Định Mệnh
Nguyễn Hữu Kiệt dịch
Nguồn VietShare

Ông giáo sư Sử Địa tay cầm cây thước dài, bước tới trước tấm bản đồ lớn treo trên vách, trước một lớp học đang buồn ngủ. Ông ta chỉ lên bản đồ một vật lớn hình tam giác màu đỏ mà mũi nhọn chỉ xuống đến gần đường xích đạo, và để khích thích cái phần nào tinh thần uể oải của đám học trò, ông ta nói với một giọng kéo dài và rõ ràng từng tiếng, dường như sắp sửa tiết lộ một điều chân lý trọng đại: "Người ta thường nói rằng Ấn Độ là viên ngọc quý nhất của Hoàng gia Anh Quốc."
Nghe đến đây, một người học trò với vẻ mặt suy tư đang ngồi mơ mộng, bỗng giật mình và cố gom trí óc vẫn võ của y quay trở về thực tế giữa bốn vách tường trong lớp học. Hai chữ "Ấn Độ" có một sức hấp dẫn rất mãnh liệt, nó khêu gợi trong trí của y cái hình ảnh xa xăm của một xứ lạ lùng, huyền bí.
Khi ông giáo sư Toán Pháp tưởng rằng người học trò này đang vùi đầu chăm chỉ làm bài toán Đại số, ông ấy có ngờ đâu rằng thằng học trò "Mất dạy" lại dùng bàn viết của y vào những mục đích xa xôi hơn? Núp sau một chồng sách sắp đặt như Bát Trận Đồ, y vẽ những đầu người quấn khăn, những gương mặt đen xạm, và những chiếc tàu buồm chở đầy những hàng hóa và thổ sản đầy hương vị phương Ðông!
Thời niên thiếu đã qua, nhưng lòng yêu mến xứ Ấn Độ của y vẫn không thay đổi. Hõn nữa, nó còn nới rộng thêm và bao gồm luôn cả châu Á với một sự ám ảnh nồng nhiệt. Y nuôi những kế hoạch táo bạo. Y muốn vượt biển trên muôn dặm trùng dương: Một khi đã xuống tàu thì viếng xứ Ấn Độ chỉ còn là vấn đề thời gian. Mặc dù đó chỉ là những kế hoạch suông, nhưng y đã thổ lộ những ý tưởng của y cho những bạn học cùng lớp với rất nhiều danh từ thơ mộng, và sau cùng có một đứa trong bọn bị lôi cuốn theo sự hứng khởi nhiệt thành của y.
Cả hai bèn âm thầm bày mưu tính kế và hành động trong vòng bí mật. Chương trình của họ là vượt qua Âu Châu bằng đường bộ, sau đó tiếp tục đi bộ vượt qua xứ Tiểu Á và Ả Rập đến hải cảng Aden. Xin quý vị độc giả đừng cười! Họ tin tưởng một cách ngây thơ và hồn nhiên rằng một viên thuyền trưởng bỏ neo ở bến Aden sẽ chịu để cho họ thuyết phục. Đó chắc sẽ là một người giàu lòng nghĩa hiệp và cởi mở. Y sẽ đưa họ xuống tàu, và một tuần lễ sau họ sẽ bước chân lên xứ Ấn Độ hằng mong ước!
Họ âm thầm chuẩn bị một cuộc phiêu lưu dài hạn. Họ để dành tiền và sắm sửa cụ bị những đồ hành trang. Họ thăm dò những bản đồ và những quyển du lịch chỉ nam, mà những trang màu mè lòe loẹt và những hình ảnh khêu gợi hấp dẫn làm cho dòng máu giang hồ phiêu lưu của họ càng tăng nhiệt độ và sôi lên thành cơn sốt! Sau cùng, họ đã có thể định ngày ra đi và giao phó tất cả cho định mệnh. Có ai biết được sự gì đang chờ họ ở ngã ba đường?
Than ôi! Bao nhiêu nghị lực và lòng sốt sắng nhiệt thành của thời niên thiếu đều lãng phí vô ích! Vị đỡ đầu của người bạn trẻ đã khám phá ra mọi sự và biết rõ mọi chi tiết của vấn đề. Những sấm sét búa rìu đều giáng xuống vào đúng lúc! Tất cả chương trình đều phải bỏ dở dang, nhưng có ai thấu hiểu nỗi khổ của hai người bạn trẻ?
Tuy nhiên, người chủ mưu cuộc hành trình bất hạnh này vẫn giữ nguyên vẹn lòng mong ước viếng xứ Ấn Độ. Nếu sự mong ước đó tạm thời bị dẹp qua một bên, đó là bởi vì tuổi trưởng thành của một đời người thường đem đến bao nhiêu những bổn phận gia đình xã hội cùng bao nhiêu những sợi dây trói buộc nó cầm chân y ở lại.
Thời gian trôi qua. Nhiều trang đã lật qua trên quyển lịch đời, trước khi một cuộc gặp gỡ bất ngờ bỗng đánh thức dậy cái mộng đã tàn của người thanh niên. Đó là sự tiếp xúc với một người ngoại quốc có cái gương mặt rám nắng, nước da sậm, đầu quấn khăn: Khách là một người Ấn Độ từ phương xa ðến!
Người khách lạ bước vào cuộc đời tôi một cách đột ngột. Mùa thu đã hầu tàn, sương mù tỏa khắp không gian, tiết trời lạnh buốt thấm vào da thịt. Tôi cảm thấy chán nản, tuyệt vọng. Sự ngã lòng, rủn chí, như một cái bóng ma, đưa đến quả tim héo hắt của tôi một bàn tay giá lạnh!
Để thoát khỏi cơn ám ảnh, tôi bước vào một lữ quán bật đèn sáng trưng, hy vọng rằng nơi đây ít nhất tôi cũng sẽ tìm thấy sự dễ chịu của một gian phòng ấm áp. Những chén trà nóng sốt thường khi vẫn hiệu nghiệm, chiều hôm ấy lại không thể đem đến sự yên tĩnh thư thái cho tâm hồn tôi. Tôi không thể thoát ra khỏi cơn ám ảnh nặng nề nó vẫn dày vò tâm trí tôi. Phải chăng sự lo âu phiền muộn định theo dõi và ám ảnh tôi suốt đời?
Rốt cuộc, trạng thái băn khoăn đó làm cho tôi lại rời khỏi gian phòng ấm cúng mà tôi vừa bước vào. Tôi lại đi lang thang ngoài đường phố, không có mục đích nhất định, nhưng theo thói quen tôi lần mò đến nơi cửa hàng sách của một người bạn làm nghề bán sách cũ. Cửa tiệm của y cũng cũ kỹ như những chồng sách bày bên trong. Chủ tiệm là một nhân vật lạ lùng, một di phẩm còn sót lại của những thời đại đã qua. Thời đại máy móc cơ khí của chúng ta không hạp với tính chất của y, cũng như y không thể hòa mình để sống một cách hứng thú với thời đại này. Y chỉ bán những loại sách quý và hiếm có, và chỉ chuyên môn về các vấn đề siêu hình và khoa học huyền bí. Y biết khá nhiều, mặc dầu chỉ biết về phần lý thuyết, những vấn đề khúc mắc và khó khăn của khoa Triết lý. Thỉnh thoảng tôi hay ghé lại tiệm sách của y và thảo luận với y về những vấn đề triết học siêu hình.
Chiều hôm ấy, vừa bước vào cửa tiệm, vô tình tôi lật những trang giấy cũ đã trổ màu vàng của một quyển sách đóng bìa da, và tôi cầm quyển sách lên để nhìn kỹ cái tựa ngoài bìa nó làm cho tôi chú ý. Người chủ tiệm nhận thấy sự thích thú của tôi với cái nhìn thoáng qua sau cặp kính trắng của y. Y bèn nêu ra một đề tài thảo luận, đúng theo nội dung của quyển sách tôi đang cầm trên tay, nói về vấn đề Luân hồi.
Lão chủ tiệm, theo cái đà của thói quen, nắm ưu thế trong câu chuyện. Y nói trôi chảy dễ dàng, và dường như y biết tất cả mọi khía cạnh hiểm hóc của vấn đề lạ lùng này còn hơn tác giả quyển sách. Thỉnh thoảng y còn chú thích những tác phẩm khác mà y biết thuộc lòng như đếm trên đầu ngón tay.
Bỗng nhiên tôi nghe phía sau như có tiếng động. Tôi quay lại nhìn thì thấy một người dong dỏng cao xuất hiện từ trong bóng tối của phía sau nhà sách, là nơi chứa những loại sách quý. Người lạ mặt là một người Ấn Độ. Y tiến đến gần chúng tôi với một dáng điệu sang trọng quý phái và nói với người chủ tiệm:
- Xin lỗi ông nếu tôi làm phiền. Câu chuyện của các ông vừa nói làm cho tôi chú ý, vì tôi cũng rất thích về vấn đề này. Ông vừa kể những bậc Triết gia cổ Hy Lạp, Ai Cập và vài vị Cố đạo Gia Tô như là những người đầu tiên chủ trương thuyết Luân Hồi. Tôi cũng tin rằng những triết gia thời cổ đã hiểu rõ vấn đề ấy lắm. Nhưng các ông có biết thuyết Luân Hồi từ đâu mà có và nguồn gốc của nó ở đâu chăng?
Y ngừng một lúc, nhưng không để cho chúng tôi kịp nói gì, y liền tiếp theo với một nụ cười nhã nhặn: "Tôi xin phép nói ngay: Chính xứ Ấn Độ từ nghìn xưa đã phát minh ra thuyết Luân Hồi trước nhất. Những dân tộc bổn xứ chúng tôi đã coi thuyết ấy như một điều Chân Lý căn bản từ những thời đại cổ xưa nhất trong lịch sử." Gương mặt của người này làm tôi chú ý. Đó là một gương mặt khác thường mà người ta có thể nhận ra ngay ở giữa hàng trăm người Ấn Độ khác. Cặp mắt tinh anh, một quai hàm lớn, vầng trán cao phi thường biểu lộ sự thông minh, nước da sậm hơn mức trung bình. Đầu y quấn một chiếc khăn rất đẹp, có nhận một viên ngọc quý chớp sáng loè trong bóng tối. Y mặc một bộ Âu phục cắt khéo đúng thời trang.
Lời nói có vẻ tự phụ của y hình như không làm hài lòng người đối thoại, và người này đứng khuất phía sau quầy hàng, liền mở cuộc tấn công:
- Làm sao có thể như vậy được, vì vùng Cận Đông xưa kia gồm những trung tâm thịnh hành nhất của nền văn minh nhân loại trước Thiên Chúa kỷ nguyên. Những triết gia thông thái nhứt thời cổ phải chăng đã xuất hiện ở những xứ thuộc vùng Cận Đông, từ Athenes đến Alexandrie? Như vậy, hẳn là học thuyết của các bậc Hiền triết đó đã từ phương Tây tiến về phương Ðông và sau cùng, được lưu truyền đến Ấn Độ?
Người Ấn Độ mỉm cười một cách khoan dung:
- Không có lẽ nền văn minh tiến bộ của Tây phương lại thọ lãnh những tư tưởng Triết học của một xứ Đông phương còn lạc hậu? Không thể như vậy được, thưa ông!
Người khách lạ đáp:
- Sao lại không thể được? Ông hãy xem lại bộ sách Apuleus thì thấy rằng đức Pythagore đã từng sang Ấn Độ học đạo với các bậc danh sư Bà La Môn, và khi trở về nước, Ngài mới bắt đầu dạy thuyết Luân Hồi. Đó chỉ là một trong nhiều thí dụ khác. Ông nói rằng Đông phương lạc hậu ư? Hàng nghìn năm về trước, những nhà hiền triết Ấn Độ đã từng nghiền ngẫm, suy tư về những vấn đề siêu hình trừu tượng nhất, vào lúc mà người Châu Âu hãy còn chưa biết gì cả về vấn đề ấy.
Người lạ mặt nín lặng một lúc và nhìn chúng tôi một cách chăm chú, có lẽ để dò xem sự phản ứng của chúng tôi. Người chủ tiệm lấy làm lưỡng lự phân vân. Tôi chưa hề thấy y bị cạn lời và bị khuất phục trước một kẻ đối thoại như thế bao giờ.
Về phần tôi, tôi chỉ lẳng lặng nghe và không xen vào câu chuyện giữa hai người. Câu chuyện đến đây thình lình chấm dứt và không ai nói thêm một lời nào để phá tan sự im lặng. Người Ấn Độ liền chọn một quyển sách quý, trả tiền và sửa soạn ra về. Tôi nhìn theo y mà không nói gì. Tới ngưỡng cửa, y bèn dừng chân và quay lại phía tôi. Y mở ví lấy ra một danh thiếp đưa cho tôi và vừa mỉm cười vừa nói:
- Ông có vui lòng tiếp tục câu chuyện này với tôi chăng? Nếu vậy xin mời ông quá bộ lại chơi, chúng ta sẽ nói chuyện.
Tôi lấy làm vô cùng ngạc nhiên và vui lòng nhận. Y liền mời tôi đến nhà dùng cơm ngay chiều hôm nay.
Qua ngày hôm sau, tôi vội vàng tìm đến nhà người khách lạ. Đó không phải là một việc dễ dàng, vì sương mù dày đặc đã xâm chiếm cả thành phố, làm cho đèn đuốc ngoài đường đều gần như tắt hẳn. Một nhà nghệ sĩ có thể nhận thấy vẻ đẹp lãng mạn của thủ đô Anh Quốc vào cuối mùa thu trong cảnh sương mù bao phủ; nhưng riêng tôi thì tâm trí tôi mõ màng vớ vẫn ở đâu đâu, nên tôi không nhìn thấy gì cả và cũng không cảm thấy khó chịu.
Một cánh cửa lớn và nặng từ trong bóng tối thình lình hiện ra trước mắt tôi, làm cho tôi tỉnh giấc mơ và quay về thực tế. Hai ngọn đèn lồng ở hai bên cổng vào do hai cây trụ sắt uốn cong nâng đỡ, giống như hai cánh tay mở rộng để đón tiếp tôi. Qua khỏi cổng, vừa bước vào nhà, tôi lấy làm ngạc nhiên vì người Ấn Độ mới quen không có nói trước cho tôi biết về cảnh nhà sang trọng quý phái của y. Tôi có cảm giác như bước vào một nõi cung thất của phương Ðông, với cách trang trí rất lịch sự. Trên vách có treo những tấm thảm thêu rồng, và những tấm nệm màu mè sặc sỡ thì trải trên sàn gạch, bàn chân bước lên trên nệm đi êm như nhung. Một tấm da cọp rất lớn đặt trên nệm ở phòng khách gần bên lò sưởi.
Trong một góc phòng có một cái bàn nhỏ, trên đó có đặt một cái trang thờ bằng ngà và thếp vàng. Trong trang, tôi thấy một pho tượng nhỏ, chắc hẳn là tượng Phật ngồi kiết dà, gương mặt yên lặng, mí mắt hé mở.
Chủ nhà bước vào phòng và tiếp đón tôi một cách vui vẻ. Y mặc một bộ dạ phục rất đẹp. Tôi nghĩ rằng một người như vậy có thể hòa mình với mọi giới thượng lưu trong xã hội. Vài phút sau, chúng tôi đã ngồi vào bàn ăn. Những món ăn toàn là cao lương mỹ vị: đó là lần đầu tiên mà tôi thưởng thức món cari Ấn Độ, và từ đó về sau tôi vẫn không quên mùi vị đặc biệt của nó. Người bồi bàn dọn ăn cho chúng tôi cũng ăn mặc lịch sự: Y vận một bộ đồng phục trắng, thắt lưng thêu chỉ vàng, và vấn một chiếc khăn trắng tinh.
Trong bữa ăn, câu chuyện không có gì đặc biệt lắm, và chỉ quanh quẩn với những vấn đề thông thường. Tuy nhiên, dầu là nói về vấn đề gì, những lời nói của người Ấn Độ này vẫn luôn luôn đanh thép và xác đáng. Giọng nói của y có vẻ tự tin và dứt khoát.
Đến lúc ăn tráng miệng và dùng cà phê, y mới nói đôi chút về đời tư của y. Y có gia sản lớn, và đã từng đi du lịch nhiều nơi. Y làm cho tôi thích thú nghe những cảm tưởng du hành của y ở Trung Hoa mà y đã từng ở một thời gian trong một tu viện Gia Tô ở xứ Syrie.
Kế đó, y mới trở lại câu chuyện lúc chiều hôm qua ở trong tiệm sách. Nhưng chiều nay, chắc là y đã có những ý nghĩ khác, vì vừa bàn rộng thêm câu chuyện, y bắt đầu nói về nền minh triết cổ truyền của xứ Ấn Độ.
- Những giáo lý của các bậc Hiền Triết Ấn Độ đã được lưu truyền qua tới Tây phương, nhưng trong nhiều trường hợp, chánh giáo đã bị hiểu lầm hoặc có khi bị xuyên tạc. Tuy nhiên, việc ấy không phải nói ra để mà than phiền. Thật thế, xứ Ấn Độ ngày nay đã trở nên như thế nào? Nó không còn là xứ Ấn Độ cao cả thiêng liêng của thời quá khứ. Đó là một việc đáng buồn, rất đáng buồn. Quần chúng Ấn ngày nay vẫn còn bám víu lấy một vài lý tưởng, nhưng lại bị đầu độc bởi nhiều điều mê tín dị đoan.
Tôi hỏi:
- Nguyên nhân nào đã gây nên tình trạng suy đồi như thế?
Người chủ nhà im lặng. Một phút trôi qua, đôi mắt lim dim mở, y nói nhỏ bằng một giọng thì thầm dường như không muốn phá tan cái im lặng trong gian phòng:
- Bạn hỡi! Xứ Ấn Độ của tôi xưa kia có rất nhiều bậc Hiền Triết đã từng thấu đạt được mọi lẽ huyền vi bí ẩn của đời người. Các bậc vua chúa cũng như người dân lành đều thỉnh cầu lời dạy bảo của các ngài. Chính nhờ sự dìu dắt của các Ngài mà nền văn minh Ấn Độ đã tiến lên đến cực điểm. Ngày nay các bậc ấy còn lại được bao nhiêu và ở nơi nào? Có lẽ chỉ còn lại độ vài ba người, mà người đời không còn biết đến và không ai nhắc đến nữa, các ngài hiện sống cách biệt với cuộc đời thế gian, khi các bậc Hiền Giả đó, mà chúng tôi gọi là các đấng Rishis (hay Chân Sư ) bắt đầu suy tàn.
Y ngồi dựa lưng trên ghế bành và nghiêng đầu về phía trước ngực, câu nói sau cùng thoát ra với một giọng đau thương. Trong một lúc, y ngồi vắng lặng và quên cả sự có mặt của tôi, cả tâm hồn y đắm chìm trong một cõi trầm tư mặc tưởng, nhớ tiếc một thời đại đã qua. Y có một phong độ đặc biệt và rất hấp dẫn nó khiến cho người đối thoại phải chú ý. Đôi mắt đen láy và sáng ngời biểu lộ một đời sống nội tâm dồi dào phong phú, giọng nói ấm áp của y biểu lộ một tâm hồn rộng rãi khoáng đạt. Tôi cảm thấy chắc chắn rằng tôi sẽ yêu mến một người như thế.
Người bồi bàn rón rén bước vào, tiến đến bàn thờ và đốt một cây nhang. Một luồng khói xanh tỏa ra khắp phòng một mùi hương thơm dịu. Bỗng nhiên người chủ nhà ngẩng mặt lên và nhìn tôi vào tận mặt:
- Phải chăng tôi đã nói rằng hiện nay chỉ còn độ vài ba người như thế? À, tôi đã nhớ ra. Tôi đã biết được một trong các bậc Hiền Giả đó. Đó là một điều mà tôi ít hay nói với ai. Đối với tôi, Ngài vừa là một người cha, một người Thầy và một người bạn. Sự minh triết của Ngài quả thật là thiêng liêng. Tôi yêu Ngài chẳng khác nào như con thương cha. Trong những lúc sung sướng mà tôi được ở gần bên Ngài, tôi cảm thấy rằng hạnh phúc vốn ở hầu kề một bên. Thật vậy chí đến bầu không khí ở chung quanh Ngài cũng tạo nên sự an lạc mầu nhiệm đó. Tôi vốn là người có tâm hồn thẩm mỹ, yêu nghệ thuật và mỹ lệ. Nhờ có Ngài, tôi đã tập nhìn thấy cái đẹp ở trong những kẻ phong cùi, tàn tật, khốn khó lầm than, những người mà trước kia tôi ngoảnh mặt đi vì ghê tởm. Ngài sống trong một đạo viện hẻo lánh cách xa thành phố. Tôi tìm thấy đạo viện của Ngài dường như do sự tình cờ. Kể từ đó, tôi trở lại thăm viếng Ngài nhiều lần và ở lại đạo viện với Ngài trong một thời gian. Ngài đã dạy tôi rất nhiều. Một xứ sản xuất được những người như thế nhất định phải là một xứ cao cả và hùng cường.
- Nhưng tại sao Ngài không phục vụ xứ sở bằng cách tham gia vào việc nước?
Tôi thành thật hỏi. Người Ấn Độ lắc đầu:
- Những tư tưởng sâu xa của một hạng người đặc biệt như thế không dễ gì thấu hiểu được dẫu cho đối với chúng tôi, huống chi đối với người Âu Tây như các anh. Có lẽ Ngài sẽ trả lời câu hỏi của anh rằng người ta có thể phụng sự thế gian một cách âm thầm lặng lẽ bằng cách phóng tư tưởng lành, mà sức thần giao cách cảm có thể vượt qua không gian, tuy mắt người không nhìn thấy, nhưng không phải là không có hiệu lực. Ngài cũng có thể nói rằng một xã hội suy tàn phải chịu cái số kiếp đau thương của nó cho đến khi ngày giờ phục hưng của nó đã điểm.
Tôi nói với ông bạn mới của tôi rằng quả thật tôi không ngờ tới một câu trả lời như thế. Y đáp:
- Tôi cũng biết rằng ông bạn sẽ nghĩ như thế, ông bạn ơi!
Sau buổi tối gặp gỡ đầu tiên và đáng ghi nhớ đó, tôi đã nhiều lần trở lại nhà người bạn Ấn Độ mới quen. Tôi bị hấp dẫn bởi những kiến thức rộng rãi và cái phong độ hào hoa phong nhã của y. Y đã kích động những hoài bão tiềm tàng của tôi, làm cho tôi muốn tìm hiểu thêm về ý nghĩa thâm trầm của cuộc đời.
Một hôm, câu chuyện của chúng tôi xoay về một chiều hướng nó in sâu vào cuộc đời tôi những dấu vết và ảnh hưởng thâm trầm. Ông bạn mới của tôi nói qua về những phong tục lạ lùng và những tập quán cổ truyền của người Ấn Độ. Y diễn tả một cách linh hoạt vài hạng người của cái xứ lạ lùng huyền bí đó và trong câu chuyện, y có đề cập đến những người đạo sĩ Yogi. Tôi chỉ hiểu một cách mập mờ về ý nghĩa của danh từ đó. Tôi đã từng gặp danh từ ấy nhiều lần trong khi đọc sách, nhưng mỗi lần với những ý nghĩa khác nhau đến nỗi tôi không thể hiểu một cách rõ rệt. Và khi tôi nghe ông bạn tôi thốt ra danh từ này, tôi liền chận y lại, như một nhà báo lành nghề, để hỏi thêm một vài chi tiết. Y trả lời:
- Người ta không thể tóm tắt trong một câu cái ý nghĩa đầy đủ của danh từ Yogi. Bạn hãy hỏi người Ấn Độ, họ sẽ định nghĩa cho bạn nghe danh từ đó bằng mười cách khác nhau. Thí dụ, có hàng ngàn người hành khất dạo, thường đi ta bà từ làng này qua làng khác và tụ họp đông đảo ở các nơi đền chùa trong những khi có những cuộc lễ lớn, họ cũng tự gọi là những người Yogi. Sự thật, nhiều người trong số đó chỉ là những kẻ vô nghề nghiệp, hoàn toàn thất học, không biết gì cả về lịch sử hay lý thuyết của pháp môn Yoga.
Y ngừng một lúc và nói tiếp:
- Nhưng nếu bạn đi về những nơi như Rishikesh chẳng hạn, mà dãy Hi Mã Lạp Sơn đầy tuyết phủ bao bọc chung quanh như thành quách, bạn sẽ thấy có một hạng người hoàn toàn khác hẳn. Những người này sống trong những túp lều sơ sài hoặc trong động đá, họ ăn rất ít và suốt ngày chỉ cầu nguyện. Tôn giáo đối với họ cũng cần thiết như hơi thở, nó ám ảnh họ ngày đêm. Phần nhiều là những người có tâm đạo dành trọn thời giờ để học hỏi các Thánh Kinh và tham thiền, tụng niệm. Những người này cũng được người ta gọi là Yogi mặc dù họ không giống như những người hành khất kể trên. Như thế, bạn thấy rằng danh từ đó rất là co giãn, và ở giữa hai hạng người đó còn có những hạng người khác nữa.
- Tuy vậy, phải chăng người ta thường thán phục những quyền năng bí mật lạ lùng của những người Yogi?
Ông bạn tôi vừa mỉm cười vừa nói:
- À! Tôi còn một định nghĩa khác nữa. Hiện nay người ta vẫn tìm thấy ở những nơi hẻo lánh, ẩn trong rừng thẳm hoặc trong hang núi, những người lạ lùng dành trọn đời để tu luyện theo những phương pháp mà họ tin rằng sẽ đem đến cho họ những quyền năng mầu nhiệm và phép tắc thần thông. Có người khinh bỉ cả tôn giáo hoặc có người lại rất tín ngưỡng, nhưng tất cả đều hợp nhất trong sự chiến đấu để thắng đoạt thiên nhiên và chinh phục những sức mạnh vô hình bí ẩn của Trời Đất. Bạn hãy nhớ rằng xứ Ấn Độ vẫn luôn luôn tin tưởng nơi các điều huyền bí, nhiệm mầu, và người ta vẫn thường nghe nói về những phép thuật thần thông của các nhà đạo sĩ. Những người này cũng được gọi là Yogi.
- Nhưng bạn có gặp những người ấy chăng? Và bạn có tin nơi những phép thuật cùng những quyền năng nhiệm mầu đó không? Tôi hỏi một cách ngây thơ.
Người bạn tôi im lặng một lúc dường như để suy nghĩ về câu trả lời. Tôi đưa mắt nhìn cái trang nhỏ đặt trên bàn thờ và tưởng chừng như pho tượng Phật ở bên trong cũng nhìn tôi và mỉm cười. Tôi đâm ra vơ vẫn, và nghĩ rằng bầu không khí chung quanh pho tượng hẳn có đượm một vẻ linh thiêng, thần bí. Nhưng đúng vào lúc ðó, giọng nói rõ ràng của người Ấn Độ làm gián đoạn sự mơ màng viển vông của tôi:
- Bạn hãy xem đây, y vừa nói vừa lấy tay vạch cho tôi xem một vật mà y đeo ở trong cổ áo. Tôi là người Bà La Môn, và đây là sợi dây Thánh, tiêu biểu cho giai cấp tôi. Một đời sống khắc kỷ, đạm bạc, trải qua hằng bao nhiêu ngàn năm, đã làm cho giai cấp chúng tôi có một vài đặc tính tự nhiên mà sự học vấn theo Âu Tây và sự giao thiệp với người Âu Tây cũng không làm sao xóa bỏ được. Đức tin nơi một quyền năng thiêng liêng, sự tin tưởng nơi những sức mạnh huyền bí và sự tiến bộ tâm linh của nhân loại, những thứ ấy vốn in sâu trong tâm hồn người Bà La Môn chúng tôi. Đức tin đó, tôi không thể nào hủy bỏ được, và khi nào có sự xung đột giữa đức tin và lý trí, thì tự nhiên lý trí phải nhường bước. Bởi đó, mặc dù tôi rất có thiện cảm với những phương pháp khoa học tối tân của các anh, điều mà sau cùng tôi có thể trả lời là: "Tôi tin".
Y im lặng nhìn tôi một lúc và nói tiếp:
- Lẽ tự nhiên là tôi đã gặp những người đó. Vài ba người, có lẽ. Thật không dễ gì gặp họ trên đường đời của mình. Ngày xưa, người ta có thể tìm thấy họ dễ dàng hơn, nhưng ngày nay tôi tin rằng họ hầu như đã hoàn toàn biến mất.
- Nhưng phải chăng bạn nói còn độ vài ba người?
- Rất có thể. Nhưng tìm được họ, lại là một vấn đề khác. Điều đó đòi hỏi một sự tìm kiếm công phu và lâu dài.
- Thầy bạn, phải chăng cũng là một trong số những người đó?
- Không, Ngài thuộc về một hạng cao hơn nữa. Phải chăng tôi đã nói với bạn rằng Ngài là một vị Rishi?
Tôi thú thật rằng tôi không hiểu gì cả, nếu y không giải thích rõ danh từ sau này.
- Những vị Rishi còn cao hơn những người Yogi. Chúng ta hãy đem thuyết Tiến Hóa Luận của Darwin chuyển sang địa hạt tinh thần, và chấp nhận giáo lý của Bà La Môn cho rằng có một sự tiến hóa của linh hồn cùng đi đôi với sự tiến hóa của thể xác. Bạn hãy tưởng tượng những vị Rishi như những người đã đạt tới tột đỉnh của cái thang tiến hóa đó, và chừng đó bạn sẽ có một ý niệm đại khái về sự cao cả huy hoàng của các Ngài.
- Một vị Rishi có thể làm những phép lạ thần thông mà thuật thần thông không có giá trị như nhiều người Yogi lầm tưởng. Đó là một quyền năng do kết quả tự nhiên của sự tập trung tư tưởng và ý chí mà thôi. Đối với Ngài, sự nhiệm mầu hay phép lạ là một phương tiện mà Ngài ít khi dùng đến. Mục đích chính của Ngài là trở nên Toàn Thiện cũng như những đấng Thiêng Liêng Cao cả, chẳng hạn như đức Phật hay đấng Christ.
- Nhưng đấng Chirst cũng đã từng làm phép lạ!
- Dĩ nhiên, nhưng bạn tưởng rằng Ngài làm như thế vì mục đích khoe khoang chăng? Không bao giờ. Đó chỉ là một phương tiện để cảm hóa những người thường dân hiền lành, chất phác và đem cho họ một đức tin.
- Nếu ở Ấn Độ có những người như những vị Rishi thì chắc hẳn quần chúng sẽ quy tụ theo các Ngài?
- Lẽ tự nhiên, nhưng trước hết các Ngài phải nhập thế và tuyên bố cho người đời biết các Ngài là ai. Đấng này, rất ít khi nào các đấng Rishi lại làm như vậy. Các Ngài thích sống cách biệt với thế gian. Những vị nào muốn nhập thế để làm việc giúp đời, thường chỉ xuất hiện trong một thời gian nhất định, rồi lại rút lui vào bóng tối.
Tôi bèn phản đối rằng nếu các vị ấy cứ sống ẩn dật như thế mãi thì phỏng có ích gì cho đời? Người Ấn Độ nở một nụ cười đầy tha thứ:
- Tục ngữ có câu: Không nên tin ở bề ngoài. Vì không biết rõ các đấng Rishi, nên thế gian không thể xét đoán các Ngài một cách đúng đắn. Tôi đã nói rằng các đấng Rishi đôi khi cũng xuất hiện ngoài thế gian và chung đụng với người đời. Thuở xưa kia, khi các Ngài xuất hiện như thế nhiều hơn bây giờ, thì sự minh triết, quyền năng, đức độ của các Ngài nổi bật trước mắt mọi người, và ảnh hưởng của các Ngài được công khai nhìn nhận. Những vì vua chúa cũng phải nghiêng mình thán phục sự minh triết của các Ngài và không ngần ngại thỉnh cầu ý kiến của các Ngài về các vấn đề quốc sự. Nhưng có ðiều chắc chắn là các đấng Rishi thích hoạt động âm thầm lặng lẽ trong bóng tối hơn là xuất hiện ở ngoài đời.
Tôi bỗng nhiên đâm ra mơ mộng và bất giác thì thầm như nói riêng một mình:
- Tôi muốn được gặp một vị Rishi, hoặc ít nhất là một người Yogi chân chính.
- Bạn hãy tin rằng có ngày bạn sẽ được như ý nguyện.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Làm sao bạn biết đặng?
Câu trả lời của y càng làm cho tôi ngạc nhiên hơn nữa:
- Tôi biết như thế từ ngày chúng ta gặp nhau lần đầu. Đó là một thứ trực giác, một thứ linh năng khiến tôi cảm biết được một cách sâu xa nhưng không thể giải thích được. Sư phụ tôi đã dạy tôi tập luyện và sử dụng cái năng khiếu đó. Khi gặp việc, tôi hoàn toàn tin tưởng nơi khiếu linh năng trực giác của tôi.
Tôi hỏi nửa tin nửa ngờ:
- Lời tiên tri của bạn bao giờ mới thực hiện?
Bạn tôi nhún vai và lắc đầu:
- Tôi không phải là một nhà tiên tri. Tôi rất tiếc là không thể nói trước ngày giờ nào bạn sẽ thực hiện điều ấy.
Tôi không hỏi thêm điều gì, tuy tôi ngờ rằng y có thể nói nhiều hơn nếu y muốn. Tôi bèn suy nghĩ và đề nghị:
- Chắc có ngày bạn sẽ trở về xứ. Nếu lúc ấy tôi rảnh việc, chúng ta có thể cùng đi chung những người ấy chăng?
- Không bạn ơi! Bạn phải đi một mình. Tốt hơn là bạn hãy tìm kiếm lấy một mình bạn.
Tôi kêu nài:
- Đó là một điều rất khó đối với một người ngoại quốc như tôi.
- Hẳn là rất khó. Nhưng bạn hãy đi một mình, rồi có ngày bạn sẽ thấy rằng lời nói của tôi thật không sai.
Từ đó trở đi, tôi biết rằng có ngày tôi sẽ thả neo ở một hải cảng phương Ðông đầy ánh nắng. Tôi nghĩ rằng nếu trong quá khứ, xứ Ấn Độ đã từng tạo ra những người như các vị Rishi, và nếu một vài vị ấy hiện nay vẫn còn sống như bạn tôi tin tưởng, thì cái công phu khó nhọc đi tìm ra các Ngài sẽ không phải là vô ích. Nó sẽ được đền bù lại gấp bội phần bằng những lời vàng ngọc minh triết mà mình sẽ được nghe tự các Ngài thốt ra. Biết đâu tôi chẳng có cái may mắn là nhờ đó đời sống nội tâm của tôi sẽ trở nên dồi dào phong phú hơn. Và dầu cho tôi bị thất bại, cuộc hành trình của tôi cũng không phải là vô ích. Vì những người Yogi kích thích sự tò mò của tôi một cách mãnh liệt bởi cách sinh hoạt lạ lùng và những phép tu luyện huyền bí của họ. Sự ham mê của tôi về những điều huyền diệu phi thường đã được kích động đến một mức độ cao tột. Cái viễn ảnh đi thám hiểm những chân trời xa lạ đó làm cho tôi ngây ngất. Tôi tự thả trôi theo cái đà tưởng tượng của mình, định rằng khi gặp cơ hội thuận tiện, tôi sẽ đáp chuyến tàu đầu tiên sang Ấn Độ. Người bạn Ấn Độ của tôi vẫn còn tiếp tôi tại nhà y trong nhiều tháng. Y giúp tôi nhận định đường lối trong cái chương trình tương lai của tôi, nhưng không chịu làm người hướng dẫn tôi trên những bước đường xa lạ mà tôi còn phải vượt qua. Nhưng biết được vị trí của mình, nhận định được những khả năng tiềm tàng của mình, tự vạch lấy con đường đi rõ ràng nhất định, đó phải chăng là một điều quý báu đối với một người còn đang tuổi thanh xuân? Vậy thì không phải là một điều quá đáng nếu tôi bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với người bạn mới của thuở ban đầu. Nhưng bánh xe định mệnh vẫn tiếp tục xoay vần và cái ngày phân ly giữa chúng tôi đã đến quá mau. Cách sau đó vài năm, tôi được tin y đã qua đời, hình như vì tai nạn.
Cuộc hành trình của tôi vẫn chưa gặp thời giờ và hoàn cảnh thuận tiện. Những sự ước mong và tham vọng ở đời thường tạo ra những trách nhiệm ràng buộc mà người ta không dễ gì thoát khỏi. Tôi đành chịu an phận với cuộc đời hiện tại nó giam hãm tôi trong một khuôn khổ chật hẹp. An phận, nhưng vẫn chờ đợi, vì tôi không hề mất sự tin tưởng nơi lời tiên tri của người Ấn Độ. Một ngày nọ, một việc xảy đến bất ngờ lại càng xác nhận củng cố thêm đức tin của tôi.
Những hoạt động nghề nghiệp của tôi đưa đến cho tôi một dịp tiếp xúc trong nhiều tháng với một người mà tôi lấy làm quý trọng và giao du với một tình thân hữu đặc biệt. Y có một trí óc thông minh, vô cùng linh hoạt và biết rõ nhân tình thế thái. Y đã từng làm giáo sư dạy khoa Tâm Lý ở một trường Đại Học, nhưng cuộc đời giáo sư mô phạm không thích hợp với y. Y bèn từ chức để bước qua một ngành hoạt động khác mà y có thể sử dụng số vốn kiến thức rộng rãi của mình. Trong một thời gian, y làm cố vấn cho nhiều nhà kinh doanh trong giới thương trường, và đã từng thụ hưởng những số tiền thù lao khổng lồ của những vị chủ nhân các xí nghiệp lớn.
Y có cái thiên tư đặc biệt là giúp nguồn cảm hứng và khích lệ cho những kẻ khác thành công trên đường đời. Dầu là kẻ bần cùng hay triệu phú, ai đã đến tiếp xúc với y đều được sự giúp đỡ ý kiến hoặc sự nâng đỡ về tinh thần, làm cho họ tăng lòng hứng khởi, và những lời khuyên bảo của y đều có giá trị như vàng ngọc. Tôi vẫn thường nghe theo những lời khuyên của y, vì sự tiên kiến và linh giác của y thường được chứng minh một cách hùng biện trong các vấn đề kinh doanh cũng như các vấn đề cá nhân. Điều mà tôi thán phục nhất là y đã dung hòa được trong tâm tính của y những khía cạnh hoàn toàn trái ngược nhau. Y có thể bàn luận đến những vấn đề triết lý khó khăn nhất, ngay sau khi vừa bàn tính xong một công việc kinh doanh thương mại! Vì thế người ta không hề thấy y có vẻ buồn bực, ưu sầu, mà luôn luôn vui vẻ trào phúng và hồn nhiên cởi mở.
Y đã cùng tôi trải qua những giờ thú vị trong khi làm việc chung, hoặc trong những khi rảnh rang, nhàn hạ. Tôi lấy làm thích thú mà nghe y nói chuyện, những kiến thức rộng rãi của y làm tôi ngạc nhiên. Tôi thường tự hỏi làm sao khối óc con người có thể chở nỗi một kho tàng hiểu biết rộng rãi như thế!
Một buổi chiều, chúng tôi cùng nhau dùng cơm tối ở một quán nhỏ có vẻ ấm cúng. Khi ăn xong bước ra về, bầu trời quang đãng dưới ánh trăng rằm làm cho chúng tôi thấy cảm hứng dồi dào chúng tôi bèn rủ nhau đi bách bộ thưởng trăng. Câu chuyện lúc ban chiều chỉ quanh quẩn với các vấn đề tầm thường, không có gì đặc biệt, nhưng một đêm trăng tịch mịch như đêm nay tự nhiên khêu gợi đến những chuyện triết lý. Cuộc đi chơi bách bộ dưới ánh trăng đưa đến những câu chuyện triết lý trừu tượng đến nỗi những danh từ của chúng tôi thốt ra có thể làm cho những vị thân chủ của ông bạn tôi rùng mình! Về đến trước cửa nhà, khi chúng tôi bắt tay từ giã, giọng nói của y bỗng trở nên nghiêm nghị, và y nói một cách chậm rãi:
- Thiết tưởng anh đừng bao giờ nên làm cái nghề này. Anh thật là một triết gia, mà anh lại mắc kẹt trong một cái nghề bị lệ thuộc cho vấn đề thời sự hàng ngày. Sao anh không làm giáo sư Ðại Học, và dùng thời giờ vào công việc khảo cứu, sưu tầm? Anh có tâm hồn triết lý và có những hoài bão về đường tâm linh. Tôi chắc chắn rằng có ngày anh sẽ đi tìm những nhà đạo sĩ Yogi Ấn Độ, những vị Lạt Ma Tây Tạng, hoặc những vị cao tăng phái Thiền Tông bên Nhật Bổn. Và chừng đó anh sẽ cho chúng tôi đọc những thiên phóng sự lạ lùng nhé? Thôi trong khi chờ đợi, hãy chúc anh một đêm ngon giấc.
Tôi bèn chận lại:
- Những đạo sĩ Yogi? Anh nghĩ sao về những người ấy?
Ông bạn tôi bèn bước đến gần tôi và kề tai nói nhỏ:
- Đó là những người hiểu biết rất nhiều, bạn ơi! Họ biết rất nhiều!
Tôi bước chân ra về, trong lòng vô cùng xao xuyến.
Cuộc hành trình sang phương Ðông vẫn chưa thể thực hiện được. Càng ngày tôi càng đi sâu vào những trách nhiệm nặng nề và phức tạp mà tôi không thấy có cách nào thoát khỏi. Tôi có những lúc ngã lòng. Hay là tôi bị một cái định mệnh khắc khe nó trói buộc tôi với những tham vọng thường tình và những cạm bẫy của cuộc đời trần thế!
Nhưng không, tôi đã lầm! Định mệnh con người luôn luôn phán ra những lịnh mới của nó hàng ngày, và mặc dù chúng ta không có đủ linh năng để nhìn thấy rõ, nhưng chúng ta vẫn vô tình tiến đến cái mục đích mà nó đã vạch sẵn. Không đầy một năm sau, tôi đã bước chân lên hải cảng Bombay, trố mắt nhìn cảnh vật tưng bừng rực rỡ của một thành phố phương Ðông, và lắng tai nghe đủ thứ thổ ngữ lạ lùng của những dân tộc bổn xứ qua lại nơi này!