Khoa Yoga Thắng Đoạt Tử Thần (tiếp)
Nguyễn Hữu Kiệt dịch
Nguồn VietShare

- Dường như thế.
- Chúng tôi cũng không nói gì khác hơn. Chúng tôi chỉ nói rằng người hành giả nào có thể cầm lại hơi thở trong mình tùy theo ý muốn, sẽ nhờ đó mà giữ lại nguồn sinh lực trong cơ thể y. Bạn hiểu rõ chăng?
- Tôi cũng ráng hiểu.
- Bạn hãy tưởng tượng rằng người Yogi có thể cầm lại hơi thở không những chỉ trong vài phút, mà trong nhiều tuần, nhiều tháng hay nhiều năm. Vì bạn đã nhìn nhận rằng hơi thở ở đâu tức là sự sống ở đó, thì phải chăng đây là triển vọng để con người có thể kéo dài sự sống tùy theo ý muốn?
Tôi không còn biết nói sao. Làm sao có thể bảo rằng điều đó là vô lý? Nhưng làm sao tôi có thể chấp nhận điều ấy mà không có sự kiểm điểm lại một cách chặt chẽ? Những nhà thuật sĩ của phái Luyện Kim (Alchimistes) hồi thời Trung cổ cũng đã từng nuôi cái mộng trường sinh bất tử, nhưng dưới ngọn lưỡi hái của Thần Chết, họ vẫn ngã quỵ hết người nọ đến người kia ngay bên cạnh những lò luyện Kim Đơn để tìm ra thuốc phản lão hoàn đồng! Có lẽ Brama tự dối lấy mình, nhưng có điều chắc chắn là y không có ý định lừa dối tôi. Y không hề có ý đến tìm kiếm tôi hay tìm kiếm một người đệ tử nào cả. Y điên chăng? Không phải vì y lý luận mọi sự một cách hoàn toàn sáng suốt. Hay là y chỉ tự dối lấy mình? Một cái gì bảo cho tôi biết là không. Tôi không biết nghĩ sao.
- Bạn không tin à? Bạn có nghe nói về một người thuật sĩ chịu để cho vua Ranjit Singh chôn sống trong một huyệt xây bằng đá ở Lonhorw chăng? Khi đem chôn sống có cả sự hiện diện của những viên sĩ quan Anh và nhà vua Singh. Ngôi mộ được giao cho quân sĩ canh gác suốt ngày đêm trong sáu tuần lễ, đúng ngày, người ta mới cậy nắp quan tài thì người thuật sĩ Ấn Độ ở trong chui ra vẫn còn sống nhăn, không sao cả! Bạn hãy điều tra lại xem, tôi nghe nói rằng việc này đã được phúc trình cẩn thận và tờ biên bản vẫn còn được lưu trữ trong văn khố của chánh phủ Anh.
Như vậy, người thuật sĩ đã hoàn toàn chủ trị được phép hô hấp và có thể ngưng thở tùy ý muốn mà không sợ chết. Tuy thế, y cũng chưa phải là một môn đồ chân chính của pháp môn Yoga, vì tôi có nghe nói rằng đời tư của y chẳng có gì đáng ca tụng. Y tên là Haridas và sống ở miền Bắc Ấn. Nếu người ấy có thể ngừng thở mà vẫn sống trong một thời gian lâu như thế ở một chỗ bít bùng không có không khí, thì thử hỏi: Các bậc danh sư của môn phái chúng tôi, là những người không thích quảng cáo và không hề vụ lợi, còn có thể làm được tới những điều gì nữa?
Sau một lúc im lặng, Brama tiếp:
- Pháp môn Yoga còn đem lại cho ta nhiều quyền năng khác nữa. Nhưng trong thời buổi suy đồi hiện nay, có mấy ai là người chịu công phu cố gắng tu luyện?
- Làm sao bây giờ, khi người ta còn phải lăn lộn trong đời sống hàng ngày, thì không còn thời giờ để nghĩ đến những hoạt động cho một lý tưởng nữa.
- Đúng vậy, những phép tu luyện này chỉ để dành cho một số ít người. Như thế, bạn sẽ hiểu tại sao nó được các bậc danh sư giữ gìn trong im lặng và bí mật hoàn toàn. Những bậc danh sư ấy không bao giờ đi tìm đệ tử, mà chính các đệ tử phải đi tìm các Ngài.
Lần sau, Brama đến dùng cơm tại nhà tôi. Cơm nước xong chúng tôi ra ngồi ngoài hàng ba dưới ánh trăng sáng. Tôi ngồi trên ghế còn Brama thích ngồi trên chiếu trải sàn gạch. Chúng tôi ngồi im lặng trong vài phút để thưởng thức cái đẹp của đêm trăng. Nhưng nhớ lại câu chuyện lần trước, tôi vẫn còn tò mò muốn biết thêm về vấn đề kỳ quái là có những người có thể lường gạt được Tử Thần!
Brama nói:
- Một trong những vị danh sư của môn phái chúng tôi sống trong vùng hẻo lánh trên dãy núi Nilgiri, và không hề bước ra khỏi am. Một vị khác sống trong động đá trên dãy Hi Mã Lạp Sơn. Những người ấy bạn không bao giờ gặp được vì họ lánh xa cõi thế tục. Tuy thế, theo truyền thuyết của người trong xứ thì các vị ấy đã từng sống đến vài trăm năm nay.
- Bạn có tin như vậy chăng?
- Lẽ dĩ nhiên, vì chính Thầy tôi cũng là một người trong số đó.
Thầy của y! Vì bây giờ chúng tôi đã quen nhau như thế này và giữa chúng tôi không còn sự lạnh lùng cách biệt nữa, nên tôi đánh liều hỏi một câu:
- Brama, Thầy của anh là ai?
Y còn do dự trong một lúc, nhưng liền nói với một giọng trang nghiêm:
- Thầy tôi danh hiệu là Yetrumbu Swami. Ở dưới miền Nam, đệ tử của Người cũng đông, nhưng Người thường đi lên miền Bắc và ở trên dãy Hi Mã Lạp Sơn.
- Tôn Sư đã đạt tới mức tối thượng của pháp môn Yoga chưa?
- Ðiều đó hẳn là dĩ nhiên rồi.
- Và bạn tin rằng lệnh Tôn Sư đã sống đến...
- Trên bốn trăm năm.
Brama nói câu đó với một giọng vô cùng tự nhiên, và y nhìn thấy sự ngạc nhiên trong cặp mắt của tôi. Y nói tiếp:
- Tôn Sư thường kể cho tôi nghe nhiều chuyện mà người đã từng chứng kiến và đã xảy ra dưới triều đại các vua Hồi. Người cũng thuật cho tôi nghe những chuyện xảy ra từ hồi Công Ty Ấn Độ của người Anh mới bắt đầu thành lập tại Madras.
Điều này thật khó mà tin được, đối với một kẻ đa nghi như tôi. Tôi nói:
- Nhưng bất cứ một đứa học trò nào đã học lịch sử cũng nói được những điều đó.
Brama làm như không nghe và nói tiếp:
- Thầy tôi còn nhớ rõ trận Panipat và có nói với tôi rằng Người không bao giờ quên những ngày kỷ niệm đầu tiên của trận Plassey. Tôi còn nhớ có lần nghe người nói chuyện về một đệ tử tên là Beahudananda, như là nói một đứa trẻ con. Người đệ tử này hồi đó đã được tám mươi tuổi.
Dưới ánh trăng, tôi nhìn thấy rõ vẻ mặt bình thản tự nhiên của người Yogi khi y nói những chuyện lạ lùng trên đây. Một người Âu đã từng quen suy luận với những phương pháp sưu tầm của khoa học tiên tiến, làm sao có thể chấp nhận những điều này mà không có sự điều tra chắc chắn? Dầu sao, Brama là người Ấn Độ, chắc y cũng vẫn còn cái thói quen hay tin tưởng những chuyện hoang đường. Tôi vẫn lẳng lặng ngồi nghe, để cho y nói:
- Tôn Sư đã từng làm cố vấn cho một vị Quốc Vương xứ Nepal trên mười một năm. Dân chúng xứ này quý mến người như Thần Thánh. Người cũng đối với họ như cha đối với con. Người gạt bỏ mọi sự thành kiến về giai cấp và coi mọi người cùng bình đẳng như nhau.
- Nhưng làm sao một người có thể sống lâu như thế?
Brama mơ màng nhìn về cõi xa xăm, dường như quên cả sự có mặt của tôi; y đáp:
- Có ba phương pháp để kéo dài sự sống. Phương pháp thứ nhất là tập hết tất cả những tư thế (Asana), và tất cả các phép luyện khí công, gồm cả những phép luyện bí mật của pháp môn Hatha Yoga. Những phép tập luyện này lẽ tự nhiên là phải được thực hành cho đến mức toàn hảo, điều này chỉ có thể thực hiện được dưới sự dìu dắt của một bậc danh sư đã có nhiều kinh nghiệm.
Phương pháp thứ hai là thường dùng một vài loại cỏ thuốc rất quý và rất hiếm, mà chỉ có một vài vị danh sư của môn phái chúng tôi biết được. Những vị ấy đi tìm những loại cỏ này trong vòng bí mật và dấu trong mình mỗi khi đi đâu xa. Khi đến lúc một vị phải từ giã cõi đời, thì người chọn trong số các đệ tử một người xứng đáng nhất và tiết lộ cho y biết sự bí mật về loại cỏ quý đó. Người này từ nay sẽ là người duy nhất được biết sự bí mật ấy mà thôi. Còn phương pháp thứ ba thì hơi khó nói một chút.
- Bạn cứ nói luôn.
- Tôi nói ra chắc là bạn sẽ bật cười!
Tôi cam đoan với y rằng trái lại, tôi rất quý trọng những điều tiết lộ của y. Y nói:
- Vậy thì đây: Trong bộ óc con người có một lỗ trống nhỏ, là chỗ của linh hồn, nó có một thứ nắp che đậy phía ngoài. Nơi dưới đốt tận cùng của xương sống, là chỗ xuất phát luồng sinh lực mà chúng ta đã có dịp nói đến. Sự tiêu hao luồng sinh lực đó gây nên sự già nua, trái lại, kiểm soát được nó sẽ giúp cho ta được sống lâu.
Khi một người đã hoàn toàn làm chủ được thể xác, y có thể bắt đầu tập kiểm soát luồng sinh lực này bằng những phép luyện bí mật mà chỉ có những người Yogi thượng đẳng của môn phái chúng tôi mới biết được mà thôi. Nếu y làm cho luồng sinh lực vô hình đó đi ngược lên đến tận phần trên của tủy xương sống, y sẽ cố gắng gom nó lại trong chỗ lỗ trống trong bộ óc mà tôi vừa nói ở trên. Nhưng phải có một vị danh sư giúp y mở cái nắp che đậy ở phía ngoài. Nếu y tìm được một người Thầy bằng lòng giúp y việc đó, thì luồng sinh lực nói trên sẽ lọt vào chỗ lỗ trống và sẽ có cái tác dụng của một thứ nước Cam lồ trường sinh như chúng ta thường nghe nói.
Đó không phải là chuyện dễ làm. Kẻ táo bạo dám luyện thử một mình chắc chắn sẽ chết toi mạng! Trái lại người luyện được thành công có thể đánh lừa được Thần Chết. Người Yogi nào thực hành đủ ba phương pháp nói trên có thể sống đến vài trăm năm, nếu y muốn. Y có thể chọn ngày giờ chết của mình, và chừng đó sự khám nghiệm tử thi sẽ kết luận rằng y chết một cách tự nhiên. Khi y chết, loài sâu bọ sẽ không phạm đến thể xác của y, xác y sẽ tươi như hồi sống và sẽ không hề hư hại trải qua nhiều thế kỷ.
Tôi tỏ lời cảm ơn Brama, và mặc dù tôi rất thích thú, nhưng tôi cũng vẫn chưa chịu tin. Khoa Sinh Lý Học không hề biết đến luồng sinh lực đó, và tôi e rằng những chuyện lạ kỳ trên đây chỉ có trong óc của những người chất phác và hồn nhiên ở xứ này. Tuy nhiên, sự kiểm soát hơi thở và mạch máu mà tôi đã chứng kiến, cũng đủ chứng minh rằng quyền năng của các nhà đạo sĩ không phải là những điều viễn vông, và những quyền năng đó có thể làm nhiều việc phi thường. Theo ý tôi, thì đó là tất cả những gì mà người ta có thể nói về vấn đề này. Tôi vẫn giữ im lặng và không muốn thổ lộ những ý tưởng riêng của mình. Brama lại nói tiếp:
- Tất cả mọi người ai cũng muốn thắng sự chết, nhưng bạn đừng quên rằng áp dụng phương pháp này rất nguy hiểm. Bởi đó, không ai ngạc nhiên mà thấy rằng những vị danh sư của chúng tôi giữ gìn những phép luyện đó trong vòng bí mật, chẳng khác nào người ta giữ vật báu.
- Bạn có thể cho tôi biết phương pháp đó được chăng?
- Người ta phải tập đi cho vững trước khi tập chạy mau.
Tôi xin hỏi bạn một câu cuối cùng:
- Thầy bạn hiện nay ở đâu?
- Người ở ẩn trong một ngôi đền hẻo lánh ở vùng núi non xứ Nepal.
- Bạn có nghĩ rằng một ngày kia, Tôn Sư sẽ trở xuống đồng bằng hay chăng?
- Làm sao tôi biết được ý nghĩ của Tôn Sư? Người có thể ở lại xứ Nepal thêm nhiều năm nữa trước khi xuống núi để đi ta bà khắp nơi. Người thích ở Nepal hơn ở Ấn Độ bởi vì ở xứ đó, môn phái của chúng tôi thịnh hành hơn. Pháp môn Hatha Yoga có những cách dạy khác nhau tùy theo môn phái, và môn phái của chúng tôi gọi là Tantra, được người Nepal thông hiểu dễ dàng hơn là người Ấn.
Brama trở lại với sự im lặng. Chắc y để tư tưởng đi xa lắm và nhớ đến hình ảnh của vị Tôn Sư quý mến. Ôi! Nếu những điều tôi vừa nghe không phải là một ảo tưởng, thì thật là một triển vọng đáng mừng cho những ai là người nuôi cái mộng trường sinh bất tử.
Đêm Ấn Độ đến rất mau chóng, chứ không có một hoàng hôn kéo dài như ở trời Âu. Khi bóng tối bao phủ cái chòi tranh của y, Brama thắp một ngọn đèn dầu treo lủng lẳng trên xà nhà bằng một sợi dây, và chúng tôi ngồi dưới ánh đèn dầu leo lét. Bà lão bước ra ngoài một cách kín đáo để cho chúng tôi tự do nói chuyện, với một người thông ngảng có một giọt nước mắt chạy quanh theo gò má, mà nguyên nhân chắc hẳn là vì hai mí mắt không chớp đã lâu.
Một con thằn lằn từ trên trần nhà bò xuống, chạy lên tấm thảm gấm và từ từ bò lên bàn chân ngồi bán dà của người tu sĩ, nhưng tuyệt nhiên không có một cử động, chẳng khác nào như người bằng đá. Vài con ruồi đáp xuống và bò lên mặt người, nhưng hình như không còn cảm giác, chẳng khác như gương mặt bằng đồng. Hơi thở dịu dàng và đều, nhưng thoảng nhẹ, dường như không thể nhận ra được nữa. Tuy thế, đó là cái dấu hiệu duy nhất chứng tỏ rằng người còn sống.
Để tạm quên thời gian chờ đợi, tôi lấy máy ảnh đem theo chụp lấy vài tấm, nhưng trong gian phòng thiếu ánh sáng, tôi đành phải thôi.
Tôi nhìn đồng hồ: Hai giờ đã trôi qua từ khi chúng tôi bước vào. Toàn thân người tu sĩ vẫn trơ trơ, không có chút cử động. Tôi sẽ ở lại đây suốt ngày nếu cần, để đạt mục đích của tôi, là được yết kiến người tu sĩ lạ lùng này. Nhưng người nô bộc cho chúng tôi biết là chờ đợi vô ích, và nếu chúng tôi trở lại trong một hai ngày, có lẽ chúng tôi đành chịu thất vọng ra về, nhưng điều ấy càng làm tăng thêm sự tò mò của tôi.
Những ngày sau đó, tôi cố gắng dọ hỏi và thu thập tài liệu về người tu sĩ này. Những cuộc điều tra của tôi đòi hỏi sự nhẫn nại và óc phân biện sáng suốt của một thẩm sát viên. Cuộc điều tra bắt đầu bằng một buổi nói chuyện dài với người nô bộc, và kết thúc bằng việc phỏng vấn một viên thanh tra cảnh sát. Nhờ đó, tôi có thể chắp nối từng giai đoạn và ghi chép lại được ít nhất một phần nào tiểu sử của người tu sĩ.
Y đến ở trong vùng này đã được tám năm nay. Không ai biết y là ai, và từ đâu đến. Y đóng căn cứ trên khoảng đất trống gần bên miếng đất của nhà y ở bây giờ. Những kẻ tò mò đến gần định hỏi chuyện y nhưng đều ra về tay không.
Y không nói chuyện với ai, cũng không muốn nghe ai nói; không ai có thể cậy miệng y và bắt y khai khẩu. Thỉnh thoảng, y chỉ đưa ra một cái gáo dừa để xin cơm ăn. Y vẫn ngồi luôn ngày đêm trên khoảnh đất này, không có một mái che, không quản mưa nắng dãi dầu, gió sương, cát bụi, và côn trùng sâu bọ. Y dường như hoàn toàn rút lui ý thức ra khỏi ngoại cảnh, chỉ vận có một cái chăn, và luôn luôn giữ có một thế ngồi.
Tuy nhiên, vùng ngoại ô của một thành phố lớn như Madras không phải là nơi thuận tiện cho sự thiền định của một người tu sĩ ẩn độn và lánh đời. Một chỗ như thế có lẽ tạm được ở một nước Ấn Độ thời cổ, chứ còn người Yogi ở thời đại này thì phải ẩn mình trong rừng sâu núi thẳm, hay ít nhất cũng phải ở trong một gian phòng vắng vẻ tĩnh mịch.
Tại sao người ẩn sĩ lạ lùng này lại chọn một nơi tối kỵ cho sự tu hành như thế? Người ta đã tìm được lý do sau một chuyện không hay đã xảy đến cho y. Một hôm, một đám du côn nhìn thấy người tu sĩ này và liền dùng y làm cái đích cho sự nghịch ngợm của chúng. Mỗi ngày, chúng đến ném đá và rác rến vào người tu sĩ và buông lời chửi rủa. Người tu sĩ vẫn thản nhiên, mặc dầu y có thể sửa cho chúng một trận đích đáng. Nhưng y cũng không quở mắng chúng một lời, vì y đã có lập nguyện giữ tịnh khẩu. Việc ấy có thể kéo dài,nếu không có một người qua đường nhìn thấy bọn du đãng kia đang làm trò mất dạy. Người này thấy vậy lấy làm bất bình, bèn đi báo sở cảnh sát Madras, họ bèn giải tám đám tiểu quỷ sau khi đã quở mắng chúng một trận nặng nề.
Sau khi việc ấy xảy ra, một viên thanh tra cảnh sát bèn quyết định tìm ra lý lịch của người ẩn sĩ. Nhưng vì không tìm được người nào biết rõ lý lịch của y, nên viên cảnh sát không còn cách nào khác hơn là sử dụng công quyền để chất vấn chính người tu sĩ vậy. Sau rất nhiều do dự, người này mới viết những lời sau đây trên một tấm bảng đá: "Tôi là một đệ tử của Marakayar. Thầy tôi đã dạy tôi hãy đi xuyên qua các vùng đồng bằng và hãy đến tỉnh Madras. Chính Thầy tôi đã chỉ cho tôi tìm ra khoảnh đất này. Người bảo tôi hãy ở lại đây và tiếp tục thực hành pháp môn Yoga cho đến khi thành Đạo. Tôi đã từ bỏ cuộc đời thế gian và chỉ yêu cầu có một điều, là người ta hãy để tôi yên. Tôi không tìm một lợi lộc gì ở Madras, mà chỉ muốn theo con đường tu hành."
Viên thanh tra cảnh sát hài lòng về câu trả lời trên đây và nhận ra người này là một đạo sĩ thượng hạng, bèn hứa sẽ dành cho người mọi sự che chở. Y biết Marakayar là một vị đạo sĩ Hồi giáo nổi tiếng, vừa mới qua đời cách đây không bao lâu.
Tục ngữ có câu: Trong cái họa, ắt có ẩn cái phước. Vụ rắc rối kể trên thấu đến tai một người mộ đạo ở Madras, người này bèn hiến cho người tu sĩ không muốn làm trái lời Thầy dặn. Sau cùng, người mộ đạo kia mới tìm ra một giải pháp bằng cách xây một nhà tịnh thất trên miếng đất gần bên chỗ ở của người Yogi. Người này bằng lòng qua ở bên tịnh thất và từ đó mới có chỗ ẩn trú và nương dựa để dễ bề hành đạo.Cũng chính người hảo tâm ấy đã chỉ định một người nô bộc theo săn sóc người Yogi để cho y khỏi phải đi khuất thực. Không biết vị Tôn Sư Marakayar có tiên liệu trước rằng cõn thử thách dành cho người đệ tử này rốt cuộc sẽ kết thúc một cách tốt đẹp êm thắm như thế chăng?
Tôi cũng được biết rằng người tu sĩ không có đệ tử. Y không tìm kiếm cũng không thâu nhận một đệ tử nào cả. Y định tiến mau đến đích giải thoát bằng cách tu hành ẩn độn trong sự hoàn toàn cô đơn. Thái độ đó, theo quan niệm của người Âu, thì dường như ích kỷ. Tuy nhiên, thật cũng khó mà cho là ích kỷ, một người đã có lòng từ bi hỉ xả đối với một kẻ say rượu hành hung mình và không thèm trả thù đám tiểu quỷ đến hành hạ y.
Tôi đến lần thứ nhì để định phỏng vấn người tu sĩ tịnh khẩu, nhưng lần này có hai người cùng đi với tôi, một là người thông ngôn đã quen biết và người kia là Brama, người đạo sĩ bên bờ sông Adyar đã từng dạy cho tôi biết nhiều điều quý báu. Brama không thích tới lui chỗ thành thị, nhưng khi nghe tôi bày tỏ mục đích cuộc thăm viếng của tôi, liền bằng lòng đi theo tôi không chút do dự.
Gần đến hàng rào, chúng tôi gặp một người khách lạ cũng vừa xuống xe ngừng giữa đường, và đi bộ qua cánh đồng. Người này cũng muốn được vào yết kiến nhà tu sĩ. Y cho chúng tôi biết rằng y là em của bà Vương hậu xứ Gadwal, một tiểu quốc dưới sự bảo hộ của Quốc Vương xứ Hadetabad. Người này cũng cho biết y là một ân nhân che chở của người tu sĩ tịnh khẩu, và có góp phần trong việc trùng tu am thất của người Yogi. Y đến Madras có việc trong vài ngày, và trước khi ra về, y muốn đến viếng thăm nhà tu sĩ và xin người ban ân huệ. Còn cái ân huệ này có giá trị bao nhiêu, thì tôi được biết qua câu chuyện sau đây do người khách lạ thuật lại.
Một bà lớn trong triều xứ Gadwal có một đứa con bị một chứng bệnh hiểm nghèo. Bà ấy nghe tiếng đồn về nhà tu sĩ tịnh khẩu. Bà không do dự, liền đi tới Madras để thỉnh cầu người tu sĩ ban ân huệ, và cứu giùm đứa con bà. Người Yogi bằng lòng và đứa nhỏ khỏi bệnh một cách mầu nhiệm. Việc này đồn thấu đến tai bà Vương hậu, bà liền đến tận nơi để cảm ơn người tu sĩ. Bà Hoàng biếu cho y một túi bạc đựng sáu trăm rupee, nhưng y từ chối không nhận. Bà Hoàng khẩn khoản mời y nhận dùm, thì y yêu cầu rằng số bạc đó đem dùng để xây một cái hàng rào chung quanh tịnh thất để cho y khỏi bị quấy rầy trong lúc tham thiền. Bà Hoàng liền làm đúng theo lời.
Người nô bộc đưa chúng tôi vào cùng một lượt, nhưng chúng tôi lại thấy người tu sĩ ngồi nhập định cũng như lần trước. Chúng tôi lẳng lặng ngồi theo vòng bán nguyệt chung quanh người tu sĩ, trông chẳng khác nào như một pho tượng oai nghi hùng dũng đặt trên một phiến đá bằng cẩm thạch. Độ một tiếng rưỡi đồng hồ sau, chúng tôi nhìn thấy những dấu hiệu đầu tiên của sự hồi sinh. Hơi thở của người trở nên dài hơn và dễ nhận thấy hơn, hai mí mắt đã thấy chớp, tròng con mắt trở lại bình thường. Những bắp thịt đã co giãn trở lại, thân mình cũng trở lại dáng điệu tự nhiên.
Trong năm phút sau, sắc diện biểu lộ trong cặp mắt chỉ rằng người tu sĩ đã trở về với cõi tục và đã ý thức được mọi sự vật ở chung quanh. Y chăm chú nhìn người thông ngôn của tôi, day đầu nhìn về phía Brama và người khách lạ, sau cùng mới day về phía tôi. Tôi liền nắm ngay lấy cơ hội, và đặt dưới chân y một cây viết và một tờ giấy. Sau một lúc do dự, y cầm lấy những vật này và viết bằng một tuồng chữ Tamoul rất đẹp: "Hôm nọ có ai đến đây và định chụp ảnh?"
Tôi đành phải thú thật. Thật ra những bức ảnh hôm đó tôi chụp đều hư hết cả, vì thiếu ánh sáng. Người tu sĩ lại viết: "Lần sau, khi ông đến viếng các đạo sĩ đang xuất thần, xin đừng bao giờ làm phiền rộn họ như thế, vì ông có thể làm gián đoạn cơn thiền định của họ một cách phũ phàng. Đối với tôi, điều đó không quan trọng, tôi chỉ dặn ông như thế để lần sau ông có thể đến viếng những nhà đạo sĩ khác. Một sự gián đoạn như thế có thể rất hiểm nghèo đối với họ và ông sẽ bị nguyền rủa."
Quả thật tôi đã vi phạm vào một điều thiêng liêng bằng cách đột nhập vào nơi ẩn trú của người tu sĩ, và tôi bày tỏ sự hối tiếc.
Vị điện hạ của triều vua Gadwal lên tiếng kính chào và bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với người tu sĩ. Khi y đã xong, mới đến lượt tôi tiến lên và tự giới thiệu như một người ngoại quốc hâm mộ về nền Minh triết cổ truyền của Ấn Độ. Tôi nghe nói rằng xứ Ấn Độ ngày nay vẫn còn những bậc Hiền Triết đã đạt tới mức tối thượng của pháp môn Yoga và tôi đang đi tìm các bậc ấy. Tu Sĩ có thể giúp đỡ tôi phần nào trong việc sưu tầm này chăng?
Người Yogi vẫn ngồi yên như pho tượng, vẻ mặt thản nhiên không chút cử động. Mười phút trôi qua, tôi tự hỏi không biết y có nghe tôi hỏi chăng? Hay là tôi lại sắp bị thất vọng? Có lẽ đối với y, một người Âu chỉ là một kẻ quá thiên về vật chất, không có gì phải nói nhiều. Hay là y cũng còn hận tôi về cái tật ham chụp ảnh? Và phải chăng tôi đã đòi hỏi quá nhiều khi làm cho một người tu sĩ lánh đời như thế phải ngưng cơn thiền định để thỏa mãn tánh hiếu kỳ của một kẻ vô tín ngưỡng và nặng lòng trần tục? Dầu sao, đây cũng là một sự thất vọng chua cay.
Nhưng không, đó là tôi quá tưởng tượng. Người tu sĩ cầm cây viết chì và viết vài chữ trên tờ giấy. Tôi ngã tới trước để nhận lấy trên tay y và đưa cho người thông ngôn. Người này nói:
- Tôi không hiểu, vì chữ viết rất khó đọc.
- Vũ trụ thật là đầy những sự huyền bí.
Tôi nói đỡ lời cho y đừng băn khoăn nhưng tôi thấy những lời này làm nở một nụ cười hơi chua chát trên môi người tu sĩ. Y nói:
- Nếu ông không tự biết mình, làm sao ông có thể biết được Vũ trụ?
Bây giờ, y nhìn thẳng vào mắt tôi. Tôi cảm thấy đằng sau cái nhìn đó có cả một thế giới tư tưởng thầm kín, đầy những bí mật được giữ gìn một cách chặt chẽ.
- Tôi cũng vẫn còn hoang mang, và lời nói của tu sĩ cũng chưa giải đáp được sự thắc mắc của tôi, đó là tất cả những gì tôi có thể nói trong lúc đó.
- Như vậy, tại sao ông cứ đi tìm quanh quẩn như con ong đi kiếm từng giọt mật, trong khi cả một khối mật ngọt vốn luôn luôn có sẵn hầu kề một bên?
Tôi lấy làm vô cùng ngạc nhiên. Một câu trả lời như thế có lẽ là đầy đủ đối với một người Á Đông, và ý nghĩa bóng gió của nó có một thi vị đáng yêu, nhưng tôi không được thỏa mãn khi tôi muốn hỏi y về sự giải đáp cho những vấn đề thắc mắc của tôi.
- Nhưng tìm ở đâu, và phải đi đến đâu bây giờ?
- Hãy tìm ở tự nơi mình. Chân Lý vốn ở tự nơi ta chứ không ở đâu xa.
- Tôi tìm ở nơi tôi và chỉ thấy có sự vô minh.
- Sự vô minh chỉ có trong tư tưởng của ông mà thôi.
- Xin lỗi Thầy, những câu trả lời của Thầy chỉ làm tăng thêm sự hoang mang của tôi mà thôi.
Người tu sĩ bật cười một cách tự nhiên về sự thành thật của tôi. Y do dự một lúc và viết trên tập giấy: "Tư tưởng của ông đã đưa ông đến sự vô minh hiện tại. Bây giờ ông hãy quay trở về sự minh triết, tức là hãy tự biết mình. Tư tưởng con người t sự hiểu biết. Y vốn là người đồng môn với chúng ta trong một kiếp trước. Y đã tu luyện theo phép môn Yoga, nhưng thuộc về một môn phái khác. Ngày nay, y đã trở lại Ấn Độ trong bộ da của một người Anh. Y đã quên những gì y đã học với chúng ta, nhưng sẽ không lâu. Ngày nào mà y chưa gặp được Thầy để ban ân huệ cho y, thì y vẫn sẽ không phục hồi lại được trí nhớ của dĩ vãng. Tuy nhiên, cái ký ức vẫn còn tiềm tàng, Thầy y chỉ cần khơi động một chút cũng đủ làm cho nó bừng tỉnh dậy. Vị Tôn Sư đó, con hãy cho y biết, y sẽ gặp Người. Điều đó sẽ đến chắc chắn, y hãy đừng băn khoăn gì nữa. Y sẽ được như ý nguyện trước khi rời khỏi xứ này, vì định mệnh đã đặt để rằng y sẽ không trở về tay không."
Nghe đến đây, sự ngạc nhiên của tôi quả là vô hạn. Dưới ánh đèn dầu leo lét, gương mặt của người bạn tôi dường như biến đổi một cách khác thường.
- Phải chăng bạn đã nói lệnh Tôn Sư đang ở xa lắm, tận trên xứ Nepal? Tôi hỏi y với một giọng mà tôi lấy làm hối tiếc là đã lộ vẻ nghi ngờ.
- Phải, Tôn Sư vẫn ở trên đó.
- Tức là cách đây 1, 200 dặm, làm sao Tôn Sư có thể nói chuyện với bạn trên một quãng đường dài như vậy?
- Tôn Sư luôn luôn có mặt khi tôi kêu gọi đến Người, dầu cho chúng tôi ở cách xa nhau muôn dặm. Tôi không cần đến thơ từ chi cả để nhận được thông điệp của Tôn Sư. Tư tưởng của Người đến với tôi xuyên qua không gian và biểu hiện rõ ràng trước mắt tôi.
- Phải chăng đó là thần giao cách cảm?
- Đúng như vậy.
Tôi đứng dậy, vì đã đến lúc kiếu từ. Chúng tôi còn đi dạo một lần cuối cùng dưới ánh trăng khuya, dọc theo những vách tường cũ của ngôi đền bên cạnh nhà của Brama. Chúng tôi dừng bước dưới một hàng dừa mà cành lá xum xuê để cho ánh sáng rọi xuyên qua in bóng dưới đất. Trước khi từ giã, Brama thì thầm:
- Bạn thấy rằng tôi không có gì nhiều. Đây là một vật quý nhất của tôi, bạn hãy cầm lấy.
Nói xong, y rút chiếc nhẫn mà y đeo ở ngón áp út bên trái và đặt vào lòng bàn tay lật ngửa của y. Dưới ánh trăng, tôi thấy chiếu sáng ngời một viên ngọc bích màu xanh có gân màu nâu sậm, lồng trong khung nhẫn bằng vàng. Brama đeo chiếc nhẫn vào ngón tay tôi và siết bàn tay tôi để từ giã. Tôi vừa tỏ ý không dám nhận món quà tặng quý giá này thì Brama đã ngăn chận lời từ chối của tôi bằng cách siết bàn tay chặt hơn nữa. Y nói:
- Tôi thọ lãnh chiếc nhẫn này của một người hiền giả có tiếng. Người đã tặng cho tôi khi tôi bắt đầu bước chân lên đường Đạo. Bây giờ, đến lượt bạn hãy đeo nó.
- Không hẳn như vậy, nhưng viên ngọc thạch này là một linh vật rất hiệu nghiệm. Nó sẽ giúp cho bạn có duyên may hội ngộ với các bậc Hiền Giả, nó sẽ kích động những tư tưởng kỳ lạ xâm chiếm lấy khối óc huyên náo của bạn.
Lời nhắn nhủ lạ lùng của vị Tôn Sư ở cách xa ngàn dặm, điều đó vốn thật lạ quá đối với tôi, nên xin miễn luận bàn. Một cơn chiến đấu mãnh liệt đang diễn ra trong tâm hồn tôi giữa sự ngờ vực và đức tin. Còn chiếc nhẫn này? Làm sao mà tin được rằng một chiếc nhẫn lại có thể xui khiến được định mệnh, và gây cho tôi một ảnh hưởng bí mật về phương diện tâm linh? Phải chăng đó là một điều dị đoan? Nhưng Brama tin tưởng ở điều đó. Tôi phải tự nhủ rằng việc gì cũng có thể được cả ở cái xứ lạ lùng huyền bí này.
Tôi vẫn vơ suy nghĩ và lo ra đến nỗi tôi quên đường và đụng đầu vào một gốc dừa. Dưới nhành lá dịu dàng phất phơ của nó, chiếu những điểm ánh sáng do những con đom đóm bay lượn thành những vòng tròn. Nền trời trong vắt một màu xanh thẳm. Sao Kim Tinh chói rạng tỏa ra một ánh sáng rực rỡ coi dường như rất gần. Cảnh vật thiên nhiên đắm chìm trong bầu không khí hoàn toàn yên lặng. Không ai nghe tiếng động của những con dơi lớn bay ngang trên đỉnh đầu chúng tôi. Tôi tự thả trôi một lúc theo cái thú vị triền miên của giờ phút thần tiên này.
Về đến nhà, tôi trằn trọc suốt đêm không tìm thấy giấc ngủ. Mãi đến gần sáng, giấc ngủ mới đến và làm lắng dịu những ý nghĩ vẫn vơ trong đầu óc của tôi.

Truyện Đông phương huyền bí Định Mệnh Một Nhà Phù Thủy Xứ Ai Cập Người Đạo Sĩ Trên Bờ Sông Adyar Khoa Yoga Thắng Đoạt Tử Thần cũng ví như một chiếc xe bò đưa người vào trong hang tối. Ông hãy quay ngược trở ra thì sẽ thấy lại ánh sáng."
Người tu sĩ thấy tôi bối rối thêm, bèn ra dấu đòi lại tập giấy, và sau khi ngừng một lúc, y viết:
- Việc gom tư tưởng đi ngược trở về nguyên bổn, đó là bí quyết của pháp môn Yoga. Bây giờ ông đã hiểu chưa?
Tôi thấy hơi rõ hơn một chút, nhưng vẫn chưa thấy một người khách vừa mới bước vào. Người này ngồi khít đằng sau lưng tôi, và tôi chỉ nhận biết được sự có mặt của y khi y nói nhỏ vào tai tôi những lời lạ lùng. Tôi đang ngẫm nghĩ về câu nói của người tu sĩ và hơi thất vọng về tính cách mập mờ khó hiểu của nó, thì tôi nghe sau lưng tôi có người nói nhỏ thì thầm một câu bí mật bằng một thứ tiếng Anh rất thạo:
- Thầy tôi sẽ nói cho ông nghe câu trả lời mà ông mong đợi.
Tôi quay đầu nhìn lại. Người mới đến là một người trạc độ bốn mươi tuổi, khoác áo màu vàng của người tu sĩ hành khất, nước da sậm như màu đồng đỏ, tác người cao lớn và vai rộng. Y có một cái mũi dài và lộ như mũi chim ưng, đôi mắt rất nhỏ dường như lúc nào cũng nhíu lên một cái cười dài bất tận. Y có vẻ như cười cợt và làm tôi khó chịu. Hơn nữa, thật là bất lịch sự mà nói chuyện riêng với người khác ở trước mặt nhà tu sĩ, nên tôi không nói chuyện với y và day mặt trở lại về phía người Yogi.
Một câu hỏi khác vừa hiện ra trong trí tôi, nhưng phải chăng nó quá táo bạo và dường như hỗn hào:
- Bạch Thầy, thế gian đau khổ đang kêu cứu. Những bậc Hiền giả như Thầy tại sao lại ẩn mình ở một nơi vắng vẻ và đành chịu mai một với đời?
Một nét chua chát hơi thoáng qua trên gương mặt thản nhiên của người tu sĩ:
- Nếu ông không tự biết mình, làm sao ông có thể tự hào biết được tôi? Thảo luận về những vấn đề tâm linh không có ích lợi bao nhiêu. Ông hãy tập luyện một cách kiên tâm bền chí, rồi ông sẽ tìm thấy sự giải đáp cho mọi vấn đề.
Tôi hỏi thêm một câu cuối cùng:
- Nhân loại đang khát khao tìm ánh sáng. Tôi cũng đang đi tìm để hy vọng chia sớt phần nào cho kẻ khác được nhờ. Vậy tôi phải làm sao?
- Khi ông thấy được Chân Lý, ông sẽ biết rằng ông sẽ làm gì để phụng sự nhân loại và chừng đó ông sẽ có không thiếu gì phương tiện. Nếu một cái hoa có chứa mật, tự nhiên con ong sẽ phân biệt được nó trong tất cả những cái hoa khác. Khi một người đã đạt được sự Minh triết và có sức mạnh tâm linh, y không cần đi tìm ai cả, những người khác sẽ tự họ đến tìm y. Ông hãy lo trau dồi Chân Ngã, đó là điều duy nhất cần phải làm, và không cần theo một giáo lý nào khác.
Nói đến đây, người tu sĩ ra hiệu cho biết rằng y muốn ngưng cuộc nói chuyện để trở lại cơn tham thiền. Tôi yêu cầu y ban cho tôi một ân huệ cuối cùng. Cặp mắt y dường như đắm chìm một lúc trong một cơn trầm tư mặc tưởng. Kế đó, y cầm viết chì viết trên tập giấy và trao cho tôi, trong đó y viết như sau: "Tôi rất vui lòng vì ông đã đến đây. Ông hãy nhận lấy món quà này của tôi để kỷ niệm ngày hội ngộ hôm nay."
Tôi chưa kịp hiểu ý nghĩa câu này, thì thình lình tôi cảm thấy một mãnh lực lạ lùng xâm chiếm lấy tôi. Cái mãnh lực ấy đi xuyên qua tủy xương sống, duỗi thẳng cái gáy và làm tôi ngẩng đầu lên. Nó làm tăng sức mạnh ý chí của tôi lên gấp trăm ngàn lần. Tôi cảm thấy một sự thúc giục bên trong nó bắt buộc tôi phải tự chinh phục lấy mình, và bắt thể xác tuân theo mệnh lệnh của ý chí để thực hiện những lý tưởng cao cả nhất. Tôi có linh cảm rằng những lý tưởng đó chỉ là những tiếng nói của Chân Ngã, và chân hạnh phúc không còn ở đâu nữa, nếu không phải là ở đó. Tôi có cảm giác một luồng từ điển vô hình từ người tu sĩ tỏa ra và được truyền thẳng vào người tôi do một phương pháp thần giao cách cảm bí mật nào đó. Phải chăng y đã dùng cách đó để cho tôi thấy một bằng chứng về cái quyền năng kỳ diệu của y?
Đôi mắt của người Yogi lại đứng tròng, và cái nhìn của đôi mắt đó lại mất hút trong cõi xa xăm nào. Toàn thân y lại cứng đờ như pho tượng sau khi y giữ lại cái thế ngồi quen thuộc như mọi khi. Y đã thả tâm hồn đi xa lắc, ngoài vòng hoạt động của tư tưởng đến tận những cõi giới thâm u huyền diệu của nội tâm, mà y yêu thích hơn là cõi thế gian này. Phải chăng đây là một người Yogi chân chính? Phải chăng y đang bước vào những cuộc thám hiểm huyền bí của nội tâm, khả dĩ đem lại một vài tia sáng cho nhân loại? Biết đâu?
Khi chúng tôi bước ra ngoài, Brama, người đạo sĩ trên bờ sông Adyar, quay lại tôi và nói với một giọng bình thản:
- Người Yogi này đã đạt tới một trình độ rất cao, tuy rằng y chưa đạt đến mức tột đỉnh. Y có những quyền năng thần bí, nhưng y còn đang gắng công tu luyện để tiến đến trình độ tâm linh siêu đẳng. Y có một thể xác kiện toàn, mà tôi cho là nhờ tập luyện môn Hatha Yoga đã lâu năm, nhưng y cũng đã tiến xa trên con đường luyện tinh thần theo pháp môn Raji Yoga. Tôi biết y trước đây đã lâu.
- Từ bao giờ?
- Tôi đã thấy y nhiều năm về trước ở giữa một cánh đồng, không có mái che. Tôi liền nhận ra ngay rằng y là một bạn đồng môn. Y cho tôi biết, bằng cách viết trên giấy, rằng hồi còn trẻ y có nhập ngũ trong quân đội. Sau khi giải ngũ, y cảm thấy chán nản cuộc đời và lui về ở ẩn nơi thanh vắng. Chính trong lúc đó, y gặp nhà đạo sĩ trứ danh Marakayar và trở nên đệ tử của vị này.
Bận về, chúng tôi đi ngang qua cánh đồng rồi mới trở ra đường cái. Tôi không thổ lộ với ai về cái kinh nghiệm bất ngờ và khó hiểu đã xảy đến với tôi trong tịnh thất khi nãy. Tôi cần phải suy nghĩ lại về vấn đề này trong khi cái âm hưởng của nó hãy còn vang dội chưa dứt trong tâm hồn tôi.
Tôi không còn gặp lại người tu sĩ một lần nào nữa. Y không muốn cho ai đột nhập vào cuộc đời vắng lặng của y, và tôi phải tôn trọng sự mong ước đó. Tôi để cho y tiếp tục những cơn thiền định cô đơn của y, hoàn toàn cách biệt với cuộc đời trần gian tục lụy. Y không hề có ý muốn lập môn phái, hay quy tụ một nhóm môn đồ, và dường như không có tham vọng gì khác hơn là sống một cuộc đời hoàn toàn âm thầm lặng lẽ. Y không có gì để nói thêm vào những gì y đã nói với tôi, và khinh thường sự nói năng hoạt bát hùng biện, mà chúng ta vẫn đề cao như một nghệ thuật và coi như một điều quan trọng thay.
--!!tach_noi_dung!!--


Nguồn: Thatsonanhhung
Được bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên
vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--