lẽo. Nếu em đã chết, xác em chôn dưới vùng đất của quê hương, chẳng ai rõ. Chắc chắn trên nấm mồ hiu quạnh của em, thiếu cái mộ bia mơ ước như em thường nói với anh, hồi chúng mình nằm chung xà lim số 7 hôi hám của C1 đề lao Gia Định. Em mơ ước gì nhỉ? Em muốn mộ bia của em khắc Búa Liềm và Còng Mỹ. Và em giải thích rằng, vì Còng Mỹ và Búa Liềm mà em chiến đấu và em hy sinh tuổi trẻ của em. Mơ ước của em thật lạ lùng. Nó cũng lạ lùng như sự dấn thân lãng mạn và cô đơn của em, của bạn bè em, của một thế hệ tuổi trẻ Việt Nam tuyệt vời.
Em nhớ chứ, Trường thân mến, hôm đầu gặp gỡ, anh thử em bằng câu hỏi ngờ vực và bằng sự phán xét kẻ cả về mục đích em theo đuổi, em đã trả lời anh: “Em kính mến anh lắm. Nhưng con đường em đi em tin là chính đạo và lý tưởng. Mong anh đừng bàn tán rắc rối”. Anh phục em từ đó. Chúng ta thân nhau. Trong tù, dĩ nhiên. Em kể anh nghe cái động lực xui em chiến đấu và sự trở về đời sống thảnh thơi, im lặng của em. Thế thôi. Là đã hừng hực mặt trời tuổi trẻ. Là đã vằng vặc mặt trăng tuổi trẻ. Ở tù không hứa hẹn gần nhau lâu, anh bị chuyển xà lim, chuyển dài dài, chuyển phờ phạc. Anh phiêu lưu khắp cõi đề lao. Cuối cùng, anh gặp Ngô Tỵ tại xà lim số 3 C1. Ngô Tỵ nói về em: “Em không hề biết mặt thằng Trường khi em gia nhập tổ chức của nó. Em vẫn tưởng nó phải lớn tuổi, to con, đầy vẻ bí mật. Nằm khu A, buổi sáng, đi đổ rác, em gặp tráng sĩ chùa An Lạc, em hỏi tráng sĩ chứ ‘đảng trưởng’ đâu, tráng sĩ kéo một thằng lùn tì, đeo kính cận ra cửa xà lim khoe em. Em bèn hỡi ơi, ‘đảng trưởng’ của mình nhóc hơn mình”. Anh hỏi Ngô Tỵ: “Bây giờ em còn phục nó không?” Ngô Tỵ cười: “Nó hay thật, anh ạ!” Em đã quyến rũ bao nhiêu bạn bè, em đã quyến rũ anh. Em tuyệt diệu.
Anh gặp thêm Đinh Cường, Đinh Dũng, Đinh Vương, Nguyễn Khánh Long, Đặng Cơ Bản, Đặng Hữu Trí... Rồi lang thang sang khám Chí Hòa, anh gặp vô số những khuôn mặt yêu nước khiến anh lợm giọng. Và anh buồn bã là không còn được sống với các em. Những khuôn mặt yêu nước: những anh già nua thèm danh vọng trải dài đời mình qua các chế độ chưa nắm nổi một địa vị bình thường, những anh thèm thuồng quyền bính đến ngớ ngẩn tội nghiệp đã tụ tập nhau mưu đồ phục hồi dĩ vãng tanh ươn. Họ lập chính phủ, phong cho nhau làm tổng thống, thủ tướng, tổng trưởng. Một xà lim của anh có đến... ba nội các. Và ba vị thủ tướng hết chửi nhau vì quan điểm chính trị lại chửi nhau vì cơm chia không đồng đều, vì chỗ ngủ thiếu ni tấc! Anh gặp những ông quận trưởng vẽ vời chức tước tỉnh trưởng ngày mai. Anh gặp những ông chánh án, dự thẩm vẽ vời món tiền lương “ráp pen” ngày mai. Anh gặp những ông tá vẽ vời sao tướng ngày mai. Anh gặp những ông trung sĩ đang là sư đoàn trưởng hôm nay. Anh gặp những ông tư sản mại bản mơ ước tiếp thu tài sản cũ... Tất cả đều nhận mình chống cộng sản vì tổ quốc và dân tộc... Họ ưa kể lể công lao nằm tù của họ. Nằm tù, với họ, là cái gì thiêng liêng, cái gì đầy đủ đặc quyền đặc lợi khi cộng sản tan rã. Nằm tù, với họ, là sự ngưỡng mộ của toàn dân, mặc dù họ vì vạ miệng, vì say mèm nói láo, vì ham danh vọng nhào vô, vì tự ý dẫn xác đi trình diện xin ở tù. Các em khác hẳn họ. Các em khiêm tốn. Các em im lặng. Chiến đấu im lặng. Sa cơ thất thế im lặng. Đau khổ im lặng. Và thành công càng im lặng hơn. Mà các em đã làm gì có quyền bính? Mà các em đã hưởng thụ được gì từ quyền bính của dĩ vãng? Anh chợt nhớ một câu văn bất hủ của nhà văn Ngọc Giao trên trang đầu tiểu thuyết Nhà quê: “Con ốc nhỏ trối giạt trên bãi cát, bé nhỏ thế thôi, câm nín thế thôi, thế mà trong lòng nó chứa đựng cả sóng gió của đại trùng dương đấy, bạn ạ!” Em, các em, chính các em là những con ốc nhỏ cô đơn và vĩ đại đang trôi giạt trong lòng dân tộc. Ý nghĩa chiến đấu của em, của các em, anh thấy nó từa tựa tư tưởng của một nhân vật của nhà văn Erich Maria Remarque trong “The night in Lisbon”: khi thế giới còn những bọn dã man tàn bạo và mình còn khả năng chống lại chúng mà không dám chống thì đó là tội ác. Nhân vật này cho giấy thông hành người khác, ông ta khước từ trốn sang Mỹ, ông ta ở lại Âu Châu, gia nhập lính lê dương để chiến đấu diệt phát xít. Các em cũng khước từ tất cả để chiến đấu chống cộng sản vì, dân tộc chúng ta, dân tộc Ba Lan, Tiệp Khắc... đang đầy ngập bọn dã man tàn bạo, đang bị trùm kín bóng tối của chủ nghĩa cộng sản đốn mạt. Một bông hồng nào cho em, Trường thân mến. Anh chỉ mới mừng tuổi em hộp diêm, mùng một Tết 1976 owr đề lao Gia Định. Và em rất thông minh, nói nhỏ: “Vâng, em sẽ mãi mãi giữ lửa”!
Em thừa hiểu, tù nhân như anh em mình, cộng sản chẳng dại gì mà nhốt một chỗ lâu ngày. Họ phân tán dần dần. Sớm gần, chiều xa. Tháng 5 năm 1977, em chuyển trại, các em chuyển trại. Tháng 12 năm 1977 anh sang Chí Hòa. Tháng 11 năm 1978, anh bị đầy vào rừng già Sa Ác. Tháng 2 năm 1980, anh về Hàm Tân. Đầu năm 1981, tù nhân ở trại Nam Hà B được điều về miền Nam. Khoảng 500 người nhập trại Hàm Tân, Z30D. Anh gặp vài anh bạn cũ. Có Vũ Xuân Thông, trung tá, chỉ huy phó lữ đoàn Biệt Cách Dù 801, tài tử cao ráo, bô trai trong phim Người tình không chân dung. Bạn anh kể cho anh nghe một cuộc vùng dậy ở Nam Hà B do nhóm 28 “ông nhóc” dưới sự lãnh đạo của Lương Việt Cương đã thổi lửa vào tâm hồn mấy ngàn sĩ quan từ lâu đã cam đành. Lương Việt Cương, anh nhớ lắm chứ, mắt ốc nhồi, giáo sư toán lý hóa, còn trẻ, hồi làm sinh viên ở Đà Lạt đã chan chứa nhiệt tình, hồi ở đề lao Gia Định đã từ cachot này qua cachot khác. Anh nôn nao quá, vội hỏi: “Nhóm 28 ông nhóc có Hoàng Sơn Trường, Đinh Vượng, Ngô Tỵ, Nguyễn Khánh Long”? Có, có, có... Họ trả lời anh. Vậy là em đã bị lưu đày ra tận miền Bắc. Những địa danh nào đã in dấu chân em?
Cuối năm 1981, anh được tha. Amnesty International đã can thiệp cho anh tận tình bằng một sự trao đổi không lỗ vốn cho cộng sản. Tháng 3 năm 1983, anh vượt biên. Thuyền anh ghé Mã Lai. Ở đảo Pulau Bidong anh gặp Trần Dân Chủ và Nguyễn văn Nhiệm. Hai người này, cựu trại viên Nam Hà B, kể thêm những chi tiết hào hùng của 28 tên phản động vĩ đại. Anh liền nghĩ tới một truyện dài mang tựa đề thú vị Bầy sư tử lãng mạn.
Tháng 10 năm 1983, anh đến Paris. Anh tìm đọc cuốn “Goulag Vietnamien” xem anh tù nhân bất đắc dĩ này viết gì về đề lao Gia Định. Cha chả, một cái xó xỉnh đề lao Gia Định thì thấm thía gì với nền tù đày của cộng sản Việt Nam. Vậy mà người ta dám phóng lên thành thứ goulag khiến độc giả ngoại quốc cứ tưởng đó là đỉnh chót vót của thống khổ ngục tù. Tác giả nằm tù đâu có bao lâu. Ông ta chưa có kịp ghẻ mà. Phi ghẻ bất thành tù... đề lao. Ông ta viết tàm bậy, tàm bạ. Chỉ riêng hai chi tiết anh sắp kể đã đủ liệng cuốn “Goulag Vietnamien” của ông ta vào thùng rác vỉa hè. Ông ta bảo cụ Cao văn Diên (phòng 7C1 mình đó, em nhớ chứ?) không phải là phản động và cụ chết ở đề lao. Láo toét, cụ là phản động nặng, bị đầy lên trại Gia Trung, Pleiku và cụ chết bệnh ở Pleiku. Ông ta bảo anh đã chết rồi! Ông ta bảo ông ta lấy được khối chữ ký tù nhân tư tưởng... Trước khi ông ta được tha để leo máy bay sang Pháp, ông ta nằm trong phòng như gà kỹ nghệ, ai mở khóa cho ông ta lang thang khắp trại lấy chữ ký, ai dám ký, ai cho phép ông ta xử dụng giấy bút? Thế mà ông ta nổi tiếng, ông ta dùng cái dĩ vãng tù đầy ân huệ của ông ta để nhảy vào công cuộc... giải thoát dân tộc! Những thứ như ông ta không thiếu gì ở Mỹ, ở Pháp, ở Úc... Anh chạnh nghĩ tới em đang nằm dưới trại Đầm Đùn, và anh bất bình. Luôn luôn, chúng ta thừa thãi bọn tiêu bạc giả. Và bọn tiêu bạc giả cậy mình vô liêm sỉ, dùng bạc giả của chúng khỏa lấp dư luận, bôi bẩn những người công chính. Còn em, còn bạn em, ai biết đến cuộc chiến đấu cô đơn của em?
Anh hiểu em. Anh hiểu em nhiều lắm. Em đi chiến đấu hôm nay như năm xửa năm xưa em xé vở gấp tàu bay đẹp phóng lên trời, gấp tàu thủy xinh thả trôi giòng nước. Em phơi phới. Em chuyền nhảy. Em làm đẹp cuộc đời và không cần cuộc đời biết đến, không bắt cuộc đời nghĩ đến. Có nhiều cuộc đời nhỏ trong một cuộc đời lớn. Cuộc đời lớn không biết đến em vì thật sự không biết hay chưa biết. Nhưng cuộc đời nhỏ, vốn dĩ nó nhỏ, bản chất nó hẹp hòi, nó biết đến em mà nó cứ giả vờ không thèm biết. Nó sợ hãi biết đến em, sợ hãi nói về em với cùng khắp cuộc đời. Nó lo ngại em nổi tiếng hơn nó, em trở thành thần tượng, em trở thành đại thụ còn nó chỉ là cỏ hèn. Nó ghen với em. Và nó tìm cách hãm hại em, cô lập em, bôi bẩn em. Nó không dám chiến đấu bằng con số không thật tròn trong hình vuông thật đẹp đâu. Nó phải bấu víu lấy cái tước vị quá khứ phù ảo và chua ôi làm lý tưởng. Những đứa ghẻ lở, hắc lào rất sợ tắm sông trần truồng. Những đứa vô tài bất tướng lại thích khoa trương, càng ghét những tài năng vàng mười. Vậy thì giữa cuộc đời nhỏ đầy rác rưởi và em đã có một phân cách. Nó chiến đấu để phục hồi dĩ vãng quyền bính cũ. Em chiến đấu để khai phóng tương lai. Nó ngoảnh lại. Em nhìn lên. Nó chiến đấu cho nó. Em chiến đấu cho mọi người. Em trực diện với nghịch cảnh. Nó nằm chiêm bao nỗi khổ. Em chiến đấu bằng nhiệt tình và lòng tự phụ của tuổi trẻ Việt Nam. Nó chiến đấu bằng tiền quyên góp phè phỡn. Em không cần nó biết đến em là em xứng đáng, em được quyền kiêu ngạo.
Trong truyện dài Sỏi đá ngậm ngùi anh đã viết rằng nỗi thống khổ là văn phạm của đời sống, sự cô đơn là ánh sáng soi rõ đất trời. Em, các em, chiến đấu trong thống khổ và cô đơn, trong im lặng và thầm kín. Các em đang làm tác phẩm lớn cho đời sống, đang cố gắng để lại những dấu ấn vàng son trên sinh đạo mà các em đã một lần vượt qua. Anh, các anh, những nhà văn, nhà thơ, những nghệ sĩ sáng tạo cũng mang nỗi thống khổ và cô đơn như các em. Các anh đã, đang và còn làm tác phẩm cho đời sống. Phải nói một cách khẳng định rằng, chỉ có nghệ sĩ sáng tạo mới biết làm đẹp đời sống, chỉ có nhà văn, nhà thơ mới đủ tài năng và thẩm quyền làm đẹp đời sống của những ai làm đẹp đời sống. Chúng ta đau khổ, chúng ta cô đơn, chúng ta im lặng chịu đựng. Bởi vì chúng ta làm việc để làm việc, chúng ta không làm việc để phô trương. Hình như chúng ta vẫn chưa yên thân. Chúng ta vẫn bị cái thứ cuộc đời nhỏ rình rập nghi ngờ. Thứ cuộc đời nhỏ gồm một lũ thích ngồi trong xó tối giả giọng chó sủa gây khó chịu cho người đi ngoài ánh sáng. Thứ cuộc đời gồm một lũ chẳng thích làm gì mà chỉ sợ người khác làm hơn mình. Cái thứ ấy, trong Thuyền nhân, anh viết: “Bao giờ biết nổi giận? Bao giờ trời gầm thét? Bấy giờ, vòng tròn bao la sẽ là cõi mịt mù và con thuyền vượt biên ngoi ngóp trong cái cõi mịt mù khốn cùng đó. Và con người lại càng hiểu giá trị làm người của mình không bằng tấm mảng mục. Con người sẽ sợ hãi, sợ chết. Con người sẽ khóc lóc, than van. Con người sẽ biến mất những ích kỷ hèn mọn, những ghen tuông đê tiện, những phán xét ngu muội. Con người, bấy giờ, bỗng thèm sống và tự hứa với chính mình, nếu sống sót sẽ cố sống ra vẻ một con người. Những kẻ thích thị phi người khác, thích nghị luận những lầm lỗi mơ hồ của người khác, thích phán xét người khác bằng những điều đồn đại, vu khống, thích nằm chiêm bao nỗi khổ, chằng khi nào được vinh dự chìm đắm giữa mù khơi, ngoi ngóp trong nỗi sợ. Những kẻ ấy, những kẻ giả hình ấy, chỉ cần một phút chênh vênh trên đường chết, năm phút nhức nhối tinh thần, mười phút quặn đau thể xác là gục xuống cúi lạy cái quyền uy có thể ban phát cho chúng kiếp sống cỏ dại. Chúng sẽ khả ố, bỉ ổi gấp triệu triêu lỗi lầm của những người bị chúng phán xét oan ức. Bất hạnh cho bọn giả hình, Thượng Đế đã không bố thí cho chúng một miếng ân sủng nhỏ về nỗi cô đơn và niềm thống khổ. Do đó, một đời tẻ nhạt chúng đeo đuổi, chúng chỉ loay hoay trong cái vòng tròn nhỏ bé đánh đai bởi những ý nghĩ bẩn thỉu của kèn cựa, tranh giành, vu khống, chụp mũ, nói xấu, bôi bẩn và nhục mạ người vắng mặt. Chúng ngu dốt, không biết định nghĩa hai tiếng cao thượng. Chúng hèn nhát, không dám đối mặt người công chính. Chúng lầm lũi như bọ hung. Chúng chẳng thể hiểu thế nào là tồn tại, là sự phục sinh của nỗi chết. Việc làm của người công chính, ý nghĩa tốt đẹp của người công chính để lại cho đời sống sẽ phục sinh cái chết của người công chính. Tác phẩm để đời của nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ... phục sinh cái chết của họ và cho phép họ tồn tại vĩnh cửu. Bọ hung không để lại cho đời sống cái gì. Chúng chỉ để lại vết tích ô nhục trong gia phả của chúng cho con cháu chúng tưởng niệm xót xa. Người công chính đã được tuyên dương xứng đáng trong Thánh Kinh. Chúa đã dành cho họ phần thưởng trên Thiên Đàng. Dưới cõi thế, họ vẫn can đảm sống, vẫn làm đẹp đời mình, đời người khác. Vì, họ biết, đời sống chỉ có một số bọ hung, một số Lý Thông gian ác. Còn rất đông Thạch Sanh và công chúa cổ tích”.
Trường, em hiểu tại sao Lý Thông cứ muốn Thạch Sanh nằm mãi dưới hang không? À, Thạch Sanh lên đời thì Lý Thông xuống lỗ. Thạch Sanh có cây đàn muôn điệu. Lý Thông chỉ có cái đàn miệng với bài duy nhất “Người đi đường và con chó”. Vậy nó không biết đến em, nó rình rập em, nó nghi ngờ em vì nó sợ nó là lãnh tụ giả mà em là lãnh tụ thật. Nó muốn độc tôn. Nó muốn chỉ có nó quốc ngoại. Nó không muốn có ai quốc nội. Anh viết về các em, anh nhận các em là lãnh tụ cao quý, anh minh, vĩ đại của anh, nó sẽ chán lắm, cái cuộc đời nhỏ ấy mà, nó sẽ hăm he anh, nó sẽ lập tòa án (!) xử anh, nó sẽ ghi tên vào sổ đen! Ồ, chấp chi. Anh già rồi. Năm mươi tuổi rồi. Mệt rồi. Thừa thãi danh tiếng rồi. Anh không cần ai khen anh, cũng chẳng sợ ai chửi anh. Với đất nước, anh đã có 50 tác phẩm văn chương và hơn 200 số báo Tuổi Ngọc. Với đất nước, bọn đi đường và con chó không có gì. Không có gì cả. Với cộng sản, anh đã đi vào “văn học sử” của họ bằng những pho sách “Những tên biệt kích trong mặt trận tư tưởng, văn hóa miền Nam”, “Văn nghệ Sài gòn dưới thời Mỹ Ngụy”, “Vụ án hồ Con Rùa”... vân vân và hàng trăm bài viết đào cha bới ông anh ở báo Hà Nội, báo Sài gòn; hàng trăm bài nói nguyền rủa anh trên vô tuyến truyền thanh, truyền hình; hàng trăm buổi học tập mạt sát anh ở đại học, trung học, tiểu học, ở quận, phường, xã, ấp. Anh sừng sững cả trên “Xã luận” của báo Nhân Dân. Đến nay anh vẫn là đối tượng, vẫn còn là bia hứng tên thù cộng sản. Với cộng sản, bọn đi đường và con chó không đáng được đề cập, dù nửa chữ, nửa lời! Cuộc đời lớn còn rất đông Thạch Sanh và công chúa cổ tích. Riêng anh, còn độc giả của anh. Độc giả trong nước thương anh hơn xưa. Độc giả Hà Nội say mê tiểu thuyết của anh như độc giả Sài gòn. Người ta lén lút đọc anh, chuyền tay nhau đọc anh. Độc giả ngoài nước mong đợi tiểu thuyết mới của anh, tuổi trẻ Việt Nam ở Âu châu còn thèm nghe điệu kèn harmonica của Chương còm, thèm xem tài bắn súng cao su của Dzũng Đakao, thèm hoan hô đường bóng của Bồn lừa... Anh có thể kết luận: bọn đi đường và con chó chỉ đủ khả năng giết chó mà không thể hãm hại được chúng ta. Vì, không có khí giới nào giết nổi tài năng đích thực và những tâm hồn ngọc. Và anh vẫn còn nơi nương tựa vững chắc. Là cuộc đời lớn bao la, rộng mở, công bình, hào sảng.
Anh sẽ tiêu pha không tiếc gì chữ nghĩa vàng son để bọc lấy những tấm lòng thơm ngát của các em, của những người tuổi trẻ Việt Nam chiến đấu trong thống khổ và cô đơn. Bầy sư tử lãng mạn ở quê nhà, hãy yên tâm sống và yên tâm chết. Lịch sử sẽ thay đổi. Phải thay đổi. Đó là chân lý. Và chân lý ấy phóng lên bầu trời quê hương ngút ngàn thù hận bằng cung cách sống, chết dưới hầm đá trại Đầm Đùn. Sống làm thăng hoa yêu thương, rực rỡ tình người. Chết làm phục sinh tự do, dân chủ và nở rộ hoa nhân ái trên còng tư bản, trong ngục vô sản. Cung cách sống chết khai sinh một kỷ nguyên mới của những người tiểu tư sản lãng mạn, hào sảng và ước mơ...
Thế nhé, em yêu dấu!