Quyển một: Chim ác là ăn cắp
Tháng 6 và tháng 7 năm 1984
Chương 1
Chim vặn dây cót ngày thứ ba
Sáu ngón và Bốn vú

    
hi điện thoại reo, tôi đang nấu dở món spaghetti trong bếp, mồm huýt sáo theo bản overture Chim ác là ăn cắp của Rossini phát qua đài FM. Vừa nấu spaghetti vừa nghe bản nhạc này thì còn gì bằng.
Tôi muốn lờ cuộc gọi đi, không chỉ vì món spaghetti sắp chín mà còn bởi Claudio Abbado đang đưa dàn nhạc Giao hưởng Luân Đôn lên đến cao trào âm nhạc. Nhưng rốt cuộc tôi chịu thua. Nhỡ ai đó đang muốn gặp tôi về chuyện việc làm thì sao. Tôi vặn nhỏ bếp gas, đi ra phòng khách, nhắc ống nghe.
- Cho tôi xin mười phút, - giọng nữ ở đầu bên kia nói.
Tôi vốn có trí nhớ tốt về giọng người, nhưng giọng này tôi không quen.
- Xin lỗi? Chị muốn gặp ai?
- Dĩ nhiên là gặp anh. Tôi chỉ xin mười phút thôi, thế là đủ để chúng ta có thể hiểu nhau, - giọng cô ta trầm trầm, mềm mại, nhưng thật khó phân biệt.
- Hiểu nhau?
- Hiểu cảm xúc của nhau.
Tôi cúi xuống nhìn qua khe cửa bếp. Nồi spaghetti đang sôi sùng sục, Claudia Abbo vẫn đang điều khiển bản Chim ác là ăn cắp.
- Xin lỗi, chả là tôi đang nấu dở nồi spaghetti. Chị gọi lại sau được không?
- Spaghetti á? Ai lại đi nấu mì spaghetti lúc 10 rưỡi sáng kia chứ?
- Đấy không phải việc của cô, - tôi nói, hơi nổi cáu. - Tôi muốn ăn cái gì, ăn lúc nào là quyền của tôi.
- Thôi được, tôi sẽ gọi lại sau, - cô ta nói, giọng cô ta giờ khô khan, vô cảm. Thật lạ, một thay đổi nhỏ trong tâm trạng cũng có thể ảnh hưởng đến giọng nói người ta đến thế.
- Đợi một chút, - tôi nói trước khi cô ta gác máy. - Nếu có muốn chào hàng chào hiếc gì đó thì đừng gọi lại mất công. Tôi đang thất nghiệp nên không thể mua sắm gì đâu.
- Đừng lo, tôi biết.
- Cô biết? Cô biết cái gì?
- Rằng anh đang thất nghiệp. Tôi biết. Đi mà nấu cho xong món spaghetti quý giá của anh đi.
- Nhưng mà... Cô này! - nhưng cô ta đã cúp máy.
Tức anh ách mà không biết xả vào đâu, tôi nhìn trân trân một lúc cái ống nghe đang cầm trong tay rồi mới sực nhớ tới món spaghetti. Tôi xuống bếp, tắt gas rồi trút chỗ mì trong nồi ra cái chao cho ráo nước. Vì cuộc gọi vừa rồi mà món spaghetti hơi bị chín quá, nhưng cũng không đến nỗi chết ai. Tôi vừa ăn vừa ngẫm nghĩ.
Hiểu nhau? Hiểu cảm xúc của nhau trong vòng mười phút? Cô ta nói năng cái gì vậy? Có lẽ chỉ là gọi để chơi xỏ thôi. Hay là lại một chiêu tiếp thị bán hàng gì đó. Gì thì gì, chẳng liên quan đến tôi.
Ăn trưa xong, tôi lên phòng khách, ngồi trên sofa đọc cuốn sách mượn của thư viên, chốc chốc lại liếc nhìn điện thoại. Làm sao có thể hiểu nhau trong vòng mười phút cơ chứ? Hai con người có thể hiểu gì về nhau trong vòng mười phút? Thử nghĩ mà xem: cô ta dường như tin chắc một cách quái lạ vào cái mười phút ấy: chẳng phải đó là câu đầu tiên cô tá thốt ra đấy sao. Cứ như thể chín phút thì quá ít còn mười một phút lại quá nhiều. Chính xác từng phút một, cũng như nấu món spaghetti vừa chín tới.
Tôi không đọc được nữa, bèn bỏ đấy đi là áo sơ mi. Tôi luôn luôn đi là quần áo mỗi khi trong lòng bứt rứt bực bõ. Một thói quen có từ lâu. Tôi chia việc là áo thành muời hai công đoạn. Đầu tiên là cổ cồn (mặt ngoài), cuối cùng là măng sét tay trái. Trật tự này bất di bất dịch, tôi vừa là vừa đếm ngược từng công đoạn. Nếu không thì sẽ rối tung lên cả.
Tôi là ba chiếc sơ mi, kiểm tra xem còn chỗ nghăn nào không rồi treo lên mắc áo. Sau khi tắt bàn là rồi cất vào tủ cùng cái giá là quần áo, đầu tôi thấy minh mẫn hẳn ra.
Tôi quay xuống bếp định rót một cốc nước thì điện thoại lại reo. Tôi chần chừ một giây rồi quyết định trả lời. Nếu cũng lại người đàn bà kia, tôi sẽ bảo là đang bận là quần áo rối cúp máy.
Lần này là Kumiko. Đồng hồ chỉ 11 rưỡi.
- Anh thế nào? - nàng hỏi.
- Ổn cả, - tôi đáp, nhẹ cả người khi nghe giọng vợ.
- Anh đang làm gì đấy?
- Mới là quần áo xong.
- Có chuyện gì vậy? - giọng nàng nhuốm chút căng thẳng. Nàng biết, thường chỉ trong tâm trạng thế nào đó tôi mới đi là quần áo thôi.
- Có gì đâu. Anh là mấy cái áo sơ mi thôi mà. - Tôi ngồi xuống, chuyển ống nghe từ tay trái sang tay phải. - Em gọi có chuyện gì?
- Anh có biết làm thơ không? - nàng hỏi.
- Thơ!?
Thơ ấy à? Nàng có ý gì vậy... thơ ư?
- Em có người quen ở một tạp chí chuyên đăng truyện cho các thiếu nữ. Họ đang tìm một người chuyên lựa chọn và chỉnh lý các bài thơ do độc giả gửi tới. Nhưng trước hết người đó hàng tháng phải viết một bài thơ ngắn. Lương họ trả cao mà viêc thì nhàn. Với lại chỉ làm bán thời gian thôi. Nhưng họ có thể giao thêm một ít việc biên tập nêu người đó...
- Việc nhàn ư? - tôi cắt ngang. - Đợi đã. Anh tìm là tìm việc trong ngành luật, chứ không phải thơ với thẩn.
- Em cứ tưởng anh từng viết lách hồi còn đi học cơ mà.
- Ừ thì viết cho báo tường: thi đấu bóng đá đội nào thắng, hay thầy dạy lý ngã cầu thang nằm viện - đại loại thế. Nhưng thơ thì không. Anh không biết làm thơ.
- Hẳn rồi, nhưng em không nói chuyện thơ thứ thiệt, mà chỉ là ba thứ nhăng nhít cho mấy cô nữ sinh thôi. Có ai bắt thơ của anh phải đi vào văn học sử đâu. Nhắm mắt anh cũng làm được. Anh không hiểu à?
- Nghe đây: anh không biết làm thơ, nhắm hay mở mắt cũng vậy thôi. Anh chưa bao giờ làm thơ và sẽ không làm đâu.
- Thì thôi, - Kumiko nói, giọng buồn buồn. - Nhưng tìm việc làm trong ngành luật khó lắm.
- Anh biết. Chính vì vậy anh mới phải đi gõ đến ngần ấy cửa. Tuần này chắc sẽ có thư trả lời. Nếu không được, anh sẽ tính cách khác.
- Thôi được, cứ cho là vậy. À, hôm nay thứ mấy?
Tôi nghĩ một chút rồi đáp: - Thứ Ba.
- Vậy anh chạy ra ngân hàng trả tiền gas và điện thoại nhé?
- Ừ, đằng nào anh cũng phải ra ngoài mua đồ ăn tối.
- Anh định làm món gì?
- Anh chưa biết. Đến cửa hàng rồi sẽ tính.
Nàng ngừng một chút. - Anh nghĩ kĩ đi, - nàng nói, giọng trở nên nghiêm trang.- Anh chẳng việc gì phải hối hả tìm việc làm như vậy đâu.
Câu nói đó khiến tôi hoàn toàn bất ngờ. "Tạo sao?", tôi hỏi. Phải chăng toàn thể phụ nữ trên thế giới đã chọn chính ngày hôm nay để làm tôi ngạc nhiên qua điện thoại?
- Sớm muộn gì trợ cấp thất nghiệp của anh cũng sẽ cạn. Anh không thể ngồi không mãi được.
- Đúng thế, nhưng em vừa được tăng lương, thi thoảng có việc làm thêm, lại còn tiền tiết kiệm của chúng mình nữa, nếu biết dè xẻn thì vẫn sống được. thật ra có gì là nước sôi lửa bỏng đâu. Hay anh không thích ở nhà làm nội trợ như thế này? Sống như vậy anh bứt rứt khó chịu lắm à?
- Anh không biết, - tôi đáp rất chân thành. Quả thực là tôi không biết.
- Thôi, anh cứ từ từ suy nghĩ, - nàng nói. - À, thế con mèo đã về chưa?
Con mèo. cả buổi sáng nay tôi không hề nghĩ tới con mèo.
- Không, - tôi nói. - Chưa về.
- Anh thử tìm quanh khu hàng xóm xem Nó đi cả tuần nay rồi.
Tôi ừ hử, chẳng ra đồngý cũng chẳng ra không rồi chuyển ống nghe sang tay trái. Nàng nói tiếp:
- Em tin chắc là nó lảng vãng chỗ căn nhà không người ở đằng cuối ngõ ấy. Căn nhà mà trước sân có cái tượng chim ấy. Em vẫn hay thấy nó ở đó mà.
- Cái ngõ? Em tới cái ngõ ấy từ hồi nào vậy? Em chưa hề nói gì về...
- Thôi nào! Em phải chạy đi đây. Nhiều việc phải làm quá. Đừng quên chuyện con mèo đấy.
Nàng cúp máy. Tôi lại nhìn chằm chằm cái ống nghe. Rồi tôi đặt lại lên giá đỡ.
Tôi tự hỏi điều gì đã dẫn Kumiko đến cái ngõ ấy. Từ chỗ nhà chúng tôi, muốn đến cái ngõ ấy thì phải trèo qua bức tường bê tông. Mà có mất công trèo đi nữa thì tới đó cũng chẳng để làm gì.
Tôi xuống bếp uống một cốc nước, rồi đi ra hàng hiên để xem đĩa thức ăn cho mèo. Mớ cá sardin không có ma nào động tới từ tối qua. Không, con mèo không về. Tối đứng đó nhìn ra khu vườn nhỏ của vợ chồng tôi đẫm trong ánh nắng đầu hè. Đây chẳng phải là loại vườn có khả năng an ủi về tinh thần khi ta nhìn ngắm nó. Mặt trời chỉ len tới được đây trong một khoảng thời gian ít ỏi mỗi ngày, nên mặt đất luôn đen và ẩm, và toàn bộ cây cối gọi là có ở trong vườn vẻn vẹn chỉ là mấy bụi tú cầu lầm lụi trong một góc, mà tôi thì chẳng ưa hoa tú cầu. Gần đấy có một rặng cây nhỏ, đứng ở đó ta có thể nghe tiếng kêu như bằng kim khí của một con chim, nghe như nó đang vặn dây cót đồng hồ vậy. Chúng tôi gọi nó là con chim vặn dây cót. Cái tên do Kumiko đặt. Chúng tôi chẳng biết đúngra con chim đó tên gì, hình thù nó ra sao, nhưng điều đó chẳng làm con chim vặn dây cót bận tâm. Ngày nào cũng vậy, nó đến đậu trên rặng cây nhà hàng xóm để lên dây cho cái thế giới nhỏ bé tĩnh lặng của chúng tôi.
Thế là bây giờ tôi phải đi lùng mèo. Xưa nay tôi vẫn yêu mèo. Riêng con này tôi càng yêu hơn. Nhưng mèo có lối sống riêng của chúng. Chúng không đần độn. Nếu một con mèo thôi sống ở nơi ta ở, thế nghĩa là nó đã quyết định chuyển đi nơi khác. Nếu mệt và đói bụng, nó sẽ trở về. Dù vậy nhưng, rốt cuộc, để Kumiko vui lòng, tôi sẽ phải đi tìm conmèo của vợ chống tôi. Tôi chẳng có việc gì hay hơn để làm.

*

Tôi nghỉ việc từ hồi đầu tháng Tư - tôi vốn làm việc ở công ty luật này đã lâu, kể từ khi tốt nghiệp. Tôi thôi việc chẳng phải vì lý do gì đặc biệt. Đơn giản là tôi không ưa công việc. Chẳng có gì lý thú, nhưng lương bổng khá, đồng nghiệp thì thân thiện.
Chả cần phải sĩ làm gì, vai trò của tôi ở công ty là anh loong toong chạy giấy. Tôi làm việc đó rất cừ. Có thể nói, tôi thực sự có tài trong việc thi hành những sự vụ thực tiễn. Tôi học hỏi nhanh, làm gì cũng hiệu quả, không bao giờ ta thán và là người thực tế. Chính vì vậy mà khi tôi thông báo sẽ thôi việc, vị cổ đông chính của công ty (đây là một công ty luật kiểu cha con, ông này là cha) thậm chí còn đề nghị tăng lương cho tôi chút đỉnh.
Nhưng tôi vẫn thôi. Chẳng phải là để thực hiện một hoài bão hay dự tính gì đặc biệt. Chẳng hạn, việc tôi ghét nhất trên đời chính là đóng cửa học bài chuẩn bị cho kì thi luật sư. Tôi biết chắc như đinh đóng cột rằng tôi không muốn làm thầy cãi. Nhưng tôi cũng biết mình không muốn cứ chôn chân một chỗ làm mãi công việc đã làm bấy nay. Đằng nào cũng thôi việc thì thôi ngay bây giờ cho xong. Nếu còn nấn ná chỗ cũ, ắt tôi sẽ làm ở đó suốt đời. Dù gì tôi cũng đã ba mươi tuổi.
Trong lúc ăn tối tôi đã bảo Kumiko rằng tôi đang tính chuyện thôi việc. Nàng chỉ trả lời: "Em hiểu". Tôi không biết ý nàng là nàng hiểu cái gì, nhưng hồi lâu sau nàng chẳng nói gì thêm.
Tôi cũng yên lặng, cho đến khi nàng tiếp: "Nếu anh đã muốn nghỉ việc thì cứ nghỉ. Đây là cuộc đời anh, anh muốn sống thế nào thì cứ sống như thế ấy". Nói xong, nàng bắt đầu chăm chú dùng đũa tách xương cá để riêng ra mép đĩa.
Kumiko kiếm được khá nhiều tiền bằng nhề biên tập cho mộttạp chí chuyên về thực phẩm dưỡng sinh, thỉnh thoảng nàng còn nhận vẽ minh hoạ cho bạn bè ở các tap chí khác, nhờ vậy còn kiếm thêm một khoản thu nhập đáng kể nữa. (Nàng học khoa thiết kế ổ trường cao đẳng và từng mơ ước làm hoạ sỹ minh họa tự do). Ngoài ra, nếu nghỉ việc, tôi vẫn được nhận tiền trong một thời gian từ quỹ trợ cấp thất nghiệp. Thế nghĩa là dù tôi ở nhà làm nội trợ, hai vợ chồng vẫn đủ tiền cho đồ ăn thức uống, giặt ủi và những chi phí khác, và cuộc sống của chúng tôi vẫn chẳng thay đổi là mấy.
Thế là tôi nghỉ việc.

*

Tôi đang cất thức ăn vào tủ lạnh thì điện thoại reo. Lần này tiếng chuông có vẻ nóng nảy, riết róng. Tôi vừa mới mở một gói nhỏ đựng đậu phụ, thế là phải cẩn thận đặt lên bàn nhà bếp sao cho nó khỏi chảy nước, rồi đi lên phòng khách nhấc điện thoại
- Giờ thì anh ăn xong món spaghetti rồi chứ, - người đàn bà nói.
- Ăn rồi. Nhưng giờ tôi phải đi tìm con mèo.
- Chuyện ấy để mườiphút nữa cũng chẳng sao. Không phải như nấu món spaghetti.
Vì lý do nào đó tôi không cắt ngang cuộc gọi được. Có gì đó trong giọng cô ta buộc tôi phải chú ý.
- Thôi được, nhưng không quá mười phút đâu đấy.
- Giờ thì chúngta sẽ có thể hiểu nhau, - cô ta nói khẽ nhưng có vẻ quả quyết. Tôi có thể cảm thấy cô ta đang ngồi thoải mái xuống ghế bành, bắt tréo hai chân.
- Để xem, - tôi nói. - Trong vòng mười phút thì cô hiểu được gì nào?
- Mười phút có thể là dài hơn anh tưởng đấy, - cô ta nói.
- Có chắc là cô biết tôi không?
- Dĩ nhiên là chắc. Chúng ta đã gặp nhau hàng trăm lần rồi.
- Ở đâu? Hồi nào?
- Một lúc nào đó, một nơi nào đó, - cô ta nói. - Nhưng nếu em giải thích rõ thì mười phút không đủ đâu. Quan trọng là thời gian ta có lúc này đây. Hiện tại. Anh đồng ý không?
- Có thể. Nhưng tôi muốn có bằng chứng là cô có biết tôi.
- Bằng chứng gì kia?
- Tôi bao nhiêu tuổi chẳng hạn?
- Ba mươi, - cô ta trả lời ngay. - Ba mươi tuổi hai tháng. Được chưa?
Tôi cứng họng. Hiển nhiên là cô ta biết tôi, nhưng tôi không tài nào nhớ ra giọng cô ta.
- Giờ tới lượt anh, - cô ta nói, giọng mơn trớn. - Cố hình dung ra em đi. Từ giọng nói của em. Hình dung xem em thế nào. Em bao nhiêu tuổi. Em đang ở đâu. Em ăn mặc ra sao. Nào, anh nói đi chứ?
- Tôi biết gì đâu mà nói.
- Thôi nào, cố lên đi, - cô ta nói.
Tôi nhìn đồng hồ. Nãy giờ mới có một phút năm giây trôi qua. - Tôi chẳng biết gì đâu, - tôi lặp lại.
- Thế để em giúp anh nhé, - cô ta nói. - Em đang nằm trên giường. Em vừa mới tắm xong, người em chẳng mặc gì hết.
Hừ, được lắm. Lại cái trò sex qua điện thoại đây.
- Hay anh thích em mặc trên người một thứ gì đó? Một cái gì có đăng ten. Hay tất dài chẳng hạn. Anh có thích vậy hơn không?
- Thế nào cũng được, mặc cô. Cô muốn làm gì thì làm, - tôi nói. - Thích thì mang vài thứ trên người. Còn muốn trần truồng thì cứ việc. Xin lỗi, nhưng tôi không quan tâm đến những trò chơi qua điện thoại kiểu này. Tôi có quá nhiều thứ phải...
- Mười phút thôi, - cô ta nói. - Dành cho em mười phút thì anh có chết đâu nào, phải không? Chỉ cần trả lời vài câu hỏi của em thôi. Anh muốn em trần truồng hay mang vài thứ trên người? Em có nhiều thứ để mang lắm. Quần ren màu đen này...
- Thôi thì trần truồng đi.
- Được rồi. Anh muốn em trần truồng.
- Ừ, trần truồng.
Bốn phút rồi.
- Lông mu em vẫn còn ướt, - cô ta nói. - em sấy chưa kỹ lắm. Ôi, người em ướt quá chừng! Vừa ấm vừa ẩm ướt. Lại còn mềm nữa. Mềm thật là mềm, đen nhay nháy. Sờ em thử xem.
- Nào nào, tôi xin lỗi, nhưng mà...
- Xuống dưới cũng vậy. Xuống nữa. Dưới ấy thật là ấm, như là bơ ấy. Ấm quá chừng! Ôi ôi ôi. Lại còn chân em nữa. Anh thử nghĩ xem em đang ở trong tư thế nào nào? Đầu gối phải nhấc lên, chân trái dạng sang bên vừa đủ. Như hai cái kim đồng hồ lúc chỉ mười giờ năm phút vậy.
Từ giọng nói cô ta, tôi hiểu rằng cô ta không nói phét. Cô ta quả thật đang giạng chân ra như lúc kim đồng hồ chỉ mười giờ năm phút, âm hộ cô ta ấm áp và ẩm ướt.
- Sờ thử hai vành môi xem, - cô ta nói. - Châ-ậ-m-m thôi. Giờ thì vạch ra. Thế. Chậm thôi, thật chậm. Hãy để những ngón tay anh mơn trớn chúng. Ôi, thật châ-ậm-m-m. Giờ lấy tay kia sò vú phải của em đi. Đùa với nó. Mân mê nó. Lên trên nữa. Giờ bóp nhẹ núm vú đi. Lần nữa. Lần nữa. Lần nữa. Em sắp ra rồi đây.
Không nói một lời, tôi cúp ống nghe. Duỗi nguời trên ghế sopha, tôi nhìn đồng hồ và thở một hơi dài. Cuộc nói chuyện kéo dài gần sáu phút.
Mười phút sau điện thoại lại reo, nhưng tôi không đụng tới ống nghe. Chuông reo mười lăm lần. Khi nó ngừng reo, một nỗi im lặng sâu thẳm, lạnh lẽo trùm xuống căn phòng.

*

Ngay trước 2 giờ chiều, tôi trèo qua bức tường bê tông để sang bên cái ngõ, đúng hơn là chỗ mà chúng tôi gọi là cái ngõ. Thật ra nó chẳng phải là "ngõ" theo đúng nghĩa; hẳn là chẳng có từ nào thích hợp để gọi nó cả. Nó không phải là "đường", không phải "lối đi", cũng chẳng ra cái "ngõ". Dù "đường" hay "ngõ" thì cũng phải có lối vào và lối ra, phải dẫn ta tới một chỗ nào đó nếu ta đi theo nó. Nhưng cái "ngõ" này chẳng có lối vào cũng chẳng có lối ra. Cũng không thể gọi là "ngõ cụt", vì ít ra ngõ cụt cũng còn có lối vào. Còn cái ngõ này thì cả hai đầu đều cụt. Người dân xung quanh cứ gọi là "ngõ" cho tiện. Nó dài khoảng trăm mét, len lỏi giữa những khoảnh sân sau của các căn nhà dọc hai bên. Bề ngang nó chỉ tròm trèm một mét, ở vài chỗ thậm chí phải lách người qua mới qua được giữa những hàng rào thòi ra giữa lối đi hoặc phải tránh những đống đồ phế thải.
Về cái ngõ này, ông cậu tôi, người cho vợ chồng tôi thuê căn nhà này với giá gần như cho không, bảo rằng xưa kia nó cũng có đầu vào đầu ra, từng đóng vai trò kiểu như một lối đi tắt giữa hai con phố. Nhưng với sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng vào giữa thập kỷ 1950, hàng dãy nhà mọc lên trên các lô đất trống dọc hai bên ngõ, ép nó lại cho tới khi chỉ còn là một lối đi hẹp. Dân tình không thích kẻ lạ đến gần nhà và sân của mình, thế nên chẳng bao lâu một trong hai đầu ngõ bị người ta ngăn lại, đúng hơn là che lại bằng một hàng rào xộc xệch. Một người đia phương quyết định nới rộng khoảng sân của mình, thế là xây luôn một bức tường bê tông bít kín đầu ngõ. Như để đáp trả, một hàng rào dây thép gai được dựng ở đầu bên kia, ngay lũ chó cũng không qua lọt. Hàng xóm chẳng ai kêu ca gì, bởi có ai dùng cái ngõ này làm lối đi đâu, thậm chí họ còn hài lòng là khác, bởi nhờ bức tường rào này họ lại có thêm một lớp bảo vệ trước những phường bất hảo. Kết quả là cái ngõ chỉ còn như một kênh đào bị bỏ hoang, không ai dùng tới, có chăng chỉ là một vùng đệm giữa hai dãy nhà, thế thôi. Lũ nhện chăng mạng dày đặc trong những lùm cây mọc um tùm.
Cớ sao Kumiko hay lui tới một nơi như vậy? Bản thân tôi chỉ mới đi trên cái "ngõ" này không quá hai lần, Kumiko thì sợ nhện nhất trần đời. Nhưng thôi, quỷ tha ma bắt - nếu Kumiko đã bảo tôi ra ngõ kiếm con mèo thì tôi cần phải ra ngõ kiếm con mèo. Chuyện gì sẽ tới hẵng nghĩ sau. Đi ra ngoài thế này vẫn tốt chán so với ngồi nhà chờ điện thoại reo.
Ánh nắng chói đầu hè rọi qua bóng những cành cây trải rộng trên đầu, vẽ những đốm tròn lỗ chỗ xuống bề mặt ngõ. Không có ngọn gió nào lay động cành lá, những bóng cây trông như những vết ố mà số trời đã định là sẽ in lên mặt đường này vĩnh viễn. Dường như không thứ tiếng động nào lọt được đến nơi này. Hầu như tôi có thể nghe những ngọn cỏ phập phồng trong ánh nắng. Vài đám mây nhỏ trôi qua bầu trời, bóng của chúng rõ rệt, sắc nét, như những đám mây trong tranh khắc thời trung cổ. Tôi cảm nhận mọi thứ một cách rõ ràng đáng sợ đến nỗi chính thân thể tôi bỗng như trở nên mơ hồ, vô hạn, tuôn chảy và... nóng bỏng.
Tôi mặc áo thun, quần mỏng bằng vải bông, mang giày tennis, nhưng khi đi dưới ánh nắng hè, tôi cảm thấy một lớp mồ hôi mỏng đọng dần dưới hai cánh tay và trên hõm ngực. Chiếc áo thun và quần sợi bông này lâu nay bị nhét trong cái hộp lèn chặt quần áo mùa hè, tôi chỉ mới lấy ra mặc sáng nay, nên mùi băng phiến hăng hắc xộc vào trong lỗ mũi tôi.
Những căn nhà dọc hai bên ngõ chia làm hai loại khác hẳn nhau: những căn nhà cũ và những căn nhà mới xây. Những căn nhà mới thì nhỏ hơn, sân cũng nhỏ hơn. Những chiếc sào phơi quần áo trong sân thường thò hẳn ra ngoài ngõ, khiến nhiều lúc tôi phải len lỏi giữa những bức màn chắn bằng khăn mặt, khăn trải giường, đồ lót. Bên kia vài bức tường hậu vẳng ra tiếng ti vi, tiếng nước dội toa lét, thoang thoảng mùi nấu cà ri.
Những căn nhà cũ thì ngược lại, hầu như không có dấu hiệu sự sống. Chúng được ngăn cách bằng những bụi cây và hàng dậu ngay hàng thẳng lối, xen giữa là những mảnh vườn tỉa tót công phu.
Một cây thông Giáng sinh già nua, nâu xỉn, khô héo đứng trong góc một khu vườn. Một khu vườn khác đã hóa thành bãi rác để người ta vứt bỏ bất cứ món đồ chơi nào của con người, rõ ràng là nơi vứt bỏ hàng mấy thế hệ tuổi thơ. Nào chiếc xe đạp ba bánh, vòng gỗ, kiếm nhựa, bóng ca su, nào những con rùa đồ chơi, những chiếc mũ bóng chày bé xíu. Một khu vườn có một khoảnh chơi bằng bóng rổ, một vườn khác nữa có những cái ghế xinh xẻo xếp quanh chiếc bàn bằng gốm. Bụi đóng dày trên những chiếc ghế vốn dĩ màu trắng, hình như chẳng ma nào đụng tới nhiều tháng, thậm chí nhiều năm rồi. Mặt bàn phủ đầy những cánh hoa mộc lan tím bị mưa dập vùi tan nát.
Tôi thấy rõ một căn phòng khách qua một cánh cửa ngoài bằng nhôm. Phòng khách gồm một bộ sofa và ghế bành bằng da, một cái tivi lớn, một tủ buýp phê (trên đó có một bể nuôi cá nhiệt đới và hai món chiến lợi phẩm gì đó), một cây đèn đứng để trang trí. Căn phòng trông như bối cảnh cho một vở kịch truyền hình. Một cái cũi chó to đùng chiếm lĩnh phần lớn diện tích một khu vườn khác, những chẳng có con chó nào, cửa nhà thì mở toang. Tấm lưới cửa cũi chó bị vênh ra ngoài, như thể ai đó đã tựa vào đó liên tục hàng mấy tháng trời.
Căn nhà không người ở mà Kumiko nói với tôi nằm ngay sau khoảnh sân có cái chuồng chó kếch xù kia. Chỉ cần liếc qua cũng biết căn nhà này không có người ở đã khá lâu rồi. Đó là một căn nhà hai tầng trông cũng mới, nhưng mấy cánh cửa chớp bằng gỗ trông lại quá ư cũ kỹ, chấn song bên ngoài các cửa sổ trên tầng hai phủ đầy gỉ sét. Căn nhà có một khu vườn nhỏ xinh xinh, trong đó hiển nhiên là có bức tượng chim. Tượng đặt trên một cái bệ cao ngang ngực, xung quanh cỏ dại um tùm. Đầu mút những nhánh xiêm gai vàng 1 gần như bén tới chân chim. Con chim - tôi chịu không đoán nổi giống chim gì - giang rộng cánh như thể muốn thoát khỏi chốn khó ưa này càng nhanh càng tốt. Ngoài con chim ra chẳng còn vật trang trí nào khác trong khu vườn. Dăm chiếc ghế nhựa không biết tự đời thuở nào đứng chỏng chơ ở vách tường, cạnh đó là một bụi đỗ quyên phô những đóa hoa đỏ tươi, màu sắc có vẻ là lạ, không thực. Còn lại toàn là cỏ dại.
Tôi tựa vào hàng rào mắt cáo ngang ngực, ngắm khu vườn một hồi lâu. Chốn này hẳn là thiên đường cho lũ mèo, nhưng chẳng thấy mèo đâu cả. Điểm xuyết vào khung cảnh chỉ có tiếng kêu đều đều của một con bồ câu đơn độc vắt vẻo trên chiếc ăngten truyền hình. Bóng của con chim đá đổ lên mặt cỏ dưới chân bệ tượng, bị cắt làm hai mảnh.
Tôi rút trong túi quần ra một viên kẹo chanh, bóc giấy gói rồi cho vào mồm. Tôi từng coi việc nghỉ làm ở công ty là một cơ hội để bỏ thuốc lá, nhưng bây giờ đi đâu tôi cũng không thể thiếu mấy viên kẹo chanh. Kumiko bảo tôi nghiện kẹo chanh mất rồi và cảnh cáo rằng chẳng mấy chốc tôi sẽ sâu hết cả hàm răng, nhưng tôi không bỏ kẹo được. Trong khi tôi đứng ngắm khu vườn, con bồ câu đậu trên ăngten vẫn kêu gù gù, như một tay cạo giấy đóng số lên một tệp giấy. Tôi không biết mình đã đứng đó tựa rào trong bao lâu, nhưng tôi nhớ mình đã nhổ kẹo ra khi cảm thấy nó đã tan một nửa và lấp đầy miệng cái vị ngọt dinh dính. Tôi vừa chuyển cái nhìn sang bóng chim đá thì có cảm giác ai đó vừa gọi mình từ phía sau.
Tôi quay lại thì thấy một cô gái đừng trong khu vườn bên kia ngõ. Người cô nhỏ nhắn, tóc tết bím. Cô đeo kính râm thẫm, gọng màu hổ phách, mặc áo phông cộc tay màu xanh nhạt. Mùa mưa vẫn chưa dứt hẳn, thế mà cô đã kịp làm cho đôi tay mảnh dẻ của mình có một màu rám nằng mềm mại ưa nhìn. Cô đút một bàn tay vào túi quần soóc. Bàn tay kia đặt lên một cánh cổng hằng tre ngang thắt lưng xem ra chẳng càn được ai. Hai chúng tôi chỉ cách nhau chừng hơn một thước.
- Nóng quá, - cô bảo.
- Ừ, nóng, - tôi đáp.
Sau mẩu trao đổi ngắn ngủi này cô lại đứng đó nhìn tôi. Rồi cô móc trong túi ra một bao "Hope", rút một điếu, đút vào giữa miệng. Cô có cái miệng nhỏ, môi trên hơi vểnh. Cô quẹt diêm chấm thuốc. Khi cô khẽ nghiêng đầu, tóc cô lệch sang bên để lộ một chiếc tai có hình dáng tuyệt đẹp, nuột nà như vừa mới nặn, vành tai ánh lên vẻ dịu dàng của lớp lông tơ.
Cô búng que diêm đi rồi chúm môi phà khói. Đoạn, cô nhìn lên tôi như thể đã quên mất là có tôi ở đó. Tôi không nhìn thấy mắt cô sau cặp tròng thẫm của chiếc kính râm.
- Anh sống gần đây à? - cô hỏi.
- Ừ, - tôi muốn chỉ về phía nhà mình, nhưng để tới được đây tôi đã len lách quá nhiều đến nỗi giờ tôi chịu không biết nhà mình ở hướng nào nữa. Tôi đành chỉ hú họa.
- Tôi đi tìm con mèo, - tôi vừa nói như để thanh minh vừa chùi lòng bàn tay mướt mồi hôi vào quần. - Nó đi vắng cả tuần rồi. Có người thấy nó quanh quẩn chỗ này.
- Con mèo trông thế nào?
- Mèo đực, to khỏe. Có vằn nâu. Chót đuôi hơi quặp.
- Tên gì?
- Noboru. Wataya Noburu.
- Không, không phải tên anh. Tên con mèo cơ.
- Thì tên con mèo đấy.
- Chà, ấn tượng quá!
- Thực ra đấy là tên ông anh vợ anh. Con mèo có gì đó giống ông ấy. Bọn anh lấy tên ông ấy đặt cho con mèo, để cho vui thôi mà.
- Con mèo giống ông ấy chỗ nào cơ?
- Anh không biết. Nhìn chung là thế. Dáng đi chẳng hạn. Hay là cái nhìn chả biểu lộ gì hết.
Lần đầu tiên cô mỉm cười, nụ cười khiến cô giống trẻ con hơn nhiều so với ấn tượng ban đầu. Cô không quá mười lăm, mười sáu tuổi. Môi trên cô vểnh thành một góc kì lạ. Tôi nghe như thấy giọng nói "Sờ em đi", giọng người đàn bà trong điện thoại. Tôi lấy mu bàn tay lau mồ hôi trên trán.
- Con mèo có vằn nâu, chóm đuôi hơi quăn, - cô gái nói. - À, nó có đeo vòng cổ không?
- Đeo vòng cổ màu đen, để trị bọ chét.
- Cô đứng ngẫm nghĩ chứng mươi, mười lăm giây, bàn tay vẫn đặt trên cánh cổng. Rồi cô vứt điếu thuốc đang hút dở xuống đất, lấy bàn chân đi xăngđan giẫm lên.
- Có lẽ em đã gặp một con mèo như thế, - cô bảo. - Em không biết đuôi có quặp không, nhưng con mèo vàng nâu, giống như cọp ấy, hình như có đeo vòng cổ.
- Em thấy khi nào?
- Thấy khi nào á? Chà... Mới ba bốn hôm trước thôi. Sân nhà em cứ như là nơi quá cảnh của tất cả mèo hàng xóm ấy mà. Chúng đi tắt qua nhà em từ nhà Takitani tới nhà Miyawaki.
Cô chỉ về phía căn nhà không người ở, nơi con chim đá vẫn đang giang cánh, cây xiêm gai vàng đang đón nắng hè và con bồ câu vẫn tiếp tục gù gù đơn điệu trên cần ăngten tivi.
- Em có ý này, - cô nói. - Sao anh không đợi ở đây? Tất cả lũ mèo sớm muộn gì cũng đi qua nhà em trên đường tới nhà Miyakawi. Anh cứ đi tới đi lui kiểu này thì coi chừng người ta gọi cảnh sát bắt đấy. Có người bị như thế rồi.
Tôi lưỡng lự.
- Đừng lo, - cô nói. - Ở đây chỉ có em thôi. Chúng mình cứ ngồi sưởi nắng, đợi con mèo ló mặt ra. Em sẽ nhìn giúp anh. Thị lực của em những hai mươi-hai mươi cơ đấy.
Tôi nhìn đồng hồ. Hai giờ hai mươi sáu phút. Những gì tôi phải làm hôm nay, từ giờ cho đến tối là mang đồ đến hiệu giặt và làm bữa tối.
Tôi bước qua cổng vào trong vườn, theo sau cô bé băng qua bãi cỏ. Chân phải cô hơi khập khiễng. Cô đi vài bước rồi dừng, quay lại nhìn tôi.
- Em bị ngã xe máy từ ghế sau, - cô nói như thể chuyện ấy chẳng có gì quan trọng.
Nơi rìa bãi cỏ có một cây sồi lớn. Dưới bóng cây có hai ghế xếp bằng vải bạt, trên một chiếc có trải tấm khăn tắm màu xanh dương. Trên chiếc ghế kia lỉnh kỉnh một bao "Hope""chưa mở, cái gạt tàn, chiếc bật lửa, một cuốn tạp chí, một chiếc máy nghe nhạc ngoại cỡ. Máy đang phát một bản hard rock âm lượng không to lắm. Cô bé tắt nhạc rồi trút hết mớ đồ đạc trên chiếc ghế thứ hai xuống cỏ để lấy chỗ cho tôi. Ngồi trên chiếc ghế này tôi thấy rõ khoảng sân căn nhà không người ở bên kia - con chim đá, cây xiêm gai vàng, hàng rào mắt cáo. Hẳn là cô bé đã quan sát tôi suốt cả thời gian tôi đứng ở bên kia.
Vườn nhà này lớn thật. Có một bãi cỏ rộng dài thoai thoải, đó đây có mấy khóm cây. Bên trái hai chiếc ghế là một hồ nước to mép bằng bê tông, phơi cái đáy cạn khô dưới nắng. Trông cái màu xanh xanh thì đủ biết đã bao lâu hồ không có nước. Chúng tôi ngồi xoay lưng lại căn nhà thấp thoáng sau màn cây. Nhà không lớn, kiến trúc chẳng cầu kỳ. Chỉ khu vườn thênh thang được chăm sóc cẩn thận là nom bề thế mà thôi.
- Vườn rộng quá, - tôi vừa nói vừa nhìn quanh. - Rộng thế này thì chăm sóc cũng mệt.
- Hẳn rồi.
- Hồi bé anh có làm việc cho một công ty chuyên xén cỏ thuê.
- Thế à? - rõ là cô bé chẳng quan tâm gì đến chuyện cỏ kiếc.
- Em luôn ở đây một mình à? - tôi hỏi.
- Vâng, lúc nào cũng một mình. Trừ một bà đến mỗi sáng và chiều, dọn dẹp ấy mà. Còn lại thì suốt ngày chỉ mình em thôi. Anh muốn uống gì lạnh không? Nhà có bia đấy.
- Không, cảm ơn.
- Thật á? Đừng khách sáo đấy nhé.
Tôi lắc đầu.
- Em không đi học à?
- Thế anh không đi làm à?
- Có việc gì làm đâu mà đi.
- Thất nghiệp à?
- Đại loại thế. Anh mới thôi việc vài tuần trước.
- Trước anh làm gì?
- Anh là trợ lý luật sư. Anh đến các cơ quan chính phủ để lấy tài liệu, sắp xếp hồ sơ đâu vào đó, kiểm tra các tiền lệ pháp lý tiến hành thủ tục tố tụng... kiểu kiểu thế.
- Nhưng anh thôi việc rồi.
- Ừ.
- Vợ anh có việc làm không?
- Có.
Con bồ câu ở khoảnh sân bên kia chắc đã thôi gù gù mà bay đi nơi khác. Đột nhiên tôi nhận thấy một sự im lặng chết chóc bao phủ quanh tôi.
- Kia là chỗ lũ mèo hay qua lại, - cô nói, tay chỉ về phía đằng kia bãi cỏ. - Anh có thấy cái máy đốt rác trong sân nhà Takitani không? Chúng nó chui ra từ dưới hàng rào ngay ở chỗ ấy, đi qua bãi có, rồi chui qua cổng sang mảnh sân bên kia. Lần nào cũng đúng lộ trình ấy.
Cô lật kính lên trán, nheo mắt nhìn khu vườn rồi kéo kính xuống, phà ra một làn khói. Trong khoảng thời gian đó tôi kịp thấy cô có một vết xước dài khoảng năm phân gần mắt trái, loại vết xước có khả năng để sẹo suốt đời. Chiếc kính râm hẳn là để che vết xước ấy. Khuôn mặt cô bé không phải là đẹp lắm nhưng có cái gì đó thật quyến rũ, có thể là cặp mắt sống động hay đôi môi hình dáng khác thường.
- Anh có biết nhà Miyakawi không? - cô hỏi.
- Chả biết gì cả, - tôi đáp.
- Gia đình họ từng sống trong căn nhà không có người ở kia. Gia đình rất nền nếp. Họ có hai cô con gái, cả hai đều học trường tư dành cho nữ sinh. Ông Miyakawi là chủ mấy cái nhà hàng.
- Sao họ không ở đó nữa?
- Có lẽ vì ông ấy nợ nần. Họ bỏ trốn, biến mất vô tung tích chỉ trong một đêm. Đâu như một năm trước. Họ bỏ lại căn nhà, mặc cho cỏ dại và lũ mèo. Mẹ em cứ than phiền suốt.
- Có nhiều mèo đến thế sao?
Vẫn ngậm điều thuốc trong miệng, cô bé ngẩng lên nhìn trời.
- Đủ thứ trên đời. Con thì trụi lông, con thì chột mắt... ở cái chỗ trước kia là con mắt giờ chỉ còn cục thịt. Eo ôi!
Tôi gật đầu.
- Em có người bà con mỗi bàn tay đều có sáu ngón. Chị ấy lớn hơn em một chút thôi. Bên cạnh ngón út chị ấy lại có thêm một ngón thừa, như ngón tay trẻ sơ sinh ấy. Chị ấy biết cách gập nó lại nên hầu như không ai nhận thấy cả. Mà chị ấy đẹp lắm cơ.
Tôi lại gật.
- Anh nói thử xem, đó có phải là do di truyền không? Gọi thế nào ấy nhỉ... từ trong huyết thống ấy mà?
- Anh không biết nhiều lắm về di truyền.
- Cô ngừng nói. Tôi mút viên kẹo chanh và chú mục vào lối đi của lũ mèo. Nãy giờ chẳng thấy con mèo nào cả.
- Thực tình anh không muốn uống gì à? - cô hỏi. - Em đi lấy Coca đây.
Tôi nói tôi không cần uống gì cả.
Cô đứng dậy khỏi ghế và biến mất sau hàng cây, chân phải hơi khập khiểng. Tôi nhặt tờ tạp chí từ dưới cỏ lên, lật lật các trang. Hoàn toàn bất ngờ, tôi nhận ra đó là một tạp chí dành cho nam giới, loại nguyệt san bìa láng. Trên trang ảnh là một ả ngồi ghế, hai chân dạng rộng thành một góc kỳ quái, quần bó chẽn mỏng dính phô ra toàn bộ chỗ kín với lớp lông đen nhánh. Tôi thở dài đặt tạp chí xuống, khoanh tay lên ngực, lại chú mục vào lối đi của lũ mèo.
Mãi rất lâu sau cô bé mới trở lại, tay cầm cốc Coca. Cái nóng buồi chiều đang hành hạ tôi. Ngồi dưới nắng, tôi nghe đầu mình cứ ong ong. Tôi hoàn toàn không muốn nghĩ gì hết.
- Nói em nghe, - cô tiếp tục đề tài bỏ dở. - Nếu anh yêu một cô gái nhưng hóa ra cô ấy có những sáu ngón tay thì anh sẽ làm gì?
- Đưa cô ấy tới rạp xiếc, - tôi đáp.
- Thật à?
- Không, dĩ nhiên là không, - tôi nói. - Đùa thôi mà. Chắc là chuyện ấy chẳng làm anh bận tâm lắm đâu.
- Cho dù con cái anh có thể dũng bị do di truyền?
Tôi nghĩ một chút rồi mới trả lời.
- Không, thực tình anh nghĩ là sẽ không bận tâm về chuyện đó mà. Thừa một ngón tay thì đã sao?
- Thế nếu cô ấy có bốn vú?
Tôi lại phải nghĩ một hồi.
- Anh không biết.
Bốn vú? Cứ cái đà này thì nói mãi không hết. Tôi quyết định chuyển đề tài.
- Em bao nhiêu tuổi?
- Mười sáu. Mới đây thôi là sinh nhật tròn mười sáu của em đấy. Em vừa lên năm đầu trung học đệ nhị cấp.
- Em nghỉ học lâu chưa?
- Nếu em đi nhiều thì chân vẫn đau. Em lại còn bị vết xước gần mắt nữa. Trường em họ nhiễu sự lắm. Người ta mà biết em bị ngã xe máy thì sẽ bàn tán vào chẳng thiếu chuyện gì. Thành thử em nghỉ ốm. Em được nghỉ trọn một năm nhé. Chả việc gì phải vội lên lớp cả.
- Ừ thì thế.
- Thì thế là sao? Vừa rồi anh bảo là cô gái có sáu ngón thì anh vẫn lấy, nhưng có bốn vú thì không...
- Anh không nói vậy. Anh chỉ bảo là anh không biết.
- Anh không biết gì nào?
- Anh không biết - ý anh là khó tưởng tượng được chuyện ấy.
- Một cô gái có sáu ngón tay thì anh hình dung được chứ?
- Chắc là được.
- Thế sao bốn vú thì lại không? Có gì khác nhau nào?
Tôi lại phải nghĩ thêm một hồi nữa, nhưng vẫn không tìm ra câu trả lời.
- Em hỏi nhiều quá phải không?
- Người ta bảo em vậy à?
- Thỉnh thoảng.
Tôi lại quay về phía lối mèo đi. Tôi đang làm cái quái gì ở đây vậy?
Tự nãy đến giờ chẳng có con mèo nào ló mặt. Tay vẫn khoanh trước ngực, tôi nhắm mặt lại chừng ba mươi giây. Tôi nghe mồ hôi túa ra khắp mình khắp mẩy. Ánh mặt trời đổ lên tôi với một sức nặng kỳ lạ. Mỗi khi cô gái di chuyển cốc Coca, những mẩu nước đá lại kêu lanh canh như cái lục lạc buộc cổ bò.
- Nếu anh buồn ngủ thì ngủ đi, - cô thì thầm. - Con mèo xuất hiện em sẽ gọi anh.
Mắt vẫn nhắm, tôi lẳng lặng gật đầu.
Trời đứng gió, xung quanh lặng ngắt như tờ. Con bồ câu đã bay mất tự đời nào. Tôi nghĩ mãi về người đàn bà gọi điện thoại. Mình có biết cô ta không nhỉ? Hoàn toàn chẳng có gì quen thuộc trong giọng nói hay cung cách ăn nói của cô ta. Nhưng nhất định là cô ta biết tôi. Tôi có cảm giác mình đang nhìn vào một bức tranh của de Chirico 2: cái bóng dài thậm thượt của người đàn bà cắt qua một con phố vắng mà vươn về phía tôi. Một cái chuông cứ kêu leng keng không ngừng bên tai tôi.
- Anh ngủ à? - cô gái hỏi bằng giọng khẽ đến nỗi tôi không chắc mình nghe ra.
- Không, anh có ngủ đâu.
- Em xích lại gần một chút được không? Nói khẽ thì... dễ chịu hơn.
- Anh sao cũng được, - tôi nói, mắt vẫn nhắm.
Cô ta dịch ghế lại gần cho đến khi chạm vào ghế tôi làm phát ra tiếng gỗ khô khốc.
Thật lạ, giọng cô bé khi mình mở mắt thì nghe thế này, khi nhắm mắt thì lại nghe khác hẳn.
- Em nói chuyện được không? Em sẽ nói thật khẽ và anh không phải trả lời đâu. Thậm chị anh ngủ luôn cũng được.
- Ừ, - tôi nói.
- Khi người ta chết thì tuyệt lắm nhỉ.
Lúc này miệng cô bé kề bên tai tôi, nên những lời cô nói xuyên thẳng vào tôi cùng với hơi thở ấm áp, ẩm ướt.
- Sao lại thế?
Cô đặt một ngón tay lên môi tôi như thể niêm kín lại.
- Không hỏi gì cả, cũng không mở mắt. Được chứ?
Cái gật đầu của tôi cũng khẽ như giọng nói của cô.
Cô nhấc ngón tay khỏi môi tôi và đặt lên cổ tay tôi.
- Em ước gì có con dao mổ. Em sẽ rạch chỗ này ra mà nhìn vào trong. Không phải nhìn thịt của người chết đâu... mà nhìn vào cái chết. Em tin là có cái gì đó giống như cái chết. Nó tròn tròn, nhun nhũn giống như quả bóng mềm có cái lõi cứng bằng những sợi thần kinh chết. Em muốn lôi nó ra khỏi cơ thể người chết rồi rạch nó ra mà nhìn vào trong. Em luôn luôn tự hỏi nó giống cái gì. Cũng có thể nó cứng ngắc, như kem đánh răng bị khô trong ống vậy. Anh nghĩ sao? Không, đừng trả lời. Bên ngoài nó mềm nhũn, càng vào trong lại càng rắn. Em muốn rạch da để lôi cái cục mềm mềm nhu nhũn đó ra, dùng dao mổ và một dụng cụ kiểu như cái đè lưỡi để lần vào trong, càng vào trong thì cục mềm nhũn đó lại càng rắn, cho đến khi gặp cái lõi nhỏ xíu kia. Nó bé tí, như hòn bi trong ổ bi ấy, và rất là cứng. Hẳn là vậy phải không?
Cô hắng giọng mấy lần.
- Mấy hôm nay em cứ nghĩ mãi chuyện ấy. Có lẽ vì ngày nào em cũng có quá nhiều thời gian rảnh. Mỗi khi không có việc gì làm, ý nghĩ của mình đi xa, rất xa, xa đến nỗi mình không theo kịp ấy.
Cô nhấc ngón tay khỏi cổ tay tôi và uống nốt chỗ Coca còn lại. Nghe tiếng những mẩu nước đá, tôi biết cái cốc giờ đã rỗng.
- Đừng lo chuyện con mèo, em sẽ canh cho. Nếu thấy Wataya Noboru, em sẽ báo cho anh ngay. Anh cứ nhắm mắt. Em tin chắc Wataya Noburu chỉ quanh quẩn đâu đây thôi. Nó có thể ló mặt ra bất cứ lúc nào. Wataya Noburu đang đến đấy. Em biết là nó đang đến - nó len qua bão cỏ, luốn dưới hàng rào, dừng lại nửa đường đề ngửi những bông hoa. Càng lúc càng gần, Wataya Noburu, từng bước từng bước một. Hãy hình dung cảnh đó, đưa hình ảnh đó vào trong tâm trí anh.
Tôi cố mường tượng ra con mèo, nhưng cố lắm cũng chỉ thấy một hình ảnh mờ mờ như bức ảnh bị thiếu ánh sáng. Ánh nắng xuyên qua mí mắt tôi làm chao đảo và tán xạ cái bóng tối bên trong tôi, khiến tôi không thể vẽ nên một hình ảnh chính xác về con mèo. Thay vào đó tôi chỉ nặn ra được một bức chân dung tồi, một bức tranh méo mó, thiếu tự nhiên, có vài nét hao hao giống nguyên bản song phần quan trọng nhất thì lại thiếu vắng. Thậm chí tôi không nhớ nổi dáng đi của con mèo ra sao nữa.
Cô gái lại đặt ngón tay lên cổ tay tôi, dùng đầu ngón tay vẽ một thứ ký hiệu lạ lùng nào đó. Như thể đáp lại, một thứ bóng tối khác - khác về chất so với bóng tối mà tôi cảm thấy nãy giờ - bắt đầu xâm nhập vào ý thức tôi. Có lẽ tôi đã thiếp đi. Tôi không muốn điều đó xảy ra, nhưng không cách nào cưỡng lại được. Cơ thể tôi như cái xác chết - xác chết của một ai khác - đang chìm sâu vào chiếc ghế xếp bằng vải bạt.
Trong bóng tối, tôi thấy bốn cái chân của Wtaya Noburu, bốn cái chân tĩnh lặng màu nâu bên trên bốn bàn chân với những cái núm chân mềm như bằng cao su, những cái chân đang giẫm lên đâu đó mặt đất tịnh không một tiếng động.
Nhưng ở đâu?
"Chỉ cần mười phút thôi", người đàn bà trên điện thoại đã nói thế. Không, cô ta lầm. Đôi khi mười phút không phải là mười phút. Nó có thể giãn ra co lại. Điều đó thì tôi biết rõ.
Khi thức dậy tôi chỉ có một mình. Cô gái đã biến mất, ghế xếp của cô vẫn kê sát vào ghế tôi. Chiếc khăn tắm, hộp thuốc lá và cuốn tạp chí vẫn nằm đấy, nhưng cốc và máy nghe nhạc thì không còn đó nữa.
Mặt trời đã bắt đầu lặn về phía Tây, bóng một cây sồi vắt ngang qua ngang đầu gối tôi. Đồng hồ của tôi chỉ 4 giờ 15. Tôi ngồi dậy nhìn quanh. Bãi cỏ rộng, cái hồ cạn, hàng rào, con chim bằng đá, cây xiêm gai vàng, cần ăngten tivi. Vẫn không thấy bóng dáng con mèo. Hay cô gái.
Vẫn ngồi trên ghế, tôi đưa mắt nhìn lối mèo đi, chờ cô gái quay lại. Mười phút trôi qua, nhưng cả mèo và cô gái vẫn biệt tăm. Chẳng có gì động đậy. Tôi cảm thấy như trong khi ngủ mình đã già khọm đi.
Tôi đứng dậy đi về phía căn nhà, nơi không có dấu hiệu sự sống. Kính cửa sổ phản chiếu ánh hoàng hôn. Tôi đành không đợi nữa, băng qua bãi cỏ về nhà. Vẫn chưa tìm thấy con mèo, nhưng tôi đã cố hết sức rồi.

*

Ở nhà, tôi thu quần áo phơi vào rồi chuẩn bị một bữa tối đơn giản. Điện thoại reo mười hai lần lúc 5 giờ 30, song tôi không trả lời. Ngay cả khi điện thoại đã ngừng reo, tiếng chuông vẫn còn treo trong bóng tối đang sẫm dần của căn phòng như những hạt bụi lơ lửng trong không khí. Bằng những cây kim có đầu mút cứng, đồng hồ để bàn gõ nhịp đều đều lên một chiếc bảng trong suốt trôi trong không trung.
Tại sao không viết một bài thơ về con chim vặn dây cót nhỉ? Ý nghĩ này làm tôi như sực tỉnh, song chẳng làm cách nào cho dòng đầu tiên nảy ra trong đầu được. Nhưng liệu các cô nữ sinh có thích một bài thơ viết về con chim vặn dây cót không?

*

Kumiko về nhà lúc 7 giờ 30 tối. Tháng rồi nàng ngày càng đi làm về muộn. Chẳng hiếm khi nàng về sau 8 giờ, thậm chí đôi khi sau 10 giờ. Nay thì đã có tôi ở nhà nấu ăn nên nàng chẳng phải vội về nhà nữa. Nàng bảo tòa soạn neo người quá, với lại gần đây một trong các đồng nghiệp của nàng xin nghỉ ốm.
- Xin lỗi nhé, - nàng nói. - Việc nhiều quá, mà con bé làm bán thời gian thì chả được tích sự gì.
Tôi xuống bếp nấu nướng: cá xốt bơ, xà lách, súp miso 3. Kumiko ngồi vào bàn bếp, làm động tác duỗi người.
- Lúc 5 rưỡi anh đi đâu? - nàng hỏi. - Em điện về báo là về muộn mà.
- Hết bơ, anh ra cửa hiệu mua. - tôi nói dối.
- Anh có ra ngân hàng không?
- Có.
- Còn con mèo?
- Không tìm thấy. Anh có đến chỗ căn nhà không người ở như em dặn, nhưng không có nó ở đó. Anh đánh cuộc là nó đã đi xa hơn nhiều.
Nàng chả nói gì.
Sau bữa tối, khi tôi tắm xong, Kumiko đang ngồi trong phòng khách, không mở đèn. Ngồi thu lu trong bóng tối, mặc áo sơ mi màu xám, nàng trông như một chiếc vali đặt không đúng chỗ.
Tôi vừa lau tóc bằng khăn tắm vừa ngồi xuống ghế sofa đối diện Kumiko.
Bằng giọng khẽ đến nỗi khó khăn lắm tôi mới nghe ra, nàng nói: - Em chắc là con mèo chết rồi.
- Nào, đừng ngốc thế, - tôi đáp. - Anh chắc là nó đang tung tăng vui vẻ đâu đó thôi. Khi nào đói thì nó sẽ mò về. Chuyện đó xảy ra một lần rồi, em nhớ chứ? Hồi mình sống ở Koenji 4 ấy...
- Lần này khác, - nàng nói. - Lần này thì anh lầm. Em biết. Con mèo chết rồi. Nó đang thối rửa trong một bãi cỏ ở đâu đó. Anh có tìm trên bãi có quanh căn nhà không có người ở không?
- Không. Nhà không có người ở nhưng vẫn là nhà có chủ. Anh đâu có tự tiện xông vào được.
- Thế thì anh tìm ở đâu chứ? Em dám cá là anh không hề tìm thử. Chính vì vậy mà anh không tìm ra.
Tôi thở dài, lại lau tóc bằng chiếc khăn tắm. Tôi đã toan nói, nhưng lại thôi khi nhận thấy Kumiko khóc. Dễ hiểu thôi, nàng rất thương con mèo. Nó đã ở cùng chúng tôi ngay từ sau đám cưới. Tôi ném khăn tắm vào chiếc giỏ đựng đồ ướt trong buồng tắm rồi xuống bếp lấy một lon bia lạnh. Hôm nay thật là một ngày ngu ngốc. Một ngày ngu ngốc trong một tháng ngu ngốc của một năm ngu ngốc.
Wataya Noburu, mày ở đâu? Lẽ nào con chim vặn dây cót đã quên vặn dây cót cho mày?
Mấy câu này nảy ra trong đầu tôi như những dòng thơ.
Wataya Noburu
Mày ở đâu?
Lẽ nào con chim vặn dây cót
Đã quên vặn dây cót cho mày?
Tôi đang uống dở lon bia thì điện thoại lại reo.
- Em nghe máy nhé? - tôi thét vào bóng tối trong phòng khách
- Không, - Kumiko đáp. - Anh đi mà nghe.
- Anh không muốn.
Điện thoại vẫn reo, khuấy động những hạt bụi lơ lửng trong bóng tối. Không ai nói một lời. Tôi uống bia, còn Kumiko tiếp tục khóc lặng lẽ. Tôi đếm được hai mươi hồi chuông thì chịu thua. Đếm mãi cũng chẳng có ý nghĩa gì.
--------------------------------

1

2

3

4
Tiếng Anh: goldelrod, một loại cây cao có hoa vàng, nở hoa vào cuối mùa hè, có nguồn gốc từ châu Âu và Bắc Mỹ - ND.
Giorgio de Chirico (1888-1978): họa sĩ và điêu khắc gia Ý, một trong những đại diện xuất sắc nhất của trường phái siêu thực.
Miso: một loại tương đặc nổi tiếng trong truyền thống ẩm thực Nhật Bản, làm chủ yếu bằng đậu tương, ngoài ra còn bằng một số loại ngũ cốc khác. Được dùng làm súp miso và nguyên liệu cho nhiều món ăn Nhật Bản - ND.
Một quận ở Tokyo.