Chương I

    
êm ngồi một mình
(Độc dạ) [1]
Một mảnh đất vừa ồn vừa thấp ở nơi thành thị
Một con người vừa già vừa ốm giữa trời đất
Đem thân ra đời đã thành người thừa
Náu vết hãy chịu lầm than vậy
Nhưng nạn rét nạn lụt cứ liên tiếp phát sinh
Huống chi dân đen bị tai nạn chưa được hồi phục
Không có một sách lược gì cho đời được thái bình
Thẹn mình là nhà nho mà tầm thường đến thế.
Vũ Khiêu (dịch nghĩa)
Trong lúc ốm
(Bệnh trung)
Là một anh đồ hủ, thân tàn mà chưa chết
Cố gượng mang bộ xương mỏi mòn còn phải nhờ người nâng hộ
Nép mình giữa trời đất, thương bàn tay cô đơn
Ngoảnh nhìn con đường mây khói, chí cả chưa được vùng vẫy
Biết bao giờ được về ở yên trong tổ như con chim én
Một ngày kia lại thẹn với đàn quạ đậu nơi vườn tốt tươi
Chú bé con không hiểu cái bệnh Duy Ma của ta
Cứ hỏi luôn rằng: vành đai lưng có gầy đi phần nào không.
Hoàng Trung Thông (dịch nghĩa)
Chải đầu
(Sơ đầu)
Một đời đã phụ cả năm xe sách
Trải mãi gió bụi, mái tóc càng thưa thêm
Tâm sự và tóc cần chi phải so sánh ngắn dài
Đến lúc đã rối bời thì cũng rối bời như nhau.
Xuân Trang (dịch nghĩa)
Chiều tà, say trở về
(Bạc vãn; Túy quy)
Say mềm, đi về không cần người đỡ
Cả một dải sông mịt mờ những khói cùng tre
Lầm rầm khẻ hỏi bông hoa sen
“Có đỏ được bằng mật rượu của ta không?”
Nguyễn văn Bách (dịch nghĩa)
Họa bài thơ thọ 70 tuổi của ông Kinh Doãn họ Nguyễn - Nguyễn Công Trứ
(Phục họa Kinh Doãn Nguyễn Công thất thập thọ, thứ vận)
Một mình ngồi chống tay vào cằm nhìn về núi phía nam
Xa tưởng đến hồi tiên sinh còn chưa già
Sự gặp gỡ của bậc anh hùng từ xưa vẫn khác thường
Những người tuổi cao đức cả (như tiên sinh) ngày nay thật hiếm
Mùi đời đã nếm đủ rồi rút cục vẫn cần đến rượu
Cấm ngặt hoa sương không cho bén vào râu
Nghe nói người muốn quay về ngọn núi Hồng
Có lẽ sáu mươi chín năm qua đều là sai cả.
Trúc Khê (dịch nghĩa)

*  *  *

Phải khi mùa hanh hao, gió bấc thổi đêm ngày liên hồi kỳ trận, trời đất mù mịt trên sông Cái, thoạt trông sang chẳng thấy Bà Móc, chợ Cầu Cháy đâu, cả đất Kẻ Chợ vùi vào làn cát đỏ rực. Song để ý kỹ, dần dần nhìn ra những cái nan, cái thúng, người với gồng gánh sang ngang và đôi chốc, một cái mảng, một chiếc thuyền đại tạt vào ăn bến chợ ông Nước, bọn người neo lái phải vừa chèo vừa hò ơi ới để lấy đường nước giữa làn cát mờ mờ táp vào mặt. Tưởng như gió cát triền miên, đò giang cách trở thế, chẳng mấy ai qua lại, thế nhưng mọi đồn thổi thì chỉ một nhát, bên này sông, bên kia sông đã dậy lên.
Cái tin ông giáo thụ Cao bị hại ở Kệ đưa về đến Dâu Chùa hầu như ai cũng biết. Dĩ nhiên bởi có người ở các xóm trong bãi dâu này bấy lâu đã đi theo ông. Ai cũng còn mong ngóng tin tức người khác nữa. Nhưng cái hung tin ông giáo thụ bị chém chết, lại nói rõ bị đội Quang đã khét tiếng ác ở Sơn Tây chém ngã ngựa giữa trận thì đích rồi. Có người làng khi vỡ trận chạy từ trên ấy về đã kể được mắt thấy rõ ràng.
Có một người bụng nóng như lửa đốt, ấy là cái nhà Cõi ở làng bên. Cõi đã cắp sách cắp tráp hầu thầy từ hồi ông giáo thụ còn ngồi bảo học ở làng nhà. Rồi thầy vào Kinh làm quan, chẳng biết phạm thượng phải tù tội thế nào, đến khi thầy về phủ Quốc làm giáo thụ, nhưng làng nước cứ gọi tôn lên chức huấn đạo. Thầy về làng ai cũng một điều thưa bẩm quan huấn. Thầy lại gọi Cõi lên theo.
*  *  *
Tháng ba ngày tám, rồi những khi chưa đến kỳ hạn tải dầu xuôi, Cõi lại lên phủ Quốc. Thôi thì cắp sách hay cắp tráp, mài mực hay cầm cờ, cầm súng vẫn một dạ vậy. Một ngày nên nghĩa, vả chăng, Cõi cũng được đứng hàng môn sinh, đồng môn học trò thầy. Hàng năm, đồng môn thuộc ngày kỵ hai cố sinh ra thầy, hay khi cơm mới và tết nhất, thầy ở nhà trong làng, thầy ra ngoài đình Ngang hay trên hồ Tây, Cõi cũng được dự. Gia cảnh thầy thanh bạch, nhưng một nhà có đông đủ học trò bố, học trò con, đồng môn đơn đồng môn kép, thật phúc đức hiếm thấy.
Ngày thầy Cao về phủ Quốc rồi nổi quân, Cõi theo ngay. Cái gánh dầu kiếm ăn độ nhật để nhà cho mụ Cõi. Ra đi, chỉ nói: “Này nhà nó, thầy nhắn việc nước như lửa cháy, ta phải đi đây”. Mụ vợ vùng vằng, lẩm bẩm: cháy thiên hạ chứ cháy đâu nhà mình mà mua việc. Chẳng biết Cõi có nghe tường câu than vãn ấy không, nhưng Cõi đã đi buột ra ngoài cổng rồi. Vợ Cõi gánh dầu đi bán các xóm, hết lại sang đong bên bến Bà Móc. Bần cùng mới phải lấy xỉ thế, chẳng được mấy lời lãi.
Thỉnh thoảng, đôi khi Cõi về, đi cất dầu trên phủ Lâm rồi nhờ bè mảng thả về. Khi đi khi ở, chẳng nói chẳng rằng, cứ lậm lụi thế, nhưng thực thương vợ vất vả, con cái lại muộn mằn. Người vợ cục tính, có hôm về, Cõi phải lụi hụi thổi cơm lấy. Cõi chịu nhịn vì Cõi biết mình cũng phũ tính, nó mà cằn nhằn, ỷ eo thì Cõi vật cổ, đòn nhừ tử ngay. Chuyến vừa rồi, Cõi về, đã mấy phiên hết dầu, mụ vợ ở lỳ nhà. Cõi cũng động lòng, lại tất tả lên ngược. Rồi xin chân đẩy bè gỗ, để ghé được cả chục thùng dầu chẩu. May mà lúc ấy Cõi nhớ ra, ngóc dậy, cố neo cái bè ghé được vào đậu bến chốc lát, không đến nỗi trôi thẳng. Chỉ vì mấy hôm Cõi lên cơn sốt rét, nằm run trong lều mảng. Rõ lạ, ở trên Kệ, cả tháng trong rừng, leo núi nhoăn nhoắt như con tườu, thế mà chỉ một phiên qua Hưng đã ngã nước. Vừa dứt cơn sốt, lại sốt ruột trên Kệ Sơn. Từ khi rút vào Mỹ Lương thì có cơ dừng chân lâu được. Nhưng mà rồi thế nào chứ, đâu lại chịu ru rú trong xó rừng. Chắc là thầy mong... Cũng vì cứ lo, cứ thao thức thế đâm ra tỉnh ngủ, may mà canh chừng nhớ được bến làng...
Nhưng mà, khi quá gian lao, người ta hay gắng sức, sau rồi mới thấy nhọc. Bước vào nhà, Cõi bíu tay lên cái cột hiên, hai đầu gối còn run. Con ma làm bệnh sốt rét, càng khỏe nó càng hành, tưởng lại quị. Rồi Cõi nằm liệt giường cả phiên chợ, mặt hốc hác bệch như mảnh giấy bản. Vừa mới ngóc đầu dậy được thì cái tin thầy Cao chết trận ập về. Cõi ngồi lên, tựa lưng vào vách. Cõi cứ ngồi như pho tượng, từ chiều cho đến nửa đêm.
Cõi còn nhức nhối hơn cả lúc đương cơn sốt. Mới tháng trước, Cõi về trong Kệ. Mấy năm đi hầu thầy khắp các trận, từ phủ Thanh Oai vào phủ Ứng Hòa, sang bên Quế Quyển, đến khi ngược lên phủ Quốc lượt nữa, chạm trán với quân lãnh binh Sơn Tây rồi mới lui vào Mỹ Lương. Thong thả, Cõi được thầy để về lo việc nhà ít ngày. Bấy lâu, thỉnh thoảng thầy vẫn cho thế. Thì Cõi lên ngay phủ Lâm lấy dầu về. Định ở nhà vài phiên đi bán đỡ mụ ấy. Thế mà bây giờ nghe thầy bị đụng ở Kệ, thầy đã chết ở Kệ, vậy là ra làm sao?
Cõi không thể tin. Vừa mới hôm nào ở Kệ với thầy kia mà. Đến hôm có người trưởng tràng lẻn đến bảo nhỏ:
- Mai đồng môn cúng năm mươi ngày thầy.
Cõi mới nửa tin nửa ngờ. Lừa một lúc mụ ấy đi đâu, Cõi chống cái đòn cán, buông cửa, đi đến đấy. Đám đồng môn cúng năm mươi ngày thầy làm kín ở một nhà ngoài đầu đồng. Bọn chức dịch mà biết thì phải mang vạ nên không mổ lợn, thịt trâu cúng và không ăn uống, mà chỉ thắp nén hương, những nén hương đen châm lên rồi cẩn thận quây cót cho khói tụ bay lên trời, trong xóm không ngửi thấy mùi hương cúng. Hầu khắp các học trò thầy đến. Người trưởng tràng quỳ lạy trước bàn thờ có bài vị thầy, gào hai tiếng: Ô hô! Ô hô! Rồi khóc rưng rức.
Bấy giờ Cõi mới ngờ ngợ thầy đã mất thật. Cõi về, nằm như bị sốt lại mất nửa buổi. Hôm sau, Cõi lử khử bảo vợ:
- Sớm mai, nhà mày cho tôi một nắm cơm.
- Người còn như con sên thế, đi đâu?
Cõi thở dài:
- Phải ra ngoài xem thế nào.
Mụ Cõi gắt:
- Xem xỏ cái gì?
- Chưa biết à?
- Làng này còn mấy đứa toi theo rồi. Rõ ở dưng chẳng lành...
- Bà bỏ lỗi cho.
Rồi Trắt im. Người đàn bà lại nói, với người đàn ông chất phác, nhưng giọng chua chát, kể lể:
-Chẳng giấu chú, tôi là con hầu thứ tư trong nhà, nhưng quan nhà này có đến đứa hầu thứ mười lăm, thứ hai mươi kia. Chật chội quá, tôi phải ra ở riêng cho mát mẻ.
Trắt nghe biết vậy, không nghĩ là câu nói xót xa của người đàn bà bị hắt hủi trong cảnh năm thê bảy thiếp.
- Bà ở ngoài này lâu chưa?
- Lâu rồi.
- Quê bà ở đâu?
Người đàn bà nghe hỏi, hàng nước mắt tràn ra mí, đong lại rồi chảy xuống hai bên má đã rám. Không nói được nữa, mặc nước mắt cứ ròng ròng.
Một lát mới thở dài:
- Đừng gọi tôi bằng bà. Tôi không phải là bà. Tôi cũng chưa đến tuổi ấy. Nghĩ lắm, cay đắng lắm thì nó rộc người ra như thế này.
Ngoài cổng, tiếng ốc rống lên, xói vào tai, như tiếng ốc rúc cháy nhà. Trắt nhớn nhác nhìn ra.
- Chú cứ ngồi, chẳng ai vào đây mà ngại. Tôi gọi nó đem khóa ra. Lại của nhà bếp về đây mà. Không sợ, mặc kệ các thằng tráng xuống đẩy cổng.
Người đàn bà thoắt vào sân trong. Trắt nhác nhìn nhanh mắt một lượt. Ngôi nhà một gian, hai trái, vách dựng đất trấu. Đằng sau một chuồng gà. Con gà mái đương túc túc gọi con. Vại nước có cái mo buộc vào gốc thân cây chuối, vắng lạnh, gọn như nếp nhà của người già ở một mình. Thế là được biết chị ta là vợ thứ tư đội Quang. Nhưng tội tình gì mà phải ra ở đây. Trắt tặc lưỡi: “Những nhà giàu, nhà quan, vợ nhiều như lợn con. Nếu không phải vì thằng chồng rẫy thì cả lũ ở với nhau cũng đủ chết vì nói cười thơn thớt mà bụng bổ dao găm, những toan giết nhau không tanh dao”.
Lại mấy người quảy vào mấy cái bu đại. Toàn là gà Mía trên Sơn đưa về. Những chiếc đòn càn thọc qua nan miệng bu, con gà trống lông mã đỏ tía thò cổ kêu hộc hộc, như nỗi khó nhọc đường xa.
Trắt hỏi:
- Nhà có tiệc à?
- Cả tỉnh này đồn mà anh không biết sao?
Lúc nãy là chú em, bây giờ gọi anh, người đàn bà cứ nói, tình cờ như không để ý.
- Tôi chẳng biết gì cả.
- Nhà làm tiệc khao.
- Tiệc tùng nhà quan thì như cơm bữa ấy mà!
- Ông đội Quang cứ mỗi trận đi đâm chém về lại mở tiệc. Nghe nói dạo trước cái trận trên Mường được to lắm, về đã khao ngay ở Sơn, xuống đây lại tiệc, lại tiệc, cơ mà cũng được thăng chức nữa kia.
- Chắc là lên quan lãnh.
Cô Tư chép miệng:
- Nào tôi biết được?
Trắt rùng mình, nóng bừng mặt tai nghe những tiếng “đâm chém”, “trên Mường” mà cô Tư vừa nói. Ngoài đường lại inh ỏi tiếng ốc. Cô Tư lại lụi hụi chạy vào sân trong, vạt áo đổi vai tứ thân nâu non lất phất ra sau, chỉ kịp vắt lên một bên vai trần. Trắt nhìn theo, nuốt nước bọt.
Lại đến bọn buôn gạo. Gạo mới ở thuyền lên, hầu như gạo cả dãy chợ Bạch Mã ngoài cầu Đông quảy vào. Thấy tíu tít đông người lại lạ mắt, Trắt ỷ tứ vào đứng sau tấm mành mành nhìn ra đám hàng gạo quảy những chiếc bị cói đại đậy vỉ buồm, những đôi thúng to, nặng trĩu đòn gánh. Nhìn đám gánh gạo, Trắt nghĩ: cô vợ tư đội Quang đương thù cả lũ chúng nó, có khi có thể tin được. Cứ một việc lọt được vào đây ngồi từ bấy tới giờ, đã chẳng ngờ.
Cô Tư vào. Trong nhà sau bức mành, nồng mùi hói dầu mỡ và hơi người, cô quát khẽ:
- Chết chửa, đứng thò đầu đòn gánh ra ngoài mành mành thế, khác nào nhà này chứa tù xổng. Ngồi hẳn vào trong kia nào!
Trắt thật thà:
- Tôi là thằng bán dầu, có trộm cắp gì đâu.
- Nhỡ cái, có đứa trông thấy thì tôi phải vạ.
Trắt nói:
- Thằng lính trên cổng để người vào mới phải tội.
Rồi Trắt dịu giọng:
- Cô cho tôi đứng xem người ta một mảy. Mấy khi đã được ở cửa nhà quan.
- Vào trong khuất kia mà nghển cổ lên. Không phải dọa. Đây là cửa quan, đừng giỡn mà chết!
- Tôi, tôi...
- Bọn gánh gạo nữa lại vào mà anh vẫn luẩn quẩn đây. Thằng lính trên cổng đã trông thấy anh ra đâu. Nó tinh ma lắm đấy. Chết thôi...
Trắt chắp tay:
- Chẳng phải giấu ai, tôi có việc...
- Ở đây không có ai là ai.
- Tôi xin...
- Lại tiếng chân trâu, chân ngựa nhốn nháo ngoài đường kìa.
- Tôi thưa với cô Tư.
Người đàn bà ngơ ngác nhìn Trắt.
- Anh nói thế nào, tôi nghe chưa ra.
- Chuyện dài, không nói hết ngay được.
Cô Tư ghé gần lại:
- Bảo thật, ra ngay, không có không xong. Đấy lại tiếng ốc, thằng tráng lại xộc xuống kia. Có chuyện gì phiên sau đến.
- Phiên sau là bao giờ?
- Phiên chợ ngoài ô, ngày tám.
- Lại vào đây à?
- Ừ.
Trắt còn ngẩn ngơ vì được cái hẹn đột ngột, người đàn bà như đã sắp sẵn câu nói:
- Từ nãy, đông người ra vào, thằng tráng khó nhớ được anh đã ra chưa, nhưng anh cứ đi đằng cổng cho nó trông thấy hẳn hoi. Phía sau bụi chuối có cây tre bắc qua hào, ngoài ấy có cái chỗ dưới bụi ô rô, cày cáo vân chui. Phiên chợ sau chịu khó chui vào đằng ấy, đừng để ai trông thấy. Nhớ chưa?
- Nhớ!
- Phiên chợ sau, buổi trưa, bây giờ khách đương đông. Thấy người thì nép xuống đám cỏ lau chớ ngẩng đầu lên, nó chém đứt cổ đấy. Rồi lên đây.
- Vâng ạ.
Lâu nữa, Trắt nhìn cô Tư, lại thấy không hiểu. Nét ủ ê lúc nãy bây giờ thân mật tươi ra, nói vẻ săn sóc, dặn dò, như với người trong nhà.
Anh hàng dầu đã ra ngoài trước cửa. Cô Tư lại tất tả vào sân trong rồi ra cùng người nhà áo the, khăn lượt, cầm cái chìa khóa đuôi chuột.
Cô Tư nói to với Trắt, với bọn lính:
- Tiện cổng mở thì ra đi. Nó đợi ra từ nãy, tôi không dám tần phiền các ông.
Rồi lại ghé vào tai Trắt:
- Lần sau đi chân tay không, đừng rước hai cái thùng của nợ ấy đến nhẻ...
Đứng với Trắt, đợi mở khóa rồi hai người tráng khom lưng đẩy cánh cổng, cô Tư cứ chuyện bâng quơ với mọi người, cô Tứ bẻo lẻo mồm miệng, cứng tuổi rồi mà xưa nay vẫn bẻm chuyện.
- Chú hàng dầu sướng nhẻ, chưa đứng bóng mà đã bán sạch một lèo cả hai thùng. Sớm nay ra ngõ gặp giai.
Trắt nghĩ, mà không dám đối đáp “Gặp gái thôi, nhưng mà được cái may”.
Tối hôm ấy, rồi quanh quẩn, Trắt lại lần về Hàng Hòm. Ngồi nín lặng, vẫn nghĩ về lúc sáng vào được trong cổng nhà đội Quang, được chuyện với người vợ lẽ chắc là bị đánh đuổi, hắt hủi ra đấy, lại được cái hẹn. Trắt cứ ngỡ ngàng không thể nghĩ ra trước được. Thế thì những ông đã ngồi đây có thể giúp một tay. Lúc thì bốc lên, nhưng rồi nghĩ lại, phải có cách rõ ràng. Cách thế nào thì cũng phải trèo tường lên dỡ ngói.
Nhưng không thấy ai trở lại. Mấy hôm nay vẫn chỉ đông đám thợ cối, thợ khắc, thợ thuộc da bò da trâu cho các nhà chủ ở Hà Trung, ở Hàng Da. Mãi quá nửa đêm mới thấy một người lò dò vào. Trắt nhận ra cái dáng cao lớn, cằm bạnh, cẳng chân dài như những người quen sông nước, chèo lái cả đời, vai ngực vạm vỡ hơn đôi bắp chân. Ngoài trời vẫn mưa sập sùi. Bước vào trong mái hiên, người ấy nhấc chiếc áo tơi lá sột soạt giống con gà đội mưa chạy vào chỗ ráo, rũ một cái. Nước bắn cả vào đám đương nằm ngủ sau cái giại đầu hiên, mà cứ làm như không, bọn kia cũng ngủ say, không biết.
Vừa vào, đã thì thào với lão quán. Trắt ngồi ngay đấy, nghe rõ, nhưng người kia cứ nói chẳng để ý, như người bên cạnh đã là chỗ quen biết.
- Khuya một mảy, tôi đem đến.
- Cái gì đã?
Khách cười hô hố.
- Của giời cho mà lại biết trước hả?
Lão quán gật gật.
- Cũng phải biết chứ. Nhỡ đem cái đầu lâu về thì để vào đâu, thối hoăng lên.
- Không, không. Gửi cái mới.
- Nói đùa vậy, cái mới hay cái sỏ người sỏ lợn cũng được.
Người ấy đứng dậy, toan đi. Trắt giơ chén.
- Ông anh cạn với em một chén cho ấm bụng. Mưa gió thế này.
Người nọ cúi nhìn Trắt rồi cười khà khà.
- À, chú mày, thằng lái dầu! Xem ra chú mày cũng nhớ bọn tớ đấy nhỉ. Nhưng mà tao cũng hỏi lại, mày là trương phiên khán thủ hay thủ túc lạnh Quang đấy? Khai thực ra, không thì ông xiên cho một nhát ngay.
Lão chủ quán nói:
- Đã bảo rồi, người tử tế mà. Chú ấy mong các ông đã mấy hôm.
Trắt nói:
- Ông anh cho đàn em theo với.
- Chú mày túng đói hay có thù ai?
- Thằng đội Quang...
- Đội Quang mới ở Sơn về được thăng chánh phó lãnh binh ấy a?
- Chính nó.
- Tao phải hỏi lại, mày đi rửa thù hay mày muốn vào ăn trộm nhà nó?
- Em trả thù.
- Cái thằng đội Quang ấy thì cả thiên hạ Sơn Tây, Kẻ Chợ này thù nó. Khéo đến lúc mày lọt được vào nhà nó thì đã có đứa chặt mất đầu nó rồi.
- Em đã vào được nhà nó.
- Có đứa dắt mối a?
Trắt lúng túng, ấp úng. Người kia nói luôn:
- Cái ả Tư phải không? Trông mặt chú mày tao đã biết bà già, gái tơ còn khối đứa chết mệt với chú này. Thằng bán dầu mà chấp chới đào hoa đấy! Đã thuổng cuốc với ả Tư được chưa?
- Không, em không phải lòng phải bề ai đâu, em còn cái thù phải...
- Bây giờ chú cần gì anh?
- Anh dạy em leo tường, moi vách, cậy cửa... Các ngón...
- Được, gì nữa?
- Thế thôi. Em nậy cửa vào buồng nó, em chặt đầu nó, xách ra.
- Không dễ như mày nói đâu.
- Phải học các anh đã. Rồi em vào nhà nó đương lúc có tiệc này.
- Ừ, nhưng mà mấy hôm, hôm nào nhà nó chả có tiệc.
- Em đã có...
- Cứ hú hí với ả Tư, vài đêm nằm đợi đấy, vội gì.
- Em đã có hẹn.
- Đã bảo có hẹn thế thì càng tốt.
- Lạy anh, em chỉ ước một điều.
- Được tao sẽ hộ mày.
Người ấy đi khỏi, ông lão quán nói:
- Hôm nọ tao đã kể. Trên bến Bỏi có một đám cướp tài lắm. Tiếng là đi ăn cướp nhưng không cướp của ai một đồng kẽm, một manh áo rách.
- Lạ nhỉ!
- Gầm giời có một đấy. Chỉ cướp cứu người giúp người.
- Thế lúc nãy bác ấy bảo xồi đem đến gửi...
- À, khi thì gửi tin, khi thì gửi người trọ.
- Chắc bác ấy là người cánh cướp trên bến Bỏi?
- Biết được!
Trắt đã biết thêm một tin lạ. Ngay từ lúc ấy, Trắt đã phấn chấn, quên cả chuyện về bàn với Cõi. Không, Trắt không quên, mà Trắt tưởng đến một sáng sớm kia, Trắt qua đò về đến nhà Cõi, Trắt cởi cái tay nải nâu, Trắt ném ra cái đầu lâu đội Quang. Trắt ngỡ như thật.
Trên tường thành Cửa Đông, Cửa Nam những tiếng trống điểm canh vọng lại. Các ông ăn sương, cái gì các ông cũng biết. Cả đến cái cô Tư hay giăng dện. Lai còn thế vậy. Các ông như thầy bói sáng, nói vanh vách. Có thể như thế, không thì sao chỉ chốc lát chẳng quen biết ra thế nào mà người ta đã đậm đà, đã cặn kẽ thế. Nhưng Trắt cũng chỉ thoáng nghĩ vậy. Từ giờ đến đầu phiên sau còn ối cái phải lo tính. Trước nhất được các ông dạy cho mấy miếng nhà nghề. Có lúc định gọi Cõi ra, nhưng lại thấy chưa đâu vào đâu, ra thêm bộn, mà không có cái ăn. Thế này là thấy mói rồi. Để xem đã.
Cái tiệc nhà ông đội Quang mừng được thăng chức chánh lãnh binh mà rộn cả đất Kẻ Chợ. Như làng vào đám, cỗ bàn linh đình trong nhà, rộn rã chèo hát ngoài sân suốt ngày đến đêm. Hai cánh cổng gỗ mở toang, không đóng im ỉm như mọi khi. Ngoài tường, đình liệu đốt suốt sáng. Dãy đèn dầu treo quanh các mái hiên thành một chuỗi sao sa. Người các phường quanh đấy nô nức vào xem hát, đông như hội.
Các quan đầu tỉnh, đầu hạt, dưới Đông lên, trên Đoài xuống khắp mặt, chốc chốc lại một đám khách mới. Ngựa đứng trong tàu chen chúc, đá nhau nhảy tung lên, phải buộc cả ra ngoài vườn. Những cái chân giá cáng đỡ võng nghỉ xếp chổng đống hai bên tường. Các quan lớn xuống võng, có ông áo thụng lam như vào buổi chầu. Những quan võ để râu ria ba chòm oai vệ áo gấm thắt lưng điều. Ngựa hay cáng tới, đoàn tùy tùng theo xách điếu, cầm hèo hoa, lại bưng những cái quả sơn son thếp vàng đựng đồ mừng - không phải buồng cau, trăm hồng Hạc, cam Canh, cam Cáo mà là những xếp bạc nén, vàng lá bọc giấy hồng điều trang kim phủ tấm nhung đỏ màu hoa hải đường, cả vàng bạc và nhung sắm ở các nhà khách buôn to bên Ô Quan Chưởng. Hai gia nhân chít khăn lượt, áo the, thắt lưng nhiễu bỏ giọt trịnh trọng bưng cái quả lên ngang vai, như khiêng long đình.
Tiếng pháo không lúc nào dứt. Thợ pháo làng Bình! Đà trong phủ Thanh Oai ra túc trực. Những cây pháo: dựng cao hơn ngọn cau, mỗi đêm pháo hoa đốt tua tủa ra ngũ sắc hoa cà hoa cải. Người ta đồn đến hội và những khao vọng ngoài kẻ Mọc kẻ Vẽ đất quan cũng chưa đâu vui bằng đám này.
Mọi toan tính của Trắt không kịp với những thuận; lợi đưa tới. Trắt chưa gặp lại được các ông ở đình Hàng Hòm, các ngón lht:10px;'>
Đến quá trưa, hai người ra khỏi đống rạ. Đường sá lạnh tanh. Mọi khi, hôm nào chẳng có ba buổi chợ, cả chợ trưa ở các đầu làng, trên đê, dưới bờ sông. Hai người lại chạy, đã xa lắm rồi, đã qua những bờ giếng dat bèo ong xanh om và vào bờ tre, thấy vẻ êm ả bình thường, the nhưng vẫn chẳng gặp người, không đâu có khói nóc bếp. Những làng tận bên này gần đường cái quan cũng lây cơn hoảng hốt, bỏ đi hết. Một chốc, văng vẳng tiếng nghé ngọ, con trâu nào có người dắt chạy đằng kia, con nghé bồn theo. Nhưng cũng không trông thấy ai. Rồi lại im như không.
Cõi không trở về làng. Cõi qua đò ngang bến Ghềnh sang Kẻ Chợ. Trong phường phố dường như không biết cảnh tao loạn đang xảy ra bên kia sông. Chẳng kể được người tứ xứ xuôi ngược đường đất đường sông ra các đầu ô, những quân trảy, ngựa chạy hỏa bài, lúc nào cũng tấp nập. Cõi bơ phờ, gày hom, đi với thằng bé lấm bùn đến tận mắt, đóng cái khố lồng dây bẹ chuối. Cũng chẳng ai để mắt tới.
Cõi vào quán nước chè tươi chợ ống Nước gần đền Bạch Mã. Ngồi một lát, đã nghe mọi chuyện. Thế ra bên này cũng đã biết, xôn xao nhất, quân quan đang đốt làng sủi, có cả quân ông lãnh trên Sơn xuống. Các người họ Cao bị đem đi chém hết rồi. Những đồn đại về trận làng Kệ trên Mỹ Lương vân rối như canh hẹ.
Làng Sủi bị triệt hạ, mắt đã trông thấy, mà những tin về thầy Cao bị hại thì thật trái ngược, song chuyện nào cũng rành rọt như thật. Những đồn đại mà Cõi chỉ muốn nghe đầu mối những chuyện nhẹ nhàng nhất, không có càng hay. Người kể: lúc thầy Cao cho trống lệnh thu quân, đội Quang đã lập mưu đánh tập hậu. Bất ngờ, quân gia đã về đến xóm Kệ ở sâu trong thung thì quân đội Quang đổ ra. Thầy Cao bị chém ngã ngựa. Đội Quang chặt đầu thầy, đem về phủ Quốc. Quan lãnh binh bắt nhiều người lên nhận mặt. Lại có người nói thầy bị bắn đằng lưng lúc quân hai bên giáp chiến dưới cánh đồng Yên Sơn. Thầy đang thúc quân ùa lên thì bị một tên nỏ thuốc độc xuyên đằng lưng sang ngực. Thế là quân đang tiến, không nghe tiếng trống trận, hậu quân nhốn nháo chạy dạt trước.
Lại nghe chuyện thầy Cao không chết đâu. Hai bên đánh nhau ở đầu rừng, quân thầy Cao núng thế, rút vào Kệ. Quân địch đuổi chặn. Thầy Cao luồn về xuôi. Quân nghĩa đã mấy lần xuống chợ Tư đánh Bặt, lại còn sang Yên Lạc, sang cả Quế Quyển nên thầy thông thạo đường. Một đêm quân nghỉ, thầy Cao biệt tăm, không ai biết. Chỉ thấy để giấy lại nói thầy đi tìm cứu viện. Bằng như không thấy thầy trở lại thì đừng đi tìm, ai quê đâu về đấy, chí thú làm ăn, đợi thời. Thầy không bao giờ phụ ơn các người bấy lâu theo thầy vì nghĩa cả. Thế thì chưa chắc thầy Cao đã mất. Tuy tin ấy cũng mong manh như mọi tin khác, nhưng Cõi bám lấy, ngỡ như thật. Thầy đã đi đâu, bây giờ ở đâu? Thực ra thì mấy lâu nay quân nghĩa các nơi chẳng còn được như xưa. Nhớ có lần rộn rịch xuất quân từ giữa cánh đồng vào chiếm huyện Thanh Oai. Tưởng như chẳng mấy lúc đại quân đã vượt Quán Quạ, Đại Định sang tận Lủ vào lấy cả phủ Hoài, huyện Thọ, hãm quân quan trong Kẻ Chợ hết đường xoay xở. Thế mà rồi chẳng còn gì. Mấy năm nay xem chừng không mấy nơi nhúc nhích... Chỉ thấy bọn đầu trâu mặt ngựa sạo sục trong phường ngoài trấn, đâu đâu dân tình cũng ngậm bồ hòn làm ngọt, không dám ho he. Tuy nhiên xem kỹ ra thì tấm lòng hướng nghĩa mong mỏi đến đỏ con mắt vẫn nung nấu. Thầy ta giấu quân vào Kệ cũng là ngấm ngầm đợi các nơi lại ra quân...
Có người nói:
- Nhà đội Quang đã được thăng quan đổi xuống Kẻ Chợ, mấy hôm nay có tiệc to. Lính dắt về hàng chục con trâu mộng. Phen này thì quan đội lên quan lãnh đến nơi.
Có người buông một câu mát mẻ:
- Rồi lên cả quan tổng đốc, khao thăng quan chén cả thịt rồng rồi đi làm cỏ cả một huyện người cho mà xem.
Một người quẳng đồng kẽm trả tiền nước, nói như quát:
- Ừ, tao vừa đi qua cổng nhà đội Quang. Thấy trong vườn nhà nó khói thui trâu um lên. Ăn tiệc mừng công giết được một thằng thầy đổ, khác nào ăn thịt người. Con chó còn biết không ăn xương chó, quân này không bằng giống chó.
Rồi người ấy đi thẳng. Quán nước lại có bọn khác kéo đến, quanh bát nước, vẫn những chuyện ấy. Trong lòng Cõi lại bồn chồn. Tưởng như ở Mỹ Lương vừa qua, nếu có Cõi ở đấy thì biết đâu thầy chưa đến nỗi nào. Thật như vậy chứ. Đã bao phen thầy trò một đồng một cốt kẻ hô người ứng giữa mũi tên hòn đạn mà cứ như vào chỗ không người. Nhớ lần kéo ra phủ Quốc cũng thế, giữa ban ngày mà đến đỗi bọn đơm đó, đánh giậm dưới đồng sâu, trong khe rộc đến người tứ xứ lái buôn tay nải đi qua, nghe quan giáo thụ đã đưa quản về, tất cả kéo ra lạy mừng. Lương tiền các nơi bí mật tải về cả tháng ăn chưa cạn.
Thế mà chỉ một khoảnh khắc đã sa cơ. Làm thế nào mà Cõi về quê có dăm phiên chợ, nhưng khi lên ngược mấy hôm, lúc trở về lại lăn ra ốm. Bây giờ thì sao, Cõi vẫn phập phỏng chưa thể nghĩ là thầy không còn. Thầy còn sống. Phải rồi, vận nước đang như tơ vò thế này, thầy không thể khuất được.
Hy vọng chỉ le lói như ngọn đèn lụt bấc. Cái trận trên Kệ là có thật. Mà hôm nay qua Sủi, thấy lửa đốt làng lan ra tận chân tre, chỉ có mỗi một thằng bé chạy được ra, Cõi đã trông tận mắt. Thế là cái chết của thầy đã lụy đến cả làng, cả họ mạc. Thầy sống khôn chết thiêng, chúng con phải trả được thù này, lạy thầy. Có khi cũng bởi thầy run rủi, con lại nhặt được thằng bé có lẽ dòng máu họ Cao. Nhưng hỏi, nó cũng chẳng biết tên nó. Dẫu sao, đã cứu được thằng bé ở sủi, như nghĩa thầy trò ta vẫn đây.
Cõi và thằng bé theo bến Bà Móc xuống ven hồ Tây. Cái nhà ở đình Ngang cũng gần hồ, đã bán rồi. Vợ con thầy phải trở về làng, chuyến thầy lại vào Kinh. Nhưng Cõi nhớ bên vùng Giám có ngôi chùa Xiển. Sư bác chùa Xiển với thầy vốn tâm đắc, trước thầy thường lui tới, có khi cả tháng đàm đạo chưa dứt chuyện thời thế, chuyện quốc sự. Biết đâu thầy chẳng đã về ẩn ở đấy.
Chùa Xiển tọa lạc ngay giữa vườn, cạnh mấy miếng ruộng hậu. Cảnh chùa tiêu điều, mái lá cọ cột xoan đã xiêu vẹo. Chùa mà đến cái chuông cũng chả có. Mỗi năm, vào tháng hạ, nhà chùa phải khăn gói thúng mủng đi thập phương khuyên giáo cái ăn bù đắp cho qua tháng ngày. Bấy giờ đã sang cữ cuối xuân, trời còn u ám, suốt ngày mưa phùn nặng hạt rả rích như mưa ngâu, thầy trò nhà Cõi về đến chùa thì đã tối, người ướt rũ rượi cả. Cõi vừa ốm dậy, hai bả vai lại đau ê ẩm. Nhưng trông vào chùa thấy ánh lửa lui hui, mừng như đã thấy ấm hẳn.
Cõi khua gậy đánh tiếng từ cổng ngoài. Con chó nhà chùa sủa vang dưới cửa bếp. Có người ra mái hiên, đứng trong bậc cửa.
- Ai đấy?
- Con...
- Con là ai?
- Con ạ... Con người nhà thầy Cao...
- Thầy Cao nào? Cao nào? Nhà chùa kém đói lắm, chẳng quen biết ai đâu.
- Con là người nhà...
- Đừng có rỡn, buộc tội cho nhà chùa. Nhà chùa không quen ai cả.
Tiếng cánh cửa đóng ập lại. Nhưng Cõi đã bước tới trái bếp. Nhà sư xuống đằng ấy, nhận ra Cõi. Nhà sư thì thào:
- Cõi đấy a?
Chỉ được câu ấy, hai người nắm áo nhau, có tiếng nức. Rồi sư Thiện Tâm nói nhỏ: “Chú lên nhà hậu lạy sư tổ. Thảo nào mà lúc chặp tối chim khách, chim liếu điếu kêu râm ran ngoài bờ chuôm, thế mà nghiệm”. Nhà chùa còn vị sư già đã ngoài chín mươi. Nhiều lần đến, Cõi đã biết cụ còn minh mẫn, cũng thuộc mặt Cõi. Nhất là mấy năm trước đây, khi thầy Cao đã ra thiên hạ dấy quân, cứ quãng tiết tháng bảy lại sai Cõi lén quảy gạo về cúng chùa, năm nào cũng vậy, đã giữ lệ. Thầy lại còn gửi lời hẹn sư Thiện Tâm khi nào rỗi thầy về chơi, đánh cờ thế.
Nửa đêm, sư Thiện Tâm và Cõi vẫn thức. Ngoài kia, đôi chốc, một cơn gió dạt dào qua vườn chuối, nước đọng trên lưng lá rơi lộp bộp như mưa nặng hạt. Bấy giờ Cõi mới nói:
- Con xin hỏi thực, quan huấn con đã về chùa nhà chưa?
Sư thầy vẫn như nhìn đi đâu, nhưng câu hỏi lại có vẻ ngơ ngác, lạ lùng:
- Nhà người hỏi thế là thế nào?
- Không, con mong vậy, con hỏi vậy.
- Nhà chùa hỏi thử con thôi, những kẻ tà tâm mới hay vu oan giá họa. Con cũng biết đấy, mấy năm nay, quan huấn không về chùa. Mới đây, được tin người đã khuất núi rồi.
- Con cũng nghe người ta nói. Các quan tỉnh cho quân về đốt làng, giết người bên Sủi thì con đã thấy tận mắt, chỉ còn thằng bé này con đem đi được. Vì không trông thấy cho nên cứ ngợ, cứ mong.
Im lặng một lúc lâu. Tiếng dế rỉ ran, day dứt trong bóng khuya. Rồi tiếng sư Thiện Tâm như văng vẳng, nói lại:
- Quan huấn không về chùa.
Rồi lại nói:
- Cơ chừng thì hỏng mất rồi.
Câu chuyện hai người đàm đạo cho tới tan canh rồi ngoài sân đã tang tảng.
- Nhưng mà hỏng hay không, thành hay bại, con đã định như trình với sư thầy. Thầy con còn sống hay chẳng may thầy đã mất, con vẫn nghĩ vậy. Chúng con đã bàn rồi. Nợ máu thì chúng nó phải đền bằng máu. Chúng con phải trả được cái thù ấy. Con phải đi hỏi cho ra cái tội thằng đội Quang. Cõi tôi mà chết, đã có anh em khác, Cõi khác.
Tiếng giun dế về sáng râm ran từng đợt, rợn người. Khi Cõi đi, thằng bé còn ngủ thiếp. Sư Thiện Tâm cẩn thận mở cổng nhà hậu cho Cõi ra.
- Con gửi thằng bé lại nhà chùa. Cháu mà có cơ duyên, xin thầ
- Vâng.
- Cô Tư, cô Tư, tôi ơn...
Trên phản, cô Tư đã bày ra đĩa xôi, liễn thịt trâu tái bát tương gừng và một be rượu. Hai người ngồi ăn nhẩn nha, như trong buồng cô dâu chú rể. Trời đã tối lúc nào. Chợt, có tiếng gọi ngoài liếp:
- Bà Tư ơi, bà Tư!
“Chui xuống gầm giường nằm yên”, cô Tư thì thào như thở. Một lát không thấy gọi nữa. Tiếng chân lạo xạo bước ra. Có lẽ lính tuần định vào nhờ cái lửa hút điếu thuốc. Hay là đứa nào ở đám chèo vừa tan ra định nhập nhoạng vào bâng quơ. Họ tưởng cô Tư đã ngủ hay đi xem hát chưa về.
Đợi. Kỳ lạ, oái oăm lúc ấy giữa hai người. Trong gian nhà tối om, thỉnh thoảng người xem hát tối đã ra về, ánh đuốc loang loáng qua khe vách. Tiếng nhị, tiếng mõ, tiếng trống cơm đôi lúc còn inh ỏi như lúc giáo đầu, cả phường hát vỡ nước... bung bung nhóc... bung nhóc... bung nhóc..., nhưng tiếng trống chầu thì rời rạc - hát chèo không phải hát tuồng, mà hát tuồng thì cũng thế, ông cai, ông chánh, các ông chức việc rượu vào rồi vênh váo chen nhau ra ngồi cầm chầu nhưng chỉ một lúc, tiếng tùng, tiếng cắc đã loạc choạc rồi im, các cụi say khướt, mắt dip ngồi ngật ngưỡng, hay là đã vứt dùi trống, chúi đầu loạng choạng đi đâu rồi.
Người đàn bà vẫn nắm chặt tay Trắt, nhưng hễ động đến con dao bầu thì lại run bần bật. Có một người đàn ông, một người đàn bà trong góc nhà. Ai cũng cứ chợt mơ màng lại chợt tỉnh rồi chỉ còn tựa vào nhau, đợi cái sắp đến cứ nghĩ như xa xôi nhưng rõ ràng là khuya nay. Chốc chốc, Trắt lại ngoái tay rút con dao, chùi lưỡi dao vào ống tay áo rồi nghiêng tai nghe ngóng ngoài vách. Người đàn bà ôm chặt người đàn ông, nhưng mặt cũng lắng ra ngoài, hơi người sực lên ở bàn tay, ở vai áo cạnh cuộn thừng quấn quanh bụng, cái lưỡi dao bầu lạnh ngắt. Tất cả, đợi.
Người đi xem vãn dần rồi vãn hẳn. Chừng như đã khuya. Ngoài kia, tiếng vó ngựa xa xa rồi dồn dập lướt qua. Ngựa chạy đêm về trạm vào phía Cửa Nam. Chẳng mấy lúc, trên tường, trong chòi canh đã đổ mõ nửa đêm. Bắt đầu lại thanh vắng như khuya mọi khi.
Cô Tư đứng dậy.
- Anh ngồi đây, để tôi lên nghe thế nào.
Một lát, người đàn bà đã rón rén về.
- Nó ngủ buồng con Mười.
Trắt nắm lại cái thừng đay rồi rút con dao ra cầm tay. Trắt bước theo cô Tư. Chẳng rõ lối trong nhà này bao giờ, nhưng xăm xăm vội vã, chỉ nghe nói “nó ngủ buồng con Mười” đã như trông thấy, biết rồi. Người đàn bà đành phải đi đằng sau, chốc lại kéo lưng áo Trắt.
 Đầu tháng, lại ẩm ướt sương đêm, có lúc Trắt quay lại, chỉ thấy bóng cô Tư, Trắt yên chí như sắp đến nơi, lại cung cúc bước.
Ngôi nhà ngói bát vần hiện lên lù lù, hai người đi như chui vào bụng con voi, ngóc ngách, quanh quẩn. Đã hết cơn bối rối, cô Tư len lên trước Trắt. Bây giờ Trắt không hùng hục đi trước nữa. Đến một chỗ tối bưng, cô Tư cầm tay Trắt đặt vào cái cánh cửa. Trắt xòe tay lên mặt cánh cửa đã đóng cài then trong. Trắt đã săn cả -thói quen anh thợ đóng cối, cái lạt mà thiếu cũng đành ngồi chơi. Trắt moi trong cái cạp quần lá tọa ra một chiếc que đóm mỏng, lách vào khe, đẩy then.
Đâu đây, ngay sau nhà, những tiếng gà gáy canh một dồn dập. Đến lúc im, trống đầu canh trên chòi, người lính chợt tỉnh ngủ, cầm dùi đánh từng tiếng một, uể oải. Chiếc chốt cửa đã ngãng ra, kịch một cái xuống đất. Cửa mở hé, nhưng then rơi xuống khác nào sập cái bẫy chuột. Ở đâu bật ra tiếng quát giật giọng:
- Ai?
Tức khắc, tiếng mõ nổi khắp nơi. Những bó đuốc bập bung lên. Như đã rình sẵn, những đám người rùng rùng xô đến. Cả Trắt và cô Tư bị trói nghiến lại, không kịp quay lưng.
Lãnh Quang lè nhè ngái ngủ giọng rượu, ở trong buồng như bấy giờ mới thức giấc.
- Cái gì mà bay làm ầm nhà lên thế?
- Bẩm quan có động.
Lãnh Quang xộc ra, lưng thắt bó que, tay cầm con dao bảy sáng nhoáng. Dường như nó vẫn ngồi săn thế. Ánh lửa đuốc rừng rực. Cả lúc ngủ, quân ác này vẫn phòng xa thế hay nó vẫn giăng bẫy hàng đêm vậy. Trắt bị trói giật cánh khuỷu, cùng một dây với cô Tư bị đạp rụi xuống chân cột. Các tay súng, đại đao, đinh ba xỉa xuống, như rào chông sắt vây quanh.
Lãnh Quang làm như chưa trông thấy, dõng dạc hỏi:
- Sao, sao nào?
- Cái nhà Tư dắt đất cho thằng này nậy cửa.
- Cửa nào?
- Cửa buồng quan ạ. Mảnh tre nó lách gảy then ra, con nhặt được để làm chứng đây.
- Á!
Mấy người lính tâng công nhao nhao.
- Con đã nghi từ lúc tan hát cái nhà Tư ngoài ấy có khang khác, con gọi cửa thử.
- Bẩm quan con theo chúng nó từ ngoài sân.
Người trên chòi cổng lật ngửa dây trói rồi nói:
- À thằng bán dầu, cái thằng bán dầu hôm nọ đây. Thế có chết không!
Lãnh Quang nói thong thả:
- Hừ, con Tư rước giai vào ngủ rồi đem nhau đi giết tao. Thế thì tao tống cổ mày đi là phải. Đáng nhẽ phải chém đầu mày, tao chỉ đuổi mày ra ngoài ấy, tao cũng chưa đo hết được bụng dạ mày. Ha! Ha! Bay lấy rượu ra đây.
Một người nói:
- Nó giắt sẵn cuộn thừng trong lưng, nó còn đi ăn trộm nữa, thằng kẻ trộm này táo gan thật.
Trắt quát to:
- Tao không phải đứa trộm cướp. Tao...
Nếu không có lãnh Quang đứng đấy, nhiều người đã cười nhao nhao. Ai cũng há hoác miệng không thành tiếng. Nửa đêm nậy cửa, không trộm thì cướp, chứ còn không với có thế nào.
- Tao chỉ lấy cái đầu thằng đội [1] Quang!
- Á.
- Tao lấy cái đầu đội Quang đem lên Kệ tế thầy tao.
Lần này lãnh Quang “á” một tiếng như hét. Rồi rối rít quát:
- Bay! Bay đâu! Đem ra hai rọ, nhốt chúng nó vào rồi buộc đá ngay trước mặt tao. Khiêng đi trôi sông lập tức. Nhanh lên!
Lãnh Quang vừa sừng sộ lại vừa loạng quạng, liệu xiêu như hãi quá, tưởng tên cướp và con quỉ cái sắp dựng dứng lên, xông đến. Bấy giờ đã sang canh, nhưng còn mù mịt đêm dày. Trên không trung, những con vạc ăn đêm ở ngoài sông bay về ngang qua, buông từng tiếng rời rã. Xa xa, tiếng chim lợn sà xuống mặt nước tìm cá chết nổi đương bay lên, kêu éc éc rùng rợn báo điềm chết chóc đến nơi. Lãnh Quang vung con dao bảy như đỡ gạt người chém mình rồi cầm be lên tu ồng ộc, lại hét “Nhanh! Nhanh lên!” Bọn gia nhân đã vác tới hai cái rọ tre, ngã xuống, đẩy Trắt và cô Tư, mỗi người vào một rọ, trong bỏ sẵn mấy tảng đá rồi buộc lại.
- Vác đi, bỏ xuống sông Cái, đem ra tận giữa sông.
Nửa đêm, đoàn người khiêng rọ như khiêng cái võng vong đám ma, xung quanh dáo mác, đóm đuốc đùng đùng theo. Giữa khuya, vào qua Cửa Nam, ra bến Đá ngoài sông Cái.
Chỉ nghe tiếng nứa đuốc nổ lép bép, tiếng khóc rưng rức. Hai cái rọ bị ném sang chiếc đò ngang. Mấy chiếc đò nữa đã sẵn quanh đấy, xúm lại, cả đuốc cả người xô xuống, những chiếc đò bơi băng băng ra. Đã đến con nước giữa. Sông Cái vào mùa cạn, thành cát cao, nước miên man réo xiết. Không ai nói một tiếng. Nhưng cả ba bốn người ngồi áp đầu đuôi cái rọ. Bỗng thế nào mà Trắt quều được bàn tay sang cái rọ nhốt cô Tư. Một người giơ cái sào, định đập xuống, một người khác kéo vai, khẽ nói: “Mặc nó. Đằng nào nó cũng sắp chết rồi”.
Cả mấy người ngồi đò đều lầm rầm như khấn:
- Chúng tôi không làm nên tội. Các người đừng oán chúng tôi. Ân trả ân oán trả oán, thiên hạ sinh sự, chúng tôi không làm nên tội. Các người...
Thình lình, hai cái rọ bị đẩy lăn tùm xuống nước. Thuyền quay ngay mũi, vun vút lao vào bờ. Trên thành, trống vừa điểm canh năm, ngoài sông vẫn tối mờ mịt. Đám lính bước lên bãi, quỳ xuống cát, vái vọng xuống nước.
Lúc nãy, lãnh Quang luống cuống, bắt đem trôi sông ngay hai đứa không nhớ lột xống áo chúng nó ra xem còn dao búa gì không. Đằng lưng Trắt vẫn còn con dao bổ cau sắc mũi. Trắt oằn người cắt được cái dây trói từ lâu, đã quên vội thò tay ra. May mà những người lính cũng không phải đứa cố tình giết người. Bây giờ ở trong nước, Trắt quơ tay tìm cái rọ cô Tư. Nước réo ào ào, không thấy. Trắt dứt những cái lạt buộc nắp rọ, chui hẳn ra, ngoi lên mặt nước. Bốn phía mờ mờ hơi nước, hơi sương. Trắt lại lặn xuống chỗ đoán là vừa chui rọ ra. Trắt đạp chân, quạng tay. Cái rọ có đá chặn, khó trôi ngay. Nhưng chỉ thấy cát, đáy sông đương mùa kiệt, hai tai ù tiếng nước réo, cát cuốn trôi qua, phủ lên mặt. Thế này có lẽ cái rọ chuồi mất rồi. Trắt nổi lên, thờ thẫn vào bờ.
Tảng sáng, Trắt lại về đình Hàng Hòm. Ông lão quán vẫn ngồi hàng hay đã tựa vào cái thúng nổi nước mà ngủ ngồi, vừa mới mở mắt, ánh dầu chẩu nhấp nhoáng, trông ông gầy đét như pho tượng ông Nhịn Ăn ngồi ở dãy tượng La Hán trên chùa.
- Bố ơi! Có thấy cái ông hôm trước về đây không?
Ông lão hàng nước đứng dậy, trố mắt kèm nhèm.
- Ối, ông ấy vừa kể đội Quang cho lính đem mày bỏ rọ trôi sông lúc nửa đêm rồi mà.
Trắt rầu rĩ:
- Vâng ạ. Con chui dưới sông về đây.
- Quần áo rách bươm lại ướt như chuột lột thế kia, làm ngụm rượu rồi vào nằm cho lại người.
Cũng vẫn người thức, người ngái ngủ quanh chõng hàng, Trắt mặc. Thời buổi này, người cụt đầu, người chém nhau mất mạng, ngày ngày người chết như gà dây, chẳng ai để mắt - mà cũng sợ, bỗng dưng cái ách quàng vào cổ, người ta lảng nhau, ai hỏi thì lắc đầu, nói không biết. Trắt vắt lên dây cái áo ướt, cái quần chỉ còn một mảnh rồi cứ trần truồng tô hô chui vào ổ, kéo rơm lên kín mặt, ho sặc sụa.
Trắt thở khò khò như ngáy mà không tài nào chợp đi được. Nghĩ lại thương cô Tư chết oan. Oán thù chồng chất thế này, Trắt nghẹn trong cổ.
Trắt ngồi dậy, ướm cái quần rách, không mặc được mà cũng không thành cái khố. Chỉ còn cái áo chồi nâu xám xịt, ẩm sì như nhuộm thâm. Thế mà vẫn còn con dao bổ cau giắt trong áo. Trắt mặc áo, rồi rút cái khố đuôi lươn của ông quán. Quay ra hỏi nhưng lão đã vào cái ổ rơm bên kia từ lúc nào. Không biết đương nói mê hay ư ử rên quen miệng của người có tuổi.
Trắt ghé tai ông lão:
- Ông nói hộ ông ấy tối nay vào cái chỗ hôm qua đỡ cháu một tay. Nhớ tối nay.
Những ý nghĩ đau đớn giục Trắt đến quên cả suốt đêm qua chỉ đợi chết, đáng nhẽ Trắt đã chết. Trắt không mảy may còn nhớ thế. Trắt chỉ biết thế là đã thuộc đường đất, biết thung thổ, nó phải mất mạng. Bác Cõi, hôm nào em về thì em trói cái ma nó về, em thề với bác.
Rồi Trắt đi.
Chặp tối, Trắt đã trèo lên cây vông rồi chui bờ rào ô rô ngồi giữa đám cỏ tranh. Một lát thấy vắng, Trắt bò vào. Chòi canh hai đầu lặng tờ. Trắt như con nhái bén, đã qua được hào nước. Trắt kiểm lại, trên búi tóc giắt con dao bổ cau, cuộn thừng đay và con dao bầu mới. Ngước lên, chỗ nhà cỏ Tư chỉ còn tà một đống than âm ỉ khói. Bụi chuối đã bị đẵn trụi. Vại nước vỡ từng mảnh. Cái chuồng gà thì đứa nào đã khiêng mất. Trắt lẩm nhẩm: cô Tư sống khôn chết thiêng, cô Tư...
Trắt men sân đến cuối thềm nhà trên, leo lên núp trong cây nhãn lồng bùm tum góc ngoài bể nước ngay đầu vườn. Cũng đã chạng vạng, nhưng không ngờ vào được tận đây. Có lẽ giờ này những con chó săn, chó ngao canh đêm bọn lính còn chưa thả trong cũi ra. Ẩn trong cây nhãn rậm rạp, người đi lại trong nhà, buồng nào hiên nào cũng rõ mồn một. Kia kìa lãnh Quang. Lãnh Quang mặc áo lụa hoa cau, phanh dải áo bụng, ngồi uống rượu trên hiên nhà khách, hai lính hầu đứng dưới sân chốc chốc lại phảy một nhát quạt lông, ở nhà lãnh Quang chỉ ngồi chén một mình, cả chục người vợ cũng phải dọn mâm một lũ với nhau bên nhà ngang. Cái tính nó khoái chè chén thảnh thơi thế. Tinh mắt, còn nhận ra thập thò hai lính nữa cầm súng, đeo thanh đại đao canh ngoài cửa. Chắc nó mới cẩn thận hơn từ đêm qua.
Lãnh Quang đứng lên, ngất ngưởng ra. Những đĩa đèn dầu treo một dây trên hiên, ở nhà ngang, ả Mười đã đứng đợi sẵn, vội bước lên, đỡ lão vào cái buồng đầu nhà. Đến cửa, lãnh Quang đứng lại, rồi ngoắt lưng ra. Ả Mười bước tới. Lãnh Quang giơ chân đạp thốc một cái vào bụng ả. Ả nọ ngã lăn xuống thềm rồi cứ nằm úp mặt trong rãnh. Lãnh Quang hét:
- Con Chín đâu!
Một người đàn bà ở buồng cạnh đấy, ra giơ cánh tay dìu lão vào buồng. Cánh cửa khép lại. Ả Mười nằm lăn như chết dưới rãnh một lúc, rồi không biết vì đau không đứng lên được hay ả sợ quá, cứ bò lồm ngồm như con cún, lết xuống nhà ngang. Ngồi trong cây nhãn, Trắt nhìn được hết. Dần dần khuya, đèn các buồng và quanh hiên lần lượt tắt. Cả khu nhà ngập trong bóng tối. Vai áo Trắt đã ẩm. Trắt tụt trên cây nhãn xuống. Từ tối tới giờ, hơi người đã hả lẫn vào hơi sương, người như bóng ma. Các bợm đình Hàng Hòm nói phải. Đêm ở lâu ngoài trời, người lẫn vào sương. Khi nãy, những con chó dưới sân còn có lúc hích mũi đánh hơi quanh gốc nhãn, có túc Trắt đã toan tìm cách lủi, nhưng bây giờ người đứng ngay cạnh gốc cây, những con chó vẫn ngồi, không nhúc nhích, mõm hếch ra phía cổng. Không một tiếng chó sủa. Rồi mấy con chó rỗi rãi quần đùa nhau huỳnh huỵch giữa sân. Trắt lướt qua sau lưng cấy rơm, đàn chó vẫn mải vờn nhau.
Trắt bò lên thềm, bíu cái cột hiên rồi lần vào vách buồng. Đích xác cái ả Chín dắt nó vào buồng nầy. Quang đèn dầu trẩu ngoài kia đã cạn, chỉ còn khói bốc khét lẹt đưa vào. Vài bước cũng tối mò. Người ngủ, tiếng thở, tiếng ngáy, tiếng cựa mình trong các buồng rập rờn thoảng ra.
Trắt ngồi xổm, nghe ngóng, rồi khác đêm trước Trắt nhảy thoắt lên cửa buồng ả Chín. Trắt lại lách mảnh tre cật mỏng như cái lạt vào khe cửa, nhẹ nhàng nhích dần chiếc then ở trong.
Xung quanh im phăng phắc. Cánh cửa lỏng then, hũm vào rồi doãng ra. Cho khỏi vướng, Trắt thò hẳn tay, nắm được, đẩy khẽ.
Bỗng hai cánh cửa toang ra. Bất thần, một suýt thì Trắt ngã đâm đầu vào. Nhưng một cái đá thúc, hất Trắt té ngửa ra ngoài hiên.
- Trộm! Trộm!
Lập tức, người ở đâu xô đến ngay. Những bó đuốc bật tức khắc, trong khi bọn lính tuần đêm đã bẻ quặt tay Trắt ra sau lưng, trói ngồi vào chân cột.
- A! Lại thằng bán dầu hôm qua!
- Nó chết rồi cơ mà?
Cái thằng bán dầu đêm qua đã đem trôi sông! Khiếp quá, lãnh Quang kêu lên, nhiều người mới la lối theo. Nhưng vừa kêu vừa nhớn nhác:
- Ối giời ôi, con ma...
-... Con ma thằng bán dầu.
- Nó chết trôi sông rồi mà...
- Ma à? Còn con ma Tư kia kìa...
- Chết! Chết!
Thì ra, lúc nãy vào trong buồng, lãnh Quang cũng như ngủ, như rình. Nhảy trong buồng ra, mà không phải áo lụa năm thân phanh bụng ra như chặp tối, lãnh Quang áo chẽn, thắt lưng nhiễu thâm, quần chồi thâm buông lá tọa, lại giày Tàu cẩn thận, tay lăm lăm con dao bảy. Đủ lệ bộ bằng đi trận. Lúc nào lão cũng giữ gáy. Lão ngủ chỉ nhắm một mắt, có nhẽ. Lúc cánh cửa hé, trong buồng ngoài sân vẫn tối thui, nhưng có một làn gió lành lạnh khác thường thoảng vào. Lão hất ả Chín xuống đất, ngồi ngay dậy. Chính lãnh Quang đá tống Trắt ngã ngửa ra, rồi kêu “trộm”.
Lãnh Quang chống con dao bảy, mặt phừng phừng, nhòm xuống Trắt.
Trắt giãy giụa, gào:
- Tao đây, tao không phải ma, tao là người, tao đến lấy đầu thằng đội Quang đem lên Kệ tế thầy đây. Các đồng môn đương đợi tao đem đầu mày về, đầu mày đâu, đầu con chó đội Quang đâu?
Lãnh Quang đứng yên, con dao bảy rơi xuống cạch một cái mà không biết. Tiếng hò hét của Trắt như điên, nhưng lãnh Quang còn điên hơn. Lãnh Quang nhặt con dao, tựa lưng vào vách, như sắp ngã.
Không ả Chín, ả Tám nào dám đến đỡ. Mỗi câu Trắt thét “Đầu mày đâu?” lại đẩy con dao bảy trong tay lãnh Quang quờ quạng vung lên, chém chát chát vào cột, vào vách. Lãnh Quang phát rồ rồi. Không ai dám đến gần. Trắt thì cứ nhảy như con ếch bị buộc dưới chân cột. Những cửa buồng quanh đấy đóng lại hết. Bọn lính lủi cả ra sân. Cái hãi, cái hóa dại của lãnh Quang đương cơn, con dao bảy ấy chém loạn lên vào đầu vào tai bây giờ!
Lãnh Quang hỏi to:
- Đứa nào đêm qua đem thằng này trôi sông? Ra ông xem mặt, những đứa nào?
Ba, bốn người rúm ró đùn đẩy nhau đến cạnh ánh đuốc. Lãnh Quang nói, lần này nhẹ nhàng tỉnh như không:
- Ba thằng, bốn thằng, còn thằng nào nữa? Hai thằng kia vào đem ra bốn cái rọ. Bỏ rọ chúng mày đã. Mai ban ngày ban mặt, ông xử xem tội xổng tù hay thả tù.
Bốn cái rọ được xách ra, bốn người lính bị đẩy vào. Bốn cái rọ khiêng ra treo vào cành cây sau vườn. Lãnh Quang lơ láo đảo mắt nhìn quanh rồi bỗng hét rền như sấm:
- Đem chôn sống thằng này ngoài vườn. Chôn ngay cho tao trông thấy.
Đèn đuốc ra sáng cả vườn nhãn, một chốc đã đào xong gần bờ rào ô rô, một cái huyệt loang lổ đất.
Những sợi dây mây trói cả hai tay, hai chân Trắt. Chiếc đòn ống khiêng bổng lên như vừa bắt con lợn trong chuồng ra. Lãnh Quang quẳng cái áo chồi, trần lưng ra, ngửa mặt, tu cả be rượu còn lại rồi quẳng be xuống cái hố huyệt, rên hừ hừ, trong khi Trắt nằm ngửa mặt trên đống đất, vẫn sa sả:
- Ông chặt đầu mày. Mày kề cổ ra đây. Thầy ông, anh em ông đương đợi ông vác đầu mày về. Đầu thằng... đầu...
- Chôn ngay! Chôn đứng!
Trắt bị ném huỵch vào hố. Đất rào rào lấp xuống như dội mưa. Phút chốc con người đã bị vùi biến, mặt đất lại phẳng như lúc nãy.
Mọi người lật đật về, như sợ ma đuổi. Lãnh Quang nhớn nhác chạy trước. Như hãi cái hồn người ngoi lên bíu lại. Vào đến trong hiên, lãnh Quang lại rối rít: sao chúng mày chôn nhanh thế hay đấy là cái bóng thằng trôi sông, không phải, nó còn rủa tao đến tận lúc hạ huyệt...
Càng khiếp đảm, lãnh Quang đâm vào buồng con vợ nào chẳng biết. Lãnh Quang hét lấy cái khóa đuôi chuột to, khóa trái lại, khóa trái... Ngoài kia, khu vườn đã tối om sương mờ phủ.
Lúc ấy, hai cái bóng trên cây nhãn nhảy ngay xuống. Không biết những mũi dao, những nhát thuổng hay tay bới thoăn thoắt. Chỉ một loáng đã lôi được một cái bóng trong lỗ ra.
- Em... em...
- Im!
Ba người đi về phía mấy con trâu tiệc còn lại buộc đằng góc vườn. Trên chòi canh vẳng ra tiếng mõ. Bọn lính tuần, cả đàn chó ngao dường như chưa hoàn hồn từ lúc đào huyệt chôn sống người, cả đám xúm lại giữa sân như một đống rạ. Chỉ những con trâu không biết gì đang đánh sừng cộc cộc vào gốc cây như tiếng ban chiều mõ đạc ở cổ trâu.
Ba con trâu được cởi thừng mũi ra. Người cưỡi cúi rạp, bàn tay vỗ hai bên yếm cổ. Những con trâu lồng dựng đứng, lội ào ào qua hào, nhảy húc đổ một quãng đường đất, bật rễ chỗ rào ô rô, gãy ngang một thân cây vông. Những con trâu cong lưng băng băng bôn trong đêm, như những con trâu điên.
Bấy giờ, trong nhà lãnh Quang còn điên hơn. Tiếng lội hào, tường đổ ầm ầm ngoài kia đã dựng người dậy. Đèn đuốc lao xao dọi ra vườn. Mấy con trâu còn lại, đã tụt hết thừng mũi bồn lộp cộp cả lên sân gạch. Chỗ vừa chôn người, đất bị bới tung, còn trơ lại cái hố. Thằng bán dầu mới bị chôn đã biến mất. Bọn lính chạy dạt vào rồi lại men ra. Trâu lóa mắt húc cả vào người, vào đuốc. Rối tinh lên.
Lãnh Quang lom khom đứng, mắt trợn cắm xuống cái hố đất loang lổ. Rồi, chẳng nói chẳng rằng, như ma đuổi, lại đâm bổ vào một buồng. Lãnh Quang vừa thấy thằng bán dầu cầm con dao xông tới. Ngoài vườn, trong sân, đàn trâu vẫn chạy tứ tung lẫn với người. Lãnh Quang lại nhìn thấy thằng bán dầu, kia kìa. Lãnh Quang đóng sập cửa. Rồi nằm thẳng cẳng trên giường.
Ánh đèn dầu lạc vừa khêu bấc, lãnh Quang cũng chưa kịp nhìn mặt nó là con vợ nào, lãnh Quang đẩy bắn nó xuống chỗ xó luồn góc nhà. Lãnh Quang lại chồm lên, mở cửa rồi quay lại hét:
- Xách quang đèn ra đây.
Đứng trước thềm, lãnh Quang vung con dao bảy.
- Cái Ba, cái Năm, lên đây. Vào thành trình quan Tổng đốc, xin quan cho lệnh truy nã thằng bán dầu, hỏa tốc. Bắt được... bắt được...
Rồi thở hổn hển, ngồi bệt xuống. Cô Chín, cô Tám mon men đến, xốc nách lãnh Quang đứng lên.
Buổi sáng ấy, cũng bình thường như mọi ngày, chợ Cầu Dền, chợ Dừa, chợ Cửa Nam tấp nập hơn, vì ngày phiên. Dưa cải, từng bó củ trắng nõn bên thúng cà chua đỏ ối như nhót chín, từ trong làng kĩu kịt quảy ra. Lại sắp vào cuối năm hanh hao, trên các bãi hoang dưới bờ tre, ở những chân ruộng đã gặt quang, những cây lá bánh khúc đã chớm trổ hoa. Thoạt trông, tưởng đàn bướm vàng về nhầm mùa. Sương sớm đọng trên lá khúc long lanh như hạt nước. Lũ trẻ hái lá khúc, sương ướt bắn li ti lên bờm tóc. Người chợ búa, người tất tả công việc. Gặt hái đã xong, ngoài đồng rặt những đống khói chân rạ của trẻ chăn trâu đốt hun chuột. Chợ Bưởi chợ Canh lại sắp vào những phiên cuối năm, bán tranh gà lợn Kim Hoàng, có chợ trâu bò cho người mua về đụng thịt ăn Tết. Trong trạm Hà Trung phóng ra một con ngựa chạy công văn hỏa tốc, bụi lầm suốt đường Hàng cỏ ra ngoài ô Đồng Lầm.
Cả ba con trâu được tròng thừng vào cổ, đứng nghênh ngang trước thềm đình Hàng Hòm. Nghỉ lại phường này mấy hôm cũng chẳng bận đến ai. Buộc ra bãi cho gặm cỏ, trâu bò đem bán chợ hay cho đi làm mùa, của nhà người ta hay của ăn trộm đem về qua, thì cũng thường thấy.
- Chú làm nốt bát rượu ấy rồi Lại vào trong đình mà ngủ cho lại sức. Nằm dưới đất khí lạnh liễm vào, dễ ốm. Này lão quán hôm nay dọn hàng sớm, dắt một con trâu ra bờ hồ mà thui. Tùy lão, phần bán phần để chén, tối nay khao.
Hôm sau, lão quán bảo Trắt:
- Hai con trâu kia, các ông ấy nhủ rằng cho mày đem về làng. Trâu này còn làm đồng được, cày bừa được, thịt thì phí.
Chú thích:
[1] Mặc dù đội Quang đã lên chức quan lãnh, nhưng một số học trò của Cao Bá Quát vẫn gọi hắn là thằng đội, tỏ ý khinh miệt.

Xem Tiếp: Chương III

Truyện Kẻ Cướp Bến Bỏi Lời mở đầu: Chương I Chương II Chương II (tt) Chương III Chương III (tt) Chương IV Chương IV (tt) Chương V
Truyện Cùng Tác Giả Ba người khác Biết nói thế nào nữa Cái cốc ba mươi năm Cái giậm Cái túi nilon Cát bụi chân ai Chiều Chiều Chim chích lạc rừng Cỏ dại

Xem Tiếp »